Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của viện kiểm sát nhân dân ở hải phòng hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (716.76 KB, 79 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐỖ THỊ QUỲNH THU

CHỨC NĂNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT
HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
Ở HẢI PHÒNG HIỆN NAY

Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Nhà nước & Pháp luật
Mã số

: 60380101
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Nguyễn Thị Hồi

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ công trình khoa học nào khác.

Đỗ Thị Quỳnh Thu



LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin chân thành cảm ơn đến PGS.TS Nguyễn Thị Hồi, người đã
dành nhiều thời gian, tâm huyết, tận tâm giúp đỡ thực hiện luận văn này. Đồng
thời, xin gửi lời cảm ơn trân trọng đến các thầy, cô giáo của khoa Sau Đại học, tổ
bộ môn Lý luận và Lịch sử Nhà nước và pháp luật- trường Đại học Luật Hà Nội,
cùng cơ quan, gia đình, bạn bè đã tạo điều kiện, giúp đỡ tác giả trong quá trình
học tập và hoàn thiện luận văn này.
Tác giả luận văn


DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

: Cơ quan điều tra

KSV

: Kiểm sát viên

THAHS


: Thi hành án hình sự

THADS

: Thi hành án dân sự

VAHS

: Vụ án hình sự

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

: Viện kiểm sát nhân dân tối cao

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


1

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU………………………………………………………………………3
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG THỰC HÀNH QUYỀN
CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP CỦA VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN………………………………………………………………………...9

1.1. KHÁI NIỆM CHỨC NĂNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM
SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN…………………………………………………………………………………9
1.1.1. Khái niệm chức năng thực năng thực hành quyền công
tố……………………………………………………………………………………..9
1.1.2.
Khái
niệm
chức
năng
kiểm
sát
hoạt
động

pháp………………………………………………………………………………...11
1.2. NỘI DUNG CHỨC NĂNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM
SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN…………..12
1.2.1.
Nội
dung
chức
năng
thực
hành
quyền
công
tố……………………………………………………………………………………12
1.2.2.
Nội

dung
chức
năng
kiểm
sát
hoạt
động

pháp………………………………………………………………………………...19
1.3. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN VIỆC THỰC HIỆN CHỨC NĂNG
THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN…………………………………………….27
1.3.1. Tình hình kinh tế, chính trị…………………………………………………..27
1.3.2. Tình hình tội phạm………………………………………………………......28
1.3.3. Hệ thống tổ chức bộ máy của Viện kiểm sát nhân dân và đội ngũ cán bộ kiểm
sát………………………………………………………………..............................29
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC
HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP CỦA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN Ở HẢI PHÒNG HIỆN NAY…………………………30


2

2.1. THỰC TRẠNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT HOẠT
ĐỘNG TƯ PHÁP CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN HẢI PHÒNG TỪ NĂM
2002 ĐẾN NAY………………………………………………………………….30
2.1.1. Tình hình một số loại tội phạm…………………………………………….30
2.1.2. Thực trạng thực hành quyền công tố…………………………………........32
2.1.3. Thực trạng kiểm sát hoạt động tư pháp……………………………………38
2.2. NGUYÊN NHÂN CƠ BẢN CỦA NHỮNG HẠN CHẾ, TỒN TẠI TRONG

VIỆC THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ
PHÁP CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN Ở HẢI PHÒNG THỜI GIAN
QUA………………………………………………………………………………48
2.2.1. Nguyên nhân khách quan………………………………………………......48
2,2,2, Nguyên nhân chủ quan…………………………………………………......49
2.3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
Ở HẢI PHÒNG HIỆN NAY…………...................................................................51
2.3.1. Tiếp tục hoàn thiện các quy định pháp luật về vị trí, vai trò của VKSND
trong hệ thống cơ quan nhà nước, về thực hiện chức năng thực hành quyền công tố
và kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân……….......................52
2.3.2. Nâng cao năng lực, tinh thần trách nhiệm đào tạo nghề nghiệp cho đội ngũ
cán bộ, Kiểm sát viên trước yêu cầu cải cách tư pháp…………………................62
2.3.3. Tăng cường phối hợp công tác giải quyết các vụ án hình sự củ liên ngành
tưpháp…………………………………………………………………………….64
2.3.4. Tăng cường công tác hướng dẫn, giải thích và tuyên truyền, giáo dục, phổ
biến pháp luật………………………………………………………………………66
2.3.5. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho cơ quan kiểm sát, chế độ đãi ngộ với
cán bộ, Kiểm sát viên………………………………………………………………67
KẾT LUẬN………………………………………………………………………...69
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………………….70


