Tải bản đầy đủ (.pdf) (152 trang)

Luận án múa đương đại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.16 MB, 152 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM

Lê Hải Minh

MÚA ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT

Hà Nội – 2018


2

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM

Lê Hải Minh

MÚA ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM

Chuyên ngành : Lý luận và Lịch sử Sân khấu
Mã số : 9210221



LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGHỆ THUẬT
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS Lê Ngọc Canh

Hà Nội - 2018


1

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu Múa đương đại Việt Nam là
công trình của riêng tôi. Kết quả được nêu trong luận án là trung thực và chưa
được công bố ở bất kỳ một công trình nào khác.
Hà Nội, ngày

tháng

Lê Hải Minh

năm


2

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ...................................................................................................... 1
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT....................................................................... 3
MỞ ĐẦU .............................................................................................................................. 4
Chương 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MÚA
ĐƯƠNG ĐẠI .........................................................................................................20

1.1. Cơ sở lý thuyết ...........................................................................................................20
1.2. Những vấn đề lý luận về múa đương đại...............................................................28
Tiểu kết ............................................................................................................47
Chương 2: QUÁ TRÌNH TIẾP NHẬN, PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG MÚA
ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM ..................................................................................49
2.1. Sự xuất hiện múa đương đại ở Việt Nam ..............................................................49
2.2. Các giai đoạn phát triển của múa đương đại Việt Nam .....................................50
2.3. Thực trạng múa đương đại Việt Nam ...................................................................64
2.4. Sự tương tác với các loại hình nghệ thuật khác ...................................................86
Tiểu kết ............................................................................................................89
Chương 3: BÀN LUẬN VỀ MÚA ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM .................................92
3.1. Múa đương đại ở Việt Nam trên con đường hội nhập và giao thoa văn hóa ..92
3.2. Tác động của một số yếu tố khách quan đến múa đương đại Việt Nam .........94
3.3. Múa đương đại Việt Nam, ưu điểm và hạn chế .................................................101
3.4. Xu hướng phát triển của múa đương đại Việt Nam..........................................106
3.5. Một số kiến nghị, giải pháp....................................................................................110
Tiểu kết ..........................................................................................................115
KẾT LUẬN .....................................................................................................................117
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ……………….119
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................120
PHỤ LỤC………………………………………………………………………...129


3

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

GS

Giáo sư


NCS

Nghiên cứu sinh

NGND

Nhà giáo Nhân dân

NGƯT

Nhà giáo Ưu tú

NSND

Nghệ sĩ Nhân dân

NSƯT

Nghệ sĩ Ưu tú

Nxb

Nhà xuất bản

PGS

Phó Giáo sư

ThS


Thạc sĩ

Tr

Trang

TS

Tiến sĩ

TW

Trung ương


4

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cũng như những loại hình nghệ thuật khác, nghệ thuật múa thực hiện
chức năng là phản ánh hiện thực đời sống xã hội của con người bằng ngôn
ngữ đặc thù riêng của mình. Mỗi tác phẩm nghệ thuật là một cảm xúc, một
thông điệp của nghệ sĩ mà họ nhận thức đối với cuộc sống. Từ những năm
đầu “đổi mới” đến nay đã có nhiều tiết mục múa, tác phẩm múa mang hơi thở
thời đại, mỗi tiết mục, tác phẩm thể hiện khuynh hướng sáng tác, sự tìm tòi
khác nhau của các nghệ sĩ. Nhiều tiết mục, tác phẩm đã góp phần làm nên sự
phong phú cho ngành múa Việt Nam bởi sự tiếp thu một cách tinh tế những
nét đặc trưng của nhân loại với vốn văn hóa, kiến thức về dân tộc trong tác
phẩm của mình. Trong đó, nghệ thuật múa đương đại được nhiều nghệ sĩ múa

theo đuổi bởi sự “thoáng mở” của nó đã chắp cánh cho nhiều ý tưởng sáng tạo
phá cách táo bạo. Sự táo bạo ấy đã đưa đến những mới mẻ nhưng đồng thời
cũng đặt múa đương đại nhiều vấn đề cần bàn luận. Bên cạnh đó, còn rất
nhiều những tiết mục, tác phẩm múa nhân danh sự sáng tạo, nhân danh múa
đương đại đã làm méo mó, sai lạc nhận thức về nghệ thuật múa nói chung và
múa đương đại nói riêng. Thực tế này đã đặt ra nhiều vấn đề cần trao đổi cả
về mặt lý luận và thực tiễn.
Múa đương đại Việt Nam được tiếp biến từ yếu tố ngoại sinh vào cuối
những năm 1980. Gần 30 năm du nhập, múa đương đại không còn mới lạ đối
với công chúng và những người hoạt động trong lĩnh vực nghệ thuật. Múa
đương đại Việt Nam với rất nhiều tìm tòi, sáng tạo đã và đang được khán giả
đương thời yêu thích. Trên thực tiễn đã ra đời những vở múa đương đại mang
yếu tố triết lý với nhiều tầng ý nghĩa do biên đạo múa Việt Nam, con người
Việt Nam thể hiện. Bên cạnh đó, là các tiết mục, tác phẩm múa được các biên
đạo của chúng ta chú trọng đến nội dung của tác phẩm, sự kết hợp với các loại
hình nghệ thuật khác như xiếc, công nghệ..., đặc biệt là ngôn ngữ thể hiện, đó


5

là sự lồng ghép giữa ngôn ngữ múa dân tộc với ngôn ngữ múa nước ngoài. Có
thể nói, đa số biên đạo múa Việt Nam chưa tiếp thu đến cùng các yếu tố của
múa đương đại mà chỉ dừng lại ở sự khai thác những đặc trưng của nó.
Các nghiên cứu về múa đương đại ở Việt Nam còn hạn chế. Hiện nay,
chưa có công trình, đề tài chuyên sâu nào nghiên cứu về vấn đề này. Do đó,
cần nhận thức rõ về múa đương đại, vai trò, giá trị của nó trong nghệ thuật
múa và trang bị những kiến thức thiếu hụt từ công tác nghiên cứu, lý luận, đào
tạo và sáng tác.
Có gì khác biệt giữa múa hiện đại và múa đương đại? Múa đương đại
đã tiếp biến và tác động như thế nào đến sân khấu múa Việt Nam? Nó được

