Tải bản đầy đủ (.pdf) (76 trang)

Nhu cầu bảo hiến và xây dựng mô hình bảo hiến phù hợp với yêu cầu nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (715.17 KB, 76 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐẶNG PHƯƠNG THÚY

NHU CẦU BẢO HIẾN VÀ XÂY DỰNG MÔ HÌNH
BẢO HIẾN PHÙ HỢP VỚI YÊU CẦU NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 60 38 01 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS. TS. THÁI VĨNH THẮNG

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Các
kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trên bất kỳ
công trình nào khác.

Tác giả luận văn


Đặng Phương Thúy


LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo đã truyền đạt kiến thức cho
em trong suốt thời gian học cao học cũng như những năm học cử nhân, cùng
gia đình và bạn bè đã luôn động viên, giúp đỡ em để em hoàn thành luận văn
tốt nghiệp này.
Đặc biệt, em xin được bảy tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới thầy
giáo, PGS TS. Thái Vĩnh Thắng, người đã giúp đỡ và chỉ bảo tận tình cho em
trong suốt quá trình thực hiện luận văn tốt nghiệp của mình.

Hà Nội, ngày 19 tháng 5 năm 2014


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIẾN TRONG NHÀ NƯỚC
PHÁP QUYỀN ............................................................................................. 7
1.1 Tầm quan trọng của bảo hiến trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền . 7
1.2 Thiết chế bảo hiến – công cụ hữu hiệu để bảo vệ quyền và tự do của con
người và công dân – mục tiêu cơ bản của nhà nước Pháp quyền. ................. 10
1.3 Thiết chế bảo hiến góp phần bảo vệ nền tảng pháp lý của Nhà nước pháp
quyền dân chủ .............................................................................................. 12
1.4 Hoạt động bảo hiến góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật của Nhà nước
pháp quyền ................................................................................................... 13
1.5 Cơ chế bảo hiến qua các bản Hiến pháp Việt Nam ................................. 14
CHƯƠNG 2: CÁC MÔ HÌNH BẢO HIẾN TRÊN THẾ GIỚI HIỆN NAY
VÀ KINH NGHIỆM LỰA CHỌN MÔ HÌNH BẢO HIẾN CỦA MỘT SỐ
NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI .......................................................................... 22

2.1 Đặc điểm của một số mô hình bảo hiến trên thế giới .......................... 22
2.2 Kinh nghiệm lựa chọn mô hình bảo hiến của một số nước.................. 33
CHƯƠNG 3: NHU CẦU VÀ PHƯƠNG ÁN XÂY DỰNG MÔ HÌNH
BẢO HIẾN PHÙ HỢP VỚI NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM
..................................................................................................................... 43
3.1 Thực trạng hoạt động bảo hiến ở Việt Nam hiện nay ......................... 43
3.2 Nhu cầu xây dựng thiết chế bảo hiến ở Việt Nam hiện nay................. 52
3.3 Phương án xây dựng mô hình bảo hiến ở Việt Nam.......................... 56
KẾT LUẬN ................................................................................................. 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 70


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiến pháp là văn bản có vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống pháp luật và
trong đời sống chính trị của mỗi quốc gia. Với tư cách là một văn bản khẳng định
việc tổ chức quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, văn bản ghi nhận và thiết lập
những cơ chế bảo vệ các quyền cơ bản của con người, sự xuất hiện của hiến pháp đã
trở thành bước ngoặt quan trọng trong tiến trình dân chủ của mỗi quốc gia. Hiến
pháp là văn bản chính trị pháp lý xác định nguồn gốc và bản chất của quyền lực nhà
nước, cách thức tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước; quy định những vấn đề quan
trọng nhất, nền tảng nhất của quốc gia như: chế độ chính trị; chế độ kinh tế; chế độ
văn hóa, xã hội; hệ thống tổ chức, nguyên tắc hoạt động và thẩm quyền của các cơ
quan trong bộ máy nhà nước; quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân…Với vai trò
và nội dung quan trọng như vậy, Hiến pháp được coi là nền tảng pháp lý của mỗi
quốc gia, là đạo luật cơ bản của nhà nước và có vị trí tối thượng. Do đó, vấn đề bảo
hiến được các quốc gia chú trọng thực hiện, nó đã trở thành một phần quan trọng và
là một yêu cầu không thể thiếu trong tổ chức và hoạt động của đa số các nhà nước,

