Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Nghiên cứu tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân theo định hướng nghị quyết 49 NQTW và hiến pháp 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1017.89 KB, 73 trang )

Nghiên cứu tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND theo định hướng Nghị quyết 49-NQ/TW và Hiến pháp 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN VĂN CƢỜNG

NGHIÊN CỨU TIẾP TỤC ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN THEO ĐỊNH HƢỚNG
NGHỊ QUYẾT 49-NQ/TW VÀ HIẾN PHÁP 2013

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 60 38 01 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TÔ VĂN HÒA

HÀ NỘI - 2014


Nghiên cứu tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND theo định hướng Nghị quyết 49-NQ/TW và Hiến pháp 2013

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.



NGUYỄN VĂN CƢỜNG


Nghiên cứu tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND theo định hướng Nghị quyết 49-NQ/TW và Hiến pháp 2013


Nghiên cứu tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND theo định hướng Nghị quyết 49-NQ/TW và Hiến pháp 2013

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
CHƢƠNG 1.......................................................................................................... 4
KHÁI QUÁT VỀ HỆ THỐNG TÒA ÁN NHÂN DÂN VÀ CHỦ TRƢƠNG
ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN KỂ
TỪ ĐẠI HỘI ĐẢNG VI ...................................................................................... 4
1.1. Khái quát về hệ thống Tòa án nhân dân .............................................. 4
1.1.1. Khái niệm về hệ thống tòa án nhân dân ............................................. 4
1.1.2. Vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân trong tổ chức bộ máy nhà nước 5
1.2. Chủ trƣơng đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân kể từ
sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986) .............................................. 6
1.2.1. Giai đoạn từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI tháng 12/1986
đến trước Hội nghị Trung ương 8 lần 9, năm 2002........................................ 7
1.2.2. Giai đoạn từ Hội nghị Trung ương 8 lần 9 đến tháng 6 năm 2005 ... 9
1.2.3. Giai đoạn từ sau Hội nghị Trung ương 8 lần 9 đến ngày 2 tháng 6
năm 2005 đến nay ......................................................................................... 11
CHƢƠNG 2: TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN
SAU 8 NĂM THỰC HIỆN CHIẾN LƢỢC CẢI CÁCH TƢ PHÁP ............ 17
2.1. Thực trạng công tác tổ chức hệ thống Tòa án nhân dân .................. 17
2.2. Thực tiễn đổi mới hoạt động của Tòa án nhân dân .......................... 23
CHƢƠNG 3: NHỮNG ĐIỂM MỚI TRONG HIẾN PHÁP 2013 VỀ TỔ

CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN ............................... 29
3.1. Những điểm mới về vị trí, chức năng của Tòa án nhân dân trong bộ
máy nhà nƣớc ................................................................................................. 30
3.2. Những điểm mới về nhiệm vụ, vai trò và cơ cấu tổ chức của Tòa án
nhân dân .......................................................................................................... 30
3.3. Những điểm mới về hoạt động của Tòa án nhân dân ....................... 32
3.4. Quy định của Hiến pháp sửa đổi về Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao và Thẩm phán .......................................................................................... 36


Nghiên cứu tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND theo định hướng Nghị quyết 49-NQ/TW và Hiến pháp 2013

CHƢƠNG 4: MỤC TIÊU, YÊU CẦU, QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TIẾP
TỤC ĐỔI MỚI HỆ THỐNG TÒA ÁN THEO ĐỊNH HƢỚNG CẢI CÁCH
TƢ PHÁP VÀ HIẾN PHÁP 2013 ................................................................... 38
4.1. Mục tiêu, yêu cầu, quan điểm đổi mới hệ thống toà án theo định
hƣớng cải cách tƣ pháp và Hiến pháp 2013 ................................................ 38
4.1.1. Mục tiêu ............................................................................................ 38
4.1.2. Yêu cầu, quan điểm .......................................................................... 40
4.2. Giải pháp đổi mới hệ thống toà án theo định hƣớng cải cách tƣ pháp
................................................................................................................ 43
4.2.1. Về mô hình tổ chức hệ thống tòa án nhân dân ................................. 44
4.2.2. Về nhiệm vụ, thẩm quyền của hệ thống tòa án................................. 49
4.2.3. Về cơ chế bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và sự giám sát của cơ
quan dân cử đối với hệ thống toà án ............................................................ 54
4.2.4. Về cơ chế bảo đảm nguyên tắc độc lập xét xử ................................. 56
4.2.5. Các giải pháp cụ thể cần thực hiện ngay trong thời gian tới .......... 59
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 65
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 67



Nghiên cứu tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND theo định hướng Nghị quyết 49-NQ/TW và Hiến pháp 2013

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân, Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương tiến hành cải cách
tư pháp để khắc phục yếu kém, bất cập của hệ thống tư pháp; trong đó xác định
"toà án là khâu trung tâm của cải cách hệ thống các cơ quan tư pháp; công tác
xét xử là trọng tâm của cải cách các hoạt động tư pháp" nhằm góp phần tạo sự
phát triển đồng bộ, hướng tới mục tiêu xây dựng Nhà nước Việt Nam "dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
Theo quy định của Hiến pháp 2013 và định hướng cải cách tư pháp được
ghi nhận trong Nghị quyết 49- NQ/TW của Bộ Chính trị thì nhiệm vụ đổi mới tổ
chức hệ thống toà án được xác định là một trong những nhiệm vụ quan trọng
nhất; theo đó, sẽ tiến hành: Tổ chức hệ thống toà án theo thẩm quyền xét xử,
không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, gồm toà án sơ thẩm khu vực được tổ
chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện, toà án phúc thẩm có
nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án, toà cấp
cao được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thế im, Toà án nhân dân
tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng thống nhất
pháp luật phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm ".
Tuy nhiên, trên thực tế, quá trình triển khai thực hiện chủ trương này đang
có nhiều quan điểm trái ngược nhau cả về lý luận và thực tiễn. Ví dụ: Quan niệm
thế nào là tổ chức toà án không phụ thuộc vào đơn vị hành chính? Thẩm quyền
của toà án sơ thẩm khu vực như thế nào? Toà phúc thẩm được thành lập trên cơ
sở địa giới hành chính 01 tỉnh, thành phố hay nhiều tỉnh, thành phố? Toà cấp cao
được tổ chức tại 3 miền hay cần thành lập thêm một số toà cấp cao nữa? Mối
quan hệ giữa cấp uỷ đảng địa phương và toà án sẽ như thế nào nếu không tổ
chức theo địa giới hành chính? Phương thức lãnh đạo của Đảng và cơ chế giám

sát của cơ quan dân cử đối với toà án sẽ ra sao? Việc phân định thẩm quyền giữa
các cấp toà án được đổi mới như thế nào?... Thậm chí, mặc dù đã có kết luận của
cơ quan có thẩm quyền nhưng trong quá trình nghiên cứu sửa đổi Hiến pháp và
xây dựng phương án thành lập toà án sơ thẩm khu vực vẫn có một số ý kiến đề
nghị tổ chức hệ thống toà án theo 3 cấp, băn khoăn về chủ trương thành lập toà
án sơ thẩm khu vực…
Bên cạnh việc đổi mới cơ cấu, tổ chức, các định hướng cải cách khác của
ngành tòa án như tăng cường tranh tụng, bảo đảm tính độc lập của thẩm phán,
hội thẩm nhân dân … cũng đang có những ý kiến khác nhau.
1