3

LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước kiểu mới, Nhà
nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nhà nước ta hiện nay được tổ chức và

hoạt động theo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối
hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp (Điều 2 Hiến pháp năm 2013). Viện kiểm sát là một bộ phận cấu
thành nên bộ máy nhà nước, “có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người,
quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp
hành nghiêm chỉnh và thống nhất” (Điều 107 Hiến pháp năm 2013).
Xác định được tầm quan trọng của hệ thống cơ quan này, thời gian qua, cùng
với việc đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta đã chủ trương đổi mới tổ chức và hoạt
động của hệ thống cơ quan tư pháp trong đó có Viện kiểm sát nhân dân (VKSND). Đây
là một chủ trương lớn và đúng đắn của Đảng được thể hiện trong nhiều văn kiện: Chỉ
thị 53-CT/TW ngày 21/3/2000 Về một số công việc cấp bách của các cơ quan tư pháp
cần thực hiện trong năm 2000, Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 Về một số
nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới, Nghị quyết 49-NQ/TW
ngày 02/6/2005 Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Chủ trương này nhằm
mục tiêu "xây dựng một nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh,
bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa…".
Theo quy định tại Điều 103 Hiến pháp năm 2013 thì VKSND có chức năng thực
hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Việc thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND là một dạng thực hiện quyền lực nhà nước


4

trong lĩnh vực tư pháp. Không có cá nhân, cơ quan nhà nước nào có thể thay thế
VKSND trong việc truy tố kẻ phạm tội ra trước Toà, trong việc kiểm sát hoạt động
điều tra, hoạt động xét xử.
Trong những năm qua, VKSND ở Hải Phòng đã có nhiều cố gắng trong việc
thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động của các cơ quan

tư pháp trên địa bàn thành phố và thực hành quyền công tố, góp phần làm cho pháp
luật được tuân thủ nghiêm chỉnh hơn, phát huy vai trò tích cực của mình trong cuộc
đấu tranh phòng ngừa tội phạm, nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước, bảo vệ các quyền
và lợi ích hợp pháp của công dân. Nhờ vậy, hoạt động này đã đạt được một số thành
tựu nhất định. Tuy nhiên cho đến nay, công tác kiểm sát hoạt động tư pháp và thực
hành quyền công tố của VKSND ở Hải Phòng vẫn còn bộc lộ những tồn tại, hạn chế
cần khắc phục. Vì thế, nghiên cứu để làm sáng tỏ về mặt lý luận chức năng thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, đánh giá thực trạng thực hiện các chức
năng này của VKSND ở Hải Phòng thời gian qua nhằm tìm ra các giải pháp có thể
nâng cao hiệu quả thực hiện các chức năng của VKSND ở Hải Phòng trong thời gian
tới nhằm đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp là việc làm cần thiết. Đó là lý do để tôi
chọn đề tài “Chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của
VKSND ở Hải Phòng hiện nay” làm luận văn thạc sỹ Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong các công trình nghiên cứu khoa học pháp lý được công bố thời gian qua,
đã có nhiều công trình nghiên cứu của nhiều tác giả đề cập đến thực hành quyền công
tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Có thể kể đến các công trình như:
- “Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của Viện kiểm sát nhân dân
cấp huyện trong cải cách tư pháp ở nước ta”, Luận văn thạc sỹ luật học, Lương Thúy
Hà (2012). Công trình nghiên cứu làm rõ một số vấn đề lý luận về quyền công tố, thực
hành quyền công tố, hoạt động tư pháp, kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND,


5

mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Nghiên
cứu những quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố, thực trạng áp dụng
những quy định đó trong hoạt động thực hành quyền công tố ở VKSND cấp huyện trên
địa bàn thành phố Hà Nội trong những năm gần đây. Trên cơ sở đó, đánh giá những kết
quả đã đạt được, những vấn đề thiếu sót, tồn tại và làm rõ nguyên nhân của nó. Đề xuất

một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của VKSND cấp
huyện.
- “Chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự, Luận văn
thạc sỹ luật học, Mai Văn Thùy (2011). Luận văn nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn
đề lý luận về chức năng, nhiệm vụ của VKSND trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án
hình sự. Tổng kết, phân tích, đánh giá, nhận xét thực tiễn thực hoạt động thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án
hình sự của VKSND thành phố Hải Phòng từ năm 2004 - 2011. Đề xuất các phương
hướng, xây dựng các giải pháp để khắc phục những hạn chế của VKSND thành phố
Hải Phòng trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình để nâng cao chất
lượng của hoạt động này trong thời gian tới, đồng thời cũng nhằm nâng cao vị thế của
ngành kiểm sát trong hoạt động bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền và tự do của công dân.
- “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra theo quy định của luật tố
tụng hình sự Việt Nam”, Khóa luận tốt nghiệp, Lê Thị Thu Hằng (2008). Khóa luận
nghiên cứu hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra theo quy định
của luật TTHS.
- “Chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong giai đoạn điều tra
các vụ án hình sự trên địa bàn thành phố Hải Phòng- Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn”, Luận văn thạc sỹ luật học, Phạm Hồng Quân (2012). Luận văn nghiên cứu làm
sáng tỏ các vấn đề lý luận về chức năng, nhiệm vụ của VKSND trong giai đoạn điều tra
các vụ án hình sự theo quy định của pháp luật hiện hành. Tổng kết, đánh giá thực tiễn


6

hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra (THQCT và KSĐT) các vụ án
hình sự của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hải Phòng từ năm 2006 đến năm 2011.
Xây dựng các giải pháp để khắc phục những hạn chế và nâng cao chất lượng của công
tác thực hiện quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các
vụ án hình sự.