đặc biệt đối với nhà nước pháp quyền. Mặc dù vậy, không có một mô hình bảo hiến
chung cho mọi quốc gia trên thế giới. Mỗi quốc gia, cơ chế bảo hiến được tổ chức
theo nhiều hình thức khác nhau, với các chức năng, nhiệm vụ rộng hẹp khác nhau.
Hoạt động bảo hiến nhằm thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu như: Phán quết về tính
hợp hiến của các văn bản của cơ quan nhà nước và các cá nhân được nhà nước trao
quyền; giải thích hiến pháp; giải quyết khiếu kiện về sự vi phạm các quyền và tự do
của công dân được quy định trong Hiến pháp…Để tiến hành các hoạt động đó, mỗi
nhà nước đều phải thiết lập một cơ chế để tổ chức và vận hành.
Ở Việt nam, ngay sau khi thành lập nhà nước, Hiến pháp đã ra đời và luôn
được khẳng định là văn bản chính trị pháp lý có vị trí tối thượng. Kể từ bản Hiến
pháp đầu tiên năm 1946 được ban hành, đến nay nước ta đã trải qua gần 70 năm lịch
sử lập hiến với các bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 và mới nhất là Hiến
pháp năm 2013 cùng với các lần sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp trong


2

các năm 1988, 1989 và 2001. Hoạt động bảo hiến đã hình thành và từng bước phát
triển góp phần bảo đảm cho các bản Hiến pháp được tôn trọng và nghiêm chỉnh
chấp hành. Từ sau khi Hiến pháp năm 1992 được sửa đổi, bổ sung vào năm 2001,
sự vận hành của cơ chế bảo hiến đã đem lại một số kết quả tích cực. Hiến pháp năm
2013 cũng có một số điểm mới tích cực về cơ chế bảo hiến. Tuy nhiên, nhìn chung
cơ chế bảo hiến hiện hành còn bộc lộ nhiều bất cập và hạn chế: Mô hình bảo hiến
chưa được định hình một cách rõ ràng; thiếu cơ chế xem xét và phán quyết về tính
hợp hiến của hoạt động lập pháp; thiếu cơ chế phán quyết về những văn bản và
hành vi vi phạm quyền và tự do hiến định của công dân; thiếu cơ quan bảo hiến
chuyên trách; thẩm quyền tiến hành hoạt động bảo hiến được trao cho nhiều cơ quan,
cá nhân nhưng sự phân công chưa hợp lý và chế độ trách nhiệm chưa rõ ràng; nhiều cơ
quan chưa thực hiện đúng và đủ chức năng, nhiệm vụ được giao; các hoạt động bảo
hiến hiện nay còn mang tính tư vấn, khuyến nghị nhiều, hiệu lực pháp lý thấp; sự vận

hành của cơ chế bảo hiến chưa thường xuyên, nhịp nhàng, hiệu quả thấp. Trong thực
tiễn còn nhiều hiện tượng vi hiến chưa được phát hiện và xử lý kịp thời.
Nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng trên là do việc nghiên cứu lý luận về
bảo hiến và cơ chế bảo hiến trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam chưa đầy
đủ và toàn diện. Mặt khác, do điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước, ý
thức pháp luật và thực tiễn triển khai các hoạt động bảo hiến chưa đáp ứng được các
yêu cầu của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Thực trạng đó đặt ra yêu cầu
cấp thiết đối với việc xác lập và thực hiện có hiệu quả cơ chế bảo hiến phù hợp với
thực tiễn nước ta hiện nay. Do vậy, Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của
Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam về “Chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng
đến năm 2020” đã xác định một trong những nhiệm vụ trong thời kỳ này là: “Hoàn
thiện pháp luật về giám sát tối cao của Quốc hội, cơ chế bảo vệ luật và Hiến pháp”.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X đã đề ra nhiệm vụ: “Xác định cơ chế
bảo vệ hiến pháp, định rõ cơ chế, cách thức bảo đảm tính tối cao của Hiến pháp và
luật”, nghiên cứu “xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến,


3

hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền” và “xây
dựng cơ chế phán quyết về những vi phạm Hiến pháp trong hoạt động lập pháp,
hành pháp và tư pháp”. Trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, phần
đẩy mạnh xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Đảng ta đã xác định:
“Nghiên cứu xây dựng, bổ sung các thể chế, cơ chế vận hành cụ thể để bảo đảm
nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân và nguyên tắc quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan
trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”; “Khẩn trương nghiên
cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001)
phù hợp với tình hình mới. Tiếp tục xây dựng từng bước hoàn thiện cơ chế, kiểm

tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ
quan công quyền”. Theo đó, ngày 28/11/2013, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 với một số điểm mới về cơ
chế bảo hiến. Vì vậy, chúng ta phải tổng kết, đánh giá và tiếp tục xây dựng, hoàn
thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam nói chung và cơ chế bảo hiến nói
riêng. Hoạt động này đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu cơ sở lý luận về cơ chế bảo
hiến, đánh giá thực trạng cơ chế bảo hiến ở Việt Nam, liên hệ với các mô hình bảo
hiến trên thế giới. Trên cơ sở đó, đề xuất những quan điểm, phương án hoàn thiện
cơ chế bảo hiến trong nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam hiện nay.
Với những lý do nêu trên, tác giả chọn vấn đề: “Nhu cầu bảo hiến và xây
dựng mô hình bảo hiến phù hợp với yêu cầu Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề bảo hiến đã được đặt ra ngay từ khi bản Hiến pháp đầu tiên của nước
ta được ban hành (Hiến pháp năm 1946). Tuy nhiên, do nhiều lý do khác nhau, bảo
hiến mới được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu trong thời gian gần đây. Từ
khi việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam được khẳng định trong các
văn kiện của Đảng và Nhà nước, đặc biệt từ khi có Nghị quyết 48-NQ/TW ngày
24/5/2005 của Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam về


4

“Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010,
định hướng đến năm 2020”, các cuộc hội thảo với các cấp độ quốc gia và quốc tế
lần lượt được tiến hành, có nhiều công trình nghiên cứu, bài đăng trên các tạp chí
luật học chuyên ngành, chẳng hạn như: Hội thảo khoa học về cơ chế bảo hiến ở Việt
Nam do Ban công tác lập pháp của Ủy ban thương vụ Quốc hội phối hợp với Ban
quản lý và điều hành Dự án SIDA (Thụy Điển) tổ chức; cuốn Cơ chế bảo hiến do
Đặng Văn Chiến (chủ biên), nhà xuất bản Tư pháp năm 2005; “Hội thảo quốc tế về

bảo hiến” tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh ngày 12-13/3/2009 do Dự án Hỗ trợ
Cải cách Pháp luật và Tư pháp Việt Nam tài trợ và cuốn Kỷ yếu hội thảo quốc tế về
bảo hiến, Nhà xuất bản Thời đại năm 2009; các bài đăng trên tạp chí của các tác giả
như: Nguyễn Đức Lam, Cơ quan bảo vệ Hiến pháp ở các nước (tạp chí Nghiên cứu
lập pháp số 7/2001), Thẩm quyền của cơ quan bảo hiến ở các nước (Tạp chí Nghiên
cứu lập pháp số 9/2001), Cơ chế giám sát bảo hiến: góc nhìn tham khảo (Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp sô 10/2003); Nguyễn Minh Đoan, Bảo đảm tính tối cao của
Hiến pháp trong Nhà nước pháp quyền (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 5/2002);
Vũ Hồng Anh, Giám sát Hiến pháp (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 12/2003); Bùi
Ngọc Sơn, Cơ sở của chế độ bảo hiến (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 12/2003);
PGS.TS Thái Vĩnh Thắng, Mô hình cơ quan bảo hiến của các nước trên thế giới
(Tạp chí Luật học số 5/2004); Ths. Lê Tuấn Sơn, Tào Thị Quyên, Tòa án Hiến pháp
với việc bảo vệ các quyền cơ bản của con người (Đặc san Nghề luật số 8/2004).
Ngoài ra còn có các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ của các tác giả như: Tào Thị
Quyên, Cơ chế bảo vệ hiến pháp trong Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, luận án tiến sĩ luật học năm 2011; Nguyễn Mậu Tuân, Bảo hiến trong nhà
nước pháp quyền, luận án tiến sĩ luật học năm 2012; Đoàn Bích Ngọc, Bảo hiến và
vai trò của bảo hiến đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt nam, luận
văn thạc sĩ luật học năm 2007; Trịnh Phương Thảo, Xây dựng các cơ chế nhà nước
bảo vệ Hiến pháp, luận văn thạc sĩ luật học năm 2011. Bên cạnh đó, vấn đề xây
dựng và hoàn thiện cơ chế bảo hiến ở Việt Nam còn ít nhiều được đề cấp đến trong
một số công trình khoa học nghiên cứu về Nhà nước pháp quyền, về đổi mới tổ


5

chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp
của Quốc hội…
Tuy nhiên, trong bối cảnh Hiến pháp năm 2013 mới được thông qua với
nhiều điểm mới liên quan đến cơ chế bảo hiến, hiện nay rất cần một công trình