Nghiên cứu tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND theo định hướng Nghị quyết 49-NQ/TW và Hiến pháp 2013

Qua thực tiễn công tác, tác giả nhận thấy, đây là những vấn đề rất lớn,
không chỉ tác động tới tổ chức và hoạt động của cả hệ thống toà án mà còn ảnh
hưởng tới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tố tụng khác là cơ quan điều tra,
viện kiểm sát và cả các cơ quan bổ trợ tư pháp. Với vị trí được xác định là
"trung tâm", việc đổi mới hệ thống toà án cần phải được tiến hành đồng bộ, thận
trọng trên cơ sở tổng kết sâu sắc thực tiễn và nghiên cứu làm rõ về mặt lý luận.
Do vậy, tác giả chọn đề tài: Nghiên cứu tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt
động của Tòa án nhân theo định hướng Nghị quyết 49-NQ/TW và Hiến pháp
2013 làm nội dung nghiên cứu, kiến nghị các giải pháp góp phần đưa Nghị
quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị và Hiến pháp 2013 thực sự đi vào cuộc sống.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ của đề tài
2.1.Mục tiêu: Làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn về vấn đề đổi mới hệ
thống toà án Việt Nam theo định hướng cải cách tư pháp để từ đó kiến nghị các
giải pháp để đưa chủ trương đổi mới hệ thống toà án của Nghị quyết 49-NQ/TW
của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và Hiến Pháp
2013 thực sự đi vào cuộc sống.

2.2.Nhiệm vụ: Để thực hiện được mục tiêu trên, đề tài cần đạt được các
nhiệm vụ cụ thể sau:
- Thứ nhất, phân tích, đánh giá chủ trương, đường lối của Đảng về đổi mới
hệ thống toà án Việt Nam theo định hướng cải cách tư pháp, nhất là những nội
dung được đề cập trong Nghị quyết 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược
cải cách tư pháp đến năm 2020; phân tích các nguyên tắc cơ bản về tổ chức và
hoạt động của tòa án với ý nghĩa là các yếu tố ảnh hưởng, chi phối tới việc đổi
mới hệ thống toà án Việt Nam.
- Thứ hai, đánh giá ưu, khuyết điểm của hệ thống toà án hiện nay đối chiếu
với các nguyên tắc Hiến định về tổ chức bộ máy nhà nước cũng như các nguyên
tắc đặc thù về tổ chức và hoạt động của hệ thống toà án.
- Thứ ba, đề xuất, luận chứng các yêu cầu, giải pháp và kiến nghị đổi mới
hệ thống toà án đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay.
3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề hệ thống toà án nhân dân ở Việt Nam,
không nghiên cứu về hệ thống toà án quân sự. Về mặt không gian, đề tài tập
trung nghiên cứu về hệ thống tòa án nhân dân trong quá trình cải cách, đổi mới
theo định hướng cải cách tư pháp, Hiến pháp 2013 và thực trạng của hệ thống
tòa án nhân dân trong giai đoạn hiện nay.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
2


Nghiên cứu tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND theo định hướng Nghị quyết 49-NQ/TW và Hiến pháp 2013

Đề tài dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa
duy vật biện chứng; chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước
và pháp luật, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về cải cách tư pháp và
đổi mới hệ thống tổ chức toà án. Đề tài chú trọng sử dụng phương pháp phân
tích so sánh để đánh giá thực trạng ưu, khuyết điểm của hệ thống toà án Việt

Nam đối chiếu với các nguyên tắc cơ bản về tổ chức quyền lực nhà nước, tổ
chức và hoạt động của hệ thống toà án. Bên cạnh đó, đề tài cũng sử dụng một số
phương pháp khác như: Phương pháp phân tích tổng hợp và phương pháp lịch
sử. Trong một số phần của luận văn cũng sử dụng phương pháp so sánh.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phần nội dung của đề tài gồm 4
chương:
Chương 1: Khái quát về hệ thống tòa án nhân dân và chủ trương đổi mới tổ
chức và hoạt động của tòa án nhân dân kể từ đại hội Đảng VI.
Chương 2: Những điểm mới trong Hiến pháp 2013 về tổ chức và hoạt động
của tòa án nhân dân.
Chương 3: Tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân sau 8 năm thực hiện
chiến lược cải cách tư pháp.
Chương 4: Mục tiêu, yêu cầu, quan điểm và giải pháp đổi mới hệ thống tòa
án theo định hướng cải cách tư pháp.

3


Nghiên cứu tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND theo định hướng Nghị quyết 49-NQ/TW và Hiến pháp 2013

CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ HỆ THỐNG TÒA ÁN NHÂN DÂN VÀ CHỦ TRƢƠNG
ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN KỂ
TỪ ĐẠI HỘI ĐẢNG VI
1.1.

Khái quát về hệ thống Tòa án nhân dân

1.1.1. Khái niệm về hệ thống tòa án nhân dân

Tòa án có chức năng chủ yếu là xét xử để bảo đảm công lý, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và Nhà nước. Cũng giống như hệ thống
tòa án nói chung trên thế giới, hệ thống Tòa án nhân dân của Việt Nam có thể
được xem xét dưới các góc độ hiện đại như sau:
- Thứ nhất, hệ thống toà án với tư cách là một thể thống nhất: Với tư cách
là một thể thống nhất, hệ thống toà án được giao chức năng xét xử các tranh
chấp giữa người dân với nhau hoặc giữa người dân với cơ quan nhà nước. Có
nhiều cách thức để giải quyết các tranh chấp khác nhau, nhất là các tranh chấp
không mang tính chất hình sự và các bên trong tranh chấp có thể không chọn toà
án là cơ quan phán xử đầu tiên. Họ có thể gặp gỡ nhau để thoả thuận về một
biện pháp giải quyết được chấp nhận bởi cả hai bên; hay họ có thể yêu cầu một
bên thứ ba, ví dụ như trọng tài hoặc hoà giải viên để giúp họ giải quyết tranh
chấp. Tuy nhiên, khi cách thức giải quyết bằng con đường nhà nước được lựa
chọn thì toà án chính là cơ quan nhà nước được giao quyền xét xử vụ việc. Phán
quyết của toà án đối với vụ việc được bảo đảm bằng sự cưỡng chế của nhà nước.
Điều này chính là đặc trưng của hoạt động xét xử của toà án và là yếu tố phân
biệt giữa hệ thống toà án với hai nhánh quyền lực lập pháp và hành pháp.
- Thứ hai, hệ thống toà án với ý nghĩa là một hệ thống xét xử nhiều cấp: Hệ
thống toà án ở bất kỳ nước nào trên thế giới cũng đều là một hệ thống xét xử bao
gồm các toà án được thành lập ở nhiều cấp xét xử khác nhau và có những thẩm
quyền xét xử khác nhau. Thực tiễn cho thấy, về cấp xét xử, hệ thống toà án ở các
quốc gia, cho dù là theo mô hình liên bang hay nhất thể, đều được chia theo
chiều dọc thành hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm. Cấp sơ thẩm gồm nhiều toà án
4


