Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Khởi kiện vụ án dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (762.43 KB, 79 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN THỊ LƯỢT

KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ
Chuyên ngành: Luật dân sự
Mã số: 60380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN TRIỀU DƯƠNG

HÀ NỘI -06/ 2014


LỜI CAM ĐOAN
Em là Trần Thị Lượt, học viên lớp cao học dân sự khóa 20 – Khoa sau đại
học – Trường Đại học luật Hà Nội xin cam đoan công trình nghiên cứu này là
của chính tác giả, được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của thầy giáo TS.
Nguyễn Triều Dương - Phó Bộ môn Luật Tố tụng Dân sự, Khoa Luật Dân
sự, Trường ĐH Luật Hà Nội.
Em xin chân thành cảm ơn!

Tác giả

Trần Thị Lượt


Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới: Thầy giáo hướng dẫn TS. Nguyễn Triều Dương đã
trực tiếp hướng dẫn em, cùng các tác giả đã có những công trình nghiên cứu trước đây đã
gián tiếp giúp em có nguồn tài liệu tham khảo để hoàn thành luận văn này.
Em xin cảm ơn các thầy, cô đã quan tâm. Mọi nhận xét, góp ý của thầy, cô luôn là những
đóng góp bổ ích cho tác giả. Em xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC

Tiêu đề
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
6. Kết cấu của luận văn

Trang
1
1
2
2
3
3
5

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN
SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa khởi kiện của khởi kiện vụ án dân sự

1.1.1. Khái niệm khởi kiện vụ án dân sự
1.1.2. Đặc điểm của khởi kiện vụ án dân sự
1.1.3. Ý nghĩa của khởi kiện dân sự
1.2. Cơ sở của khởi kiện vụ án dân sự
1.2.1. Cơ sở lý luận
1.2.2. Cơ sở thực tiễn

6
6
6
11
13
15
15
16

CHƯƠNG 2: NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
DÂN SỰ VỀ KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ
2.1. Các chủ thể thực hiện việc khởi kiện
2.2. Điều kiện khởi kiện vụ án dân sự
2.2.1. Điều kiện về chủ thể khởi kiện vụ án dân sự
2.2.2. Vụ án được khởi kiện phải thuộc thẩm quyền của Tòa án

23
23
26
26
34

2.2.3. Sự việc chưa được giải quyết bằng một bản án hoặc quyết định của cơ quan

nhà nước có thẩm quyền đã có hiệu lực pháp luật trừ trường hợp pháp luật có quy
định khác.
2.2.4. Phải xuất trình kèm theo đơn các tài liệu, chứng cứ
2.2.5. Các điều kiện khác (Điều kiện do pháp luật nội dung quy định)
2.3. Phạm vi khởi kiện vụ án dân sự
2.4. Hình thức, thủ tục khởi kiện vụ án dân sự
2.4.1. Hình thức khởi kiện

44
45
48
49
50
50

2.4.2. Thủ tục nộp đơn, tài liệu, chứng cứ kèm theo để thực hiện việc khởi kiện vụ
án dân sự

55


CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN THI HÀNH CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
TỐ TỤNG DÂN SỰ VỀ KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ VÀ MỘT SỐ KIẾN
NGHỊ

58

3.1. Những kết quả đạt được trong việc thi hành các quy định của luật tố tụng
dân sự hiện hành về khởi kiện vụ án dân sự


58

3.2. Một số vướng mắc, bất cập và nguyên nhân của vướng mắc, bất cập

58

3.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự
về khởi kiện vụ án dân sự.
KẾT LUẬN CHUNG

66
70


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
-

BLTTDS

: Bộ luật Tố dân sự được Quốc hội nước cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khóa XI thông qua ngày 15/6/2004
và có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2005

-

BLTTDS sửa

: Bộ luật Tố dân sự được Quốc hội nước cộng hòa xã hội

đổi, bổ sung


chủ nghĩa Việt Nam được sửa đổi, bổ sung vào ngày 29
tháng 03 năm 2011

-

VADS

: Vụ án dân sự

-

TAND

: Tòa án nhân dân

-

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

-

TTDS:

: Tố tụng dân sự

-


TCTAND

: Tổ chức Tòa án nhân dân

-

CHXHCNVN

: Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

-

Nghị quyết

: Nghị quyết số 05/2012/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm

05/2012/NQ-

phán tòa án nhân dân tối cao ngày 03 tháng 12 năm

HĐTP

2012

Nghị quyết

:Nghị quyết số 03/2012/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm

03/2012/NQ-


phán tòa án nhân dân tối cao ngày 03 tháng 12 năm

HĐTP

2012 ngày 03/12/2012

Nghị quyết

: Nghị quyết số 04/2012/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm

04/2012/NQ-

phán tòa án nhân dân tối cao ngày 03/12/2012

-

-

HĐTP:


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
Bộ luật Tố dân sự được Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa XI thông qua ngày 15/6/2004 và có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2005
(BLTTDS); và được sửa đổi, bổ sung vào ngày 29 tháng 03 năm 2011 (BLTTDS
sửa đổi, bổ sung). BLTTDS được xây dựng trên cơ sở kế thừa và phát triển của
ba Pháp lệnh trước đó, bao gồm: Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự

năm 1989; Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế năm 1994 và Pháp
lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động năm 1996, đồng thời tiếp thu
những thành tựu lập pháp của nhiều nước trên thế giới. Đây là văn bản có tính
pháp lý cao nhất quy định về khởi kiện và thực hiện việc khởi kiện vụ án sự.
Vấn đề khởi kiện và thực hiện việc khởi kiện là vấn đề luôn được các nhà
nghiên cứu về tố tụng, cơ quan lập pháp của nhiều nước trên thế giới quan tâm.
Ở Việt Nam hiện nay, các quy định trong pháp luật tố tụng dân sự về cơ bản đã
phần nào thể hiện được vấn đề này. Tuy nhiên, về phương diện lý luận thì nhiều
vấn đề về khởi kiện chưa được giải quyết triệt để.
Thực tiễn tố tụng tại Tòa án cho thấy, nhiều trường hợp việc khởi kiện của
đương sự đã không được tôn trọng và bảo đảm như: Tòa án không thụ lý và trả
lại đơn một cách tùy tiện hoặc “đùn đẩy” trách nhiệm giải quyết. Một số quy
định về khởi kiện vụ án dân sự trong BLTTDS còn chung chung, thiếu tính cụ
thể dẫn tới những khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng hoặc dẫn tới những
cách hiểu và vận dụng khác nhau; điều này cũng khiến cho người dân gặp khó
khăn khi thực hiện việc khởi kiện; đồng thời chính là một trong những nguyên
nhân của sự tùy tiện chủ quan trong việc áp dụng pháp luật. Việc nghiên cứu
cũng cho thấy một số quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành chưa thực
sự đáp ứng được yêu cầu của việc bảo đảm để các chủ thể khởi kiện thực hiện
việc khởi kiện trong tố tụng dân sự. Chính vì vậy, việc nghiên cứu một cách toàn
diện, sâu sắc về khởi kiện và thực hiện việc khởi kiện cả về phương diện lý luận,
lập pháp và thực tiễn, từ đó đề xuất những giải pháp cho việc hoàn thiện pháp
luật và nâng cao hiệu quả bảo đảm việc khởi kiện là một việc làm rất cần thiết.