nghiên cứu để tổng kết, đánh giá những điểm mới đó, đặt vào hoàn cảnh thực tiễn ở
Việt Nam và đưa ra phương hướng trong thời gian tới để xây dựng và hoàn thiện cơ
chế bảo hiến. Đặc biệt, chúng ta phải tìm được mô hình bảo hiến đủ hiệu lực và hiệu
quả, vừa tiếp thu được kinh nghiệm của thế giới, vừa phù hợp với hoàn cảnh cụ thể
ở nước ta, phù hợp với yêu cầu Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Đó chính là lý do để tác giả thực hiện đề tài nghiên cứu này với mong muốn góp
một phần nhỏ bé vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật của Việt Nam.
3. Mục đích nghiên cứu
Xuất phát từ tính cấp thiết của đề tài, luận văn đi sâu nghiên cứu các vấn đề
lý luận về bảo hiến, xác định nhu cầu bảo hiến, khái quát các mô hình bảo hiến trên
thế giới và kinh nghiệm lựa chọn mô hình của một số nước; từ đó, lựa chọn mô hình
phù hợp với yêu cầu Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng nghiên cứu
Về khái niệm bảo hiến, vai trò của bảo hiến trong việc xây dựng Nhà nước
pháp quyền Xã hội chủ nghĩa; về các mô hình bảo hiến trên thế giới; thực trạng hoạt
động bảo hiến ở Việt Nam hiện nay; xác định nhu cầu xây dựng thiết chế bảo hiến ở
Việt Nam hiện nay và phương án xây dựng mô hình bảo hiến ở Việt Nam.
5. Phạm vi nghiên cứu
Những vấn đề lý luận cơ bản về bảo hiến; vấn đề bảo hiến trong nhà nước
pháp quyền Xã hội chủ nghĩa; các mô hình bảo hiến trên thế giới và kinh nghiệm
của một số nước; thực trạng hoạt động bảo hiến ở Việt Nam hiện nay và phương án
xây dựng mô hình bảo hiến ở Việt Nam.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận là quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về duy vật biên
chứng và duy vật lịch sử; đường lối, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về


6

xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa thể hiện trong các Nghị quyết của

Đảng, trong Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước.
- Các phương pháp cụ thể bảo gồm: Phương pháp tổng hợp, đánh giá thực
tiễn các quy định của pháp luật; phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp; kết hợp
lý luận và thực tiễn để đưa ra các kết luận, đánh giá.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu thạm khảo, luận văn gồm
ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về bảo hiến trong nhà nước pháp quyền
Chương 2: Các mô hình bảo hiến trên thế giới hiện nay và kinh nghiệm lựa
chọn mô hình bảo hiến của một số nước trên thế giới
Chương 3: Nhu cầu và phương án xây dựng mô hình bảo hiến phù hợp với
Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam


7

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIẾN TRONG
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN

1.1 Tầm quan trọng của bảo hiến trong việc xây dựng nhà nước pháp
quyền
Hiến pháp là một văn bản pháp lí có tầm bao quát lớn nhất và có giá trị pháp
lí cao nhất của một quốc gia, là nền tảng pháp lý của cả hệ thống pháp luật. Về ý
nghĩa chính trị, Hiến pháp là văn bản tuyên bố chủ quyền của quốc gia, ghi nhận
chính quyền hợp hiến, cách thức tổ chức, cơ chế vận hành của quyền lực nhà nước,
quyền và nghĩa vụ của công dân. Về ý nghĩa pháp lý, trong các phương thức hạn
chế quyền lực nhà nước, Hiến pháp là đạo luật cơ bản của nhà nước, có vị trí tối
thượng, là phương thức quan trọng nhất để hạn chế, kiểm soát quyền lực nhà nước.
Điều này được thể hiện ở những điểm sau:

- Hiến pháp chỉ xuất hiện trong một xã hội có dân chủ, khi quyền lực nhà
nước đã được phân chia giữa ba nhánh quyền lực: Lập pháp, Hành pháp và Tư
pháp. Quyền lập pháp thuộc về cơ quan đại diện của nhân dân mà cơ quan này chỉ
có thể hình thành bằng con đường bầu cử theo các nguyên tắc bầu cử bình đẳng,
phổ thông, bỏ phiếu kín và trực tiếp. Cơ quan này bao gồm đại diện các giai cấp,
tầng lớp, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo của các vùng lãnh thổ trong Nhà
nước. Vì vậy, Hiến pháp công khai thừa nhận chủ quyền nhân dân, quyền lực nhà
nước xuất phát (hoặc thuộc về) nhân dân, thừa nhận sự bình đằng về mặt pháp lí của
mọi công dân trong xã hội.
- Về trình tự, thủ tục xây dựng và thông qua, Hiến pháp bao giờ cũng được
xác định là đạo luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất và chỉ cơ
quan đại diện cao nhất của nhân dân được nhân dân trao thẩm quyền mới được xây
dựng và thông qua Hiến pháp. Như vậy, Hiến pháp có vị trí pháp lí cao nhất, là cơ
sở, nền tảng cho mọi tổ chức và hoạt động của Nhà nước và cá nhân trong xã hội,