biến động ra sao? Cần làm gì để hiện tượng văn hóa nghệ thuật du nhập vào
Việt Nam phát huy hết những giá trị của nó? Đó là những vấn đề, những bỏ
ngỏ, những bất cập mà nghệ thuật múa Việt Nam đang trăn trở. Luận án Múa
đương đại Việt Nam sẽ trình bày, tiếp tục nghiên cứu, giải quyết những vấn đề
đã đặt ra.
Đây là một đề tài mới, có tính lý luận, khoa học, thực tiễn. Vì thế,
nghiên cứu cả một quá trình từ sự xuất hiện múa đương đại ở Việt Nam, sự
tiếp biến, hình thành và phát triển là điều cần thiết cho sân khấu múa Việt
Nam. Cái mà xã hội cần, ngành nghề cần và nó trở nên cấp thiết.
Đó là những lý do NCS chọn đề tài Múa đương đại Việt Nam làm nội
dung của luận án.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Hiện nay có rất nhiều công trình nghiên cứu về múa đương đại trên thế
giới. NCS chỉ đề cập đến những công trình, bài viết có liên quan đến đề tài
của luận án.
2.1. Nghiên cứu về múa đương đại trên thế giới
Múa đương đại gần như cùng một lúc xuất hiện tại Mỹ và châu Âu,
theo đó là các công trình được các tác giả nghiên cứu về nó. Các công trình
đã nghiên cứu từ lịch sử múa đương đại đến đặc trưng, phong cách, bản địa


6

hóa, văn hóa, đời sống xã hội ở mỗi nơi. Cùng với đó là những đột phá trong
sáng tạo của các nghệ sĩ múa. Điều này được thể hiện ở những hướng nghiên
cứu sau:
Thứ nhất, hướng nghiên cứu về lịch sử nghệ thuật múa nói chung và
nghệ thuật múa đương đại nói riêng từ thế kỷ XX đến năm 2009. Hướng này
được thể hiện rõ qua công trình Talk about contemporary dance (2011, Bàn
về múa đương đại) của nhà phê bình múa người Pháp Philippe Noisette [67].

Công trình đã cung cấp kiến thức cho độc giả về nghệ thuật múa, nghệ thuật
múa đương đại từ thế kỷ XX đến năm 2009, gắn liền với vai trò của các nghệ
sĩ múa, biên đạo múa có ảnh hưởng sâu đậm trong nghệ thuật múa đương đại
thế giới như Merce Cunningham (1919-2009), Pina Bausch (1940-2009)...và
các biên đạo múa khác theo chủ nghĩa khêu gợi, khỏa thân, chủ nghĩa tối giản,
ảnh hưởng từ những điệu nhảy trong đô thị, trong xã hội. Ngoài ra, tác giả
trình bày khái quát về dòng múa Afro-Jazz, múa ảo với sự kết hợp với công
nghệ thông tin và ánh sáng, múa đương đại châu Phi, múa đương đại châu Á
(trong đó có Việt Nam), sự kết hợp giữa múa đương đại với các loại hình
nghệ thuật khác...
Thứ hai, hướng nghiên cứu về yếu tố văn hóa trong múa đương đại.
Điều này được thể hiện qua công trình Choreographing Difference: Body and
Identity in Contemporary Dance (1997, Sự khác biệt trong biên đạo: Cơ thể
và bản sắc trong múa đương đại) của học giả, diễn viên múa Ann Cooper
Alpright [54]. Trong 6 chương của công trình, tác giả đã trình bày múa như
đại diện của “khoảnh khắc đôi”, trong đó, cơ thể thể hiện và được thể hiện bởi
nền tảng văn hóa của giới tính, chủng tộc, khả năng, tình dục và tuổi tác. Hay
nói cách khác, cơ thể vận động tự nhiên như bản thân nó và cơ thể vận động
dựa trên nền tảng văn hóa. Tác giả cũng đã so sánh biểu diễn múa giữa cơ thể
của người bình thường và cơ thể của người khuyết tật phải ngồi trên xe lăn,
thảo luận về những dự án múa bắt nguồn từ múa ngẫu hứng mà là thách thức
đối với những tài năng khuyết tật.


7

Thứ ba, hướng nghiên cứu về các nghệ sĩ múa đương đại ở một số nước
trên thế giới như Đức, Nhật Bản...Điều này được thể hiện qua các công trình
nghiên cứu như: Pina Bausch (2009) của tác giả Royd Climenhaga [60],
Hijikata Tatsumi and Butoh: Dancing in a Pool of Gray Grits (2012, Hijikata

Tatsumi và Butoh: Múa trong hồ bột kiều mạch màu xám) của Bruce Baird
[57], Hijikata: Revolt of the Body (2010, Hijikata: Cuộc nổi dậy của cơ thể)
của Stephen Barber [58]…
Nói đến múa đương đại Đức, công trình Pina Bausch của tác giả Royd
Climenhaga [60] đã nghiên cứu đến nữ nghệ sĩ múa đương đại nổi tiếng thế
giới Pina Bausch, người được công nhận là một trong những biên đạo múa
đương đại quan trọng nhất cuối thế kỷ XX. Tác giả Royd Climenhaga đã chỉ
ra sự kết hợp giữa bối cảnh lịch sử và nghệ thuật trong công việc của Pina
Bausch, những quan điểm của bà về chính công việc của mình và bài tập thực
hành có nguồn gốc từ phương pháp làm việc của Pina Bausch cho cả các nghệ
sĩ múa, các nghệ sĩ sân khấu và sinh viên. Pina Bausch được biết đến vì đã
phát triển phương pháp sáng tác của riêng mình. Bà tìm kiếm các chất liệu sáng
tác bằng cách sử dụng, đặt câu hỏi chiến lược đối với các diễn viên múa, trong
đó khơi dậy những kỷ niệm của họ từ thời thơ ấu hay những câu chuyện về
chôn cất. Bằng cách này, bà đã kích thích diễn viên múa có những cảm xúc,
biểu hiện sâu sắc từ đáy lòng họ.
Về múa đương đại Nhật Bản, hai tác giả Bruce Baird và Stephen Barber
đều tập trung nghiên cứu về nghệ sĩ múa đương đại Tatsumi Hijikata (19281986) được coi là người đã sáng lập ra thể loại múa Butoh (thể loại múa tập
trung vào cái chết, sự khêu gợi, quan hệ tình dục và những rung động trong
quá khứ; được đề cập đến trong hầu hết các bản ghi lịch sử múa đương đại)
vào năm 1959. Tuy nhiên, nếu như trong công trình Hijikata Tatsumi and
Butoh: Dancing in a Pool of Gray Grits của Bruce Baird [57] đã đi sâu
nghiên cứu vai trò của nghệ sĩ Tatsumi Hijikata thông qua các hoạt động của


