Tải bản đầy đủ (.doc) (60 trang)

Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp xã phúc sơn, huyện anh sơn, tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.53 KB, 60 trang )

Phần1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội, đất đai ngày càng thể hiện
rõ vai trò của nó. Đất đai là tài nguyên vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất đặc
biệt và là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống. Nó tham gia
vào hoạt động của đời sống kinh tế xã hội, là nguồn vốn, đồng thời là nguồn
lực quan trọng của đất nước. Đặc biệt khi Việt Nam đã là thành viên của Tổ
chức thương mại thế giới (WTO), trong một nền kinh tế năng động, cạnh
tranh và áp lực thì việc công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn
càng trở nên cần thiết. Để làm được điều đó thì cần có sự đóng góp không nhỏ
của việc sử dụng hợp lý quỹ đất và ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào sản xuất.
Phúc Sơn là một xã có diện tích đất nông nghiệp tương đối lớn của
huyện Anh Sơn, vì vậy sản xuất nông nghiệp được xem là một trong những
ngành kinh tế chính của xã. Phần lớn diện tích tại xã bao phủ bởi rừng núi, đất
đai khá màu mỡ và xã có đặc điểm khí hậu khá thuận lợi cho phát triển một hệ
thống cây trồng, vật nuôi đa dạng. Nhưng do nhiều nguyên nhân khác nhau
mà việc sử dụng đất đai cho mục đích nông nghiệp ở đây vẫn còn hạn chế cả
về chiều rộng lẫn chiều sâu. Một trong những nguyên nhân chính đó là địa
hình hiểm trở và tập quán sản xuất, cũng như trình độ dân trí chưa theo kịp
với nhu cầu phát triển của thị trường, thu nhập của người lao động còn thấp,
chưa tương xứng với tiềm năng của vùng. Trước thách thức của việc thu hẹp
đất nông nghiệp và việc gia tăng lao động nông nghiệp không có việc làm thì
việc nghiên cứu hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp là việc làm cần thiết và
đang được các cấp chính quyền quan tâm thực hiện nhằm xây dựng cơ sở cho
việc đề ra các phương án chuyển dịch cơ cấu cây trồng một cách hợp lý nhất,
đem lại hiệu quả sử dụng đất cao nhất và góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh
tế - xã hội của huyện nhà.
Vì vậy nghiên cứu thực trạng hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp của xã
Phúc Sơn với mục đích góp phần tìm ra các giải pháp sử dụng đất canh tác



1


hợp lý đáp ứng mục tiêu phát triển nền nông nghiệp bền vững là rất cần thiết.
Xuất phát từ những vấn đề trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Đánh
giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp và đề xuất phương hướng sử dụng
đất có hiệu quả tại xã Phúc Sơn, huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An”.
1.2. Mục đích của đề tài
- Đánh giá các yếu tố về điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội ảnh hưởng
đến sản xuất nông nghiệp.
- Đánh giá hiệu quả các loại hình sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn.
- Lựa chọn những loại hình sử dụng đất có hiệu quả nhất.
- Đề xuất giải pháp sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả hơn.
1.3. Yêu cầu của đề tài
- Đánh giá những thuận lợi và khó khăn về điều kiện tự nhiên, kinh tế
xã hội của xã Phúc Sơn.
- Đánh giá đúng, khách quan, toàn diện và trung thực thực trạng sử
dụng đất nông nghiệp và đánh giá hiệu quả của việc sử dụng đất nông nghiệp.
- Bước đầu đề xuất những giải pháp sử dụng đất hợp lý, phù hợp với
tình hình cụ thể của xã Phúc Sơn.

2


Phần 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1. Tổng quan về đánh giá đất
2.1.1. Khái niệm về đất và đất đai
Trên quan điểm nhìn nhận của FAO thì đất đai bao gồm tất cả các thuộc

tính sinh học và tự nhiên của bề mặt trái đất, có ảnh hưởng nhất định đến tiềm
năng và hiện trạng sử dụng đất. Theo đó, đất đai được hiểu như một tổng thể
của nhiều yếu tố bao gồm: khí hậu, địa mạo, đất, thổ nhưỡng, thuỷ văn, thảm
thực vật tự nhiên, động vật tự nhiên, những biến đổi của đất do hoạt động của
con người.
Theo Đocutraiep: Đất trên bề mặt lục địa bao là một vật thể thiên nhiên
được hình thành do sự tác động tổ hợp cực kỳ phức tạp của 5 yếu tố: sinh vật,
đá mẹ, địa hình, khí hậu và thời gian. [3]
Đất đai về mặt thuật ngữ khoa học được hiểu theo nghĩa rộng như sau:
Đất đai là một diện tích cụ thể của bề mặt trái đất, bao gồm tất cả các
cấu thành của môi trường sinh thái, ngay trên và dưới bề mặt đó bao gồm: khí
hậu, bề mặt, thổ nhưỡng, dạng địa hình, mặt nước (sông suối, hồ, đầm lầy…),
các lớp trầm tích sát bề mặt cùng với nước ngầm và khoáng sản trong lòng
đất, tập đoàn động vật và thực vật, trạng thái định cư của con người trong quá
khứ và hiện tại để lại (đường sá, nhà cửa, hồ chứa nước hay hệ thống tiêu
thoát nước).[2]
Đất đai là một tư liệu sản xuất đặc biệt, không thể thay thế được và nó
có các tính chất sau đây:
* Đặc điểm tạo thành: Đất đai là sản phẩm của tự nhiên, hình thành
ngoài ý chí và nhận thức của con người. Để đảm bảo cho sự sinh tồn, con
người bằng cách này hay cách khác đã tác động vào đất đai để tạo ra của cải
nuôi sống con người. Chính điều này đã làm cho đất đai ngày một có giá trị
hơn.
* Tính cố định về vị trí: Đất đai không phải như các tư liệu sản xuất
khác có thể di chuyển từ chỗ này đến chỗ khác trong quá trình sử dụng, mà

3


đất đai cố định về vị trí trong quá trình sử dụng, đây là điều đặc biệt khác với

tư liệu khác.
* Tính không thay thế: Chúng ta có thể cải tạo, bồi dưỡng đất làm cho
đất đai tốt hơn, hiệu quả hơn trong quá trình sử dụng, nhưng không thể thay
thế đất đai bằng một loại tư liệu sản xuất khác có công dụng như nó hoặc tốt
hơn nó. Còn các loại tư liệu sản xuất khác có thể thay đổi theo thời gian nhờ
sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật.
* Tính hạn chế về số lượng: Điều này chúng ta có thể thấy rõ vì diện
tích đất bị hạn chế bởi diện tích đất có trên bề mặt trái đất không thể tăng
thêm, còn các tư liệu sản xuất khác có thể tăng về số lượng, chất lượng, chủng
loại theo yêu cầu của người tiêu dùng.
* Tính vĩnh cửu (tính không mất đi): Tất cả các tư liệu sản xuất khác
đều bị hao mòn trong quá trình sử dụng và đến tuổi thọ nhất định thì nó không
còn có thể sử dụng được nữa người ta sẽ bỏ nó đi, còn đất đai nếu biết sử
dụng hợp lý, có biện pháp cải tạo bảo vệ đất thích hợp thì đất đai còn có thể
tăng về giá trị và hiệu quả sử dụng.[2]
2.1.2. Khái niệm về đánh giá đất
- Đánh giá đất đai là so sánh, đánh giá khả năng của đất theo từng
khoanh đất dựa vào độ màu mỡ và khả năng sản xuất của đất.
- Theo Sôbôlev: Đánh giá đất đai là học thuyết về sự đánh giá có tính
chất so sánh chất lượng đất của các vùng đất khác nhau mà ở đó thực vật sinh
trưởng và phát triển.
- Đánh giá đất đai là sự phân chia có tính chất chuyên canh về hiệu suất
của đất do những dấu hiệu khách quan (khí hậu, thời tiết, thủy văn, thảm thực
vật tự nhiên, hệ động vật tự nhiên,…) và thuộc tính của chính đất đai tạo nên.
- Đánh giá đất đai chỉ có ý nghĩa trong lĩnh vực một vùng có điều kiện
tự nhiên (trừ yếu tố đất), điều kiện kinh tế xã hội như nhau.
- Theo FAO (1976) đánh giá đất đai là quá trình so sánh, đối chiếu
những tính chất vốn có của vạt/khoanh đất cần đánh giá với những tính chất
đất đai mà loại hình sử dụng đất yêu cầu.[1]