8

căn cứ xây dựng các văn bản pháp luật, điều chỉnh các mối quan hệ pháp lí giữa
Nhà nước với tổ chức và cá nhân trong xã hội và trong quan hệ quốc tế. Bảo đảm
các quyền tự do dân chủ của cá nhân, tôn trọng quyền công dân, quyền con người là
nguyên tắc xây dựng Hiến pháp và là mục tiêu của mọi hoạt động của Nhà nước. So
với pháp luật chung, tính xã hội của Hiến pháp rộng hơn và toàn diện hơn.
- Hiến pháp đặt nền móng cho tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước
của nhân dân, do nhân dân và vì dân nhằm đảm bảo cơ chế kiểm tra, giám sát quyền
lực, tránh lạm quyền.
- Hiến pháp với vai trò là đạo luật cơ bản của quốc gia, là bản khế ước của nhân
dân ủy quyền cho các thiết chế trong bộ máy nhà nước, là phương thức quan trọng để
hạn chế, kiểm soát quyền lực Nhà nước, đảm bảo dân chủ, quyền con người.
- Với tư cách là đạo luật cơ bản của quốc gia và có hiệu lực pháp lý tối cao,

Hiến pháp là thiêng liêng, bất khả xâm phạm, là báu vật của quốc gia cần được tôn
trọng và tuân thủ một cách nghiêm ngặt của mọi chủ thể trong xã hội. Nhằm chống
lại sự vi phạm các quy định của Hiến pháp, làm thay đổi nội dung của Hiến pháp,
không thi hành các quy định về mặt nội dung, cũng như tinh thần của Hiến pháp. Thực
tế trên thế giới, các Nhà nước có Hiến pháp đều có quy định bảo vệ Hiến pháp.
Xuất phát từ vị trí, vai trò của Hiến pháp là đạo luật cơ bản, có hiệu lực cao
nhất, đặt ra yêu cầu: Hiến pháp phải được ban hành theo quy trình đảm bảo là đạo
luật cơ bản của quốc gia, điều này đỏi hỏi: Quy trình xây dựng Hiến pháp và sửa đổi
Hiến pháp phải được thiết lập một cách chặt chẽ, đảm bảo quyền tham gia ý kiến
góp ý của nhân dân; Hiến pháp phải quy định chặt chẽ về tổ chức và hoạt động của
bộ máy nhà nước, bảo đảm cơ chế kiểm tra, giám sát quyền lực, tránh lạm quyền;
Phải có cơ chế bảo vệ Hiến pháp với vai trò là đạo luật cơ bản của quốc gia, là bản
khế ước của nhân dân ủy quyền cho các thiết chế trong bộ máy nhà nước, là phương
thức quan trọng để hạn chế, kiểm soát quyền lực nhà nước, đảm bảo dân chủ, quyền
con người.
Hiện nay, chưa có khái niệm chung nhất về bảo hiến và có nhiều quan điểm
khác nhau. Theo quan điểm của Gs. Ts Lê Minh Tâm thì thuật ngữ “bảo hiến” được


9

hiểu theo nghĩa chung nhất là bảo vệ hiến pháp. Theo từ điển tiếng Việt thì “bảo
vệ” là tổng hợp các biện pháp để chống lại mọi sự xâm phạm, để giữ cho luôn luôn
được nguyên vẹn, là bênh vực lí lẽ để giữ vững ý kiến, quan điểm. Như vậy, bảo
hiến có thể được hiểu là tổng hợp các biện pháp giữ gìn, chống lại sự vi phạm các
nguyên tắc và quy phạm hiến định.
Trong từ điển pháp luật của nhiều nước, thuật ngữ đó là “constututional
review/ judicial review”. Ở Việt Nam, có nhiều thuật ngữ pháp lý khác nhau như
“bảo hiến”, “bảo vệ Hiến pháp”, “tài phán Hiến pháp”. Mặc dù các khái niệm này
còn chưa hoàn toàn phù hợp xét trong ngữ nghĩa pháp lý do chúng có phạm vi quá