2

Từ những lý do trên, em đã lựa chọn đề tài “Khởi kiện vụ án dân sự” làm
đề tài luận văn cao học luật của mình.
2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI

Trong khoa học pháp lý Việt Nam từ trước đến nay, khởi kiện VADS đã có
những công trình nghiên cứu chuyên sâu, có hệ thống như: công trình nghiên cứu
khoa học đề tài cấp cơ sở của Trường Đại học Luật Hà Nội về “Hoàn thiện pháp
luật về thủ tục giải quyết vụ việc dân sự theo định hướng cải cách tư pháp” do
TS Trần Anh Tuấn chủ nhiệm đề tài năm 2010. Một số các bài viết được công bố
trên tạp chí như “Vấn đề khởi kiện và thụ lý vụ án dân sự” của Ths Lê Thị Bích
Lan đăng trên tạp chí Luật học - Số đặc san về BLTTDS năm 2005, bài viết
“Quyền khởi kiện và việc xác định tư cách tham gia tố tụng” của TS Trần Anh
Tuấn đăng trên Tạp chí Tòa án nhân dân.
Về khóa luận, luận văn, luận án có: Khóa luận tốt nghiệp của tác giả
Nguyễn Phương Thảo, năm 2011 với đề tài “Khởi kiện vụ án dân sự theo quy
định của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004”; Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả
Nông Thanh Xuyên bảo vệ năm 2010 với đề tài “Thời hiệu khởi kiện vụ án dân
sự và thời hiệu yêu cầu giải quyết việc dân sự”; Luận văn thạc sĩ luật học của tác
giả Nguyễn Thu Hiền bảo vệ năm 2012 với đề tài “Hoàn thiện chế định khởi kiện
và thụ lý án dân sự trong Pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam”; Luận án tiến sĩ
của TS.Nguyễn Công Bình năm 2006 với đề tài “Bảo đảm quyền bảo vệ của
đương sự trong TTDS Việt Nam”…
Trên cơ sở kế thừa những kết quả nghiên cứu trên đây tác giả của luận văn
phát triển thêm những vấn đề lý luận, pháp lý và thực tiễn về vấn đề này dưới
một góc độ mới.
3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỂ TÀI
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về khởi kiện vụ án
dân sự (VADS), nội dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về khởi kiện
VADS và thực tiễn thi hành các quy định này tại Tòa án nhân dân (TAND, qua
đó đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật tố tụng dân sự.


3


Phạm vi nghiên cứu: Khởi kiện có thể được nghiên cứu dưới rất nhiều góc
độ khác nhau như là: một quyền pháp lý; một thủ tục pháp lý hay một hoạt động
pháp lý. Tuy nhiên, tác giả tập trung nghiên cứu khởi kiện vụ án dân sự với tư
cách là một hoạt động tố tụng mà các chủ thể thực hiện theo trình tự luật định,
những quy định của pháp luật tố tụng dân sự hiện hành về hoạt động khởi kiện
VADS và thực tiễn áp dụng quy định này tại TAND.
4. MỤC TIÊU, NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Mục tiêu: Tham khảo nguồn tài liệu dựa trên những công trình của các tác
giả đã nghiên cứu đề tài liên quan tới khởi kiện vụ án dân sự, tác giả luận văn hy
vọng việc nghiên cứu đề tài nhằm góp phần làm rõ hơn một số vấn đề lý luận về
khởi kiện VADS, nội dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về khởi
kiện VADS và thực tiễn áp dụng các quy định này, qua đó đưa ra một số kiến
nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật dân sự.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện mục đích của đề tài, luận văn hướng tới
một số nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu và phân tích khái niệm, bản chất, đặc điểm vể khởi kiện
VADS để làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản về khởi kiện VADS trong
pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam.
- Tìm hiểu có hệ thống các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam
về khởi kiện VADS, liên hệ với pháp luật tố tụng dân sự một số nước về vấn đề
khởi kiện VADS.
- Phân tích, đánh giá thực tiễn thi hành các quy định pháp luật tố tụng dân
sự về khởi kiện VADS để chỉ ra những nội dung còn thiếu sót, chưa phù hợp của
pháp luật dân sự về khởi kiện VADS, từ đó luận giải và đưa ra những giải pháp
cho yêu cầu hoàn thiện quy định pháp luật về khởi kiện VADS.
5. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện mục đích của đề tài nói trên, việc nghiên cứu được tiến hành
dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh về
Nhà nước và pháp luật, các quan điểm của Đảng và Nhà nước Việt Nam về quản



4

lý Nhà nước, quản lý xã hội cũng như chủ trương, quan điểm về việc xây dựng
và hoàn thiện pháp luật tố tụng dân sự.
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng các phương pháp
nghiên cứu như: phân tích, lịch sử, tổng hợp, lô gíc, quy nạp, thống kê, so sánh,
liên hệ … nhằm làm sáng tỏ các vấn đề trong nội dung luận văn.


5

6. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, kết luận, và danh mục tham khảo, nội dung luận văn
gồm 03 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về khởi kiện vụ án dân sự
Chương 2: Nội dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về khởi kiện
vụ án dân sự
Chương 3: Thực tiễn thi hành các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về
khởi kiện vụ án dân sự và một số kiến nghị.


6

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KHỞI KIỆN VỤ ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa khởi kiện của khởi kiện vụ án dân
sự
1.1.1. Khái niệm khởi kiện vụ án dân sự