4


Trong sản xuất nông nghiệp, việc đánh giá đất đai nông nghiệp thường
dựa vào chất lượng (độ phì tự nhiên và độ phì hữu hiệu) của đất và mức sản
phẩm mà độ phì đất tạo nên.
2.1.4. Những luận điểm cơ bản về đánh giá đất
* Luận điểm đánh giá đất của Docutraiev
- Những yếu tố đánh giá đất và chỉ tiêu của chúng ở những vùng khác
nhau thì khác nhau.
- Những yếu tố đánh giá đất dự đoán chủ yếu là những yếu tố có mối
liên quan chặt chẽ với năng suất cây trồng và được thể hiện giá trị tương đối
bằng điểm.
+ Những yếu tố đánh giá đất chủ yếu có thể là:
Loại đất theo phát sinh
Những số liệu phân tích về tính chất đất (tính chất hóa học, lý học và
các dấu hiệu khác)
- Việc lựa chọn các yếu tố đánh giá đất cần được hoàn thiện để phù hợp
với điều kiện khí hậu, điều kiện kinh tế xã hội của vùng.
* Luận điểm đánh giá đất của Rozop và cộng sự
- Đánh giá đất phải dựa vào các vùng địa lý, thổ nhưỡng khác nhau và
có các yếu tố đánh giá đất khác nhau.
- Đánh giá đất phải dựa vào đặc điểm cây trồng
- Cùng một loại cây trồng, cùng một loại đất nhưng không thể áp dụng
hoàn toàn những tiêu chuẩn đánh giá đất của vùng này cho vùng khác
- Đánh giá đất phải dựa vào trình độ thâm canh.
- Có một mối tương quan chặt chẽ giữa chất lượng đất và năng suất cây
trồng.
* Luận điểm đánh giá đất của Pháp
Theo Đôlômông “khả năng của đất ảnh hưởng rất lớn đặc tính dinh

dưỡng của cây trồng và ở mức độ nhất định, sinh trưởng phát triển và khả
năng cho năng suất của cây trồng đã thể hiện được tính chất đất”. Theo luận
điểm này có thể lập được một thang năng suất biểu thị tương quan sơ bộ với
đặc tính đất đai và với đánh giá đất theo độ phì đất dựa trên nguyên tắc thống
kê năng suất cây trồng nhiều năm.

5


* Luận điểm đánh giá đất của Anh
Theo Ruanell, nhà thổ nhưỡng học người Anh thì: “Đánh giá đất theo
năng suất cây trồng gặp rất nhiều khó khăn vì năng suất cây trồng biểu hiện cả
sự hiểu biết của người sử dụng đất. Bởi vậy đánh giá đất theo năng suất chỉ
được sử dụng để sơ bộ đánh giá độ phì của các loại đất khác nhau”.
* Luận điểm đánh giá đất của FAO
Năm 1970, nhiều nhà khoa học đất trên thế giới đã cùng nhau nghiên
cứu để đưa ra một phương pháp đánh giá đất có tính khoa học và thống nhất
các phương pháp hiện tại. Năm 1972 tổ chức lương thực thế giới (FAO) đã
phác thảo “Đề cương đánh giá đất” và công bố năm 1973. Năm 1975, Hội
nghị đánh giá đất ở Rome dự thảo đề cương đánh giá đất của FAO, được các
nhà khoa học hàng đầu bổ sung và công bố năm 1976 (Khung đánh giá đất đai
– Frameword for land evaluation). Tài liệu này đã được nhiều nước nghiên
cứu và ứng dụng cho đến ngày nay.
Theo FAO, việc đánh giá đất cho các vùng sinh thái hoặc các vùng lãnh
thổ khác nhau là nhằm tạo ra một sức sản xuất mới, ổn định, bền vững và hợp
lý. Vì vậy, khi đánh giá, đất được nhìn nhận như là "một vạt đất xác định về
mặt địa lý, là một diện tích bề mặt của trái đất với những thuộc tính tương đối
ổn định hoặc thay đổi có tính chất chu kỳ có thể dự đoán được của môi trường
xung quanh nó như không khí, loại đất, điều kiện địa chất, thủy văn, động vật,
thực vật, những tác động trước đây và hiện nay của con người, ở chừng

mực mà những thuộc tính này có ảnh hưởng đáng kể đến việc sử dụng vạt đất
đó trong hiện tại và trong tương lai".
Trong một nghiên cứu gần đây của FAO (Alexandratos, 1995; trong
FAO, 1993) ước lượng khoảng 92% của 1800 triệu ha đất đai của các quốc
gia đang phát triển bao gồm luôn cả Trung Quốc thì có tiềm năng cho cây
trồng sử dụng nước trời, nhưng hiện nay vẫn chưa sử dụng hết và đúng mục
đích, trong đó vùng bán sa mạc Sahara ở Châu phi 44%; Châu Mỹ và vùng
Caribê 48%. Hai phần ba của 1800 triệu ha này tập trung chủ yếu một số nhỏ
quốc gia như: 27% Brasil, 9% ở Zaire, và 30% ở 12 nước khác. Một phần của
đất tốt này vẫn còn để dành cho rừng hay vùng bảo vệ khoảng 45%, và do đó
trong các vùng này không thật sự được sử dụng cho nông nghiệp. Một phần

6


khác thì lại gặp khó khăn về mặt đất và dạng bậc thềm như khoảng 72% vùng
Châu phi bán sa mạc và vùng Châu Mỹ la tinh.
FAO ước lượng rằng (Yudelman, 1994; trong FAO, 1993), đất nông
nghiệp có thể mở rộng được khoảng 90 triệu ha vào năm 2010, diện tích thu
hoạch có tăng lên đến 124 triệu ha do việc thâm canh tăng vụ cây trồng. Các
vùng đất có khả năng tưới trong các quốc gia đang phát triển đang được mở
rộng tăng thêm khoảng 23,5 triệu ha so với hiện tại là 186 triệu ha.
Những nghiên cứu chi tiết hơn đang được thực hiện về tiềm năng tưới ở
các quốc gia đang phát triển, đặc biệt là ở Châu phi. Những nghiên cứu này
chủ yếu tập trung trên các diện tích đất thích nghi kết hợp với các điều kiện
địa hình và nguồn tài nguyên nước mặt và nước ngầm để thực hiện với chi phí
thấp và không làm hủy hoại giá trị môi trường.
Như vậy, theo luận điểm này, đánh giá đất phải được xem xét trên phạm
vi rất rộng, bao gồm cả không gian và thời gian, cần xem xét cả điều kiện tự
nhiên, kinh tế và xã hội. Cũng theo luận điểm này thì những tính chất đất có