rộng và không xác định. Ở đây, một điều dễ hiểu là mọi cá nhân, mọi thiết chế, mọi
tổ chức đều có nghĩa vụ thiêng liêng là bảo vệ Hiến pháp. Từ cách tiếp cận này,
khái niệm thích hợp hơn về mặt pháp lý có thể là “kiểm tra, giám sát hiến pháp”.
Kiểm tra, giám sát hiến pháp có thể hiểu là một chức năng đặc biệt của các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền trong việc bảo đám vị trí tối thượng của Hiến pháp; bảo
đảm để Hiến pháp thực hiện một cách trực tiếp trong quan hệ hiện hữu. Cách hiểu
này hình thành nên quan điểm thứ nhất, quan niệm bảo hiến là toàn bộ hoạt động
kiểm tra, giám sát, xét xử của các cơ quan nhà nước nhằm bảo đảm vị trí, vai trò tối
thượng của Hiến pháp trong hệ thống pháp luật; sự phân quyền trong bộ máy nhà
nước; quyền công dân ghi nhận trong Hiến pháp. Đây là quan điểm bảo hiến theo
nghĩa rộng. Theo định nghĩa của một số từ điển pháp luật phổ biến, có thể hiểu bảo
hiến là thẩm quyền của tòa án của một quốc gia được xem xét và đánh giá tính hợp
hiến của các đạo luật hoặc quyết định của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Đây là quan điểm bảo hiến thứ hai, cho rằng: Bảo hiến là hoạt động của cơ quan có
chức năng tài phán hiến pháp theo thủ tục đặc biệt được Hiến pháp quy định. Đây
là quan điểm bảo hiến theo nghĩa hẹp.
Qua thực tiễn chúng ta có thể thấy rằng, nhiều quốc gia trên thế giới chưa có
những cơ quan chuyên trách có chức năng tài phán hiến pháp nhưng vẫn có những
cơ chế riêng để bảo vệ Hiến pháp, chống lại sự vi phạm các nguyên tắc và quy
phạm hiến định. Vì vậy, không thể lấy “cơ quan tài phán hiến pháp” là dấu hiệu để


10

cho rằng quốc gia đó không có cơ chế bảo vệ Hiến pháp, không có “bảo hiến”. Mặt
khác, theo TS. Nguyễn Mậu Tuân: “xét dưới góc độ quyền lực nhà nước thì chỉ
những chủ thể có quyền lực từ Hiến pháp, có nghĩa vụ bảo vệ Hiến pháp (những cơ
quan công quyền) thì mới có khả năng vi phạm Hiến pháp; bởi lẽ Hiến pháp là bản
thiết kế mô hình tổ chức quyền lực của bộ máy nhà nước, trong đó, Hiến pháp ấn
định hành lang pháp lý cho hành vi của công quyền, bao gồm cách thức thực hiện

quyền lực, cơ chế kiểm soát quyền lực để bảo đảm dân chủ.” Xuất phát từ chủ thể
có nghĩa vụ bảo vệ Hiến pháp là những cơ quan công quyền chứ không riêng cơ
quan tài phán, xuất phát từ biện pháp bảo vệ Hiến pháp rất rộng - từ kiểm tra, giám
sát đến xét xử, không chỉ riêng hoạt động xét xử, tác giả cho rằng phải hiểu khái
niệm bảo hiến theo nghĩa rộng: “Bảo hiến là toàn bộ hoạt động kiểm tra, giám sát,
xét xử của các cơ quan nhà nước nhằm bảo đảm vị trí, vai trò tối thượng và Hiến
pháp trong hệ thống pháp luật; sự phân quyền trong hệ thống bộ máy nhà nước;
quyền công dân ghi nhận trong Hiến pháp”.

1.2 Thiết chế bảo hiến – công cụ hữu hiệu để bảo vệ quyền và tự do của
con người và công dân – mục tiêu cơ bản của nhà nước Pháp quyền.

Mặc dù chưa có một định nghĩa chung về Nhà nước pháp quyền nhưng một
luận điểm được nhiều nhà nghiên cứu thống nhất là: Nhà nước pháp quyền có mục
tiêu bảo đảm quyền tự do của con người. Đặc điểm này đã phân biệt Nhà nước pháp
quyền với các nhà nước pháp trị trong lịch sử. Theo đó, Nhà nước pháp quyền
không chỉ nhấn mạnh tính tối cao của pháp luật mà điều quan trọng hơn, đó là pháp
luật trong Nhà nước pháp quyền phải bảo vệ quyền và tự do của con người, phục vụ
con người và vì con người. Điều đó cho phép mỗi người dân sống trong Nhà nước
pháp quyền có thể sử dụng pháp luật như một thứ công cụ hữu hiệu nhất để bảo vệ
mình và chống lại sự lạm dụng quyền lực nhà nước vì lợi ích riêng, đi ngược với
quyền lợi của nhân dân. Đây chính là cơ sở để khẳng định tính nhân văn, nhân đạo
của những tư tưởng về Nhà nước pháp quyền.


11

Trong Nhà nước pháp quyền, vấn đề bảo đảm các quyền và tự do của con
người có liên quan mật thiết tới việc bảo đảm sự tuân thủ các quy định của Hiến
pháp, đặc biệt là các quy định về quyền tự do cơ bản của con người. Sở dĩ như vậy