Trước đây cũng như hiện nay có nhiều quan điểm về khởi kiện vụ án dân
sự, nhưng điểm chung của các quan điểm đều dựa trên cơ sở phân tích, tìm hiểu
quyền khởi kiện để đưa ra khái niệm khởi kiện. Trước đây, thì khởi kiện được đề
cập trong thành ngữ “tố quyền” – là phương cách luật định cho phép mỗi người
cầu viện đến công lý xin xác nhận hay che chở quyền lợi của mình [3]. Theo đó
một mặt tố quyền là quyền kêu gọi đến cơ quan tư pháp, ý kiến chủ chốt là sự
cầu cứu đến Tòa án và như vậy tố quyền khác biệt với một vài trường hợp tố cầu
hành chính chỉ buộc đương sự phải xin can thiệp của nhà chức trách hành chánh
không có nhiệm vụ xử đoán, một mặt khác tố quyền được phân tách như một
phương tiện có tính cách luật pháp chế tài của môn dân sự tố tụng vì sự can
thiệp của Tòa án có hiệu lực làm quyền lợi được củng cố và tôn trọng. Ông
Eduardo Couture, giáo sư tại Đại Học Đường Buenos-Aires đã viết “tố quyền là
hình thức văn minh thay thế cho cách báo tư cừu”. Cũng theo tác giả Nguyễn
Huy Đẩu tố quyền khác với đơn kiện bởi “người ta hành sử tố quyền bằng một
đơn kiện”, tố quyền là một phương cách pháp luật, một quyền luật định (khái
niệm trừu tượng) còn đơn kiện lại là một hành vi thủ tục; từ đó có thể thấy tố
quyền là một quyền khởi kiện luật định (khái niệm trừu tượng), còn đơn kiện là
hành vi thủ tục để thực hiện quyền đó. Tố quyền cũng khác với quyền lợi bởi tố
quyền là một mãnh lực chuyển từ thể tĩnh ra thể động, là giây liên lạc pháp lý
nguyên thủy giữa nguyên và bị đơn, quyền lợi chỉ là căn nguyên cho tố quyền
chứ không thể sáp nhập với tố quyền [3, tr.36 - 41]. Từ đó có những phân tích về
vấn đề tố quyền phải hội tụ đủ những điều kiện nào, hành xử trong những trường
hợp nào?... Trong cuốn Luật dân sự tố tụng Việt Nam xuất bản năm 1969 của
tác giả Nguyễn Huy Đẩu có đề cập đến việc học lý cổ điển và nhiều học giả có
những quan điểm khác nhau về điều kiện khai phát tố quyền. Theo những tác giả


7

này muốn đủ điều kiện hiện hữu và hành xử tố quyền cần đến bốn yếu tố: quyền

lợi, lợi ích, danh nghĩa hay tư cách và năng lực; hoặc chỉ cần hai yếu tố: lợi ích
và tư cách.
Trong sự phát triển của xã hội, khi Nhà nước và pháp luật ra đời thì việc
bảo vệ quyền hay lợi ích hợp pháp của công dân được ghi nhận bằng pháp luật
của Nhà nước và bảo đảm thực hiện thông qua các thiết chế do Nhà nước thiết
lập. Theo đó khởi kiện được nhà nước và pháp luật ghi nhận thông qua quyền
khởi kiện.
Trong cổ luật La Mã, đã có những quy định đầu tiên về quyền khởi kiện của
công dân La Mã, theo đó khi có hành vi xâm phạm quyền tư pháp của cá nhân
thì người có quyền lợi bị xâm phạm bên cạnh việc sử dụng hình thức tự trấn áp,
họ còn có quyền khởi kiện đến Tòa án yêu cầu bảo vệ quyền lợi của mình [19,
tr. 212]
Trong xã hội hiện đại, quyền khởi kiện được ghi nhận là một quyền con
người trong tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 và các công ước quốc
tế khác. Quyền khởi kiện là một trong những nhóm quyền tố tụng thuộc quyền
con người, là quyền của một chủ thể trong mối quan hệ xã hội được pháp luật
ghi nhận nhằm đảm bảo tốt nhất cho những quyền, lợi ích hợp pháp của mình
được thực hiện. Điều này được thể hiện tại Điều 8 Tuyên ngôn thế giới về nhân
quyền năm 1948 “Mọi người đều có quyền được bảo vệ bằng các Tòa án quốc
gia có thẩm quyền với phương diện pháp lý có hiệu lực chống lại những hành vi
vi phạm các quyền căn bản đã được Hiến pháp và pháp luật công nhận”. Quyền
khởi kiện được ghi nhận trong pháp luật quốc tế là cơ sở vững chắc cho việc ghi
nhận quyền này trong hệ thống pháp luật mỗi quốc gia.
Theo các nhà nghiên cứu về tố tụng của Pháp thì “tố quyền” là khả năng
được thừa nhận đối với cá nhân được yêu cầu sự can thiệp của công lý để đạt
được sự tôn trọng các quyền hay lợi ích chính đáng của mình. Theo từ điển
thuật ngữ luật học của Pháp thì tố quyền trước công lý là khả năng được thừa
nhận đối với các chủ thể được cầu viện tới công lý để đạt được sự tôn trọng các
quyền hay lợi ích chính đáng. Theo Điều 30 Bộ luật tố tụng dân sự mới của



8

Pháp thì thuật ngữ “action” – “tố quyền” được dịch là quyền tham gia tố tụng
theo đó “quyền tham gia tố tụng đối với người có yêu cầu là quyền được trình
bày về nội dung yêu cầu của mình để Thẩm phán quyết định xem xét yêu cầu
như vậy là có căn cứ hay không có căn cứ; đối với bên bị kiện quyền tham gia
tố tụng là quyền được tranh luận về căn cứ của yêu cầu do bên kia đưa ra” [14,
tr.23].
Ở Việt Nam trên phương diện lý luận thì nhà nghiên cứu Trần Trúc Linh
cho rằng “tố quyền tức là có quyền đi kiện” [14, tr. 23]; TS. Hoàng Ngọc Thỉnh
đã khẳng định trong Giáo trình Luật tố tụng dân của Trường Đại học Luật Hà
Nội rằng “Quyền khởi kiện vụ án dân sự là quyền tố tụng của công dân, pháp
nhân và các tổ chức xã hội yêu cầu Tòa án nhân dân bảo vệ các quyền lợi hợp
pháp của mình, của tập thể của Nhà nước hay của người khác đang bị tranh
chấp hoặc vi phạm” [11, tr. 109-110]. Khái niệm này dường như không đề cập
tới các việc không có tranh chấp như nghiên cứu về khái niệm vụ án dân sự
trong Giáo trình này” [11, tr. 6-7], Điều 1 Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ
án dân sự 1989 và thực tiễn tố tụng tại Tòa án thì có thể khẳng định trong khái
niệm trên quyền khởi kiện được thực hiện đối với cả các việc dân sự không có
tranh chấp.
Trước khi Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 (BLTTDS) ra đời thì quyền
khởi kiện được hiểu theo nghĩa rộng đó là quyền khởi kiện là khả năng Nhà
nước cho phép công dân được yêu cầu Tòa án có thẩm quyền bảo vệ quyền lợi
hợp pháp của mình khi cho rằng quyền lợi hợp pháp đó bị xâm phạm hoặc yêu
cầu Tòa án công nhận một sự kiện pháp lý, các quyền dân sự, hôn nhân gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động. Khi BLTTDS 2004 ra đời đã tách thủ tục giải
quyết vụ án dân sự trước đây thành hai thủ tục tố tụng riêng biệt là thủ tục giải
quyết vụ án dân sự và thủ tục giải quyết việc dân sự, quyền khởi kiện không bao
hàm quyền yêu cầu xem xét về việc công nhận hay không công nhận một sự

kiện pháp lý hoặc các quyền dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh thương
mại, lao động. Khái niệm quyền khởi kiện được hiểu theo nghĩa hẹp hơn trước