thể đo lường hoặc ước lượng, định lượng được. Vấn đề quan trọng là cần lựa
chọn chỉ tiêu đánh giá đất thích hợp, có vai trò tác động trực tiếp và có ý
nghĩa đối với vùng nghiên cứu.[1]
2.2. Các nghiên cứu về đánh giá đất ở Việt Nam
* Đánh giá đất tại huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa, các tác giả Trịnh
Văn Chiến và Đỗ Ánh cho biết: [22].
- Ở huyện Yên Định có 4 nhóm và 10 loại đất chính, trong đó nhóm đất
phù sa chiếm diện tích lớn nhất (83,23%) tiếp đến là đất xám (7,87%) và đất
tầng mỏng (6,68%), thấp nhất là đất đỏ vàng (2,02%).
- Bản đồ đơn vị đất đai của huyện Yên Định tỷ lệ 1/25.000 có 37 đơn vị
đất đai. Chất lượng khá phức tạp và không đồng đều. Các nhóm đất xám và
đất đỏ vàng phân hóa tính chất đất phức tạp hơn nhóm đất phù sa. Trong 37
đơn vị đất đai có 32 đơn vị thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp với diện tích là
12.861 ha và 5 đơn vị thuận lợi cho sản xuất lâm nghiệp là 1.112 ha.
* Tác giả Phạm Quang Khánh, năm 2003 khi tiến hành nghiên cứu
đánh giá đất ở Bà Rịa – Vũng Tàu đã rút ra kết luận như sau: [17].

7


- Trên bản đồ tỷ lệ 1/50.000 có 9 nhóm đất và 32 đơn vị bản đồ đất.
Trong đó nhóm đất đỏ có 81.621 ha (41,31%), nhóm đất xám có 28.689 ha
(14,52%), nhóm đất cát có 20.480 ha (19,37%), nhóm đất phèn có 17.962 ha
(9,09%), nhóm đất dốc tụ có 12.287 ha (6,22%), nhóm đất xói mòn trơ sỏi đá
có 8.572 ha (4,34%), nhóm đất đen có 8.321 ha (4,21%), nhóm đất phù sa có
7.582 ha (3,84%) và nhóm đất mặn chỉ có 1.069 ha (0,54%).
- Kết quả xây dựng bản đồ đất đai tỷ lệ 1/50.000 trên cơ sở chồng ghép
05 lớp thông tin về đặc trưng thổ nhưỡng, địa hình, độ đày tầng đất, khả năng
tưới, lượng mưa và vị trí cho thấy toàn tỉnh có 64 đơn vị đất đai. Các đơn vị
đất đai này là cơ sở cho các tính toán trong quy hoạch sử dụng tài nguyên đất.

* Tiến hành phân hạng mức độ thích hợp đất đai tỉnh Quảng Trị tác giả
Nguyễn Văn Toàn, đã rút ra một số kết luận như sau: [18].
Trong số 26.621 ha đang canh tác lúa của tỉnh Quảng Trị có 12.448 ha
rất thích hợp, chiếm 47%; thích hợp có 7.927,6 ha, chiếm 29,8% và đất ít
thích hợp có 6.205,8 ha chiếm 23,2%, trong số này có 1.747 ha đất chuyên
lúa, còn lại là đất đang trồng màu, đây là diện tích đất có vấn đề trầm trọng
cần được chuyển đổi.
* Kết quả nghiên cứu về đánh giá đất của Đỗ Nguyên Hải và cộng sự,
2006 cho thấy: [18].
Trên diện tích 8.305,67 ha đất canh tác nông nghiệp trồng cây hàng
năm của huyện Phổ Yên đã xác định được 36 LMU với 503 khoanh đất. Các
kiểu sử dụng đất: lúa xuân - lúa màu - khoai tây; lúa xuân - lúa màu - rau; lạc
xuân - lúa màu - khoai tây; lạc xuân - đậu tương Hè Thu - rau; đậu tương
xuân - lúa mùa - rau là những kiểu sử dụng đất có triển vọng cho sử dụng đất
bèn vững trong vùng, mang lại hiệu quả kinh tế cao và giải quyết được việc
làm ở nông thôn.
* Kết quả nghiên cứu của tác giả Võ Thị Gương và cộng sự [17], năm
2001 ở tỉnh Cà Mau cho thấy:
- Đất đai Cà Mau đa dạng và có khả năng thích nghi cho nhiều mô hình
sử dụng đất đai khác nhau. Có 09 kiểu sử dụng đất đai đã được lựa chọn trong
đó bao gồm cả lúa – nuôi trồng thủy sản và rừng.

8


- Diện tích có khả năng trồng lúa cao sản cho năng suất cao khoảng
109.161,4 ha (vùng I) chủ yếu tập trung ở các vùng đất cao không phèn có
khả năng thâm canh cao, có khả năng ngăn mặn triệt để và có khả năng thích
nghi với nhiều mô hình thuộc các huyện Đầm Dơi, Cái Nước, Trần Văn Thời,
U Minh và Thới Bình.

- Mô hình rừng Tràm kết hợp với nuôi Cá là thích hợp nhất cho các
vùng chung quanh quanh rừng U Minh và các vùng phèn nặng khác, đồng
thời cũng đáp ứng mục tiêu bảo vệ và khôi phục rừng Tràm. Diện tích đề xuất
cho khu vực này khoảng 21.000 ha bao gồm rừng Tràm đang có và một số
lâm trường đang trồng Tràm.
- Diện tích có khả năng thích nghi và đề xuất chuyển đổi sang mô hình
có kinh tế và phù hợp với điều kiện tự nhiên là mô hình Lúa – Tôm chiếm
diện tích khoảng 236.773 ha phân bố ở các vùng canh tác Lúa gặp khó khăn
như thấp trũng, đất phèn, khả năng ngập sâu cao.
- Mô hình chuyên Tôm (vùng V) có khả năng mở rộng hơn so với diện
tích đề xuất (13.885 ha), đặc biệt là từ vùng đất đề xuất Lúa – Tôm. Diện tích
mô hình Tôm - Rừng và Rừng phòng hộ thì được đề xuất là 124.125 ha (thuộc
vùng VI).
* Kết quả nghiên cứu ở Huyện Mỹ Hào, tỉnh Hưng Yên của các tác giả
Đào Thổ Chu, Nguyễn Ích Lân [19], cho thấy:
Tổng diện tích 5172,33 ha đất canh tác có 19 đơn vị đất đai với 5 loại
hình sử dụng đất thích hợp. Mức độ thích nghi hiện tại như sau: Mức độ thích
hợp cao (S1) có ở 3 loại hình sử dụng đất (LUT) LUT1, LUT2, LUT3 diện
tích 1578,03 ha, chiếm 30,51% diện tích đất canh tác. Mức độ thích hợp trung
bình (S2) có ở LUT2 và LUT3 với diện tích là 1863,96 ha chiếm 36,04% diện
tích đất canh tác. Mức độ ít thích hợp (S3) có ở nhiều LUT nhất đồng thời
cũng nhiều đơn vị đất đai nhất với diện tích là 1730,34 ha, chiếm 33,45% diện
tích đất canh tác.
Trong tương lai trên cơ sở đầu tư cải tạo hệ thống kênh mương tưới tiêu
nước, kết hợp sử dụng đất và cải tạo đất, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật…
thì loại đất kém thích hợp hiện tại (S3) sẽ không còn, chỉ còn mức độ thích
hợp cao và thích hợp trung bình. Mức độ thích hợp cao (S1) là 2619,04 ha,