vì trong Nhà nước pháp quyền, quyền con người là những quyền hiến định, các
quyền này không thể bị xâm phạm. Bảo vệ các quyền, tự do của con người, thiết lập
một cơ chế tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước nhằm ngăn ngừa sự vi phạm
các quyền, tự do của con người cũng là mục đích ra đời của Hiến pháp. Tuy nhiên,
để bảo đảm mục tiêu cơ bản của Nhà nước pháp quyền, việc ghi nhận các quyền và
tự do cơ bản của công dân trong các văn bản pháp luật của Nhà nước là chưa đủ.
Vấn đề quan trọng và có ý nghĩa hơn cả đó là tính hiện thực của các quy định về
quyền con người, quyền công dân. Điều đó có nghĩa là phải có những cơ chế thực
thế và hiệu quả để người dân có thể thực hiện các quyền của mình, bảo vệ các
quyền của mình và bảo đảm mọi hành vi xâm phạm các quyền đó đều phải bị xử lý
kịp thời, đặc biệt là những xâm phạm từ phía cơ quan công quyền. Bảo hiến chính
là một trong những cơ chế như vậy. Thông qua việc xử lý các hành vi vi phạm Hiến
pháp (mà một trong những loại vi phạm phổ biến là vi phạm các quy định về quyền
con người trong Hiến pháp của cơ quan nhà nước), hoạt động bảo hiến giúp cho các
quyền hiến định của công dân được mọi cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân tôn
trọng. Sự hữu hiệu của công cụ bảo hiến còn thể hiện ở chỗ những hành vi vi phạm
quyền con người mà nó có thể xử lý là những xâm phạm mang tính quyền lực, kể cả
những cơ quan có địa vị pháp lý cao nhất trong bộ máy nhà nước. Với ý nghĩa như
vậy, bảo hiến chính là công cụ mà mỗi người dân trong Nhà nước pháp quyền cần
phải có để bảo vệ các quyền và tự do của mình. Khi đó, pháp luật nói chung và Hiến
pháp nói riêng sẽ thực sự là công cụ tốt nhất, được mọi chủ thể trong xã hội tin
tưởng, trở thành lá chắn quan trọng có tác dụng bảo vệ mọi chủ thể.


12

1.3 Thiết chế bảo hiến góp phần bảo vệ nền tảng pháp lý của Nhà nước pháp
quyền dân chủ
Trong hệ thống các văn bản pháp luật của Nhà nước ta cũng như các nước
trên thế giới, Hiến pháp được xem là luật cơ bản, luật gốc. Với nội dung quy định

về chế độ chính chị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, quyền và nghĩa
vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan
nhà nước, thể chế hóa mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhân dân làm chủ, Nhà
nước quản lý. Hiến pháp đã tạo lập cơ sở pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của
một Nhà nước pháp quyền dân chủ, lấy pháp luật làm công cụ chủ yếu để quản lý
xã hội. Không những thế, Hiến pháp còn là văn bản pháp lý đầu tiên của nước ta
xác định phương hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền, đồng thời, nêu lên những
đặc điểm cơ bản nhất của Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Khoản
1 Điều 2 Hiến pháp năm 2013 ghi rõ: “1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì
Nhân dân.
2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ; tất cả
quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức.
3. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư
pháp”. Đây là những quy định mang tính nền tảng, tạo cơ sở pháp lý, đồng thời là
nguyên tắc xuyên suốt quá trình xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước theo
hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền dân chủ. Do vậy, bảo đảm sự tuân thủ Hiến
pháp là yêu cầu tất yếu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa ở
nước ta.
Trên thực tế, những nguyên tắc trong tổ chức quyền lực nhà nước đã được
quy định bởi Hiến pháp vẫn có thể bị vi phạm. Khi đó, việc thiết lập cơ chế bảo hiến
sẽ giúp ngăn ngừa một cách hữu hiệu và xử lý kịp thời các hành vi vi phạm Hiến
pháp, bảo đảm hiệu lực thực tế của các quy định liên quan đến tổ chức và thực hiện


13

quyền lực Nhà nước, bảo vệ nền tảng pháp lý cho Nhà nước pháp quyền dân chủ.