Ngoài ra, còn có các bài viết của nhiều tác giả khác đã được đăng trên các báo
và tạp chí chuyên ngành, các báo cáo tổng kết công tác, các văn bản hướng dẫn nghiệp
vụ, các chuyên đề của VKSNDTC qua các năm, các đề tài khoa học cấp Nhà nước, cấp
Bộ… Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên mới đề cập nhiều ở mặt lý luận và giới
hạn nội dung hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp ở một
số giai đoạn tố tụng tại thành phố Hải Phòng mà chưa có công trình nào đề cập cụ thể
đến thực trạng thực hiện quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND
trên địa bàn toàn Hải Phòng và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện các
chức năng này của VKSND ở Hải Phòng trong thời gian tới như công trình này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài này nhằm đánh giá thực trạng thực hành quyền công
tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND ở Hải Phòng thời gian qua nhằm tìm ra
một số giải pháp để nâng cao hiệu quả thực hiện các chức năng này theo yêu cầu cải
cách tư pháp của VKSND ở Hải Phòng trong thời gian tới.
Để thực hiện được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài gồm có:
- Một số vấn đề lý luận về quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của
VKSND.
- Đánh giá thực trạng thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát
hoạt động tư pháp của VKSND ở Hải Phòng trong những năm gần đây và làm rõ
nguyên nhân của thực trạng đó.


7

- Đề xuất một số giải pháp có thể thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
các chức năng trên theo hướng đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp của VKSND ở Hải
Phòng trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận chức năng thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKS, thực tiễn hoạt động thực hành

quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND ở Hải Phòng từ năm 2002
đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
nhà nước và pháp luật, các quan điểm và tư tưởng chỉ đạo của Đảng cộng sản Việt
Nam về đổi mới toàn diện đất nước nói chung, về cải cách tư pháp nói riêng, chính
sách pháp luật của Nhà nước ta trong tố tụng hình sự. Ngoài ra, luận văn được nghiên
cứu thông qua việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích, tổng
hợp, thống kê và so sánh, khảo sát thực tiễn,…
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Luận văn góp phần làm sáng rõ một số vấn đề lý luận có liên quan đến chức
năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND.
- Luận văn chỉ ra được một số ưu điểm và hạn chế cũng như nguyên nhân dẫn
đến hạn chế trong quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của
VKSND ở Hải Phòng từ năm 2002 đến nay.
- Luận văn đề xuất được một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện
chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND ở Hải
Phòng trong thời gian tới theo hướng đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp, xây dựng
nhà nước pháp quyền Việt Nam.


8

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn bao gồm 2 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát
hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân
Chương 2: Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hành quyền công tố
và kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân ở Hải Phòng hiện nay



9

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHỨC NĂNG THỰC HÀNH QUYỀN
CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP CỦA VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN
1.1. KHÁI NIỆM CHỨC NĂNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM
SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1.1. Khái niệm chức năng thực hành quyền công tố
Tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước là một vấn đề phức tạp. Trên thế giới,
mỗi quốc gia có cách thức tổ chức và thực hiện quyền lực riêng của mình. Đối với hầu
hết các nhà nước tư sản đều tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước theo nguyên tắc
phân quyền, theo đó, quyền lực nhà nước phân chia thành ba nhánh, giao cho ba hệ
thống cơ quan khác nhau thực hiện, trong khi thực hiện quyền lực, các cơ quan đó có
thể độc lập với nhau ở một mức độ nhất định, có thể có sự đối trọng, chế ước lẫn nhau.
Ở những nước này không có cơ quan VKS, mà chỉ có cơ quan Viện công tố và các cơ
quan này cũng không phải là một hệ thống độc lập mà có thể nằm trong Tòa án hoặc
chịu sự quản lý của Bộ tư pháp hay của Chính phủ. Chức năng cơ bản của Viện công tố
ở các nước này là đưa kẻ phạm tội ra trước Tòa án và thực hiện sự buộc tội đối với
người phạm tội.
Đối với các nước đi theo con đường XHCN trong đó có Việt Nam hệ thống cơ
quan VKS có vị trí độc lập, được giao chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp. Vậy, chức năng là gì?
Từ điển Tiếng việt định nghĩa: “Chức năng là phương diện hoạt động có tính
chất cơ bản, xuất phát từ bản chất của sự vật, hiện tượng, từ mục đích, ý nghĩa xã hội


10


của việc giải quyết các nhiệm vụ đó đặt ra”1. Theo tiếng Latinh, chức năng "functio" có
nhiều nghĩa khác nhau, có thể hiểu là nghĩa vụ, phạm vi hoạt động, vai trò hay là loại
hoạt động của sinh vật và của các cơ quan, tế bào của nó... Tùy ngữ cảnh cụ thể để áp
dụng, nhưng nghĩa chủ đạo của chức năng là phương diện hoạt động để thực hiện
nhiệm vụ của mình. Chức năng của cơ quan nhà nước là những phương diện hoạt động
chủ yếu có tính chất cơ bản và lâu dài của riêng cơ quan đó nhằm thực hiện những mục
tiêu nhất định trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn luật định để phục vụ việc thực
hiện chức năng chung của bộ máy nhà nước.
Từ quan niệm về chức năng nêu trên, có thể hiểu chức năng của VKS là những
phương diện hoạt động chủ yếu có tính chất cơ bản và lâu dài của VKS nhằm thực hiện
những mục tiêu nhất định trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn luật định để phục vụ
việc thực hiện chức năng chung của bộ máy nhà nước. Theo quy định của Hiến pháp
hiện hành thì VKSND có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp, có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống
nhất.
Quyền công tố là quyền đại diện cho nhà nước để truy tố, luận tội và buộc tội
đối với người phạm tội; quyền công tố chỉ có trong lĩnh vực tố tụng hình sự; phạm vi
của quyền công tố bắt đầu từ khi có dấu hiệu tội phạm xảy ra, tiếp diễn suốt từ khi khởi
tố, điều tra đến truy tố bị can ra Tòa, tranh tụng tại phiên tòa và kết thúc bằng một bản
án có hiệu lực pháp luật hoặc có quyết định đình chỉ vụ án của Tòa án.
Để thực hiện được quyền công tố, Nhà nước ban hành pháp luật quy định các
quyền năng pháp lý khác nhau để các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng trong