9



chiếm 50,64% diện tích đất canh tác, tăng 1.042,01 ha và tăng 65,97% so với
hiện tại. Mức độ thích hợp trung bình (S2) là 2533,29 ha chiếm 49,36% diện
tích đất canh tác, tăng 689,33 ha và tăng 36,98% so với hiện tại. Hệ số sử
dụng đất hiện tại từ 2,58 lần lên 2,94 lần vào năm 2010, tăng 0,36 lần.
* Áp dụng quy trình đánh giá đất của FAO, Lê Quang Trí và Văn Phạm
Đăng Trí [19], năm 2005 đã phân lập ra 24 đơn vị bản đồ đất đai để đánh giá
khả năng thích nghi cho 6 kiểu sử dụng đất có triển vọng và đã phân ra được 3
vùng thích nghi cho xã Song Phú, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. Trong đó
vùng 1 thích nghi được 6 kiểu sử dụng đất đai, vùng 2 thích nghi 4 kiểu sử
dụng đất đai (LUT1, LUT2, LUT4, LUT5). Riêng vùng 3 thích nghi cho các
cơ cấu 3 vụ hoặc chuyên canh cây ăn trái khi có đê bao.
* Kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Bài, Nguyễn Thị Vọng,
cho thấy: [19]
Hiệp Hòa là một huyện trung du nằm ở phía Tây nam tỉnh Bắc Giang.
Hiện tại việc sử dụng đất nông nghiệp chưa thật hợp lý và chưa hiệu quả, sản
xuất còn nhỏ lẻ, phân tán, chưa hình thành vùng chuyên canh để sản xuất
hàng hóa có chất lượng cao. Hiện tại Hiệp Hòa có 6 loại hình sử dụng đất: đất
3 vụ, đất 2 vụ lúa, 1 vụ lúa, chuyên màu, lúa - cá và cây ăn quả. Mức độ thích
hợp đất đai hiện tại đối với các loại hình sử dụng đất còn chiếm tỷ lệ thấp, yếu
tố hạn chế chủ yếu là việc bố trí các loại cây trồng phù hợp trên mỗi chân đất,
mỗi vùng đất, hệ thống thủy lợi và tập quán canh tác của người dân địa
phương. Kết quả lựa chọn các loại hình sử dụng đất theo các vùng địa hình:
vùng gò đồi tập trung phát triển các loại cây ăn quả như vải, nhãn, hồng, na
dai; vùng đất bằng (đất ruộng) chọn loại hình sử dụng đất 3 vụ (dưa hấu xuân
- lúa màu - khoai tây, lúa xuân - lúa màu - dưa hấu đông, ngô xuân - đậu
tương hè - rau vụ đông, lúa xuân - lúa màu - khoai tây) và loại hình sử dụng
đất chuyên màu và cây công nghiệp ngắn ngày (ngô, đậu tương, lạc, cà chua);
vùng đất trũng ngập nước chọn loại hình sử dụng đất lúa - cá.
* Trần An Phong và cộng sự, khi tiến hành đánh giá đất ở huyện Cư Jút

đã rút ra kết luận như sau: [18]
Huyện Cư Jút có diện tích tự nhiên là 71.889 ha. Diện tích lớn nhất
trong tài nguyên đất là đất xám trên đá sa thạch (Haplic Acrisols) 25.345 ha

10


chiếm 35,3%. Đất tự nhiên, đất đỏ và nâu vàng trên đá bazan 11.700 ha chiếm
16,1% diện tích đất tự nhiên. Đất đen và nâu thẫm trên sản phẩm đá bọt bazan
6.200 ha chiếm 9,10% diện tích đất tự nhiên.
Bản đồ các đơn vị đất đai được xây dựng trên 15 tính chất đất đai từ
việc chồng ghép các bản đồ như bản đồ đất, phân vùng khí hậu. Kết quả có 31
đơn vị đất đai (ĐVĐĐ), vùng đất xám trên phiến sét có 9 ĐVĐĐ, vùng đất
nâu đỏ trên đá bazan có 6 ĐVĐĐ, vùng đất nâu vàng có 1 ĐVĐĐ, vùng đất
đen có 4 ĐVĐĐ, vùng đất bọt bazan có 4 ĐVĐĐ, đất xám then cát có 3
ĐVĐĐ và đất dốc tụ có 3 ĐVĐĐ.
* Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Ích Tân, Hà Anh Tuấn khi nghiên
cứu ở huyện Võ Nhai, cho thấy: [21]
Võ Nhai có diện tích đất chưa sử dụng lớn với diện tích 22.541,78 ha
chiếm 26,27% diện tích đất tự nhiên. Diện tích đất chưa sử dụng đưa vào sản
xuất nông lâm nghiệp, phát triển kinh tế xã hội còn ít so với tiềm năng.
Dựa vào các chỉ tiêu phân cấp: loại đất, độ dốc, thành phần cơ giới, độ dày
tầng đất, chế độ nước để đánh giá thích hợp đất đai theo quan điểm sinh thái
và phát triển lâu dài đã xác định được 17.225,29 ha, chiếm 76,42% diện tích
đất chưa sử dụng có khả năng sử dụng đưa vào định hướng cho sản xuất nông
lâm nghiệp.
Lựa chọn được 5 loại hình sử dụng đất thích hợp cho đất chưa sử dụng
có khả năng sử dụng đưa vào định hướng sản xuất nông lâm nghiệp. Loại
hình sử dụng đất thích hợp: trồng cây màu và cây công nghiệp ngắn ngày
1.292,26 ha chiếm 7,56%; cây công nghiệp lâu năm là 2.761,08 ha chiếm

16,03%; cây ăn quả là 2.617,99 ha chiếm 15,20%; cây lâm nghiệp là
10.540,26 ha chiếm 61,19%; nuôi trồng thủy sản là 13,7 ha chiếm 0,08%.
2.3. Vai trò của đất đai đối với sản xuất nông nghiệp
Trong các ngành nông nghiệp đất đai có vai trò vô cùng quan trọng.
Đất đai không chỉ là cơ sở không gian, là điều kiện vật chất cần thiết cho sự
tồn tại mà còn là yếu tố tích cực của quá trình sản xuất. Điều này thể hiện ở
chổ đất luông phải chịu sự tác động như cày, bừa, làm đất nhưng cũng đồng
thời là công cụ sử dụng để trồng trọt và chăn nuôi.