8

“Butoh” như là một phát triển phản ứng của cơ thể cho xã hội Nhật Bản vào
những năm 1960 và 1980 - một xã hội được đặc trưng bởi xung đột và phát
triển hạt nhân thông tin; thì công trình Hijikata: Revolt of the Body của

Stephen Barber [58] lại nói về cuộc sống, công việc của Tatsumi Hijikata,
người đã cách mạng, phát minh ra nghệ thuật múa được gọi là Ankoku Butoh
hay được biết đến là "Vũ điệu bóng tối”. Ngoài ra, công trình còn tập trung
vào sự quan tâm của Hijikata với nghệ thuật châu Âu cũng như phong trào
Siêu thực của Nhật Bản.
Thứ tư, hướng nghiên cứu về các biên đạo múa đương đại ở một số
nước trên thế giới. Điều này được thể hiện rõ qua công trình Fifty
contemporary choreographers (Năm mươi biên đạo múa đương đại) của
Martha Bremser xuất bản lần đầu vào năm 1999 và được tái bản vào các năm
2000, 2004, 2005 [59]. Công trình giới thiệu phong cách múa đương đại của
50 biên đạo múa có tiếng trên thế giới và ảnh hưởng của họ từ múa hiện đại
trong cuối những năm 1940 cho đến khi công trình lần đầu tiên được xuất bản.
Mỗi một biên đạo múa đương đại trong công trình đều được tác giả trình bày
tiểu sử, liệt kê những tác phẩm, tiết mục múa mà họ sáng tác. Công trình như
một cuốn sổ tay về các biên đạo múa đương đại. Nó đã giới thiệu đến người đọc
những phong cách múa đương đại khác nhau của các nghệ sĩ. Tuy nhiên, 50
nghệ sĩ múa đương đại mà tác giả nêu ra trong công trình bao gồm cả nghệ sĩ
múa hiện đại, hậu hiện đại và nghệ sĩ múa đương đại...
1.3.2. Nghiên cứu về múa đương đại Việt Nam
Các nghiên cứu về múa đương đại ở Việt Nam hiện nay còn rất hạn chế
và được chia thành hai dạng: nghiên cứu của học giả nước ngoài về múa
đương đại Việt Nam và nghiên cứu của các học giả, các nhà hoạt động múa
Việt Nam về múa đương đại Việt Nam.
Ở dạng thứ nhất, nghiên cứu của học giả nước ngoài về múa đương đại
Việt Nam, được thể hiện qua Luận án tiến sĩ Making intercultural dance in


9

Vietnam (1999, Múa Việt Nam trong giao lưu văn hóa) của Cheryl Frances

Stock [69]. Luận án nghiên cứu nghệ thuật múa Việt Nam từ truyền thống đến
hiện đại, sự khác biệt trong quan điểm nghệ thuật giữa các nghệ sĩ Việt Nam
và Úc, quá trình sáng tạo, các buổi biểu diễn qua con đường giao lưu văn hóa
thông qua các dự án thực hiện với Nhà hát nhạc vũ kịch Việt Nam và các đơn
vị nghệ thuật tại Hà Nội, nghiên cứu sự thay đổi trong biểu diễn múa chuyên
nghiệp, đổi mới và sự khủng hoảng trong múa ở Việt Nam qua nghiên cứu các
tiết mục múa cụ thể: Em, người phụ nữ Việt Nam và Qua mắt phượng hoàng.
Luận án Making intercultural dance in Vietnam đã cho độc giả nhiều thông
tin về nghệ thuật múa nói chung và múa đương đại ở Việt Nam nói riêng
trong giai đoạn đầu đổi mới. Luận án đã mượn sự thay đổi trong nghệ thuật
múa để nói đến sự biến đổi trong văn hóa ở Việt Nam.
Ở dạng thứ hai, nghiên cứu của các học giả, các nhà hoạt động múa
Việt Nam về múa đương đại Việt Nam, được thể hiện ở 6 hướng tiếp cận sau:
Hướng thứ nhất, bàn luận về khái niệm múa đương đại và múa hiện đại
là gì. Từ khi du nhập vào Việt Nam cho tới nay, đa số các nhà nghiên cứu,
các nghệ sĩ Việt Nam mới tìm hiểu múa đương đại thông qua bản thân từ
đương đại, tức là những gì đang diễn ra, đang tồn tại, sau đó ghép danh từ
múa vào nó và trở thành múa đương đại. Vì vậy, múa đương đại, theo họ, là
những tác phẩm múa được ra đời trong thời gian của hiện tại, cho dù đó là tác
phẩm múa dân gian dân tộc, múa ballet hay múa hiện đại, múa đương đại.
Điều này có thể thấy rõ qua Luận văn thạc sĩ Múa hiện đại Việt Nam và
phương pháp phát triển (2007) của Trần Văn Hải (chuyên ngành sân khấu)
[13] khi nói về múa hiện đại và múa đương đại.
Trong hai hội thảo khoa học về múa đương đại do Hội Nghệ sĩ múa
Việt Nam tổ chức vào tháng 12 năm 2012 tại thành phố Hồ Chí Minh và thủ
đô Hà Nội, các nhà hoạt động múa đã đưa ra định nghĩa về múa đương đại và
múa hiện đại. Bài viết Luận bàn về thuật ngữ Múa hiện đại và đương đại của