1

Từ điển Tiếng việt, Tr. 185



11

từng giai đoạn của tố tụng hình sự (hay nói cách khác, đó là các phương pháp khác
nhau để tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ trong những giai đoạn tố tụng khác
nhau). Hoạt động thực hiện các quyền năng pháp lý đó được gọi là thực hành quyền
công tố.
Ở Việt Nam, căn cứ vào các quy định của Hiến pháp, pháp luật và thực tiễn thì
từ trước đến nay, quyền công tố được giao cho duy nhất VKS thực hiện. Vậy, chủ thể
thực hành quyền công tố ở Việt Nam là VKSND. Căn cứ vào các quy định của Hiến
pháp, BLTTHS, các luật về tổ chức bộ máy nhà nước và luật tố tụng hình sự thì:
Chức năng thực hành quyền công tố của VKSND là hoạt động của VKSND khi
sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để truy cứu
trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội trong các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy
tố và xét xử các vụ án hình sự.
1.1.2. Khái niệm chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp
Với quy định tại Điều 107 Hiến pháp năm 2013 và Điều 1 Luật tổ chức VKSND
năm 2002 thì kiểm sát hoạt động tư pháp là một chức năng cơ bản của hệ thống cơ
quan VKS.
Hoạt động tư pháp là một dạng hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước, chịu sự
giám sát từ bên ngoài cũng như từ bên trong hệ thống tư pháp, chịu sự giám sát nhà
nước và giám sát xã hội. Kiểm sát tư pháp được hiểu theo hai nghĩa. Theo nghĩa rộng,
kiểm sát tư pháp được hiểu là giám sát tư pháp, là một bộ phận, một lĩnh vực của hoạt
động giám sát nhà nước trong lĩnh vực tư pháp. Còn theo nghĩa hẹp thì kiểm sát tư
pháp được hiểu là chức năng của VKS. Phạm vi kiểm sát tư pháp là kiểm tra, giám sát
việc thực hiện pháp luật trong hoạt động khởi tố, điều tra, xét xử các vụ án và thi hành
án hình sự; giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành chính, kinh tế, lao
động và những việc khác theo quy định pháp luật (Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm
2002). Mục đích của kiểm sát tư pháp là bảo đảm cho pháp luật được áp dụng thống



12

nhất trong giải quyết các vụ án trên cơ sở tuân thủ nghiêm chỉnh thủ tục tố tụng mà
pháp luật quy định.
Do vậy, kiểm sát hoạt động tư pháp được hiểu là một dạng giám sát Nhà nước
về tư pháp, là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước. Tuy nhiên, khác với hoạt động
giám sát Nhà nước nói chung về tư pháp, kiểm sát các hoạt động tư pháp là sự giám sát
trực tiếp các hoạt động cụ thể của các cơ quan tư pháp trong quá trình tố tụng với mục
đích là nhằm đảm bảo cho pháp luật được áp dụng nghiêm chỉnh và thống nhất trong
quá trình giải quyết các vụ án.
Căn cứ vào các quy định của Hiến pháp, BLTTHS, các luật về tổ chức Bộ máy
nhà nước và từ những quan điểm khoa học đã nêu, có thể hiểu :
Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của VKS để kiểm tra, giám
sát việc thực hiện pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng khác, tổ chức, cá nhân
trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án ở các lĩnh vực hình sự, dân sự,
hành chính, kinh doanh, thương mại, lao động nhằm đảm bảo cho pháp luật được thực
hiện nghiêm chỉnh và áp dụng thống nhất.
1.2. NỘI DUNG CHỨC NĂNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM
SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP CỦA VKSND
Việc thực hành quyền công tố của VKSND trong tố tụng hình sự nhằm góp
phần tạo ra bản án có căn cứ, công minh và đúng pháp luật, bảo đảm việc truy tố đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội đồng thời
bảo vệ các quyền tự do của công dân, cũng như các lợi ích hợp pháp của Nhà nước và
của xã hội. Đề cao trách nhiệm của VKSND trong thực hành quyền công tố cũng chính
là quan điểm nhất quán mà Đảng ta đã đặt ra trong Nghị quyết 08 của Bộ chính trị về
một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới.
1.2.1. Nội dung chức năng thực hành quyền công tố
- Trong giai đoạn khởi tố vụ án, khởi tố bị can.