11


Quá trình sản xuất nông nghiệp luôn gắn bó chặt chẽ với đất và các sản
phẩm làm ra được luôn phụ thuộc vào đặc điểm của đất mà cụ thể là độ phì
nhiêu và quá trình sinh học tự nhiên của đất. Yếu tố tích cực của đất tham gia
vào quá trình sản xuất nông nghiệp được thể hiện ở chổ đất cung cấp cho cây
trồng nước, không khí, chất dinh dưỡng cần thiết cho cây trồng sinh trưởng và
phát triển. Nhà kinh tế học Các Mác đã nói: “Đất đai là tư liệu sản xuất cơ bản
và phổ biến quý báu nhất của nền sản xuất nông nghiệp”.[21]
2.4. Khái quát về hiệu quả sử dụng đất
Hiệu quả kinh tế được hiểu là mối tương quan so sánh giữa lượng kết quả
đạt được là lượng chi phí bỏ ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Kết quả
đạt được là phần giá trị thu được của sản phẩm đầu ra, lượng chi phí đầu ra là
phần giá trị của các nguồn lực đầu vào. Mối tương quan đó cần xét cả phần so
sánh tuyệt đối và tương đối cũng như xem xét mối quan hệ chặt chẽ giữa hai
đại lượng đó.[22]
Hiệu quả kinh tế là phạm trù kinh tế mà trong đó sản xuất đạt cả hiệu
quả kinh tế và hiệu quả phân bổ. Điều đó có nghĩa là cả hai yếu tố hiện vật và
giá trị đều tính đến khi xem xét về việc sử dụng các nguồn lực trong nông
nghiệp. Nếu đạt được một trong yếu tố hiệu quả kỹ thuật hay hiệu quả phân

bổ mới là điều cần chứ chưa phải là điều kiện đủ cho đạt hiệu quả kinh tế. Chỉ
khi nào việc sử dụng nguồn lực đạt cả chỉ tiêu về hiệu quả kỹ thuật và phân
bố thì khi đó sản xuất mới đạt hiệu quả kinh tế.
Như vậy, bản chất của phạm trù kinh tế sử dụng đất là: Với một diện
tích đất đai nhất định sản xuất ra một khối lượng của cải vật chất nhiều nhất
với một lượng đầu tư chi phí về vật chất và lao động nhằm đáp ứng nhu cầu
ngày càng tăng về vật chất của xã hội.
* Cơ sở lựa chọn các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp
+ Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp.
+ Nhu cầu của địa phương về phát triển hoặc thay đổi loại sử dụng đất
nông nghiệp.

12


+ Các khả năng về điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội và các tiến bộ khoa
học kỹ thuật mới được đề xuất cho các thay đổi sử dụng đất đó.[22]

13


Phần 3
ĐỐI TƯỢNG, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Các loại hình sử dụng đất nông nghiệp xã Phúc Sơn, huyện Anh Sơn,
tỉnh Nghệ An
- Hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp của xã Phúc Sơn, huyện Anh Sơn,
tỉnh Nghệ An từ 2007 – 2009.

3.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu
- Địa điểm nghiên cứu: Tại xã Phúc Sơn, huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ
An.
- Thời gian nghiên cứu: Từ 6/1/2010 đến 9/5/2010.
3.3. Nội dung nghiên cứu
- Điều tra điều kiện tự nhiên - kinh tế xã hội của địa phương
- Đánh giá những thuận lợi, khó khăn về điều kiện tự nhiên - kinh tế xã
hội của địa phương.
- Đánh giá hiện trạng sử dụng đất nông nghiệp của địa phương.
- Đánh giá hiệu quả các loại hình sử dụng đất nông nghiệp chính của
địa phương về: Hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội, hiệu quả môi trường.
- Đề xuất các hướng sử dụng đất hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả sử
dụng đất nông nghiệp.
3.4. Phương pháp nghiên cứu
3.4.1. Phương pháp thu thập số liệu
- Thu thập số liệu sơ cấp: Sử dụng phương pháp điều tra nhanh nông
thôn với sự tham gia của người dân - PRA (Participatory Rural Appraisal). Sử
dụng bộ câu hỏi phỏng vấn được xây dựng dựa vào các chỉ tiêu cần thiết để
đánh giá hiệu quả cho các loại hình sử dụng đất. Nhằm khai thác được nhiều
thông tin bộ câu hỏi được thiết kế là các câu hỏi mở. Tiến hành điều tra nông
hộ tại 2 xóm. Mỗi xóm chọn ngẫu nhiên để phỏng vấn là 30 hộ. Tổng số hộ
điều tra 60 hộ.

14


- Thu thập số liệu thứ cấp: Thu thập các tài liệu, báo cáo từ UBND xã,
các cơ quan chuyên môn có liên quan, các phòng chức năng trên địa bàn
huyện và tỉnh.
3.4.2. Phương pháp đánh giá đất đai

Sử dụng phương pháp đánh giá đất đai của FAO (1976, 1983) phục vụ cho
quy hoạch sử dụng đất và phát triển nông nghiệp bền vững được áp dụng tại
Việt Nam. Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp thông qua 3 tiêu chí:
- Hiệu quả kinh tế: bao gồm hệ thống các chỉ tiêu: Tổng giá trị sản xuất,
tổng chi phí biến đổi, thu nhập từ các loại hình sử dụng đất, giá trị ngày công
lao động.
- Hiệu quả xã hội: Liên quan đến khả năng thu hút lao động, giải quyết
công ăn việc làm, khả năng cung cấp sản phẩm, khả năng đảm bảo thị trường.
- Hiệu quả môi trường: Thông qua việc điều tra, trên cơ sở các yếu tố
như mức độ che phủ đất, khả năng bảo vệ đất, khả năng cải tạo đất.
3.4.3. Một số chỉ tiêu tính toán
* Phân tích hiệu quả sử dụng đất đai
Hiệu quả sử dụng đất đai biểu thị mức độ khai thác sử dụng đất đai và thường
được đánh giá thông qua một số chỉ tiêu sau:
Diện tích đất đã sử dụng *100
- Tỷ lệ sử dụng đất đai (%) = -------------------------------------------------Σ Diện tích đất đai
Diện tích của loại đất (đất NN, LN, CD...)
- Tỷ lệ SD loại đất (%) = ------------------------------------------------*100
Σ Diện tích đất đai
Σ Diện tích gieo trồng trong năm
- Hệ số SDĐĐ (lần) = -------------------------------------------------Diện tích đất cây hàng năm (đất canh tác)
DT đất LN có rừng + đất cây lâu năm
- Độ che phủ (%) = ----------------------------------------------------x100
Σ Diện tích đất đai
* Phân tích hiệu quả sản xuất của đất đai:

15


Hiệu quả sản xuất của đất đai biểu thị năng lực sản xuất hiện tại của

việc sử dụng đất đai (phản ánh hiện trạng sản xuất và hiệu quả kinh tế của
việc sử dụng đất đai). Các chỉ tiêu thường dùng để đánh giá hiệu quả sản xuất
của đất đai như sau:
Giá trị tổng sản lượng Nông Lâm Ngư
- Giá trị tổng sản lượng = ----------------------------------------------Đơn vị DT đất Nông nghiệp
3.4.4. Phân tích và xử lý số liệu
Số liệu được xử lý và tính toán theo trị số trung bình trên Excel.