9

đây, cụ thể quyền khởi kiện là quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp bị xâm phạm hay tranh chấp trong vụ án dân sự [16, tr. 6]
Theo TS. Hoàng Ngọc Thỉnh thì “Quyền khởi kiện vụ án dân sự là quyền tố
tụng quan trọng của các chủ thể…Việc thực hiện quyền này của các chủ thể
được gọi là khởi kiện vụ án dân sự” và “Khởi kiện vụ án dân sự là việc cá nhân,
cơ quan, tổ chức hoặc các chủ thể khác theo quy định của pháp luật tố tụng dân
sự nộp đơn yêu cầu Tòa án có thẩm quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
mình hay của người khác”[16, tr. 238]. Theo đó, khởi kiện vụ án dân sự là hành
vi đầu tiên của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác tham gia vào quan hệ
pháp luật tố tụng dân sự, là cơ sở làm phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng dân sự.
Góc nhìn này tiếp tục được khẳng định bởi TS. Phan Chí Hiếu trong Giáo trình
Luật tố tụng dân sự của Học viện Tư pháp. Theo đó, “quyền khởi kiện vụ án dân
sự là quyền tố tụng của cá nhân, pháp nhân, các tổ chức xã hội hoặc các chủ thể
khác theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự yêu cầu Tòa án bảo vệ các
quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của Nhà nước, tập thể hay của người khác
đang bị tranh chấp hoặc bị vi phạm” [16, tr. 305].
Xét cho cùng bản chất của quyền khởi kiện là quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ
quyền lợi khi quyền lợi này bị tranh chấp hay vi phạm. Từ đó cần phát triển
quyền khởi kiện theo hai phương diện, theo nghĩa hẹp quyền khởi kiện là quyền
yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi của nguyên đơn và theo nghĩa rộng thì quyền
khởi kiện là quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi của nguyên đơn, quyền
phản tố (kiện ngược lại) của bị đơn và quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi
của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan do họ đã không thực hiện quyền yêu
cầu của mình trước khi nguyên đơn khởi kiện vụ án [16.,tr. 7].

Xét theo nghĩa hẹp thì quyền khởi kiện là quyền của nguyên đơn trong việc
yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi khi có tranh chấp hay bị vi phạm.
Quyền khởi kiện của nguyên đơn là quyền yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi
của chủ thể có quyền lợi hợp pháp bị tranh chấp hay bị vi phạm và việc thực
hiện quyền này sẽ làm phát sinh vụ án dân sự Tòa án. Xét về thực chất thì đây là
quyền của chủ thể có quyền lợi bị xâm phạm trong việc bắt đầu việc kiện để bảo


10

vệ quyền lợi của mình, thông qua việc đệ đơn yêu cầu Tòa án xem xét giải quyết
vụ án dân sự.
- Theo nghĩa rộng thì quyền khởi kiện bao hàm cả quyền yêu cầu Tòa án
bảo vệ quyền lợi của nguyên đơn, phản tố của bị đơn, quyền yêu cầu của người
có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.
Tuy nhiên, các quy định của pháp luật hiện hành cũng chưa thực sự đưa ra
một khái niệm về quyền phản tố của bị đơn. Theo quan điểm của Viện khoa học
xét xử Tòa án nhân dân tối cao thì “Trong vụ án dân sự, đương sự nào khởi
kiện trước là nguyên đơn còn đương sự bị nguyên đơn khởi kiện là bị đơn.
Trong một số vụ án dân sự có lỗi hỗn hợp, B là bị đơn yêu cầu A là nguyên đơn
phải bồi thường cho B, thì đây là trường hợp phản tố (hay khởi kiện ngược lại).
Việc phản tố của bị đơn đối với nguyên đơn không làm thay đổi địa vị tố tụng
của họ. Thực chất việc khởi kiện ngược lại là một việc khác của bị đơn đối với
nguyên đơn, nhưng được xét cùng với đơn kiện của nguyên đơn vì việc giải
quyết yêu cầu của hai bên có liên quan chặt chẽ với nhau”. Khi nghiên cứu về
người có quyền và nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập, TS. Nguyễn
Công Bình cho rằng: “Trong vụ án dân sự, lợi ích pháp lý của người có quyền
và nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập luôn độc lập với lợi ích pháp lý
của nguyên đơn và bị đơn. Thông thường người có quyền và nghĩa vụ liên quan
tham gia tố tụng độc lập có đủ điều kiện pháp lý khởi kiện vụ án dân sự nhưng

do vụ án dân sự đã xuất hiện giữa nguyên đơn và bị đơn nên họ phải tham gia
tố tụng để bảo vệ quyền hay lợi ích hợp pháp của mình nếu không việc bảo vệ
quyền hay lợi íchcủa họ sau đó sẽ gặp khó khăn”. [16, tr. 108]
Về bản chất thì quyền phản tố của bị đơn có thể hiểu là quyền khởi
kiện ngược lại của bị đơn, quyền yêu cầu của người có quyền nghĩa vụ liên quan
có yêu cầu độc lập là quyền khởi kiện chống lại cả nguyên đơn và bị đơn hoặc
chỉ chống lại nguyên đơn hoặc bị đơn trong vụ án dân sự.
Nói đến việc khởi kiện nếu xét theo nghĩa là một hoạt động tố tụng thì thực
chất đó là quá trình các chủ thể có quyền khởi kiện đã triển khai trên thực tế
quyền khởi kiện hay việc hiện thực hóa quyền khởi kiện với tư cách là một