Nghiên cứu tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND theo định hướng Nghị quyết 49-NQ/TW và Hiến pháp 2013

xét xử vụ việc lần đầu tiên hoặc lại từ đầu. Cấp phúc thẩm bao gồm các toà xét
xử các vụ án đã được xử ở cấp sơ thẩm nhưng bị kháng cáo. Ở một số nước, một

số toà án ở cấp phúc thẩm có thể đồng thời có thẩm quyền xét xử sơ thẩm một
số loại việc như những vụ án hình sự có mức án phạt cao, những vụ việc dân sự
liên quan tới những khoản tiền lớn, hay những vụ việc chuyên ngành khác. Các
toà án này có thể được chia thành cấp phúc thẩm, bao gồm những toà chuyên xét
xử những vụ phúc thẩm đương nhiên và cấp thượng thẩm, thường bao gồm toà
án cao nhất của quốc gia hoặc các toà có thẩm quyền xét xử cuối cùng của vụ
việc. Hệ thống Tòa án nhân dân hiện hành của Việt Nam gồm 3 cấp: Tòa án
nhân dân cấp huyện; Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương,
Tòa án nhân dân tối cao.
- Thứ ba, hệ thống tòa án bao gồm hệ thống thể chế về tổ chức và hoạt
động của tòa án và các thiết chế tòa án. Khái niệm "hệ thống" theo nghĩa này có
nội hàm rộng, khái quát và đầy đủ nhất, bao gồm tất cả các quy định về hệ thống
tòa án cũng như cơ cấu tổ chức của tòa án.
Như vậy, qua phân tích từ các góc độ trên đây có thể thấy hệ thống tòa án
Việt Nam là tập hợp các hệ thống thiết chế tòa án và các quy định pháp luật về
tòa án được thành lập ở nhiều cấp xét xử khác nhau và có thẩm quyền xét xử
khác nhau nhằm bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền cơ bản của
công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
1.1.2. Vị trí, vai trò của Tòa án nhân dân trong tổ chức bộ máy nhà nước
Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bộ máy nhà nước được tổ
chức theo nguyên tắc tập trung quyền lực. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có
sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Thực hiện quyền tư pháp mà chủ yếu là
quyền xét xử là một trong những chức năng rất quan trọng của Nhà nước Việt
Nam và được giao cho hệ thống toà án. Do vậy, toà án có vị trí quan trọng trong

5



Nghiên cứu tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND theo định hướng Nghị quyết 49-NQ/TW và Hiến pháp 2013

bộ máy nhà nước và vai trò quan trọng đối với xã hội. Vị trí, vai trò đó thể hiện
ở một số khía cạnh sau.
Thứ nhất, tòa án bảo đảm công lý được thi hành trong xã hội. Từ góc độ
khoa học pháp lý, công lý là sự công bằng mà pháp luật đem lại cho tất cả mọi
người trong xã hội. Công lý tức là khi bị tranh chấp hoặc vướng vào vòng lao lý,
sự công bằng đó được thi hành đối với tất cả mọi người. Tòa án, với chức năng
xét xử, là cơ quan cuối cùng trong bộ máy nhà nước đưa ra sự phán quyết về
đúng, sai, về mức độ vi phạm và chế tài tương ứng. Vì vậy, tòa án là nơi mà
người dân trông chờ công lý đến với mình, là nơi cho thấy sự hiện diện của công
lý và bảo đảm công lý được thi hành.
Thứ hai, hệ thống tòa án bảo vệ quyền con người, quyền cơ bản của công
dân. Quyền con người, quyền công dân đã được hiến định và là những bảo đảm
pháp lý tối thiểu cho người dân sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam. Đây là những
quyền pháp lý cơ bản nhất, tối thiểu nhất, đem lại sự an toàn pháp lý cho người
dân trong mọi trường hợp. Trong thực tiễn, các quyền cơ bản này có thể bị xâm
phạm bởi bất kỳ chủ thể nào, kể cả các cơ quan nhà nước. Trong trường hợp các
quyền này bị vi phạm thì với chức năng xét xử của mình tòa án sẽ là cơ quan
phán xử về những vi phạm đó, qua đó bảo vệ quyền con người, quyền cơ bản
của công dân và bảo đảm an toàn pháp lý cho mọi người dân trong xã hội.
1.2.

Chủ trƣơng đổi mới tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân

kể từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986)
Trong những năm qua, vị trí của hệ thống toà án chưa được đánh giá đúng
mức trong thiết chế quyền lực nhà nước; trong phân công và phối hợp giữa các
cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Tổ chức và hoạt động của hệ thống toà án chưa theo kịp sự phát triển và

đòi hỏi của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội. Bên cạnh đó, trong tình hình hiện
nay, hoạt động xét xử của toà án đang đứng trước nhiều thách thức. Sự phát triển
mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền,
mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế dẫn tới những yêu cầu
6


Nghiên cứu tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND theo định hướng Nghị quyết 49-NQ/TW và Hiến pháp 2013

ngày càng cao đối với hoạt động của toà án. Coi việc cải cách tư pháp trong đó
có đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống tòa án là một trong những yếu tố
trọng tâm trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì
dân, ngay từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI tháng 12/1986, Đảng và Nhà
nước ta đặt ra chủ trương, quan điểm để đổi mới, nâng cao hiệu quả của hệ
thống tòa án. Đảng xác định tòa án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động
trọng tâm trong việc tổ chức lại các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ tư
pháp hợp lý, khoa học và hiện đại về cơ cấu tổ chức và điều kiện, phương tiện
làm việc.
Nghiên cứu những chủ trương, quan điểm của Đảng về đổi mới tổ chức,
hoạt động của Toà án nhân dân có thể thấy đường lối lãnh đạo của Đảng đối với
Toà án nhân dân trong thời kỳ đổi mới là đồng bộ, nhất quán, có sự kế thừa và
phát triển. Đảng luôn quan tâm chỉ đạo nhằm kiện toàn đội ngũ cán bộ Toà án
nhân dân, cho ý kiến về tổ chức của Toà án nhân dân, giới thiệu những cán bộ
có năng lực, trình độ chuyên môn cao và phẩm chất chính trị vững vàng cho
ngành Toà án; phát hiện và xử lý kỷ luật nghiêm minh đối với những cán bộ,
đảng viên có sai phạm công tác trong ngành Toà án. Đồng thời, Đảng lãnh đạo
thực hiện chức năng xét xử theo quy định của pháp luật. Thông qua việc thường
xuyên nghe báo cáo tổng hợp tình hình công tác của Toà án nhân dân, Đảng có
cơ sở để tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo phù hợp với hoạt động xét xử của Toà án.
1.2.1. Giai đoạn từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI tháng 12/1986