16


Phần 4
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
4.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN VÀ KINH TẾ XÃ HỘI CỦA XÃ PHÚC
SƠN
4.1.1. Điều kiện tự nhiên
4.1.1.1. Vị trí địa lý
Phúc Sơn là một xã miền núi, biên giới nằm ở vùng hữu ngạn Sông
Lam của huyện Anh Sơn có vị trí địa lý như sau:
Phía Đông giáp xã Long Sơn.
Phía Bắc giáp xã Vĩnh Sơn
Phía Tây giáp Thị Trấn, Thạch Sơn, Hội Sơn và Huyện Con Cuông,
Phía Nam giáp huyện Thanh Chương và nước Lào.
Trên địa bàn xã có quốc lộ 7 chạy qua và giáp với Thị trấn Anh Sơn nên
có nhiều điều kiện thuận lợi cho giao thông đi lại và phát triển kinh tế.
4.1.1.2. Địa hình địa mạo
Địa hình của xã là đồi núi và đồng bằng thấp từ Tây Nam về Đông Bắc
tạo thành hai vùng rõ rệt, vùng đồi núi khá cao và đồng bằng trải rộng từ chân
núi về tiếp giáp với xã Long Sơn và xã Vĩnh Sơn. Địa hình kéo dài phức tạp,
có nhiều hồ đập sông suối, bố trí dày đặc ở phía Nam. Bị chia cắt bởi nhiều

khe, suối lớn nhỏ chạy từ trên các dãy núi cao hai bên xuống sông Giăng tạo
thành mạng lưới thủy đạo khá thuận lợi cho việc xây dựng các công trình thủy
lợi nhỏ, cung cấp nước cho các ô ruộng gần khe và nước sinh hoạt cho đồng
bào ven sông. Có thể chia địa hình của xã thành 3 dạng: Dạng đồng bằng ven
sông, dạng đồi và dạng núi thấp.
Dạng đồng bằng ven sông: Chủ yếu nằm dọc hai bên sông Lam ở độ
cao 20 - 30 m.
Dạng địa hình đồi: Phần lớn ở độ cao từ 100 - 200 m, chủ yếu là dạng
đồi lượn sóng, độ dốc không lớn từ 8 – 150 m.
Dạng địa hình núi thấp: Chủ yếu ở dạng núi thấp 300 - 500 m.
Nhìn chung địa hình địa mạo của xã chủ yếu là vùng đồi xen lẫn đồng
ruộng đất đồi, thuận lợi cho cây cối phát triển.

17


4.1.1.3. Điều kiện khí hậu thời tiết
Phúc Sơn nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa. Mùa hè thì nóng
bức, nhiệt độ từ 33 -360C, có khi lên đến 390C. Về mùa đông nhiệt độ lại khá
thấp, trung bình từ 14-200C, có lúc xuống tới 100C. Nói chung khí hậu khá
phức tạp, nắng nóng thì gay gắt, mưa bão thì rất dữ dội. Vì nằm về phía Tây
tỉnh Nghệ An nên chịu ảnh hưởng của 2 mùa rõ rệt. Mùa khô từ tháng 11 đến
tháng 3 chủ yếu gió Đông Bắc, mùa mưa từ tháng 4 đến tháng 10 nóng ẩm,
gió thịnh hành là gió Tây Nam. Mùa khô không khí khô hanh, độ ẩm bình
quân là 30 -60%, mùa mưa khí hậu ẩm ướt, độ ẩm từ 80 – 90% không khí
thấp ảnh hưởng trực tiếp đến độ bền của công trình.
Điều kiện khí hậu ở Phúc Sơn nói chung thuận lợi để phát triển cây
trồng vật nuôi, song biên độ nhiệt giữa các mùa trong năm lớn, mưa tập trung,
mùa nắng nóng khô hanh, đó là nguyên nhân gây ra hạn hán, lũ lụt, xói mòn,
bồi lấp, hủy hoại đất. Trong sử dụng đất cần có những biện pháp thích hợp để

hạn chế các hiện tượng bất lợi của điều kiện khí hậu trên (chọn cây con có
khả năng thích hợp cao, mùa vụ gieo trồng phù hợp tránh những thời điểm có
nhiều bất lợi).
4.1.1.4. Tài nguyên đất
Tổng diện tích tự nhiên của xã là 14.546 ha (chiếm 24,1% diện tích
toàn huyện) trong đó diện tích đất sản xuất nông nghiệp là 936,84 ha, diện
tích đất lâm nghiệp là 12.341,3 ha, đất chuyên dùng là 404,92 ha, đất nuôi
trồng thuỷ sản là 94,1 ha, đất chưa sử dụng là 768,84 ha.
Vùng đất đồi chủ yếu là đất Feralit đỏ vàng, phát triển trên đá thạch sét
và đá biến chất, tầng đất trung bình. Vùng đất này thuận lợi cho việc phát
triển cho trồng cây lâm nghiệp như: keo, tràm...độ dốc thấp trồng cây công
nghiệp như: chè, dứa.
Vùng đồng bằng chủ yếu là tầng đất phù sa được bồi đắp hàng năm.
Đất này thuận lợi cho việc phát triển các loại cây hàng năm như: ngô, lạc,
cam, quýt, trồng cỏ nuôi gia súc.
Vùng đất chuyển tiếp giữa vùng đồi và vùng đồng bằng chủ yếu là đất
bạc màu, tầng đất mỏng, thành phần cơ giới cát pha. Vùng này chủ yếu là
trồng cây công nghiệp ngắn ngày như lạc, sắn.

18


4.1.1.5.Tài nguyên nước
Trên địa bàn xã có 2 con sông chảy qua đó là sông Lam và Sông giăng.
- Sông Lam: Đây là sông lớn nhất trên địa bàn xã. Chiều dài của sông
đoạn qua xóm 12 và xóm 13 là 1,7 km, chảy theo hướng từ Tây Bắc xuống
Đông Nam. Diện tích lưu vực sông là 17.730 km 2, mật độ lưới sông là 0,6
km/km2. Lưu lượng trung bình hàng năm của sông đạt 688 m 3/s. Mực nước
bình quân lớn nhất là 5,03 m, lưu lượng lớn nhất bình quân là 2.260 m 2/s (đo
tại trạm Cửa Rào). Đây là tuyến đường thuỷ quan trọng và duy nhất nối nước

bạn Lào với Nghệ An và thông ra biển Đông.
- Sông Giăng: Sông Giăng cũng là phụ lưu của sông Lam, chiều dài của
sông đoạn chảy qua địa bàn xã là 10,5 km. Diện tích lưu vực của sông là
1.050 km2, tổng lượng nước của sông khu vực phụ lưu lên tới 21,90 km 3, ứng
với lưu lượng bình quân nhiều năm là 688 m 3/s và mô đun dòng chảy là 25,3
l/s/km2. Lòng sông nhỏ, hẹp, khả năng vận tải gặp nhiều khó khăn.
Ngoài 2 sông chính trên, địa bàn xã Phúc Sơn còn có các sông suối
nhỏ, ao hồ đập tạo thành mạng lưới lưu vực các sông chính. Đây là nguồn
cung cấp nước phục vụ cho sản xuất, sinh hoạt của người dân trong xã.
4.1.1.6. Tài nguyên rừng
Theo số liệu thống kê năm 2009, diện tích đất lâm nghiệp của xã là
12.336,30 ha. Tiềm năng về lâm nghiệp của xã Phúc Sơn là khá lớn và đa
dạng, đất lâm ngiệp của xã chủ yếu là đồi núi thấp, độ dốc nhỏ, thổ nhưỡng
tốt (chủ yếu là đất phát triển trên đá phiến sét và đá biến chất).
4.1.1.7. Tài nguyên nhân văn
Là xã miền núi với các dân tộc khác nhau sinh sống, song mỗi dân tộc
đều có phong tục tập quán sinh hoạt và kinh nghiệp sản xuất riêng đã tạo nên
cho Phúc Sơn một nền văn hoá đa dạng về bản sắc.
4.1.1.8. Cảnh quan môi trường
Là một xã miền núi có mật độ dân số không cao 50,2 người/km 2, các
ngành kinh tế phi nông nghiệp (công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ
- du lịch) chưa phát triển vì vậy những tác động không tích cực đến môi
trường của xã chưa đáng kể. Mặt khác trên địa bàn xã có nhiều sông suối,
diện tích đất lâm nghiệp và các loại cây trồng nông nghiệp khác chiếm phần

19


lớn diện tích đang được đầu tư phát triển nên đã tạo ra cảnh quan môi trường
trong lành gần gũi với đời sống con người.