11

“quyền khách quan” để trở thành “quyền chủ quan” của một chủ thể cụ thể khi
họ thực hiện việc khởi kiện. Vì vậy, có thể thấy rằng nếu hiểu khởi kiện với tư
cách là một hoạt động tố tụng thì:
“Quyền khởi kiện vụ án dân sự là quyền tố tụng của cá nhân, pháp nhân,
các tổ chức xã hội hoặc các chủ thể khác theo quy định của pháp luật tố tụng
dân sự yêu cầu Tòa án bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của mình, của Nhà
nước, tập thể hay của người khác đang bị tranh chấp hoặc bị vi phạm”
Và “Khởi kiện là những hoạt động của chủ thể có quyền triển khai thực
hiện quyền khởi kiện theo một trình tự, thủ tục luật định để bảo vệ quyền hay lợi
ích hợp pháp của mình hay của người khác”
Như vậy, có thể hiểu khởi kiện vụ án dân sự là hoạt động của chủ thể có
quyền triển khai thực hiện quyền khởi kiện theo một trình tự, thủ tục luật định để
bảo vệ quyền hay lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác khi các quyền
hay lợi ích này bị xâm phạm hay tranh chấp.
1.1.2. Đặc điểm của khởi kiện vụ án dân sự
Với tư cách là một hoạt động tố tụng làm cơ sở để phát sinh hoạt động tố

tụng tiếp theo như thụ lý, chuẩn bị xét xử phiên tòa sơ thẩm … Hoạt động khởi
kiện VADS có những đặc điểm sau:
- Là hoạt động do các chủ thể có thẩm quyền theo quy định của pháp luật
nội dung và pháp luật tố tụng quy định thực hiện (còn các hoạt động khác do
các chủ thể tố tụng thực hiện ví dụ: Tòa án thực hiện việc thụ lý, việc chuẩn bị
xét xử, hòa giải, phiên tòa …). Hiện tại tồn tại các quy định hiện hành về hoạt
động khởi kiện là hoạt động tố tụng hay trước tố tụng.
- Khởi kiện vụ án dân sự được pháp luật ghi nhận là hoạt động bảo vệ
quyền dân sự của chủ thể có quyền hay lợi ích hợp pháp bị xâm phạm. Cụ thể
khởi kiện được pháp luật ghi nhận dưới dạng quyền khởi kiện tại Điều 161
BLTTDS, theo đó cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua
người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án (sau đây gọi chung là người khởi kiện)
tại Toà án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền hay lợi ích hợp pháp của
mình. Đặc điểm này xuất phát từ yêu cầu của việc cần đảm bảo quyền con


12

người, khi quyền hay lợi ích bị xâm phạm chủ thể có quyền cần phải có một
công cụ để bảo vệ lợi ích của mình hoặc của người khác mà phương pháp hiệu
quả nhất chính là nhờ vào quyền lực cũng như sự công minh của nhà nước và
pháp luật thông qua việc làm đơn khởi kiện. Việc làm đơn khởi kiện là bước
đầu tiên trong hoạt động khởi kiện, từ việc làm đơn gửi Tòa án sẽ phát sinh
những thủ tục tố tụng tiếp theo như: đơn được Tòa án thụ lý hay không thụ lý,
nếu đơn được chấp nhận Tòa án sẽ ra quyết định xét xử vụ án ... Chính vì vậy,
khởi kiện được coi là hoạt động không thể thiếu để làm phát sinh vụ án dân sự.
- Xé theo nghĩa hẹp thì khởi kiện được thực hiện ở thời điểm trước khi Tòa
án thụ lý vụ án. Với việc chủ thể có quyền nộp đơn khởi kiện tại Tòa án để bảo
vệ quyền hay lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác đã làm phát sinh
hàng loạt những hoạt động tiếp theo. Hoạt động ngay sau việc nộp đơn khởi

kiện là hoạt động thụ lý, đây là hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng cụ thể
là của Tòa án. Thụ lý vụ án là việc Tòa án nhận đơn khởi kiện của người khởi
kiện và vào sổ thụ lý vụ án dân sự để giải quyết. Khởi kiện chính là hành vi đầu
tiên của cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác tham gia vào quan hệ pháp luật
tố tụng dân sự TTDS, là cơ sở pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật tố tụng
dân sự, hoạt động khởi kiện là tiền đề cho các hoạt động tiếp theo trong quá
trình giải quyết vụ án dân sự.
- Đặc trưng của khởi kiện vụ án dân sự là hoạt động trong đó các đương sự
được tự do định đoạt, theo đó cá nhân, cơ quan, tổ chức và các chủ thể khác có
quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm có quyền thực hiện hoặc không thực hiện
hoạt động khởi kiện vụ án dân sự để yêu cầu Tòa án có thẩm quyền buộc người
có hành vi xâm phạm quyền dân sự phải chấm dứt hành vi vi phạm, bồi thường
thiệt hại hoặc theo thỏa thuận của các bên. Việc thực hiện khởi kiện được thực
hiện trên cơ sở tự nguyện và quyền tự do của cá nhân, đồng thời pháp luật cũng
ghi nhận việc tự định đoạt và tự thỏa thuận của các chủ thể. Điều này xuất phát
từ bản chất dân sự của các quan hệ pháp luật dân sự, hôn nhân, gia đình, kinh
doanh, thương mại, lao động nên trong tố tụng dân sự thì các đương sự có
quyền tự định đoạt về việc bảo vệ quyền lợi của mình. Các đương sự được tự do


13

lựa chọn các phương thức để bảo vệ quyền, lợi ích của mình như trung gian hòa
giải, trọng tài hoặc yêu cầu sự can thiệp của Tòa án bằng việc thực hiện hoạt
động khởi kiện.
- Khởi kiện vụ án dân sự là một phương thức văn minh thay thế cho việc tự
do hành xử của cá nhân trong việc giải quyết tranh chấp tồn tại trong lịch sử. Do
các bên trong quan hệ pháp luật nội dung bình đẳng về địa vị pháp lý nên một
bên không thể tự mình cưỡng chế bên kia phải thực hiện nghĩa vụ của mình nên
họ cần phải tìm đến một chủ thể có địa vị pháp lý cao hơn, có quyền năng đặc

biệt để can thiệp giúp họ khôi phục lại quyền hay lợi íchbị xâm hại, chủ thể đặc
biệt đó là Nhà nước. Thay vì hành xử bằng các hành vi, lời nói đời thường, nói
qua nói lại cũng không giải quyết được vấn đề thì việc chọn khởi kiện tại cơ
quan có thẩm quyền là lựa chọn hoàn toàn đúng đắn, tránh đẩy mâu thuẫn, tranh
chấp đến mức hành xử thiếu văn minh, thậm chí tiếp tục làm phương hại tới
nhau. Vì vậy, việc khởi kiện với nghĩa là hoạt động của chủ thể có quyền triển
khai thực hiện quyền khởi kiện theo một trình tự, thủ tục luật định để bảo vệ
quyền hay lợi íchhợp pháp của mình hay của người khác khi các quyền hay lợi
ích này bị xâm phạm hay tranh chấp được coi là một hoạt động mang tính chất
văn minh.
1.1.3. Ý nghĩa của khởi kiện dân sự
Pháp luật ghi nhận khởi kiện là hoạt động của chủ thể pháp luật dân sự
nhằm bảo vệ quyền hay lợi ích của mình hay của người khác khi bị tranh chấp
hay bị vi phạm đồng nghĩa với việc trao cho người dân một phương thức bảo vệ
hữu hiệu quyền dân sự của mình. Bằng việc thực hiện hoạt động khởi kiện chủ
thể có quyền khởi kiện có thể nhờ tới sự can thiệp kịp thời của Tòa án, thông
qua hoạt động xét xử Tòa án để bảo vệ các quyền hay lợi íchhợp pháp của
đương sự, ngăn chặn được các thiệt hại, chấm dứt hành vi trái pháp luật và khôi
phục lại các quyền dân sự của các chủ thể… Một khi chủ thể lựa chọn việc khởi
kiện vụ án dân sự tại Tòa án có nghĩa là họ mong muốn được nhà nước sử dụng
quyền lực đặc biệt để phán xét, khôi phục quyền hay lợi íchmà họ đã bị tranh
chấp hay bị vi phạm, quyết định của Tòa án mang tính cưỡng chế, bắt buộc thi