10


GS.TS.NSND Lê Ngọc Canh, ông cho rằng: “Múa đương đại là những điệu
múa, là sản phẩm văn hóa đang diễn ra trong thời điểm hiện tại, gắn với thời
gian. Nó hàm chứa hơi thở, tâm hồn, cốt cách, tâm sinh lý thẩm mỹ của con
người đang sống trong thời hiện đại” [19, tr.31]. Phần cuối của bài viết, tác giả
đúc kết: “... Múa hiện đại và đương đại là khác nhau, nhưng múa hiện đại
được nảy sinh trong các thời điểm, thời gian khác nhau, mang tính thời đại.
Múa hiện đại nảy sinh trong thời kỳ này là thuộc đương đại, thì gọi là múa
đương đại” [19, tr31-32].
Hướng thứ hai, nghiên cứu về đặc điểm của múa đương đại, thể hiện
qua các bài viết của Nguyễn Thị Hiền Trang và Phạm Anh Phương. Nếu như
tác giả Nguyễn Thị Hiền Trang cho rằng múa hiện đại là “hiện đại phải ở trong
nội tại của tư duy”, “hiện đại trong bản thân cảm xúc”, “ý tưởng là vô cùng,
không giới hạn” [19, tr.98-101] và lẫn lộn đặc điểm của múa hiện đại với múa
đương đại; thì TS.NSND Phạm Anh Phương lại nghiên cứu một trong những
đặc trưng của múa đương đại, đó là múa trong “khoảng lặng”, lý giải hiện
tượng “khoảng lặng” trong múa đương đại, đúc kết về những đặc trưng riêng
biệt thậm chí là trái ngược với quy luật thông thường của “khoảng lặng” trong
múa đương đại, những ấn tượng mà nó tạo nên cùng với lối bố cục tác phẩm
và cách xử lý ngôn ngữ múa cũng như tính ngẫu hứng trong một không gian
mới của tác phẩm múa đương đại - không gian “khoảng lặng” [19, tr.16-20].
Hướng thứ ba, nghiên cứu về thực trạng đào tạo múa nói chung và múa
đương đại nói riêng, được thể hiện qua công trình, bài viết của các tác giả Vũ
Dương Dũng, Phạm Minh Phương, Phan Thanh Hoàn, Trịnh Quốc Minh, Cao
Đức Toàn, Nguyễn Anh Đức… Các công trình, bài viết này đã tập trung vào
công tác đào tạo nghệ thuật biểu diễn múa trong đời sống hiện nay, trong đó
giới thiệu về sự xuất hiện của múa đương đại và thực trạng đào tạo múa
đương đại ở Việt Nam vào thời điểm tác giả nghiên cứu [8]; về những đóng
góp tích cực của múa hiện đại trong chương trình đào tạo diễn viên múa



11

chuyên nghiệp với sự khẳng định múa hiện đại bộc lộ những nét ưu việt rõ rệt
trong tư duy, trong luật động và ngôn ngữ, mặc dù chưa có giáo trình đầy đủ,
phương pháp thiếu thống nhất, tự phát và tùy hứng... [20, tr.20-23]; tính ưu
việt và sự cần thiết phải chuẩn hóa hệ thống múa hiện đại trong đào tạo của
các trường nghệ thuật hiện nay, đồng thời cho rằng vai trò đào tạo người thầy
và chuẩn hóa múa hiện đại là quyết định [20, tr.84-86]; tập trung so sánh hệ
thống bài tập huấn luyện, kỹ thuật, tạo hình, kết cấu bài tập và biểu hiện tình
cảm giữa múa cổ điển châu Âu và múa đương đại [20, tr.52-55]; các bài học
cơ bản trong múa đương đại từ thứ tự, chi tiết các phần học cơ bản và tính
năng của các phần đó trong múa đương đại dựa trên những ngày học tập ở
nước ngoài và qua một số tham khảo về các bài học múa đương đại trên thế
giới của tác giả [20, tr.56-60]; về sự cần thiết cách tân xây dựng tác phẩm
múa trong hoàn cảnh toàn cầu hóa và phát triển đời sống xã hội thể hiện từ ý
tưởng, ngôn ngữ, phương pháp huấn luyện trong đào tạo và kiến thức của
người thẩm định, đánh giá [19, tr.84-89]…
Hướng thứ tư, nghiên cứu về những gương mặt nghệ sĩ tiêu biểu của
nghệ thuật đương đại nói chung và nghệ thuật múa đương đại nói riêng, được
thể hiện qua công trình Nghệ thuật đương đại Việt Nam 1990-2010 (2013) của
hai tác giả Bùi Như Hương và Phạm Trung. Công trình đã giới thiệu hai nghệ
sĩ, biên đạo múa đương đại là Lê Vũ Long và Đào Anh Khánh; dựa vào một
số tính chất của múa đương đại như chuyển động ngẫu hứng hay sự kết hợp
với các loại hình nghệ thuật khác để cho rằng nghệ sĩ Đào Anh Khánh là nghệ
sĩ múa đương đại...
Hướng thứ năm, nghiên cứu về vấn đề tiếp thu và chuyển hóa các loại
ngôn ngữ nghệ thuật múa hiện đại trong sáng tạo tác phẩm múa, thể hiện qua
bài viết của TS lịch sử, biên đạo múa Nguyễn Thành Đức [19, tr.44-50]. Tác
giả đã nhận định múa dân gian tộc người của Việt Nam còn yếu, thiếu nhiều



12

yếu tố thẩm mỹ của thủ pháp cách điệu hóa và khi tiếp thu ngôn ngữ múa hiện
đại thì các nghệ sỹ múa của chúng ta đã khắc phục được những nhược điểm
của múa dân gian dân tộc; đồng thời cho rằng các loại hình nghệ thuật múa
hiện đại thế giới không phản ánh cuộc sống như cách sáng tạo theo phương
pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa, và theo thói quen xem tác phẩm phải có
“tích trò”, hay thích được dẫn giải dài dòng theo bố cục kể chuyện và tính
nghệ thuật của quá trình hiện đại hóa nghệ thuật múa chính là sự miêu tả cái
cụ thể, cái riêng độc đáo của nhân vật và sự kiện, rồi đặt nó vào trong hoàn
cảnh điển hình của tác phẩm nghệ thuật múa. Thông qua đó, tác giả nhấn
mạnh về sự cần thiết tiếp thu, chuyển hóa, hiện đại hóa ngôn ngữ múa hiện
đại trong tiết mục múa của Việt Nam để biến đổi ra những giá trị mới, phát
triển theo xu hướng dân tộc hiện đại và mang dấu ấn, tâm hồn Việt.
Hướng thứ sáu, phân tích, đánh giá tác phẩm múa đương đại “Hạn
hán và cơn mưa”, thể hiện qua bài viết của các tác giả Trần Phú. Bài viết đã
cho rằng những người biểu diễn trong Hạn hán và cơn không phải là diễn
viên múa, và diễn viên múa cần phải qua trường lớp đào tạo chuyên nghiệp;
khẳng định Hạn hán và cơn mưa không có giá trị, không có chiều sâu, không
có tính triết lý, “chỉ là một hoạt cảnh sân khấu với nhiều dáng vẻ, điệu bộ tự
nhiên của con người, được sắp xếp qua một vài đội hình đơn giản có âm nhạc
minh họa kèm theo”… [35].
Từ tổng quan tình hình nghiên cứu nói trên, có thể thấy một số vấn đề sau:
- Múa đương đại đã xuất hiện từ lâu trên thế giới và đã có những công
trình nghiên cứu có giá trị nhất định.
- Múa đương đại đã xuất hiện và phát triển ở Việt Nam. Tuy nhiên, việc
nghiên cứu còn hạn chế, chưa có sự chuyên sâu, hệ thống, đầy đủ về múa
đương đại trong giới nghiên cứu cũng như trong giới hoạt động múa Việt

Nam và thậm chí còn nhầm lẫn giữa múa đương đại với múa hiện đại.