Tuy nhiên do chưa được đầu tư xây dựng các bãi chứa rác thải tập trung
(theo số liệu thống kê đất đai năm 2007 địa bàn xã chưa có đất bãi rác thải, xử
lý chất thải), hệ thống xử lý chất thải và trạm xá y tế chưa được đầu tư đúng
mức nên đã có những ảnh hưởng nhất định về cảnh quan môi trường.
Việc khai thác khoáng sản cát sạn ở các con sông, suối không đáp ứng
các yêu cầu kỹ thuật về bảo vệ môi trường đã làm ô nhiễm nguồn nước và gây
sói lở đất.
Hàng năm các trận lũ lớn xảy ra đã ảnh hưởng khá lớn đến sản xuất
sinh hoạt của người dân, đặc biệt là các hộ ven sông Lam. Nhiều diện tích đất
ruộng và bãi bị đất đá vùi lấp hoặc cuốn trôi, hệ thống đường điện bị hư hỏng
nặng, gây mất điện nhiều ngày trong địa bàn xã nói riêng và huyện nói chung.
Nguyên nhân của những hiện tượng trên là do việc khai thác tài nguyên
rừng và khoáng sản chưa thực sự gắn liền với đầu tư phục hồi tài nguyên kịp
thời nhằm đảm bảo các yêu cầu về bảo vệ môi trường.
Từ những vấn đề nêu trên cho thấy cùng với việc tăng cường khai thác
các nguồn lợi tự nhiên đáp ứng cho yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội thì việc
đầu tư tái tạo, bảo vệ cảnh quan môi trường tương xứng và cao hơn nữa mức
độ khai thác đầu tư nhằm đảm bảo phát triển bền vững là điều cần được đặc
biệt quan tâm trong địa bàn xã Phúc Sơn hiện nay.
4.1.2. Điều kiện kinh tế xã hội
4.1.2.1. Tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch kinh tế
* Tốc độ tăng trưởng
Nền kinh tế phát triển có dấu hiệu khá tích cực, tốc độ tăng trưởng bình
quân giai đoạn 2007-2009 đạt 12,46. Tổng giá tri sản xuất là 116 tỷ 112 triệu
đồng, đạt 95.2% so với kế hoạch cả năm. Bình quân thu nhập là 13.234.000
đồng/người/năm. Trong đó:
- Nông – lâm - ngư: Giá trị sản xuất đạt 2 tỷ 139 triệu đồng, chiếm
27,7% so với tổng thu nhập; đạt 62,7% so với kế hoạch.

20



- Công nghiệp – xây dựng cơ bản: đạt 34 tỷ 286 triệu đồng chiếm
29.5% so với tổng thu nhập, đạt 89% so với kế hoạch, tăng so với năm 2007
là 5.8 tỷ 286 triệu dồng.
- Thương mại – dịch vụ: đạt 27 tỷ 997 triệu đồng chiếm 24% so với
tổng thu nhập, đạt 90% so với kế hoạch. [11]
* Chuyển dịch kinh tế
Cơ cấu kinh tế của xã đã có sự chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ
trọng công nghiệp và dịch vụ - thương mại, giảm dần tỷ trọng nông – lâm –
ngư nghiệp. Tình hình sản xuất tiêu thụ sản phẩm công nghiệp – tiểu thủ công
nghiệp trên địa bàn có chiều hướng tăng: 122 hộ sản xuất công nghiệp và
nhiều lao động chuyên nghành xây dựng các nghành nghề phát triển gò, hàn,
mộc dân dụng và chế biến nông sản...Từ đó khuyến khích mọi người phát
triển và mở ngành nghề mới. Mặt khác do điều kiện phát triển kinh tế và đời
sống của nhân dân vì vậy mà việc mở rộng thương mai – dịch vụ ngày càng
được đáp ứng nhu cầu tiêu thụ sản phẩm hàng hoá và nhu cầu tiêu dùng hành
hoá của nhân dân trên địa bàn. Có 102 hộ kinh doanh các ngành thương mại –
dịch vụ. [11]
4.1.2.2. Dân số và lao động, thu nhập và đời sống
* Dân số và lao động:
Theo báo cáo của UBND xã Phúc Sơn: Cho đến thời điểm tháng
1/2009 toàn xã có 8.086 người với 2.014 hộ, trong đó hộ giáo dân 35 hộ
chiếm 1,7%, hộ dân tộc 242 hộ chiếm 12,02%. Toàn xã có 21 xóm bản trong
dó có 2 bản (dân tộc thiểu số đó là Kim Tiến và Cao Vều), được phân chia 4
cụm dân cư khác nhau:
- Cụm 1 (từ xóm 1 đến xóm 14), cụm trung tâm của xã.
- Cụm 2 (Từ xóm 15 đến xóm Kim Tiến), vùng phát triển kinh tế.
- Cụm 3 (Xóm Bãi Đá và xóm Bãi Lim), vùng kinh tế mới (nhân dân
thuộc nhiều xã trong huyện đi khai hoang xây dựng kinh tế hình thành từ

những năm 90 của thế kỷ XX).
- Cụm 4 (Bản Cao Vều) thuộc cụm đồng bào dân tộc thiểu số dọc theo
biên giới.

21


Toàn xã Phúc Sơn có 4001 người trong độ tuổi lao động, trong đó 3045
người có khả năng lao động; tỷ lệ lao động được đào tạo là 16%, hàng năm
tạo việc làm cho không ít lao động cụ thể năm 2007 là 230 lao động, năm
2008 là 242 lao động, năm 2009 là 254 lao động. Là một xã thuần nông nên
lao động ở đây chủ yếu là lao động nông nghiệp. [9]
Bảng 1: Tình hình dân số và lao động của xã Phúc Sơn
STT

Chỉ tiêu

Đơn vị

Số lượng

Tổng số nhân khẩu

Người

8.086

Trong đó: Số nam

Người


4.040

Số nữ

Người

4.046

2

Mật độ dân số

Người/km2

50,4

3

Tỷ lệ tăng dân số

%

0,86

Tổng số hộ

Hộ

2.014


Hộ giáo dân

Hộ

35

Hộ dân tộc

Hộ

242

Hộ dân tộc kinh

Hộ

1.737

Lao động

Người

4.001

Người có khả năng lao động
Tỷ lệ lao động được đào tạo

Người


3.045

1

4

5

%

16

[Nguồn: Báo cáo của UBND xã Phúc Sơn, năm 2009]
* Thu nhập và đời sống:
Cùng với sự cố gắng nhân dân trong xã, cộng với các chính sách quan
tâm của nhà nước những năm gần đây đời sống của nhân dân xã Phúc Sơn có
nhiều mặt tiến bộ. Tuy nhiên so với mặt bằng chung của tỉnh và xu thế phát
triển chung của huyện thì xã vẫn là một trong những xã còn gặp nhiều khó
khăn của huyện. Tỷ lệ hộ đói nghèo chiếm 21.7% số hộ trong toàn xã.