13

Khởi tố vụ án, khởi tố bị can là các biện pháp phát động quyền công tố, mở đầu
cho cả quá trình TTHS, điểm mốc làm phát sinh quan hệ pháp luật hình sự giữa các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền với người có hành vi phạm tội bởi bắt đầu từ đây, cơ
quan có thẩm quyền chính thức bắt đầu các hoạt động điều tra nhằm làm rõ tội phạm
và người phạm tội, làm rõ các tình tiết vụ án…
Việc khởi tố vụ án có ý nghĩa quan trọng đối với toàn bộ quá trình tố tụng, hoạt
động này mở ra quá trình điều tra công khai nhằm làm rõ tội phạm; việc khởi tố bị can
là hoạt động đưa người phạm tội vào vòng tố tụng để làm rõ tội phạm mà người đó đã
thực hiện, tiến hành việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người đó. Như vậy, cuộc
điều tra có đạt được hiệu quả khách quan, toàn diện và đầy đủ hay không, tính mạng,
sức khỏe, nhân phẩm, danh dự, tài sản, các quyền tự do dân chủ khác của công dân
được pháp luật thừa nhận có được thực sự tôn trọng hay không phụ thuộc rất nhiều vào
việc thực hiện đúng đắn và nghiêm chỉnh những quy định pháp luật về khởi tố vụ án
hình sự.
VKS là cơ quan duy nhất trong bộ máy nhà nước có quyền quyết định việc có
hay không khởi tố vụ án hình sự, bị can để điều tra thông qua hoạt động phê chuẩn các
quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, các quyết định thay đổi và bổ sung quyết định
khởi tố vụ án, bị can của cơ quan điều tra… Các quyết định khởi tố vụ án, bị can của
các chủ thể khác đều phải chịu sự giám sát và phụ thuộc vào quyết định của VKS. Sau
khi ra quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, các cơ quan đó phải gửi đến VKS cùng
các tài liệu có liên quan để VKS xem xét quyết định phê chuẩn, hay không phê chuẩn;
trong trường hợp không được sự phê chuẩn của VKS thì các quyết định đó bị triệt tiêu
về hiệu lực.
Xét cho cùng, việc khởi tố hay không khởi tố vụ án là do cơ quan thực hành
quyền công tố quyết định. “VKS là cơ quan duy nhất được phát động quyền công tố


14


một cách độc lập”2, tức là quyết định khởi tố hay không khởi tố vụ án hình sự. Nếu
quyết định khởi tố vụ án không có căn cứ, không có cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình
sự thì VKS, với tư cách là cơ quan thực hành quyền công tố, có quyền và trách nhiệm
phải hủy bỏ. Trong trường hợp phát hiện có tội phạm mà cơ quan được quyền khởi tố
vụ án ra quyết định không khởi tố vụ án thì VKS có quyền và trách nhiệm hủy bỏ
quyết định không khởi tố vụ án đó và ra quyết định khởi tố vụ án.
Tóm lại, ở nước ta chỉ có VKS mới là cơ quan phát động quyền công tố một
cách độc lập, có quyền chấp nhận hoặc không chấp nhận quyết định khởi tố của các cơ
quan có thẩm quyền khác, có quyền yêu cầu CQĐT tiến hành thu thập tài liệu, chứng
cứ để làm rõ tội phạm xảy ra cũng như lỗi của người thực hiện tội phạm. Ngoài ra,
VKS còn có thẩm quyền đặc biệt hơn các chủ thể có thẩm quyền khác là có thể độc lập
quyết định việc khởi tố vụ án, khởi tố bị can, không phải chịu sự chi phối của bất cứ cơ
quan nào, các quyết định này của VKS có hiệu lực ngay sau khi ban hành.
- Trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự
Điều tra vụ án hình sự là giai đoạn thứ hai của quá trình tố tụng hình sự. Giai
đoạn điều tra được xác định từ khi có quyết định khởi tố vụ án hình sự cho đến khi
CQĐT chuyển toàn bộ tài liệu và kết luận sang VKS để truy tố. Tuy nhiên, trong một
số trường hợp khi có đủ các căn cứ do pháp luật quy định thì vụ án bị đình chỉ điều tra
và tất nhiên, các hoạt động tố tụng trong giai đoạn điều tra đối với vụ án đó sẽ chấm
dứt, vì thế, thời điểm vụ án bị đình chỉ điều tra cũng được coi là thời điểm chấm dứt
giai đoạn điều tra vụ án.
Nhiệm vụ của giai đoạn điều tra rất quan trọng trong quá trình giải quyết vụ án
hình sự, bởi kết quả của hoạt động điều tra là để phục vụ cho việc xét xử, mọi quyết
định về việc phạm tội và người thực hiện tội phạm đều phải dựa trên các chứng cứ đã