13

Từ thực tiễn trên, tác giả luận án đã chọn đề tài Múa đương đại Việt
Nam để phần nào làm rõ, hệ thống hóa và bổ sung những vấn đề lý luận về
múa đương đại để thống nhất quan điểm nhận thức về múa đương đại trong
ngành múa Việt Nam.
Trên cơ sở đó, NCS đặt ra những câu hỏi để thực hiện nghiên cứu đề
tài. Đó là:
- Múa đương đại là gì (định nghĩa, lịch sử và đặc điểm)?
- Múa đương đại được du nhập và phát triển ở Việt Nam như thế nào?
- Múa đương đại có tác động (tích cực/tiêu cực) gì đối với sự phát
triển của nền nghệ thuật múa Việt Nam hiện đại?
- Cần làm gì để phát huy những giá trị tích cực của múa đương đại
nhằm đóng góp vào sự phát triển của nền múa Việt Nam hiện nay trong bối
cảnh hội nhập quốc tế?
NCS đặt ra giả thuyết khoa học: Tác phẩm nào có tư duy mới và áp
dụng đúng các yếu tố của múa đương đại (tư duy mới và yếu tố múa đương
đại ở đây thể hiện ở chiều sâu triết lý của tác phẩm, đòi hỏi người xem phải
suy ngẫm, cảm thụ nghệ thuật theo cách mới) thì tác phẩm đó mới có chiều
sâu, nâng tầm cao của nghệ thuật. Ngược lại, nếu thiếu hụt kiến thức về múa
đương đại, thì tác phẩm sẽ bị tụt hậu, đi theo lối mòn của tư duy bảo thủ, trì
trệ, ngược với nhịp sống và tư duy của con người hôm nay, tác phẩm đó sẽ
trở nên khiên cưỡng, chắp vá... Các tác phẩm múa đã được bản địa hóa ra
sao? Tiếp biến như thế nào? Đó là những vấn đề mà NCS sẽ chứng minh
trong luận án.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận án là hệ thống hóa những vấn đề lý luận
về múa đương đại nhằm giải quyết những bất cập trong lý luận và thực tiễn
của ngành múa Việt Nam về múa đương đại.


14

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Đưa ra định nghĩa về múa đương đại và khái quát sự hình thành, phát
triển của múa đương đại trên thế giới.
- Phân tích những đặc trưng cơ bản của múa đương đại trong sự so sánh
với múa hiện đại.
- Trình bày khái quát sự du nhập của múa đương đại vào Việt Nam
cũng như sự hình thành và phát triển múa đương đại Việt Nam.
- Phân tích đặc điểm của múa đương đại Việt Nam trong sự so sánh với
múa đương đại thế giới (đâu là điểm chung, đâu là điểm riêng – Việt hóa).
- Phân tích, đánh giá những tác động tích cực và tiêu cực của múa
đương đại đối với sự phát triển của nền múa Việt Nam hiện đại.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm phát huy những giá trị tích cực, hạn
chế những giá trị tiêu cực của múa đương đại vào sự phát triển của nền múa
Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Múa đương đại Việt Nam dưới góc độ lý luận và thực tiễn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Múa đương đại hiện diện ở nhiều nước trên thế giới, nhưng luận án
này chỉ đi vào múa đương đại Việt Nam, do các nghệ sĩ Việt Nam sáng tác và
biểu diễn.
- Về mặt thời gian, luận án tập trung vào múa đương đại Việt Nam từ
năm 1988 khi múa đương đại bắt đầu du nhập vào Việt Nam cho đến năm

2014 khi các tiết mục múa đương đại của thời đương đại khai thác một số đặc
trưng của múa đương đại thế giới thoái trào.
- Luận án nghiên cứu múa đương đại Việt Nam trong lĩnh vực biên
đạo và đào tạo múa chuyên nghiệp ở hai địa bàn là Hà Nội và thành phố Hồ
Chí Minh nơi múa đương đại được tiếp thu và tập trung phát triển chủ yếu.


15

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Trên cơ sở quan điểm và phương pháp luận duy vật biện chứng, chủ
nghĩa duy vật lịch sử, tác giả luận án xem xét, đánh giá các vấn đề trong phạm
vi nghiên cứu của luận án.
Quán triệt quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực
văn hóa, nghệ thuật, xem xét đối tượng nghiên cứu là múa đương đại Việt
Nam, tác giả đặt đối tượng nghiên cứu trong tổng thể các mối quan hệ văn
hóa, nghệ thuật học... với tư tưởng chính trị và đạo đức của thời đại, hệ thống
các khái niệm khoa học ở từng giai đoạn để giải quyết vấn đề khoa học của
luận án.
5.2. Phương pháp tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
NCS tiếp cận luận án từ góc độ văn hóa học, nghệ thuật học và xã hội học.
NCS lựa chọn những phương pháp phù hợp với đề tài như phương pháp
thu thập và xử lý thông tin; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp
phân tích tổng hợp; phương pháp khảo tả; phương pháp liên ngành; phương
pháp đồng đại và lịch đại; phương pháp phỏng vấn sâu.
5.2.1. Phương pháp thu thập và xử lý thông tin
Múa đương đại Việt Nam là một đề tài mới. Mặc dù đã du nhập vào
Việt Nam gần 30 năm, nhưng tài liệu, dữ liệu về nó rất hạn hẹp. Đó là những
nghiên cứu, bài viết về thực trạng múa đương đại Việt Nam và những thông

tin về các buổi biểu diễn. Vì thế, NCS gặp không ít khó khăn trong việc thu
thập dữ liệu. Tuy nhiên, với sự nỗ lực của bản thân trong việc thu thập, xử lý
thông tin từ các cuốn sách, tạp chí, các đề tài, công trình đã được công bố (có
liên quan đến luận án), từ phương tiện thông tin, truyền thông và tham gia
trực tiếp vào các hội thảo, các buổi tọa đàm của chuyên gia trong nước, ngoài
nước, những cuộc phỏng vấn sâu và nghiên cứu điền dã đã cho NCS những
chọn lựa, đánh giá, kết luận về đề tài nghiên cứu.