22


Thu nhập bình quân theo đầu người năm 2009 là 15.018.000 triệu
đồng/người/năm. Nguồn thu nhập chính của người dân chủ yếu là từ trồng
trọt và chăn nuôi. Một số hộ có thu nhập thêm từ các ngành nghề, dịch vụ...
4.1.2.3. Cơ sở hạ tầng
* Giao thông:
Hiện nay giao thông trên địa bàn xã đã tương đối phát triển, đáp ứng
nhu cầu đi lại của người dân và phục vụ sản xuất kinh doanh. Toàn xã có

110,58 km đường giao thông trong đó có quốc lộ 7 chạy qua với chiều dài
1,29 km tạo ra hướng giao lưu hàng hoá với trung tâm huyện lỵ tương lai có
thể phát triển dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp và hình thành các cơ sở
công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp của xã.
Toàn xã có 18 km đường nhựa, bê tông hoá 7,2 km, còn lại là đường
cấp phối. Có một bến đò ngang qua sông Giăng, từ trung tâm xã đến bản Cao
Vều trên 20km; giao thông nội đồng là 11,42 km, hệ thống kênh mương là
20km, trong đó bê tông hoá là 17km. [8]
* Thuỷ lợi:
Nhìn chung hệ thống thuỷ lợi của xã đã đảm bảo chủ động tưới cho
đồng ruộng và phát triển hoa màu vụ hè thu. Toàn xã có 20 km kênh mương,
trong đó bê tông hoá 17 km, số còn lại được đào đắp bằng đất. Nguồn nước
tưới chủ yếu là từ sông và các đập, hệ thống kênh dẫn nước chính từ các
nguồn đều được bê tông hoá, kênh mương ruộng đồng cũng từng bước được
kiên cố.
* Điện:
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là mục tiêu hướng tới của Đảng và Nhà
nước ta. Trong sự phát triển chung của toàn huyện, điện khí hoá nông thôn đã
được thực hiện rất tốt ở xã Phúc Sơn. Hiện toàn xã có 5 trạm biến áp, hệ
thống dẫn điện đến từng thôn được kiên cố an toàn, 100% số hộ được sử dụng
điện. Nhờ điện mà đời sống người dân ngày càng được nâng cao. Hiệu quả
kinh tế do điện mang lại cũng được thể hiện rõ rệt.
* Cơ sở chế biến nông sản phẩm:
Hiện nay trên địa bàn xã chưa có cơ sở chế biến nông sản phẩm có qui
mô. Phần lớn các nông sản phẩm sau khi thu hoạch được sơ chế qua các máy

23


xay xát nhỏ; Các sản phẩm nông nghiệp phần lớn được tiêu thụ ở các vùng

lân cận (chợ thị trấn Anh Sơn, nhà máy chế biến chè xã Long Sơn).
4.1.3. Đánh giá về điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội của địa phương
4.1.3.1. Điều kiện tự nhiên
a. Thuận lợi:
Nhìn chung xã Phúc Sơn có vị trí khá thuận lợi cho phát triển kinh tế xã
hội .
.- Với diện tích đất đai rộng lớn khá thuận lợi cho sự phát triển của một
hệ thực vật đa dạng, xã Phúc Sơn đặc biệt có tiềm năng cho các loại hình sử
dụng đất trồng cây lâu năm như rừng sản xuất, cây ăn quả, cây nguyên
liệu,...vv. Đất đai dễ canh tác, diện tích đất chưa sử dụng còn khá lớn nên có
thể có khả năng phát triển diện tích sản xuất các loại cây nông lâm nghiệp.
- Xã Phúc Sơn có hệ thống thủy văn dày đặc bao gồm sông Lam, sông
Giăng và các suối lớn nhỏ đổ vào sông. Đây là nguồn nước mặt tự nhiên giàu
có rất thuận lợi cho việc đầu tư xây dựng một hệ thống tưới tiêu chủ động
trong tương lai. Nếu biết khai thác, tận dụng và có biện pháp thuỷ lợi hợp lý
thì sẽ phát huy thế mạnh trong các ngành nông nghiệp, đặc biệt nuôi cá, tôm
nước ngọt và các loại rau ngắn ngày.
- Nằm trên quốc lộ 7, trục đường từ Vinh đi Tương Dương, vị trí xã
Phúc Sơn có những lợi thế nhất định trong việc giao thương hàng hóa, ở rộng
thị trường trao đổi buôn bán nông lâm sản.
b. Khó khăn:
Bên cạnh những thuận lợi kể trên thì điều kiện tự nhiên của xã cũng có
những khó khăn nhất định.
- Phần lớn diện tích đất đai là đất dốc, nghèo dinh dưỡng và lẫn nhiều
sỏi đá, không thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất các loại
cây ngắn ngày. Diện tích đất nông nghiệp đã hạn chế lại có nguy cơ suy thoái
do sạt lở và xói mòn.
- Mạng lưới sông suối dày đặc, địa hình đồi núi hiểm trở góp phần tạo
nên sự manh mún đất đai và là một trở ngại cho việc giao thông đi lại trong
vùng, đặc biệt là đi làm ruộng, làm rẫy và việc vận chuyển nông sản sau khi

thu hoạch.

24


- Gió Lào thường xuất hiện vào tháng 3 đến tháng 8 làm tăng cường độ
bốc hơi nước, gây ra hạn hán và ảnh hưởng bất lợi đến sinh trưởng phát triển
của cây trồng.
4.1.3.2. Điều kiện kinh tế xã hội
a. Thuận lợi:
- Tỷ lệ dân số thuộc độ tuổi lao động của xã là khá cao. Đây có thể coi
là một nguồn lực lớn, cơ bản có thể góp phần thúc đẩy sản xuất, thúc đẩy sự
phát triển kinh tế xã hội của địa phương.
- Kết cấu hạ tầng bước đầu được đầu tư khá đồng bộ, làm thay đổi bộ
mặt nông thôn, góp phần quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội của
xã.
- Quốc lộ 7 đi ngang qua địa bàn xã Phúc Sơn được xác định là một
trung tâm tiểu thủ công nghiệp, thương mại dịch vụ mang tính chất tiểu vùng.
- Hệ thống giao thông trên địa bàn khá hoàn chỉnh, đó là thuận lợi cho
người dân trong việc vận chuyển các vật tư, cũng như đảm bảo cho khâu thu
hoạch được diễn ra một cách thuận lợi hơn về mùa nắng cũng như mùa mưa,
giúp giải phóng đôi vai của người dân.
b. Khó khăn:
- Xã Phúc Sơn là một xã thuần nông, dân số tương đối lớn. Lực lượng
lao động của xã Phúc Sơn chủ yếu là lao động trình độ thấp, không qua đào
tạo nên mức độ tiếp thu kĩ thuật sản xuất nông nghiệp, tiếp cận những tiến bộ
trong khoa học công nghệ có nhiều hạn chế.
- Phần lớn nông dân ít được tập huấn về kỹ thuật sản xuất trồng trọt và
chăn nuôi, sản xuất chủ yếu dựa vào kinh nghiệm của nông dân.
- Tỷ lệ lao động nông nghiệp vẫn còn lớn so với tổng số người trong độ

tuổi lao động của xã.
- Cơ sở vật chất phục vụ cho sản xuất nông nghiệp còn rất ít chưa đáp
ứng được nhu cầu sản xuất của người dân.
4.2. TÌNH HÌNH SẢN XUẤT NÔNG NGHIỆP CỦA XÃ PHÚC SƠN
Sản xuất nông nghiệp của xã trong những năm qua đã có bước phát
triển khá quan trọng, tuy nhiên năng suất bình quân của các loại cây năm sau
và năm trước tăng giảm không đồng đều.

25


×