đến trước Hội nghị Trung ương 8 lần 9, năm 2002
Quan điểm của Đảng về đổi mới tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân
trong thời kỳ đổi mới thể hiện ngay từ các văn kiện ban hành sau Đại hội Đảng
Toàn quốc lần VII. Có thể kể đến các văn kiện tiêu biểu như: Nghị quyết Hội
nghị Trung ương VII lần 3 và Nghị quyết Hội nghị Trung ương VII lần thứ 8;
Chỉ thị số 29-CT/TW ngày 8-11-1993 của Ban Bí thư về "Tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với các cơ quan bảo vệ pháp luật"; Chỉ thị số 34 – TC/TW
ngày 18-3-1994 của Ban Bí thư về "Sự lãnh đạo của Đảng đối với việc tuyển
7


Nghiên cứu tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND theo định hướng Nghị quyết 49-NQ/TW và Hiến pháp 2013

chọn, bổ nhiệm Thẩm phán Toà án nhân dân, Thẩm phán Toà án quân sự các
cấp"; Chỉ thị số 52-CT/TW ngày 16-3-2000 của Bộ Chính trị về "Phạm vi trách
nhiệm, quyền hạn giữa cấp uỷ Đảng với Đảng uỷ Công an, Ban Cán sự đảng
Viện Kiểm sát nhân dân, Ban Cán sự đảng Toà án nhân dân trong công tác bảo
vệ Đảng và xử lý tội phạm liên quan đến cán bộ, đảng viên"; Chỉ thị số 53 –
CT/TW của Bộ Chính trị ngày 21-3-2000 về "Một số công việc cấp bách của các
cơ quan tư pháp cần thực hiện trong năm 2000".
Nghị quyết Trung ương 8 khoá VII, ngày 23-1-1995 xác định phương
hướng đổi mới tổ chức và hoạt động của toà án nhân dân là: "Trên cơ sở kiện
toàn tổ chức và cán bộ, nghiên cứu tăng thẩm quyền xét xử cho toà án nhân dân
cấp quận, huyện theo hướng việc xét xử sơ thẩm được thực hiện chủ yếu ở toà
án cấp này. Toà án cấp tỉnh chủ yểu xét xử phúc thẩm. Toà án nhân dân Tối cao
chủ yếu xét xử giám đốc thẩm, tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn toà án
các địa phương thực hiện xét xử thống nhất theo pháp luật. Hạn chế việc xét xử
sơ thẩm đồng thời chung thẩm. Nghiên cứu tiếp tục thành lập các toà chuyên
môn. Tổng kết thực tiễn công tác quản lý toà án địa phương, xác định rõ trách
nhiệm và quan hệ phối hợp trong việc quản lý các toà án địa phương về tổ chức

và cán bộ. Đẩy mạnh việc xét và giải quyết kháng cáo và các khiếu nại, tố cáo
về công tác xét xử, bảo đảm công bằng và nghiêm minh”.
Năm 1997, Nghị quyết Trung ương 3 khoá VIII tiếp tục khẳng định phương
hướng đổi mới tổ chức và hoạt động của toà án nhân dân là: "Thực hiện nguyên
tắc hai cấp xét xử. Bỏ thủ tục xét xử sơ thẩm chung của Toà án nhân dân tối cao
và Toà án quân sự Trung ương. Nghiên cứu áp dụng thủ tục rút gọn để xét xử
kịp thời một số vụ án đơn giản, rõ ràng. Toà án nhân dân tối cao tập trung vào
công tác tổng kết xét xử, hướng dẫn các toà án áp dụng pháp luật thống nhất và
làm tốt chức năng giám đốc xét xử. Đổi mới thủ tục giám đốc thẩm để bảo đảm
việc xét xử vừa đúng đắn vừa nhanh chóng. Nghiên cứu phân cấp thẩm quyền
bổ nhiệm thẩm phán Toà án cấp tỉnh và Toà án cấp huyện; đồng thời căn cứ vào
tình hình đội ngũ cán bộ hiện nay mà điều chỉnh tiêu chuẩn tuyển chọn cho phù
8


Nghiên cứu tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND theo định hướng Nghị quyết 49-NQ/TW và Hiến pháp 2013

hợp để kịp thời bổ sung đủ thẩm phán cho Toà án cấp huyện và Toà án cấp
tỉnh".
Hai năm sau, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khoá VIII, ngày 16-81999 đã đề ra nhiệm vụ kiện toàn tổ chức bộ máy đối với các cơ quan tư pháp,
trong đó có toà án, cụ thể là: "Đảng đoàn Quốc hội phối hợp với Ban Cán sự
đảng Chính phủ, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao chỉ
đạo việc sắp xếp hợp lý tổ chức của hai ngành kiểm sát và toà án; sắp xếp các cơ
quan điều tra, kiện toàn cơ quan thi hành án; tổ chức nghiên cứu, xây dựng đề án
cụ thể về tổ chức, chức năng, thẩm quyền của các cơ quan kiểm sát, toà án theo
các định hướng đã đề ra ở Nghị quyết Trung ương 8 khoá VII và Nghị quyết
Trung ương 3 khoá VIII".
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX xác định chủ trương cơ bản trong việc
đổi mới tổ chức và hoạt động của toà án nhân dân là: “sắp xếp lại hệ thống toà
án nhân dân, phân định hợp lý thẩm quyền và tổ chức các toà án theo cấp xét xử;

nâng cao tiêu chuẩn, năng lực, trách nhiệm công tác đối với những người làm
công tác xét xử".
Giai đoạn này, do đặc thù tình hình đất nước là thời kỳ đổi mới quá độ từ
chế độ bao cấp sang cơ chế thị trường, bước đầu của công cuộc đổi mới nên
Đảng phải tập trung vào việc ổn định tình hình kinh tế - xã hội, ổn định sản xuất,
ổn định đời sống vật chất và văn hóa, tăng cường hiệu lực của tổ chức quản lý,
lập lại trật tự, kỉ cương và thực hiện công bằng xã hội, phát triển sản xuất; tạo ra
chuyển biến tốt về mặt xã hội; bảo đảm nhu cấu củng cố quốc phòng và an ninh.
Do đó, chủ trương cải cách tư pháp được thể hiện tại các văn kiện chung, chưa
được cụ thể hóa bằng các văn bản riêng biệt. Đảng chú trọng tới sắp xếp lại tổ
chức của hệ thống tòa án, phân định lại thẩm quyền giữa Tòa án nhân dân và
Viện kiểm sát nhân dân, kiện toàn lại đội ngũ cán bộ để phù hợp với đường lối
đổi mới đất nước.
1.2.2. Giai đoạn từ Hội nghị Trung ương 8 lần 9 đến tháng 6 năm 2005
9