2

Lê Tuyết Hoa, Quyền công tố ở Việt Nam, luận án tiến sỹ luật học, trang 78



15

thu thập được ở giai đoạn điều tra. Cho nên, trong giai đoạn điều tra này, cơ quan tiến
hành tố tụng có quyền áp dụng mọi biện pháp do luật tố tụng hình sự quy định để
chứng minh tội phạm và người thực hiện tội phạm, các tình tiết khác có liên quan đến
vụ án, xác định nguyên nhân và điều kiện phạm tội để kiến nghị với các cấp, các ngành
thực hiện biện pháp phòng ngừa tội phạm.
Khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, VKS thực hiện các hoạt
động như đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT tiến hành điều tra; trực tiếp tiến
hành một số hoạt động điều tra khi xét thấy cần thiết; yêu cầu Thủ Tướng CQĐT thay
đổi ĐTV; nếu hành vi của ĐTV có dấu hiệu tội phạm thì khởi tố về hình sự; quyết định
áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp khác;
quyết định phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của CQĐT; yêu cầu CQĐT truy
nã bị can; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Như vậy, trong giai đoạn điều tra, mặc dù CQĐT trực tiếp tiến hành các hoạt
động điều tra là chủ yếu (trừ những trường hợp cần thiết thì VKS trực tiếp tiến hành
một số hoạt động điều tra), nhưng nhìn một cách toàn diện và xét đến cùng, VKS là cơ
quan có vai trò chủ đạo, quyết định và chịu trách nhiệm đến cùng về toàn bộ quá trình
thực hành quyền công tố; CQĐT có trách nhiệm thực hiện các yêu cầu và quyết định
của VKS. Nội dung thực hành quyền công tố của VKS trong giai đoạn điều tra còn thể
hiện qua việc thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn của Viện trưởng, Phó Viện trưởng
VKS và KSV. Theo pháp luật hiện hành, Viện trưởng VKS có trách nhiệm tổ chức, chỉ
đạo và quán xuyến toàn bộ hoạt động thực hành quyền công tố, quyết định những vấn
đề quan trọng đối với việc giải quyết vụ án hình sự như: yêu cầu Thủ trưởng CQĐT
thay đổi ĐTV; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn; quyết
định gia hạn điều tra, quyết định gia hạn tạm giam; yêu cầu CQĐT truy nã bị can; phê
chuẩn, hoặc không phê chuẩn quyết định của CQĐT; quyết định chuyển vụ án; quyết
định việc truy tố, quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, quyết định trưng cầu giám
định… KSV có quyền và nhiệm vụ kiểm sát chặt chẽ việc chấp hành các thủ tục về



16

khởi tố, việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, việc lập hồ sơ vụ án của CQĐT; đề ra
các yêu cầu điều tra, trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra khi cần thiết…
Tóm lại, trong toàn bộ quá trình điều tra (các hoạt động điều tra cụ thể; việc áp
dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn; việc đình chỉ, tạm đình chỉ điều tra, phục
hồi điều tra, truy nã bị can…), VKS là cơ quan tiến hành tố tụng có vai trò chủ đạo và
quyết định.
- Trong giai đoạn truy tố bị can
Truy tố là một trong những giai đoạn của quá trình tố tụng hình sự mà trong đó
VKS căn cứ vào các quy định của pháp luật tố tụng hình sự tiến hành các biện pháp
cần thiết nhằm đánh giá một cách khách quan các tài liệu của vụ án hình sự do CQĐT
chuyển đến. VKS phải nghiên cứu kỹ hồ sơ rồi tùy tình hình cụ thể và kết quả điều tra
được phản ánh trong hồ sơ vụ án để ra một trong những quyết định sau:
+ Nếu thấy hồ sơ vụ án và đề nghị truy tố của CQĐT là đúng và không vi phạm
quá trình tố tụng thì VKS truy tố bị can trước Tòa án bằng bản cáo trạng;
+ Nếu hồ sơ vụ án chưa đầy đủ, chưa đúng với quy định của pháp luật thì VKS
trả hồ sơ cho CQĐT để điều tra bổ sung;
+ Nếu thấy có căn cứ đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án thì VKS ra quyết định
đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án.
Trong trường hợp cần thiết, Viện trưởng VKSND có thể gia hạn điều tra nhưng
không quá 10 ngày đối với tội ít nghiêm trọng và tội nghiêm trọng; không quá 15 ngày
đối với tội rất nghiêm trọng; không quá 30 ngày đối với tội đặc biệt nghiêm trọng. Sau
khi CQĐT kết thúc điều tra, chuyển hồ sơ vụ án cho VKS thì vụ án được chuyển sang
một giai đoạn mới với những nội dung, yêu cầu mới phát sinh, thay đổi. Do đó, căn cứ
vào tình hình thực tiễn của vụ án, xuất phát từ lợi ích của hoạt động điều tra, xử lý tội