16

5.2.2. Phương pháp so sánh, đối chiếu
Việc sử dụng phương pháp so sánh, đối chiếu sẽ làm rõ hơn những vấn
đề về lý luận, thực tiễn trên sân khấu múa chuyên nghiệp và diện mạo múa
đương đại Việt Nam. Từ đó, có cơ sở để đánh giá, đề xuất cho sự phát triển
múa đương đại Việt Nam.
5.2.3. Phương pháp phân tích tổng hợp
Với phương pháp này, NCS đã nghiên cứu các tài liệu, lý luận khác
nhau. Từ đó, phân tích, tổng hợp các khái niệm về múa hiện đại, múa đương
đại, đánh giá những giai đoạn tiếp biến, phát triển của múa đương đại Việt
Nam, đưa ra định nghĩa múa đương đại ở Việt Nam cũng như đặc điểm và
định hướng phong cách sáng tác múa đương đại Việt Nam.
5.2.4. Phương pháp khảo tả
Phương pháp khảo tả giúp NCS tiếp cận tiết mục, vở múa đương đại
Việt Nam trên diện mạo của nó, trong đó, tập trung vào một số tiết mục mang
tư tưởng, triết lý múa đương đại như Một ngày (Trần Ly Ly, 2006), Một tập
thể các cá nhân (Lê Vũ Long, 2014) và một số tiết mục múa đương đại của
thời đương đại hay nói cách khác là tiết mục múa, vở múa khai thác những
đặc trưng của múa đương đại.
Qua quá trình tiếp cận, tìm hiểu, khảo sát, mô tả, phân tích múa đương

đại Việt Nam, NCS sẽ nhận diện rõ hơn về múa đương đại nói chung và múa
đương đại Việt Nam nói riêng; đánh giá được quá trình xây dựng tiết mục
múa, vở múa cũng như sự chi phối của múa đương đại ở nhiều công đoạn như
biên đạo, các thành phần sáng tạo làm nên tác phẩm múa (âm nhạc, mỹ
thuật...) và biểu diễn. Từ đó, đề xuất những giải pháp cho thực tiễn biên đạo
múa đương đại Việt Nam góp phần vào sự phát triển chung của ngành múa
nước nhà.
5.2.5. Phương pháp liên ngành
Sử dụng phương pháp liên ngành giúp NCS có cái nhìn tổng quát về
một hiện tượng văn hóa, nghệ thuật ngoại sinh được du nhập vào Việt Nam từ


17

nhiều góc độ khác nhau như chính trị, văn hóa, nghệ thuật... Từ bối cảnh xã
hội khi múa đương đại xuất hiện tại Việt Nam đến sự hình thành và phát triển
của nó thông qua sự biến đổi các giá trị của từng giai đoạn. NCS đi sâu vào
những hiện tượng nổi trội, tìm những quy luật của mỗi giai đoạn... Từ đó, có
những nhận định của bản thân cho luận án. Ngoài ra, là sự tương tác của các
loại hình nghệ thuật khác với nghệ thuật múa bởi sự tích hợp của các ngành,
các loại hình nghệ thuật đó sẽ làm nên cái nhìn sâu sắc hơn cho múa đương
đại Việt Nam. Phương pháp này rất phù hợp và cần thiết trong trường hợp
nghiên cứu của luận án.
5.2.6. Phương pháp đồng đại và lịch đại
Việc nghiên cứu múa đương đại Việt Nam trong một quá trình từ khi
xuất hiện đến sự hình thành và phát triển đòi hỏi NCS những thao tác để có
thể phân tích những lát cắt của mỗi giai đoạn. Từ sự xuất hiện đến sự biến
đổi, trong đó bao gồm tư duy của các nghệ sĩ múa, các thủ pháp xử lý sân
khấu, sự kết hợp với các dòng múa khác và các loại hình nghệ thuật khác
trong quá trình xây dựng tiết mục múa, vở múa.

Phương pháp đồng đại và lịch đại cho phép NCS chỉ ra mối quan hệ
biện chứng giữa các thành tố của xã hội trong những lát cắt cụ thể và sự tiếp
biến, biến đổi của yếu tố ngoại sinh cũng như mối quan hệ giữa yếu tố ngoại
sinh và nội sinh để hình thành múa đương đại Việt Nam trên diện mạo của nó.
5.2.7. Phương pháp phỏng vấn sâu và tham vấn ý kiến của chuyên gia
Trong việc tham vấn ý kiến của chuyên gia, NCS đã có nhiều cuộc trao
đổi, luận bàn với các chuyên gia khác nhau, cả trong nước và quốc tế. Ví dụ:
+ Ngày 20 tháng 7 năm 2013, NCS đã có buổi trao đổi với biên đạo
múa đương đại người Pháp, Regine Chopinot qua mạng xã hội về múa
đương đại và về quãng thời gian bà làm việc ở Việt Nam. Qua đó, bà cho
biết quan điểm của bà về múa đương đại và múa đương đại ở Việt Nam.


18

Điều này, đã cho NCS thêm những cơ sở để phân biệt giữa múa hiện đại và
múa đương đại.
+ Ngày 14 tháng 11 năm 2013 sau buổi workshop với học sinh, sinh
viên trường Cao đẳng Múa Việt Nam, diễn viên-biên đạo múa đương đại
người Nhật Bản, Moriyama Kaiji đã có cuộc trao đổi với NCS về múa Butoh,
múa đương đại Nhật Bản và phong cách múa đương đại của riêng anh. Cuộc
trao đổi đã cung cấp cho NCS thêm thông tin về múa Butoh làm cơ sở cho
luận án.
+ Ngày 08/6/2014, trong buổi đến thăm hai vợ chồng nghệ sĩ, biên đạo
múa đương đại Lê Vũ Long và Lưu Thu Lan, chúng tôi đã có những sự tranh
luận, chia sẻ về múa đương đại, về sự phát triển của nghệ thuật múa nói chung
và múa đương đại nói riêng trong công cuộc hiện đại hóa đất nước. Bên cạnh
đó, chúng tôi bàn về tư duy trong biên đạo cũng như tư duy bảo thủ của các
nghệ sĩ múa, về tính dân tộc, yếu tố triết lý, sử dụng ngôn ngữ múa trong các
tiết mục múa ở Việt Nam.... Qua đó, cho thấy tầm quan trọng của yếu tố triết