Nghiên cứu tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND theo định hướng Nghị quyết 49-NQ/TW và Hiến pháp 2013

Tiếp tục chủ trương coi việc đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống
Tòa án là trọng tâm, để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với việc cải cách
tư pháp, ngày 2 tháng 1 năm 2002, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 08NQ/TW về "Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới " đề
ra một trong những nhiệm vụ quan trọng của cải cách tư pháp là: "Tiếp tục cụ
thể hoá và thực hiện những chủ trương về cải cách tổ chức và đổi mới hoạt động
các cơ quan tư pháp đã được đề ra trong Nghị quyết Trung ương 8 (khoá VII),
Nghị quyết Trung ương 3, Nghị quyết Trung ương 7 (khoá VIII) và Nghị quyết
Đại hội Đảng lần thứ IX". Nghị quyết nêu rõ:
“Khi xét xử, các toà án phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng
trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan; thẩm phán và hội thẩm độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết của toà án phải căn cứ chủ yếu vào kết

quả tranh tụng tại phiên toà, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ,
ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn,
bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết
định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn quy định…
Nghiên cứu để quy định và thực hiện thủ tục tố tụng rút gọn đối với
những vụ án đơn giản, phạm tội quả tang, chứng cứ rõ ràng, hậu quả ít nghiêm
trọng; khẩn trương chuẩn bị tốt điều kiện để thực hiện việc tăng thẩm quyền xét
xử cho toà án cấp huyện; nghiên cứu mở rộng thẩm quyền xét xử của toà án
trong việc giải quyết các khiếu kiện hành chính để góp phần khắc phục tình
trạng trì trệ trong công tác giải quyết khiếu kiện hành chính hiện nay; nghiên
cứu thành lập Toà án hôn nhân và gia đình; đổi mới tổ chức của Toà án nhân
dân tối cao để tập trung làm tốt nhiệm vụ giám đốc thẩm, tổng kết thực tiễn xét
xử, hướng dẫn các toà án áp dụng pháp luật thống nhất.
Toà án nhân dân tối cao quản lý toà án địa phương về tổ chức để bảo đảm
gắn việc theo dõi, hướng dẫn nghiệp vụ chuyên môn với việc nhận xét, đánh giá,
bố trí, sử dụng cán bộ; phân cấp, bổ nhiệm thẩm phán theo hướng Chủ tịch nước
chỉ bổ nhiệm thẩm phán Toà án nhân dân tối cao.”
10


Nghiên cứu tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND theo định hướng Nghị quyết 49-NQ/TW và Hiến pháp 2013

Từ những phân tích trên, có thể thấy so với thời kỳ trước, giai đoạn này
công cuộc cải cách tư pháp đã được Đảng tập trung chú trọng hơn, bằng chứng
là Bộ Chính trị đã ban hành riêng một Nghị quyết về công tác cải cách tư pháp
trong đó có đổi mới tòa án nhân dân, coi đây là một trong những công tác mũi
nhọn trong công cuộc đổi mới đất nước. Đường lối lãnh đạo của Đảng đối với
Toà án nhân dân trong thời kỳ đổi mới là hoàn toàn nhất quán, có sự kế thừa và
phát triển từng bước. Đảng luôn quan tâm chỉ đạo nhằm kiện toàn đội ngũ cán
bộ Toà án nhân dân, đó là cho ý kiến về tổ chức của Toà án nhân dân, giới thiệu

những cán bộ có năng lực, trình độ chuyên môn cao và phẩm chất chính trị vững
vàng cho ngành Toà án; phát hiện và xử lý kỷ luật nghiêm minh đối với những
cán bộ, đảng viên có sai phạm công tác trong ngành Toà án, phân định hai cấp
xét xử là tiền đề quan trọng cho việc đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống
Tòa án về sau. Tuy nhiên đường lối còn khá tản mạn, chủ yếu tập trung đề ra
giải pháp giải quyết những vấn đề bức xúc, những bất cập nổi cộm mang tính vụ
việc mà thiếu đi các giải pháp mang tính chiến lược và tổng thể.
1.2.3. Giai đoạn từ sau Hội nghị Trung ương 8 lần 9 đến ngày 2 tháng 6
năm 2005 đến nay
Sau khi Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị được triển khai trên thực
tế được gần 4 năm, ngày 2-6-2005, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 49NQ/TW "Về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020". Đây có thể nói là văn
bản đầu tiên của Đảng đề cập tới vấn đề cải cách tư pháp với tầm nhìn chiến
lược mang tính hệ thống. Trong tổng thể chiến lược cải cách tư pháp nói chung,
Nghị quyết 49 đề ra nhiệm vụ đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân
dân với mục tiêu “xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ,
nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt
động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao”. Bên cạnh đó Nghị
quyết đề ra phương hướng: "Tổ chức các cơ quan tư pháp và các chế định bổ trợ
tư pháp hợp lý, khoa học, hiện đại về cơ cầu tổ chức và điều kiện, phương tiện
11


Nghiên cứu tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND theo định hướng Nghị quyết 49-NQ/TW và Hiến pháp 2013

làm việc; trong đó xác định Toà án có vị trí trung tâm và xét xử là hoạt động
trọng tâm; xã hội hóa mạnh mẽ hoạt động bổ trợ tư pháp". Nghị quyết xác định
nhiệm vụ của Tòa án các cấp như sau: "Tổ chức hệ thống Toà án theo thẩm
quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính, gồm: Toà án sơ thẩm khu
vực được tổ chức ở một hoặc một số đơn vị hành chính cấp huyện; Toà án phúc