17

phạm và những quy định của pháp luật, VKS có quyền quyết định việc áp dụng, thay
đổi hoặc hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, yêu cầu CQĐT truy nã bị can nếu bị can bỏ trốn.
Để đảm bảo tính nhanh chóng, kịp thời trong giải quyết vụ án, nếu vụ án được
đưa ra truy tố thì trong thời gian 3 ngày kể từ ngày ra quyết định truy tố bằng bản cáo
trạng, VKS phải gửi hồ sơ và bản cáo trạng sang Tòa án. Bản cáo trạng là một văn bản
pháp lý thể hiện quan điểm, thái độ của cơ quan kiểm sát đối với người phạm tội và vụ
án. Do đó, bản cáo trạng phải ghi rõ: ngày, giờ, tháng, năm, địa điểm xảy ra tội phạm;
thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm tội và hậu quả tội phạm; những căn cứ xác định tội
phạm của bị can, những tình tiết tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; nhân
thân của bị can và mọi tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án như tiền án, tiền sự, thành
tích công hiến cho xã hội, hoàn cảnh gia đình của bị can. Phần kết luận cuối bản cáo
trạng phải ghi rõ tội danh và điều khoản của BLTTHS được áp dụng. Bản cáo trạng là
cơ sở để bị cáo và người bào chữa chuẩn bị việc bào chữa.
Trong trường hợp vụ án không thuộc thẩm quyền truy tố của mình, VKS ra
ngay quyết định chuyển vụ án cho VKS cấp có thẩm quyền. Riêng đối với những vụ án
được tiến hành theo thủ tục rút gọn thì việc truy tố bị can không phải làm bản cáo
trạng. Trong những trường hợp này, VKS sẽ truy tố bị can ra trước Tòa án bằng quyết
định truy tố.
Khi VKS quyết định truy tố bị can bằng bản cáo trạng thì cũng là lúc VKS kết
thúc hoạt động thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, chuyển sang thực
hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án.
- Trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự
Giải quyết vụ án một cách công khai, dân chủ, công bằng, không làm oan người
vô tội, không bỏ lọt tội phạm đồng thời đảm bảo công lý được thực thi không những
thuộc về trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng mà còn


18


là đòi hỏi cấp thiết của xã hội, nhất là trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền
XHCN Việt Nam.
Chức năng của VKS trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng bởi lẽ đây là giai đoạn mà vụ án hình sự được xem xét, giải quyết công
khai, nó thể hiện tập trung các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự và cũng là giai
đoạn thể hiện tập trung quyền và nghĩa vụ pháp lý của VKS trong tố tụng hình sự.
Tại phiên tòa, KSV đọc cáo trạng, quyết định của VKSND liên quan đến việc
giải quyết vụ án tại phiên toà; thực hiện việc luận tội đối với bị cáo tại phiên toà sơ
thẩm, phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên toà phúc thẩm; tranh luận
với người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại phiên toà sơ thẩm, phúc
thẩm; phát biểu quan điểm của VKSND về việc giải quyết vụ án tại phiên toà giám đốc
thẩm, tái thẩm.
Sau khi tuyên bố đối với bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm, tranh luận với người bào
chữa và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa và chuyển sang phần xét hỏi,
chủ tọa phiên tòa yêu cầu KSV đọc bản cáo trạng. KSV đọc nguyên văn bản cáo trạng,
sau đó mới trình bày những ý kiển bổ sung vào cáo trạng nếu có. Đây là cách thức để
công bố sự buộc tội đối với bị cáo trước phiên tòa.
Tiếp sau cáo trạng là lời luận tội. Có thể nói, luận tội có ý nghĩa pháp lý và
chính trị rất lớn; phần trình bày lời luận tội của KSV thường được sự quan tâm chú ý
theo dõi đặc biệt của những người tham dự phiên toà và công chúng. Xét về tính chất
pháp lý thì luận tội của KSV chính là công cụ để VKS thực hành quyền công tố của
Nhà nước tại phiên toà. Việc đối đáp của KSV trong quá trình tranh luận chủ yếu là
đưa ra những lập luận để phản bác những ý kiến không phù hợp của bị cáo, người bào
chữa và những người tham gia tố tụng khác về luận tội của KSV. Hoạt động luận tội
đối với bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm là hoạt động thực hiện chức năng buộc tội, thể hiện
quyền lực nhà nước. Lời luận tội của KSV tại phiên tòa thể hiện quan điểm chính thức


19


về mặt pháp lý của VKSND- cơ quan duy nhất được Nhà nước giao chức năng thay
mặt Nhà nước buộc tội đối với người có hành vi phạm tội, và đề xuất biện pháp xử lý
đối với người phạm tội.
Ngoài ra, khi thực hành quyền công tố, VKSND có thể kháng nghị theo thủ tục
phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định của Tòa án; kiến nghị với
Tòa án cùng cấp và cấp dưới khắc phục vi phạm; kiến nghị với cơ quan, tổ chức, đơn
vị hữu quan áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật; nếu có
dấu hiệu tội phạm thì khởi tố VAHS.
Như vậy, theo quy định của pháp luật thì nội dung thực hành quyền công tố của
VKS trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự rất phức tạp và phong phú. Kết quả các hoạt
động thực hành quyền công tố trong giai đoạn này có ý nghĩa rất quan trọng đối với
Tòa án trong việc ra một bản án chính xác, khách quan, đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật.
1.2.2. Nội dung chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật là trách nhiệm của VKS nhằm đảm bảo cho
các đạo luật được Quốc hội thông qua và các văn bản pháp luật của Nhà nước được
chấp hành nghiêm chỉnh, triệt để; không để xảy ra tình trạng tùy tiện trong thực thi
pháp luật và quan trọng hơn là nhằm phải đảm bảo mọi hành vi vi phạm pháp luật đều
phải được phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh. Hoạt động này được tiến hành trong
tất cả các giai đoạn tố tụng hình sự, trong việc giải quyết các vụ án ở lĩnh vực khác,
gồm các hoạt động cụ thể sau:
- Kiểm sát việc khởi tố các vụ án hình sự
VKS kiểm sát việc khởi tố vụ án hình sự để đảm bảo mọi tội phạm đều phải bị
phát hiện kịp thời và khởi tố, điều tra. Việc khởi tố phải có căn cứ và hợp pháp, tức là
chỉ khởi tố khi có dấu hiệu tội phạm xảy ra. Việc thực hiện tốt chức năng kiểm sát việc