lý trong múa đương đại cũng như yếu tố con người làm nên bản sắc văn hóa.
Ngoài ra, là sự tham vấn của một số chuyên gia múa nước ngoài và
trong nước khác như Ross McKim, Takato Suzuki, Phạm Minh, Nguyễn
Công Nhạc, Ứng Duy Thịnh....
6. Đóng góp của luận án
6.1. Đóng góp về mặt lý luận
- Luận án đưa ra định nghĩa bước đầu về múa đương đại là gì để phần
nào giúp các nhà hoạt động nghệ thuật múa có được sự phân biệt cơ bản, đúng
đắn về múa đương đại, tránh nhầm lẫn với múa hiện đại.
- Hệ thống quá trình hình thành, phát triển của múa đương đại thế giới
để có được cái nhìn toàn diện về múa đương đại, đồng thời thấy được vai trò,
vị trí của nó trong lịch sử múa thế giới.


19

- Phân tích, hệ thống quá trình hình thành, phát triển múa đương đại
Việt Nam để thấy được cái chung lẫn nét đặc thù, riêng biệt của múa đương
đại trong môi trường văn hóa-sáng tạo Việt Nam.
- Qua việc tìm ra những đặc điểm của múa đương đại Việt Nam, có thể
thấy được những giá trị nổi bật tác động (tích cực/tiêu cực) đến sự phát triển
của nền nghệ thuật múa Việt Nam hiện đại để từ đó làm căn cứ tìm ra những
giải pháp phát triển nghệ thuật múa Việt Nam hiện nay.
- Luận án sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích cho các nhà hoạt động múa
khi muốn nghiên cứu, tìm hiểu về nghệ thuật múa đương đại nói chung và
nghệ thuật múa đương đại Việt Nam nói riêng.
6.2. Đóng góp về mặt thực tiễn
- Luận án giúp các nhà hoạt động múa có được những nhận thức một
cách đúng đắn, hệ thống về múa đương đại để bổ trợ cho công việc biên đạo,
giảng dạy, biểu diễn... sáng tạo nên những tiết mục múa, tác phẩm múa mới

có chất lượng.
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu (16 trang), kết luận (2 trang), tài liệu tham khảo (9
trang) và phụ lục (20 trang), luận án gồm các chương sau:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết và những vấn đề lý luận về múa đương
đại (29 trang).
Chương 2: Quá trình tiếp nhận, phát triển và thực trạng múa đương đại
Việt Nam (43 trang).
Chương 3: Bàn luận về múa đương đại Việt Nam (25 trang).


20

Chương 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MÚA ĐƯƠNG ĐẠI
1.1. Cơ sở lý thuyết
Luận án tập trung nghiên cứu về múa đương đại Việt Nam, nghiên
cứu dưới góc độ đánh giá về một hiện tượng văn hóa nghệ thuật được du
nhập từ phương Tây có tác động tới sân khấu múa trong thời kỳ công nghiệp
hóa - hiện đại hóa đất nước, nên NCS đã chọn một số luận điểm, một số
thuyết làm cơ sở lý luận cho nghiên cứu.
1.1.1. Thuyết hậu hiện đại
Nghệ thuật đương đại nói chung và múa đương đại nói riêng được xuất
hiện trong giai đoạn của chủ nghĩa hậu hiện đại, vì thế, NCS áp dụng thuyết hậu
hiện đại từ các công trình, bài viết của các tác giả Jean-Francois Lyotard, Charles
Jencks, Nguyễn Minh Quân... làm cơ sở lý luận cho nghiên cứu.
Trong các bài viết về chủ nghĩa hiện đại bằng tiếng Anh,
Chữ modernity (thời kỳ hiện đại) hay chữ postmodernity (thời kỳ
hậu hiện đại) vừa bao hàm ý nghĩa thời gian vừa ngầm chứa ý

nghĩa của tính chất. Tiếng Việt của chúng ta, rất khó có một từ
ngữ tương đương, chứa đựng hai đặc điểm diễn tả cả ý niệm thời
gian lẫn tính chất: thời kỳ hiện đại và tính chất hiện đại, hay, thời
kỳ hậu hiện đại và tính chất hậu hiện đại, để chuyển dịch trọn vẹn
cho hai từ ngữ trên [80].
Về phương diện lịch sử, thời kỳ hiện đại kéo dài gần một nửa thiên niên
kỷ, bắt đầu từ khi thời đại Trung cổ chấm dứt cho đến những năm đầu của
thập niên 1950. Theo các nhà khoa học thời kỳ hiện đại gắn liền với giai đoạn
Ánh Sáng tại châu Âu. Còn chủ nghĩa hiện đại (modernism) xuất hiện vào
giai đoạn sau cùng của thời kỳ hiện đại và chỉ kéo dài 50 hoặc 60 năm, nó bắt


21

đầu từ cuối thế kỷ thứ XIX đến những năm 60 thế kỷ XX. “Thời kỳ hiện đại
mang những tính chất liên hệ đến một hệ tư tưởng về triết lý, đạo đức, chính
trị và xã hội, làm nền tảng căn bản cho các khuynh hướng mỹ học của chủ
nghĩa hiện đại phát triển” [80].
Sau chiến tranh Thế giới lần thứ II, năm 1945 cho đến những năm 1960
là thời kỳ hậu hiện đại, là giai đoạn truyền thống của cái mới đang dẫn đến sự
kết hợp của nhiều truyền thống.
Chữ Postmodernity chỉ khoảng thời gian theo sau thời kỳ hiện đại
(modernity) và có thể kéo dài như thời kỳ hiện đại mà thời đại chúng ta sống
hiện nay là phần đầu của nó. Nhưng khác với chủ nghĩa hiện đại, chủ nghĩa
hậu hiện đại gần như xuất hiện cùng một lúc với thời kỳ hậu hiện đại…
Chủ nghĩa hiện đại là phong trào nghệ thuật và tri thức, có ảnh hưởng
rất lớn của thế kỷ XX. Về cơ bản, chủ nghĩa hiện đại là sự cách tân, phát
triển, không dựa theo cơ sở của những giá trị nghệ thuật trước đó và đưa ra
những quan điểm, phương pháp sáng tác mới.
Thuật ngữ “chủ nghĩa hiện đại” trong văn học nghệ thuật đồng