thẩm có nhiệm vụ chủ yếu là xét xử phúc thẩm và xét xử sơ thẩm một số vụ án;
Toà cấp cao được tổ chức theo khu vực có nhiệm vụ xét xử phúc thẩm; Toà án
nhân dân tối cao có nhiệm vụ tổng kết kinh nghiệm xét xử, hướng dẫn áp dụng
thống nhất pháp luật, phát triển án lệ và xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm". Tuy
nhiên, Nghị quyết cũng nhấn mạnh: "Việc thành lập Toà án chuyên trách phải
căn cứ vào thực tế xét xử của từng cấp Toà án, từng khu vực. Đổi mới tổ chức
Toà án nhân dân tối cao theo hướng tinh gọn, với đội ngũ Thẩm phán là những
chuyên gia đầu ngành về pháp luật, có kinh nghiệm trong ngành". Như vậy, có
thể thấy, những quan điểm và phương hướng trên đây về cải cách tổ chức và
hoạt động của Toà án có ý nghĩa vô cùng quan trọng, quyết định hiệu quả hoạt
động cải cách tư pháp trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta hiện nay.
Nghị quyết xác định phải phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với
trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong hoạt động tố tụng tư pháp theo hướng tăng
quyền và trách nhiệm cho điều tra viên, kiểm sát viên và thẩm phán để họ chủ
động trong thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trước
pháp luật về các hành vi và quyết định tố tụng của mình. Xác định rõ căn cứ tạm
giam; hạn chế việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với một số loại tội phạm;
thu hẹp đối tượng người có thẩm quyền quyết định việc áp dụng các biện pháp
tạm giam… Từng bước hoàn thiện thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo hướng
quy định chặt chẽ những căn cứ kháng nghị và quy định rõ trách nhiệm của
người ra kháng nghị đối với bản án hoặc quyết định của tòa án đã có hiệu lực
pháp luật; khắc phục tình trạng kháng nghị tràn lan, thiếu căn cứ. Xây dựng cơ
chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với những vụ án có đủ một số điều kiện nhất
định. Cùng với đó, Đảng xác định cần phải mở rộng thẩm quyền xét xử của tòa
12


Nghiên cứu tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND theo định hướng Nghị quyết 49-NQ/TW và Hiến pháp 2013


án đối với các khiếu kiện hành chính. Đổi mới mạnh mẽ thủ tục giải quyết các
khiếu kiện hành chính tại tòa án; tạo điều kiện thuận lợi cho người dân tham gia
tố tụng, bảo đảm sự bình đẳng giữa công dân và cơ quan công quyền trước tòa
án.
Đảng xác định nhà nước ta là nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì
dân do vậy việc công khai hóa bản án là việc làm cần thiết và quan trọng. Nghị
quyết nhấn mạnh phải từng bước thực hiện việc công khai hóa bản án, trừ những
bản án hình sự về tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc liên quan đến thuần
phong mỹ tục.
Tiếp nối những thành tựu đạt được từ sau khi Nghị quyết 49-NQ/TW được
triển khai sâu rộng, ngày 28 tháng 7 năm 2010, Bộ Chính trị ban hành Kết luận
số 79-KL/TW về “Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động của Tòa án, Viện kiểm
sát và Cơ quan điều tra theo Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về
Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020”, trong đó xác định phương hướng tổ
chức Toà án theo thẩm quyền xét xử, không phụ thuộc vào đơn vị hành chính,
gồm 4 cấp là Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực, Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương, Tòa án nhân dân cấp cao và Tòa án nhân dân tối cao.
Ngày 12 tháng 3 năm 2014, Bộ Chính trị đã ban hành Kết luận số 92KL/TW về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02-6-2005
của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Theo
đó, Tòa án nhân dân được tổ chức 4 cấp như Kết luận số 79-KL/TW (gồm Tòa
án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương và Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực/Tòa án nhân dân sơ
thẩm đặt tại các đơn vị hành chính cấp huyện). Do đó, việc tổ chức các Toà án
với mô hình mới, khác hoàn toàn so với trước đây không đơn giản là việc
chuyển đổi hay thay đổi tên gọi mà đòi hỏi phải có sự nghiên cứu và giải quyết
các vấn đề đặt ra một cách toàn diện như xác định nhiệm vụ, thẩm quyền, mô
hình tổ chức, bộ máy, quy mô về biên chế, cán bộ, cơ sở vật chất của Toà án mỗi
cấp, trên cơ sở đó tiến hành việc sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật về
tổ chức và hoạt động của các Toà án và xây dựng, tổ chức thực hiện các phương
13



Nghiên cứu tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND theo định hướng Nghị quyết 49-NQ/TW và Hiến pháp 2013

án về thành lập các Toà án và các vấn đề có liên quan đến tổ chức và hoạt động
của các Tòa án theo tinh thần cải cách tư pháp.
Thực hiện Thông báo số 02-TB/CCTP ngày 30 tháng 12 năm 2011 của Ban
Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương về việc phân công trách nhiệm chuẩn bị
các đề án, báo cáo trình Ban Chỉ đạo cải cách tư pháp Trung ương giai đoạn
2012-2016, Tòa án nhân dân tối cao đã xây dựng Đề án chi tiết về “Đổi mới tổ
chức và hoạt động của Toà án nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân cấp cao, Tòa
án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và Tòa án nhân dân sơ thẩm”
để cụ thể hoá các quan điểm, chủ trương của Đảng và Hiến pháp năm 2013, tạo
cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc xác định và giải quyết các vấn đề còn tồn tại,
bất cập trong mô hình tổ chức của các Tòa án hiện nay.
Có thể nói, cho đến nay, chủ trương, chính sách cải cách hệ thống tòa án
nhân dân của Việt Nam theo định hướng Chiến lược cải cách tư pháp được thực
hiện khá nhất quán, thể hiện ở môt số định hướng lớn sau:
* Định hướng đổi mới về tổ chức:
 Nghiên cứu, hoàn thiện cơ cấu tổ chức Tòa án các cấp, xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức ngành tòa án nhân dân trong sạch vững mạnh.
 Tăng cường đầy đủ và từng bước hiện địa về cơ sở vật chất cho Tòa án
các cấp để đáp ứng yêu cầu công tác giải quyết, xét xử các vụ án.
 Nghiên cứu xây dựng mô hình Tòa án nhân dân 4 cấp không phụ thuộc
vào các đơn vị hành chính.
* Định hướng đổi mới hoạt động:
 Tiếp tục nâng cao chất lượng giải quyết xét xử các loại vụ án, chú trọng
làm tốt việc tranh tụng tại phiên tòa, xét xử nghiêm minh các vụ án về tham
nhũng, làm tốt công tác hòa giải trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự.
Xây dựng cơ chế và thực hiện tốt các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác giải

quyết đơn khiếu nại, tố cáo về tư pháp, đặc biệt là các đơn đề nghị giám đốc
thẩm, tái thẩm, bảo đảm nguyên tắc 2 cấp xét xử, giảm tối đa những vụ việc phải
xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
14


Nghiên cứu tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND theo định hướng Nghị quyết 49-NQ/TW và Hiến pháp 2013