20


khởi tố có ý nghĩa vô cùng quan trọng, thông qua đó VKS sẽ loại trừ ngay từ đầu các vi
phạm pháp luật của CQĐT và yêu cầu CQĐT sớm có biện pháp khắc phục kịp thời
nhằm hạn chế sự khởi tố tràn lan không có căn cứ rồi sau đó phải đình chỉ điều tra,
hoặc không khởi tố vụ án khi có căn cứ khởi tố dẫn đến bỏ lọt tội phạm.
KSV kiểm sát tin báo tội phạm do CQĐT tiếp nhận thụ lý. Thông qua kết quả
kiểm sát, VKS có thể yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự. Khi kiểm sát việc
khởi tố vụ án hình sự của các cơ quan tiến hành tố tụng khác và có căn cứ thì VKS phải
ra một trong các quyết định sau:
+ Nếu quyết định khởi tố vụ án hình sự của CQĐT, Bộ đội biên phòng, Hải
quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển, các cơ quan khác của Công an nhân dân,
Quân đội nhân dân được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra không có
căn cứ theo quy định tại Điều 100 BLTTHS năm 2003 thì VKS ra quyết định hủy bỏ
quyết định khởi tố đó và ra quyết định khởi tố vụ án.
+ Trong trường hợp quyết định khởi tố vụ án của Tòa án mà không có căn cứ thì
VKS không có quyền hủy bỏ quyết định đó, mà chỉ kháng nghị lên Tòa án cấp trên.
- Kiểm sát hoạt động điều tra
Giai đoạn điều tra vụ án hình sự là bước tiếp theo của quá trình tố tụng, trong đó
cơ quan có thẩm quyền điều tra tiến hành áp dụng các biện pháp tố tụng hình sự do
BLTTHS năm 2003 quy định để chứng minh hành vi phạm tội đã xảy ra do ai thực
hiện, tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội, hậu quả của hành vi phạm tội đó. Đồng
thời làm rõ động cơ, mục đích, nguyên nhân và điều kiện phạm tội… trên cơ sở đó đảm
bảo các chứng cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự đúng người, đúng tội và đúng pháp
luật.
Trong giai đoạn điều tra, kiểm sát hoạt động tư pháp có nội dung kiểm tra, giám
sát mọi hoạt động của CQĐT của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số


21

hoạt động điều tra trong quá trình điều tra vụ án nhằm đảm bảo cho việc điều tra được

tiến hành theo đúng quy định của pháp luật. Khi kiểm sát điều tra, nếu phát hiện có vi
phạm pháp luật trong quá trình điều tra, VKSND sẽ yêu cầu cơ quan điều tra chấm dứt
những vi phạm pháp luật đó, yêu cầu Thủ trưởng CQĐT xử lí nghiêm minh ĐTV đã vi
phạm pháp luật trong khi tiến hành điều tra; yêu cầu CQĐT cung cấp tài liệu cần thiết
về vi phạm pháp luật của ĐTV; kiến nghị với cơ quan hữu quan áp dụng các biện pháp
phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật.
VKS kiểm sát việc lập hồ sơ vụ án của CQĐT; kiểm sát việc tuân theo pháp luật
của người tham gia tố tụng và giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền điều tra theo
quy định của pháp luật.
- Kiểm sát việc xét xử các vụ án hình sự
Một trong những yêu cầu mang tính nguyên tắc đối với hoạt động xét xử là bản
án, quyết định của Tòa án luôn luôn phải đảm bảo có đủ căn cứ pháp lý, căn cứ thực tế
và hợp pháp. Tuy nhiên, do những nguyên nhân khác nhau, trong hoạt động xét xử vẫn
còn có những sai lầm, vi phạm đáng tiếc. Do vậy, việc kiểm tra tính có căn cứ và hợp
pháp các bản án, quyết định của Tòa án phải được thực hiện thường xuyên, không
những trước mà cả sau khi bản án, quyết định đó có hiệu lực pháp luật.
Theo nguyên tắc hoạt động xét xử của Tòa án được tiến hành một cách “độc lập
và tuân theo pháp luật”, vì thế, trong quá trình kiểm sát hoạt động xét xử, VKS không
được trực tiếp can thiệp vào công việc xét xử của Tòa án mà thực hiện chức năng kiểm
sát của mình bằng việc kháng nghị các bản án hoặc quyết định có hiệu lực pháp luật
của Tòa án theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm hoặc tái thẩm. Để kháng nghị có
chất lượng và đúng pháp luật, trước hết VKS phải phát hiện ra những sai lầm, vi phạm
trong bản án, quyết định của Tòa án thông qua việc tham gia phiên tòa sơ thẩm hoặc
nghiên cứu bản sao bản án quyết định mà Tòa án cấp sơ thẩm gửi tới theo luật định.


×