14

hành đối với người vi phạm. Do đó, pháp luật ghi nhận vấn đề khởi kiện, trao
quyền khởi kiện cho cá nhân, cơ quan, tổ chức cũng có nghĩa là trao trách nhiệm
cho những người thực thi pháp luật, điều đó thể hiện sự quan tâm của nhà nước
đối với đời sống nhân dân, thể hiện đúng đường lối của Đảng và Nhà nước đó là

“nhà nước là của dân, do dân và vì dân”.
Bản chất của việc khởi kiện là triển khai thực hiện quyền khởi kiện theo
một trình tự, thủ tục luật định để bảo vệ quyền hay lợi íchhợp pháp của mình hay
của người khác khi các quyền hay lợi íchnày bị xâm phạm hay tranh chấp. Khởi
kiện được thực hiện ở thời điểm trước khi Tòa án thụ lý vụ án. Chủ thể thực hiện
hoạt động khởi kiện nhằm bảo vệ quyền hay lợi íchcủa mình hoặc của người
khác bằng việc nộp đơn, chứng cứ và tài liệu đi kèm nếu có tại Tòa án. Khi đơn
được nộp tại Tòa án thì người có thẩm quyền sẽ thực hiện việc tiếp nhận đơn và
xem xét trong thời hạn do pháp luật quy định để đưa ra quyết định thụ lý hay
không thụ lý. Khi có quyết định thụ lý Tòa án sẽ tiến hành hoạt động các hoạt
động tố tụng tiếp theo. Nếu chủ thể có quyền khởi kiện không thực hiện hoạt
động khởi kiện thì sẽ không có những hoạt động tiếp theo và vụ án dân sự cũng
không được phát sinh kéo theo tranh chấp sẽ không được giải quyết triệt để. Vì
vậy, có thể thấy khởi kiện là hành vi đầu tiên của cá nhân, pháp nhân và các chủ
thể khác tham gia vào quan hệ pháp luật TTDS; là cơ sở pháp lý làm phát sinh
quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, hoạt động khởi kiện là tiền đề cho các hoạt
động tiếp theo trong quá trình giải quyết vụ án dân sự.
Thông qua hoạt động khởi kiện chủ thể có quyền khởi kiện đã nhờ tới sự
can thiệp của một chủ thể đặc biệt đó là nhà nước để bảo vệ quyền hay lợi
íchhợp pháp của mình. Nhà nước sử dụng quyền lực mang tính cưỡng chế không
những khôi phục lại quyền hay lợi íchhợp pháp của chủ thể bị xâm phạm đồng
thời buộc chủ thể vi phạm trao trả, khôi phục lại quyền hay lợi íchchủ thể bị xâm
hại và chịu những chế tài, trách nhiệm pháp lý nghiêm khắc của pháp luật. Vì
vậy, cơ chế khởi kiện dân sự ra đời không những bảo vệ được quyền dân sự của
các chủ thể mà còn có ý nghĩa răn đe, ngăn chặn các hành vi xâm phạm quyền


15

lợi hợp pháp của các chủ thể, đảm bảo sự ổn định của các quan hệ xã hội, nâng

cao ý thức pháp luật của người dân.
1.2. Cơ sở của khởi kiện vụ án dân sự
1.2.1. Cơ sở lý luận
Khởi kiện vụ án dân sự là hoạt động của chủ thể có quyền triển khai thực
hiện quyền khởi kiện theo một trình tự, thủ tục luật định để bảo vệ quyền hay lợi
ích hợp pháp của mình hay của người khác khi các quyền hay lợi ích này bị xâm
phạm hay tranh chấp, theo đó khi chủ thể có quyền (quyền khởi kiện) thì được
thực hiện hoạt động khởi kiện. Việc ghi nhận quyền khởi kiện đồng nghĩa với
việc ghi nhận cơ sở cho hoạt động khởi kiện. Quyền khởi kiện được ghi nhận là
một quyền con người trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 và các
Công ước quốc tế khác, cụ thể Điều 8 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm
1948 ghi nhận “Mọi người đều có quyền được bảo vệ bằng các Tòa án quốc gia
có thẩm quyền với phương diện pháp lý có hiệu lực chống lại những hành vi vi
phạm các quyền căn bản đã được Hiến pháp và pháp luật công nhận”. Kế thừa
các quy định về quyền con người, Điều 50 Hiến pháp 1992 của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quy định “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội
được tôn trọng thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến
pháp và luật”. Trên cơ sở quy định về quyền con người của Hiến pháp 1992,
pháp luật tố tụng dân sự cũng cụ thể hóa cơ chế bảo vệ các quyền này thông qua
phương thức khởi kiện tại Tòa án. Do đó, việc ghi nhận khởi kiện vụ án dân sự
là hoạt động triển khai thực hiện quyền khởi kiện của chủ thể có quyền trong
TTDS trước hết phải dựa trên cơ sở ghi nhận và bảo đảm các quyền con người
về dân sự.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Huy Đẩu thì quyền khởi kiện có thể được
phân tích như một quyền lợi trong thể động, khi quyền lợi còn được tôn trọng,
không bị phủ nhận, chưa phải đem ra Tòa thì quyền lợi còn ở trong thể tĩnh,
quyền lợi chỉ có thể là căn nguyên của tố quyền chứ không thể sáp nhập với tố
quyền. Theo góc nhìn này thì pháp luật nội dung ghi nhận và bảo hộ các quyền