 Tham gia vào việc hoàn thiện chính sách, pháp luật về hình sự, dân sự và
thủ tục tố tụng tư pháp.
 Làm tốt công tác đào tạo, tập huấn chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ
công chức, chú trọng đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế;
tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực tư pháp.
 Đổi mới các thủ tục hành chính tư pháp; tạo điều kiện thuận lợi cho việc
giám sát của cơ quan dân cử và phát huy quyền làm chủ của nhân dân đối với
hoạt động của Tòa án.
 Đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng và nâng cao vai trò của các tổ chức Đảng
trong tòa án đối với hoạt động của ngành Tòa án nhân dân.
 Chủ động, tích cực tham gia nghiên cứu và đề xuất, kiến nghị những vấn
đề liên quan đến tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung và Tòa
án nói riêng trong quá trình thực hiện chủ trương sửa đổi Hiến pháp.
 Tăng cường công tác ứng dụng khoa học công nghệ thông tin trong hoạt
động của Tòa án theo Đề án tổng thể phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin
trong ngành Tòa án nhân dân giai đoạn 2011 – 2015.
 Tập trung xây dựng và thực hiện có hiệu quả kế hoạch hợp tác với các
nước, nhất là các nước có nền tư pháp tiên tiến và hệ thống tổ chức các cơ quan
tư pháp tương đồng với Việt Nam; tiếp tục triển khai thực hiện tốt Đề án về
công tác đối ngoại của ngành Tòa án nhân dân và các dự án hợp tác với các
nước, tổ chức quốc tế đã được ký kết, phê duyệt.
Như vậy, có thể khẳng định, quan điểm, chủ trương của Đảng, Nhà nước về

đổi mới tổ chức, hoạt động của các Tòa án nhân dân là nhất quán, phù hợp với
nguyên lý chung của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, với nội dung xuyên
suốt, trọng tâm là: Bảo đảm cải cách tổ chức và hoạt động của Tòa án là trọng
tâm của cải cách tư pháp; đổi mới tổ chức của các Tòa án theo thẩm quyền xét
xử, xây dựng mô hình Tòa án 04 cấp không gắn với tổ chức hành chính; nâng
15


Nghiên cứu tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND theo định hướng Nghị quyết 49-NQ/TW và Hiến pháp 2013

cao chất lượng hoạt động bao gồm tăng cường tranh tụng, bảo đảm nguyên tắc
hai cấp xét xử, tăng cường năng lực cán bộ. Cùng với các quy định của Hiến
pháp năm 2013, các quan điểm chủ trương của Đảng là cơ sở pháp lý quan
trọng cho việc tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống tòa án nhân
dân Việt Nam.

16


Nghiên cứu tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND theo định hướng Nghị quyết 49-NQ/TW và Hiến pháp 2013

CHƢƠNG 2
TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN SAU 8
NĂM THỰC HIỆN CHIẾN LƢỢC CẢI CÁCH TƢ PHÁP
Quá trình triển khai thực hiện các nhiệm vụ cải cách tư pháp theo tinh thần
Nghị quyết 49-NQ/TW cho thấy, các nội dung cải cách tư pháp về cơ bản đã
được triển khai thực hiện nghiêm túc. Việc xây dựng hoàn thiện thể chế theo
Nghị quyết 49 đã thực hiện mọt bước về hình sự, dân sự và tố tụng tư pháp cũng

như về tổ chức và hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng… Nghị quyết 49-NQ/TW ra đời đã tạo sự chuyển biến một bước về nhận
thức đối với vị trí, vai trò của Tòa án trong tiến trình cải cách tư pháp, do đó
công tác Tòa án đã được các cấp, các ngành quan tâm tăng cường phối hợp và
tạo điều kiện tốt hơn trước. Đối với ngành Tòa án nhân dân, do làm tốt công tác
phổ biến, quán triệt nội dung Nghị quyết 49-NQ/TW nên nhận thức của cán bộ,
công chức ngành Tòa án nhân dân đối với công tác cải cách tư pháp đã được
nâng lên rõ rệt, từ đó tạo ra những chuyển biến tích cực ở nhiều lĩnh vực công
tác. Chất lượng giải quyết, xét xử các loại vụ án từng bước được nâng lên; đội
ngũ cán bộ, công chức, điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện làm việc của các
Tòa án tiếp tục được tăng cường; công tác xây dựng pháp luật và hướng dẫn áp
dụng thống nhất pháp luật được chú trọng và đạt hiệu quả cao hơn trước, đã thể
chế hóa được nhiều nội dung tiến bộ mà Nghị quyết 49 đã đề ra; mô hình tổ
chức hệ thống Tòa án đang được tập trung nghiên cứu theo hướng đổi mới,
nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các Tòa án. Các nhiệm vụ cải cách tư
pháp được đề ra từ Nghị quyết 08-NQ/TW tiếp tục được quan tâm, đôn đốc chỉ
đạo thực hiện có hiệu quả.
2.1.

Thực trạng công tác tổ chức hệ thống Tòa án nhân dân

Tính đến thời điểm hiện tại, cả nước có 764 Toà án nhân dân, bao gồm:
Toà án nhân dân tối cao, 63 Toà án nhân dân cấp tỉnh và 700 Toà án nhân dân

17


Nghiên cứu tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND theo định hướng Nghị quyết 49-NQ/TW và Hiến pháp 2013

cấp huyện. Các Tòa án quân sự, gồm: Tòa án quân sự Trung ương; 9 Tòa án

quân sự cấp quân khu và 17 Tòa án quân sự khu vực.
Tại Nghị quyết số 473a/NQ-UBTVQH13 ngày 28/3/2012 của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội về tổng biên chế và số lượng Thẩm phán của Toà án nhân
dân và Toà án quân sự các cấp đã bổ sung cho các Toà án nhân dân địa phương
đến năm 2013 là 1.713 biên chế, theo đó tổng số biên chế của các Toà án nhân
dân cho các năm 2013-2014 là 15.237 người, gồm: Tổng biên chế của Toà án
nhân dân tối cao là 722 người, trong đó có 120 Thẩm phán Toà án nhân dân tối
cao; tổng biên chế của Toà án nhân dân cấp tỉnh là 4.088 người, trong đó có
1.170 Thẩm phán trung cấp; tổng biên chế của Toà án nhân dân cấp huyện là
10.427 người, trong đó có 4.865 Thẩm phán trung cấp và Thẩm phán sơ cấp.
Sau 8 năm, việc triển khai thực hiện những nội dung Nghị quyết 49NQ/TW của Bộ Chính trị về cải cách tư pháp đã góp phần làm sáng tỏ nhiều nội
dung thiết thực liên quan tới việc hoàn thiện tổ chức, bộ máy, chức năng, nhiệm
vụ của Tòa án các cấp và tạo ra những chuyển biến rõ rệt trong kết quả hoạt
động của Tòa án. Bỏ thẩm quyền xét xử sơ chung thẩm để đảm bảo thực hiện
nguyên tắc 2 cấp xét xử; tăng thẩm quyền xét xử sơ thẩm cho tòa án nhân dân
cấp huyện; tăng cường và nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa; mở
rộng thẩm quyền xét xử của tòa án đối với các khiếu kiện hành chính, đổi mới
thủ tục giải quyết các khiếu kiện hành chính tại tòa án. Tòa án nhân dân được
xác định có vị trí trung tâm của hoạt động tư pháp, cơ quan thực hiện quyền tư
pháp; quy định bổ nhiệm thẩm phán theo ngạch sơ cấp, trung cấp thay cho việc
bổ nhiệm theo cấp hành chính; áp dụng chính sách tiền lương và phụ cấp nghề,
phụ cấp thâm niên cho các chức danh tư pháp ở tòa án; thực hiện lộ trình đổi
mới về tổ chức hệ thống tòa án quân sự theo hướng giảm bớt đầu mối các tòa
quân sự khu vực và quân, binh chủng; tổ chức, hoạt động của tòa án nhân dân
từng bước được hoàn thiện, chất lượng xét xử được nâng lên, hạn chế việc xét
xử oan, sai. Tòa án nhân dân tối cao đã tập trung nhiều hơn cho công tác tổng