nghĩa với thuật ngữ “nghệ thuật hiện đại”. Nó không được dùng để
chỉ một chủ nghĩa duy nhất, một trào lưu duy nhất hay một trường
phái duy nhất, mà nó được dùng để chỉ cả một phong trào bao gồm
nhiều trào lưu, trường phái, cả một giai đoạn với nhiều chủ nghĩa
khác nhau, được gọi là các chủ nghĩa hiện đại [76].
Đó là các trào lưu văn học nghệ thuật như: chủ nghĩa biểu hiện, chủ
nghĩa Đađa, chủ nghĩa siêu thực, chủ nghĩa lập thể, chủ nghĩa vị lai, chủ nghĩa
trừu tượng....
Chủ nghĩa hiện đại phê phán chủ nghĩa hiện thực. Theo những nghệ sĩ
chủ nghĩa hiện đại, chủ nghĩa hiện thực chỉ là sự mô phỏng, bị lệ thuộc
vào thực tại. Với họ, nghệ thuật phải mổ xẻ cuộc sống và bay ra khỏi


22

cuộc sống. Tiếp theo chủ nghĩa hiện đại là xu hướng hậu hiện đại, xuất
hiện khoảng 1960 tại châu Âu và Mỹ [83].
Còn “chủ nghĩa hậu hiện đại trên căn bản là một thứ hỗn hợp mang tính
chiết trung của bất cứ truyền thống nào với những gì vừa mới qua: nó vừa là
sự kế tục vừa là sự siêu việt hoá của chủ nghĩa hiện đại”[74]. Hay như quan
điểm của Lyotard, thời kỳ hậu hiện đại bắt đầu từ cuối thập niên 50 ở châu
Âu, “thời kỳ mà tri thức bắt đầu thay đổi hệ thống” và “chủ nghĩa hậu hiện
đại như là đỉnh cao của chủ nghĩa hiện đại”. Chủ nghĩa hậu hiện đại đã ảnh
hưởng tới tư tưởng sáng tạo của rất nhiều nghệ sỹ đương đại, trong đó, không
ngoại trừ các nghệ sỹ múa.
Thuyết của Lyotard còn phát huy tính chất đa dạng của các thuật ngôn
ngữ trong các “văn bản nhỏ” hay “vi văn bản” hay có thể nói, hậu hiện đại là
sự đa dạng của những “diễn ngôn” và những “trò chơi ngôn ngữ”. Qua đó,
ông đã đưa ra quan niệm về hậu hiện đại:
+ “Hậu hiện đại là thân phận của tri thức trong những xã hội phát triển

nhất” [66, tr.xxiii].
+ “Hậu hiện đại là sự hoài nghi đối với siêu tự sự” [66, tr.xxiv].
+ Hậu hiện đại bắt đầu từ cuối thập niên 50 thế kỷ XX [66, tr.1].
Lyotard còn cho rằng mỗi một người trong xã hội là một “nguyên tử”,
họ tiếp nhận và trả lời những thông điệp ngôn ngữ từ khắp nơi gửi về. Từ đó,
họ tạo ra những “phát biểu mới”, bất ngờ. Nếu xã hội phát huy được tính chất
đa dạng của vi ngôn ngữ thì đó là xã hội của hậu hiện đại.
Liên hệ với đề tài, NCS nhận thấy các loại hình nghệ thuật đã thay đổi
cùng với những thay đổi trong xã hội. Các nền văn hoá bước vào thời kỳ gọi
là hậu hiện đại, còn xã hội gọi là hậu kỹ nghệ. Những thế hệ sau có ảnh hưởng
bởi những phát minh, sáng tạo của những thế hệ trước. Song, dựa trên những
ảnh hưởng ấy, thế hệ sau đã bổ sung, thậm chí chống lại những gì mà thế hệ


23

trước đã làm và sáng tạo ra những phong cách riêng phù hợp với bối cảnh, với
đời sống xã hội đương thời.
Theo lịch sử múa đương đại, múa đương đại được phát triển lên từ múa
hiện đại và múa hậu hiện đại. Những năm 1960 là thời điểm của cuộc nổi loạn
trong xã hội, được phản ánh trong nghệ thuật múa và gọi là “múa hậu hiện
đại”. Các nghệ sĩ múa đã chống lại những gì thuộc về truyền thống, bao gồm
cả những hệ thống trong múa hiện đại của giai đoạn đầu.
Theo nhận định của NCS, mỗi nghệ sĩ múa đều có những sáng tạo khác
nhau dựa trên cách tiếp cận, tri thức của mình. Với cùng một chủ đề (thậm chí
một bản nhạc), mỗi biên đạo múa có những cách khai thác không giống nhau
từ kết cấu múa, thủ pháp dàn dựng, sáng tạo trong ngôn ngữ, xử lý đạo cụ,
cách kết hợp với các loại hình nghệ thuật khác hay phương pháp làm việc...
Từ đó, đưa ra những khía cạnh khác biệt, có khi không theo quy luật của một
vấn đề. Đối với diễn viên múa cũng vậy, cùng một tiết mục múa, nhưng mỗi

người lại có những sáng tạo riêng trong biểu hiện để đem đến cho khán giả
thông điệp hay yếu tố triết lý mà biên đạo múa muốn gửi gắm. Các “trò chơi
ngôn ngữ” không có những quy tắc trong bản thân chúng, mà được cấu tạo
nên từ sự thỏa thuận giữa những người tham gia cuộc chơi. “Trò chơi ngôn
ngữ” sẽ đem đến những ý tưởng, chuyển động ngôn ngữ từ biên đạo múa tới
người thể hiện (diễn viên múa) và từ người thể hiện đến người tiếp nhận
(khán giả). “Cái tôi”, đổi mới và tự do ngôn luận là hình ảnh của múa đương
đại. Đó chính là tiếng nói, thuật ngôn ngữ “vi văn bản” của “nguyên tử”, được
các “nguyên tử” tiếp cận qua đời sống xã hội, chính trị, nghệ thuật... với nhiều
cách khác nhau, thái độ khác nhau trong tiết mục múa.
NCS áp dụng thuyết hậu hiện đại để phân tích, so sánh và đưa ra định
nghĩa múa đương đại ở Việt Nam cũng như khái lược về lịch sử múa đương
đại ở chương 1, mục 1.2.2.


×