16

về dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động của các chủ
thể. Để các quyền lợi hợp pháp trên được bảo đảm thực hiện trên thực tế pháp
luật cần trao cho những chủ thể có quyền lợi bị xâm hại hay tranh chấp này một
phương tiện để bảo vệ quyền lợi của mình nhằm thiết lập lại trật tự của các quan
hệ pháp luật nội dung đang bị xáo trộn, chính vì lẽ đó mà hoạt động khởi kiện để
triển khai thực hiện quyền khởi kiện được pháp luật ghi nhận như một phương
thức hữu hiệu bảo vệ quyền dân sự của các chủ thể.
Việc quy định khởi kiện VADS phải được dựa trên cơ sở phù hợp với các
quyền dân sự của công dân, cụ thể:
- Bất kỳ đương sự nào muốn thực hiện việc khởi kiện VADS thì điều kiện
đầu tiên phải chứng minh được mình là chủ thể của các quyền dân sự đang có
tranh chấp hoặc bị vi phạm cần được bảo vệ, đây là cơ sở quyết định để các chủ
thể thực hiện quyền này trừ trường hợp họ khởi kiện để bảo vệ quyền hay lợi ích
hợp pháp cho chủ thể khác.
- Hoạt động khởi kiện VADS được xây dựng dựa trên nguyên tắc cơ bản
của TTDS đó là quyền tự định đoạt của các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân
sự (theo nghĩa rộng). Trong quan hệ pháp luật dân sự các chủ thể độc lập với
nhau về tổ chức, tài sản, bình đẳng trong việc hưởng quyền và thực hiện nghĩa
vụ cũng như chịu trách nhiệm dân sự. Khi tham gia các quan hệ dân sự, các chủ
thể có toàn quyền lựa chọn chủ thể khác tham gia cùng với mình cũng như
quyền và nghĩa vụ phải thực hiện trong giao dịch dân sự, do đó khi có tranh chấp
về quyền và nghĩa vụ các chủ thể có toàn quyền quyết định việc có yêu cầu Tòa
án giải quyết các tranh chấp hay không và ai sẽ là người khởi kiện.
- Xuất phát từ bản chất dân sự của các quan hệ pháp luật dân sự, các chủ thể
trong quan hệ dân sự độc lập với nhau về tổ chức, tài sản, bình đẳng về địa vị
pháp lý nghĩa là họ bình đẳng với nhau về việc hưởng quyền, thực hiện nghĩa vụ
và chịu trách nhiệm dân sự. Vì vậy, việc ghi nhận quyền khởi kiện dựa trên cơ

sở bảo đảm quyền bình đẳng của các đương sự trong việc bảo vệ quyền hay lợi
íchdân sự hợp pháp của mình
1.2.2. Cơ sở thực tiễn


17

Vấn đề ghi nhận khởi kiện vụ án dân sự ngoài việc dựa trên cơ sở lý luận
mà tác giả đã trình bày trên đây, việc khởi kiện còn chưa trên cơ sở thực hiện
sau đây:
- Một là, nhận thức pháp luật của các chủ thể chưa cao, hoặc do muốn giành
lấy cho mình những lợi ích của người khác nên đã xâm phạm đến quyền hay lợi
ích hợp pháp của chủ thể khác. Do đó, cần phải có cơ chế bảo vệ quyền hay lợi
ích pháp của các chủ thể bị xâm phạm hay tranh chấp bằng con đường khởi kiện.
- Hai là, các tranh chấp ngày càng đa dạng, phức tạp, trong khi trình độ hiểu
biết pháp luật của các đương sự còn hạn chế nên khi tranh chấp xảy ra các
đương sự gặp khó khăn trong việc bảo vệ quyền hay lợi ích hợp pháp của mình.
Vì vậy, việc quy định rõ ràng, chi tiết các quy định pháp luật về vấn đề khởi kiện
là một yêu cầu tất yếu.
- Cơ sở thực tiễn của khởi kiện hiện nay còn được dựa trên quá trình hình
thành và phát triển các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam về khởi
kiện vụ án dân sự. Cụ thể:
+ Giai đoạn trước năm 1945: Chế định khởi kiện nói chung và khởi kiện vụ
án dân sự nói riêng đã xuất hiện trong pháp luật Việt Nam ngay từ khá sớm.
Ngay từ thời Lê (thế kỷ thứ XV) đã xuất hiện các quy định về vấn đề khởi kiện.
Ví như một số quy định: Điều 508 Quốc triều Hình luật có quy định: đơn khởi
kiện phải do đương sự làm và gửi ở cấp có thẩm quyền, hay theo pháp luật nhà
Lê có quy định con cháu không được kiện ông, bà, cha, mẹ… Điều 1 Khám tụng
điều lệ quy định: khi nhận được đơn các quan xử án phải xem xét thủ tục xem đã
đầy đủ hay chưa. Đến thời nhà Nguyễn. Việc kiện tiếp tục được ghi nhận tại một

số điều luật trong Hoàng Việt luật lệ , ngoài ra còn ghi nhận tại chiếu, chỉ, lệnh,
dụ của nhà Vua được ghi chép lại trong sách : “Khâm định Đại nam hội điển sự
lệ”. Ở thời kỳ này pháp luật có quy định: phàm nhân dân có sự gì oan uổng, cho
phép tự mình đi tố cáo lấy, nếu ai tự tiện mượn người đi kiện thay thì người
mượn và người đi kiện thay phải chịu hình phát như nhau, bị xử đánh 100 roi,
xích khóa lại bị bắt làm phu dịch một tháng. Có thể thấy rằng so với giai đoạn
thời nhà Lê thì các quy định về việc kiện của người dân dưới thời nhà Nguyễn


18

không được cụ thể và chi tiết bằng, đây là yếu tố ảnh hưởng lớn đến việc kiện
tụng của nhân dân. [5, tr. 11]. Dưới thời pháp thuộc thủ tục giải quyết các tranh
chấp dân sự được quy định trong luật dân sự thương sự tố tụng và Pháp viện
biên chế. Theo luật dân sự thương sự tố tụng thì một vụ tranh chấp dân sự xảy
ra, người có quan hệ trực tiếp đến vụ tranh chấp có quyền viết đơn đến Tòa án
khởi kiện.
Như vậy, có thể khẳng định các quy định về khởi kiện đã xuất hiện từ khá
sớm trong pháp luật Việt Nam, mặc dù các quy định này còn khá đơn giản tuy
nhiên đó cũng là những cơ sở đầu tiên để hình thành chế định khởi kiện VADS
trong pháp luật Việt Nam sau này [5, tr. 12]
+ Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989: Ngày 13/9/1945 Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ký Sắc lệnh số 33C/SL về việc thành lập các Tòa án quân sự - Cơ quan
xét xử của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Sắc lệnh số 13/SL ngày
24/01/1946 quy định về tổ chức các Tòa án và các ngách Thẩm phán trong nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ngày 10/10/1945 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban
hành Sắc lệnh số 90/SL giữ tạm thời các luật lệ hiện hành ở Bắc, Trung, Nam
Bộ cho đến khi ban hành những Bộ luật mới áp dụng cho toàn quốc. Ngày
17/4/1946 Nhà nước ta ban hành Sắc lệnh số 52/SL quy định về việc khởi kiện,
khởi tố và thụ lý vụ án. Tiếp đó, Hiến pháp năm 1946 ra đời là bản Hiến pháp