18



Nghiên cứu tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND theo định hướng Nghị quyết 49-NQ/TW và Hiến pháp 2013

kết thực tiễn xét xử và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật; công tác giải
quyết đơn, thư khiếu nại, kiến nghị giám đốc thẩm, tái thẩm có tiến bộ.
Trong thời gian qua, Tòa án nhân dân tối cao đã phối hợp với liên ngành
Tư pháp Trung ương và các cơ quan hữu quan lựa chọn các Tòa án cấp huyện
đủ các điều kiện tăng thẩm quyền và trình Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết
định giao cho 90 Tòa án nhân dân cấp huyện và 17 Tòa án quân sự khu vực thực
hiện thẩm quyền xét xử quy định tại Khoản 1 Điều 170 Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003 từ ngày 1 tháng 7 năm 2004 và 126 Tòa án nhân dân cấp huyện thực
hiện thẩm quyền xét xử theo Điều 33 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 từ ngày
1 tháng 1 năm 2005. Sau khi thực hiện thẩm quyền mới, từ ngày 1 tháng 7 năm
2004 đến 30 tháng 6 năm 2005 thì 90 Tòa án cấp huyện và 17 Tòa án quân sự
cấp khu vực được giao thẩm quyền xét mới về hình sự đã thụ lý 3759 vụ, giải
quyết được 3486 vụ, đạt 93%. Nhìn chung số lượng các vụ án hình sự thuộc
thẩm quyền mới của Tòa án cấp huyện tăng lên chưa nhiều, bình quân 30 vụ/1
năm/1 Tòa án; nhưng cũng có một số ít Tòa án nhân dân thực hiện thẩm quyền
mới đã có lượng án tăng trên 100 vụ/1 năm như: Tòa án nhân dân Quận 1 và
Quận 5, thành phố Hồ Chí Minh; Tòa án nhân dân Quận Đống Đa, Quận Hai Bà
Trưng, thành phố Hà Nội; Tòa án nhân dân thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai;
Tòa án nhân dân thành phố Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu; Tòa án nhân dân
thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh… Việc tăng thẩm quyền xét xử sơ thẩm
cho tòa án nhân dân cấp huyện đã giúp giải quyết được tình trạng tồn đọng án ở
tòa án nhân dân cấp tỉnh và Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao. Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao đã chỉ đạo xây dựng phương án tổ chức hệ thống tòa án
nhân dân theo thẩm quyền xét xử không phụ thuộc vào đơn vị hành chính theo
tinh thần Nghị quyết 49-NQ/TW và tổ chức tòa án gồm 4 cấp theo chỉ đạo tại
Kết luận 79-KL/TW.
Để giúp Tòa án cấp huyện hoàn thành tốt nhiệm vụ, trong phạm vi chức
năng, nhiệm vụ của mình, Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân cấp tỉnh

đã quan tâm điều động, bổ sung cán bộ; các đơn vị có số lượng án tăng nhiều thì
được bổ sung thêm từ 2 đến 3 Thẩm phán và cán bộ; tăng cường công tác đào
19


Nghiên cứu tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của TAND theo định hướng Nghị quyết 49-NQ/TW và Hiến pháp 2013

tạo, bồi dưỡng các chức danh tư pháp của ngành Tòa án; công tác đào tạo, bồi
dưỡng được quan tâm, tăng cường; xây dựng được cơ sở vật chất cho Trường
đào tạo cán bộ Tòa án (chuẩn bị được nâng cấp thành Học viện Tòa án) khang
trang. Thông qua việc thực hiện thẩm quyền xét xử mới, tinh thần trách nhiệm
và trình độ chuyên môn nghiệp vụ của các cơ quan tiến hành tố tụng cấp huyện
nói chung và cán bộ, Thẩm phán, Hội thẩm Tòa án nhân dân cấp huyện nói riêng
được nâng lên một bước.
Một số nhiệm vụ như: phân định rõ thẩm quyền quản lý hành chính với
trách nhiệm, quyền hạn tư pháp trong hoạt động tố tụng tư pháp…; đổi mới tổ
chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn và trách nhiệm của
người tiến hành tố tụng, đảm bảo công khai, dân chủ, nghiêm minh; đổi mới mô
hình tố tụng, nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa đang được Tòa
án nhân dân tối cao và các cơ quan, tổ chức có liên quan phối hợp nghiên cứu
xây dựng đề án.
Căn cứ Kết luận 79-KL/TW của Bộ chính trị, Tòa án nhân dân tối cao đã
hướng dẫn các Tòa án địa phương xây dựng Đề án thành lập Tòa án nhân dân sơ
thẩm khu vực ở địa phương mình, trong đó hướng dẫn cụ thể về các tiêu chí
thành lập, mô hình cơ cấu tổ chức, quy mô trụ sở làm việc… để các Tòa án địa
phương dự kiến số lượng các Tòa án nhân dân sơ thẩm khu vực, cũng như địa
điểm đặt trụ sở cho các Tòa án này. Trong quá trình triển khai thực hiện, Tòa án
nhân dân tối cao đã phân công trách nhiệm trong ban lãnh đạo để khảo sát, nắm
bắt tình hình tại các địa phương.
Bên cạnh những thành tựu, không thể không kể đến những hạn chế trong

công tác tổ chức của ngành tòa án. Trong thực tế hoạt động, ở Tòa án nhân dân
tối cao hiện có 8 tòa chuyên trách và 13 đơn vị thuộc bộ máy giúp việc. Tuy
nhiên, cho đến nay các Tòa chuyên trách như Tòa dân sự, hình sự đều quá tải về
công việc, mà biên chế cán bộ, Thẩm phán còn chưa đáp ứng đủ dẫn đến chất
lượng chưa được bảo đảm, từ đó cần nghiên cứu theo hướng thành lập thêm các
tòa chuyên trách nhằm bảo đảm chuyên môn hóa, nâng cao chất lượng công tác
giải quyết, xét xử các loại vụ, việc. Bên cạnh đó, các đơn vị thuộc bộ máy giúp
20


×