đầu tiên của nước ta, là đạo luật cơ bản đồng thời là đạo luật gốc của pháp luật
Việt Nam thời bấy giờ. Thể chế dân chủ mà Hiến pháp năm 1946 tạo ra đã trở
thành nền tảng cơ bản để hình thành khởi kiện vụ án dân sự. Ngày 22/5/1950
Sắc lệnh số 97/SL được ban hành quy định về việc sửa đổi một số nguyên tắc
mới để áp dụng trong điều kiện dân chủ và Sắc lệnh số 85/SL quy định về cải
cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng. Những quy định trong Sắc lệnh 97/SL đã
đặt cơ sở cho sự hình thành và phát triển việc khởi kiện của công dân : “Trong
lúc còn sinh thời người chồng góa vợ hay vợ góa, các con đã thành niên có
quyền xin chia phần tài sản thuộc quyền sở hữu của người chết, sau khi đã
thanh toán tài sản chung” (Điều 11 Sắc lệnh 97/SL). Có thể nhận thấy, trong
giai đoạn từ năm 1945 cho đến 1954 chế định khởi kiện VADS bước đầu đã


19

được ghi nhận trong pháp luật Việt Nam. Nhưng do thời điểm này đất nước mới
giành được độc lập, còn nhiều khó khăn, chính quyền còn non trẻ nên các cơ
quan tư pháp nói chung và hệ thống Tòa án nói rieneg hầu như chỉ chú trọng vào
nhiệm vụ hàng đầu là củng cố và giữ vững chính quyền cách mạng nên các Tòa
án chỉ tập trung xét xử các vụ án hình sự mà chưa thể giải quyết các tranh chấp
về dân sự, vì vậy việc thực hiện khởi kiện của người dân chưa được chú trọng
[5, tr. 12 -13].
Từ năm 1955 đến năm 1960 Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản pháp luật
như Thông tư số 141/HCTP ngày 05/02/1957, Thông tư số 1507/HCTP ngày
24/8/1956 của Bộ tư pháp và Thông tư số 69/TC ngày 31/12/1959, Quốc hội
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa cũng thông qua Hiến pháp năm 1959, trong
đó quyền khiếu nại, tố cáo của công dân đã được ghi nhận trong một điều riêng
“Công dân có quyền khiếu nại, tố cáo với bất cứ cơ quan của nhà nước về
những việc làm vi phạm pháp luật của cán bộ và nhân viên nhà nước …” (Điều
29). Đây là một trong những bước phát triển quan trọng nhất của Hiến pháp

năm 1959. Theo đó, pháp luật TTDS nói chung và chế định khởi VADS nói
riêng đã có sự thay đổi đáng kể, các quy định, hướng dẫn ngày một đầy đủ và
hoàn thiện. Trên cơ sở Hiến pháp năm 1969, Quốc hội đã ban hành Luật tổ chức
Tòa án năm 1960, Luật tổ chức VKSND năm 1960. Sau khi Luật hôn nhân và
gia đình năm 1959 và Luật tổ chức TAND, Luật tổ chức VKSND năm 1960 ra
đời đã có một khối lượng đáng kể các văn bản hướng dẫn thủ tục giải quyết các
tranh chấp dân sự, đặc biệt là thủ tục giải quyết ly hôn do TAND tối cao,
VKSND tối cao ban hành [5, tr.14].
Năm 1975 đất nước hoàn toàn thống nhất. Ngày 13/3/1976, Hội đồng Chính
phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền nam Việt Nam đã ra Sắc luật số
01/SL/76 quy định về tổ chức TAND và VKSND. Ngày 08/02/1977 TAND tối
cao ban hành Thông tư 96/NCPL hướng dẫn trình tự xét xử sơ thẩm về dân sự.
Năm 1980, Nhà nước ban hành bản Hiến pháp 1980 thể chế hóa đường lối xây
dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Cũng trong thời gian này, Nhà
nước ta đã ban hành Luật tổ chức TAND năm 1981 và Luật tổ chức VKSND


20

năm 1981. Như vậy, có thể nói trong giai đoạn này các văn bản quy định về
TTDS và đặc biệt là việc khởi kiện VADS ngày càng đầy đủ và cụ thể hơn. Tuy
nhiên, hầu hết các quy định này vẫn còn tản mạn trong nhiều văn bản pháp luật
khác nhau và chưa mang tính pháp lý cao.
+ Giai đoạn từ năm 1990 đến năm 2004: Từ những năm 1989 đến năm
2003, trên cơ sở kế thừa và phát triển các quy định về thủ tục TTDS trước đó,
đồng thời quán triệt tinh thần Nghị quyết đại hội Đảng cộng sản Việt Nam toàn
quốc lần thứ VI tăng cường quản lý Nhà nước bằng pháp luật, Nhà nước ta đã
ban hành nhiều văn bản pháp luật về TTDS như Pháp lệnh tố tụng giải quyết các
vụ án dân sự ngày 29/11/1989, Pháp lệnh tố tụng giải quyết các vụ án kinh tế
ngày 16/3/1994, Pháp lệnh tố tụng giải quyết các tranh chấp lao động ngày

11/4/1996. Những văn bản này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giải quyết
các VADS trong thời kỳ này. Trong đó, vấn đề khởi kiện và thụ lý vụ án cũng
được quy định chi tiết tạo cơ sở cho quá trình giải quyết các VADS [Nguyễn
Phương Thảo (2011). “Khởi kiện vụ án dân sự theo quy định của Bộ luật tố tụng
dân sự năm 2004”, Khóa luận tốt nghiệp, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.15].
Ngày 15/4/1992 tại Kỳ họp Quốc hội khóa VIII đã thông qua Hiến pháp
năm 1992, bản Hiến pháp của thời kỳ đổi mới. Để cụ thể hóa các quy định của
Hiến pháp năm 1992, Quốc hội đã ban hành Luật TCTAND năm 1992 và Luật
TCVKSND năm 1992. Theo đó, các quy định về quyền khởi kiện, khởi tố
VADS của cá nhân, pháp nhân, tổ chức xã hội và VKS được khẳng định thêm
một bước tiến mới, ngày càng hoàn thiện hơn. Nhìn chung, các văn bản tố tụng
được ban hành trong thời gian này đã quy định về vấn đề khởi kiện và khởi tố
VADS, vụ án kinh tế và vụ án lao động có nhiều điểm tiến bộ. Tuy nhiên, các
quy định còn dừng ở những điểm chung, chưa cụ thể. Mặt khác, xét về bản chất
các tranh chấp kinh tế và tranh chấp lao động đề bắt nguồn từ tranh chấp dân sự
nhưng thủ tục giải quyết lại được ba pháp lệnh quy định theo các trình tự khác
nhau nên nhiều trường hợp trong thực tiễn đã có sự nhầm lẫn, lúng túng, khó
khăn trong cả việc giải quyết các vụ án của Tòa án cũng như việc tham gia tố
tụng của các đương sự [5, tr.16].


×