Bảo hiến với nội dung và mục đích là bảo đảm sự tuân thủ hiến pháp không chỉ thực
hiện sự kiểm soát công quyền - một trong những yêu cầu cơ bản của Nhà nước pháp
quyền mà còn bảo vệ những nguyên tắc cơ bản của Nhà nước pháp quyền dân chủ
đang được xây dựng ở nước ta. Do vậy, việc xác lập một cơ chế kiểm tra và bảo vệ
Hiếp pháp, xử lý kịp thời những hành vi vi phạm hiến pháp là phương pháp quan
trọng và cần thiết để tạo ra sự bảo đảm vững chắc cho chế độ Nhà nước pháp quyền
và nền dân chủ ở nước ta.
1.4 Hoạt động bảo hiến góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật của Nhà nước
pháp quyền
Ở nước ta, pháp luật chính là phương tiện thể chế hóa đường lối của Đảng,
làm cho đường lối đó có hiệu lực và thực thi trên quy mô toàn xã hội. Trong mối
quan hệ với Nhà nước, pháp luật là phương tiện tổ chức và hoạt động của Nhà
nước, là sự ghi nhận về mặt pháp lý trách nhiệm của Nhà nước đối với xã hội và cá
nhân công dân, là phương tiện quản lý nhà nước có hiệu lực và hiệu quả đối với mọi
mặt của đời sống xã hội. Trong mối quan hệ với các tổ chức chính trị, tổ chức xã
hội, pháp luật là phương tiện đảm bảo cho quần chúng nhân dân lao động tham gia
quản lý nhà nước, quản lý xã hội thông qua các tổ chức của mình. Đối với toàn bộ
Hệ thống chính trị, pháp luật là phương tiện hàng đầu để thiết lập các nguyên tắc
quan trọng nhất về tổ chức và hoạt động của toàn bộ hệ thống, là thước đo về tính
hợp pháp, hợp chính trị, hợp đạo lý của các thành viên hoạt động trong hệ thống đó.
Đối với cá nhân, pháp luật là phương tiện ghi nhận và thể chế hóa các quyền con
người, quyền công dân và đảm bảo về mặt pháp lý cho các quyền đó được thực
hiện. Các vấn đề an sinh xã hội, về tính mạng và tài sản, danh dự và nhân phẩm,
bình đẳng và công bằng đều gắn chặt với vai trò điều chỉnh của pháp luật. Chính vì
vậy mà mức độ hoàn thiện pháp luật và tuân thủ pháp luật trở thành một tiêu chí để
đánh giá tính pháp quyền của một nhà nước.
Một trong những tiêu chí để hoàn thiện hệ thống pháp luật theo hướng xây
dựng Nhà nước pháp quyền đó là đảm bảo tính thống nhất của hệ thống pháp luật.



14

Khi đánh giá tính thống nhất về phương diện cấu trúc của hệ thống pháp luật, cần
xem xét tính thống nhất giữa các quy phạm pháp luật, các chế định pháp luật trong
cùng một ngành luật và với các nghành luật khác. Bên cạnh đó, tính thức bậc của hệ
thống văn bản pháp luật cũng là yếu tố không thể thiếu được để tạo nên sự đồng bộ
của hệ thống pháp luật. Luật, pháp lệnh cũng như các văn bản quy phạm pháp luật
khác đều phải phù hợp với Hiến pháp, những văn bản luật vi hiến đều bị hủy bỏ.
Nếu xuất hiện sự mâu thuẫn, chồng chéo trong nội tại hệ thống pháp luật thì không
thể có sự điều chỉnh pháp luật toàn diện, đồng bộ và có hiệu quả được. Tính thống
nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật đòi hỏi phải loại bỏ sự mâu thuẫn, trùng lặp,
chồng chéo giữa các văn bản quy phạm pháp luật đã được ban hành, xác định ranh
giới giữa các ngành luật và định ra một hệ thống quy phạm pháp luật đồng bộ. Để
đạt được điều đó, phải nhấn mạnh và đảm bảo tính tối cao của Hiến pháp vì đó là
đạo luật có giá trị pháp lý cao nhất, các văn bản khác nhất thiết phải dựa vào quy
phạm của Hiến pháp để cụ thể hóa thành hệ thống các quy phạm trong lĩnh vực
tương ứng.
Mặt khác, một đòi hỏi quan trọng nữa là sự thống nhất và ổn định trong cách
hiểu nội dung và ý nghĩa của các quy phạm Hiến pháp. Sự giải thích Hiến pháp
chính thức có tính chất bắt buộc cũng nhằm đáp ứng đòi hỏi đó. Qua việc thực hiện
thẩm quyền này, cơ quan bảo hiến còn tác động đến quá trình sáng tạo pháp luật và
ở góc độ nào đó tham gia vào quá trình này.
1.5 Cơ chế bảo hiến qua các bản Hiến pháp Việt Nam
Vấn đề bảo vệ Hiến pháp từ lâu đã được Đảng và Nhà nước ta hết sức chú
trọng, nhưng kể từ khi định hướng xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
Xã hội chủ nghĩa Việt Nam được đặt ra thì chủ đề trên mới trở lên “nóng bỏng” và
thu hút được sự chú ý của toàn xã hội. Bởi trong Nhà nước pháp quyền, Hiến pháp
được đặt ở vị trí cao nhất, được xem là biểu tượng hay “vương miện của Nhà nước
pháp quyền”. Lý luận về Nhà nước pháp quyền khẳng định Nhà nước pháp quyền
sinh ra để bảo vệ quyền con người, quyền tự do của công dân được quy định trong

nội dung của Hiến pháp.


15

Trong số các bản Hiến pháp nước ta từ trước đến nay, Hiến pháp năm 1946
là bản Hiến pháp đầu tiên, có nội dung hết sức ngắn gọn và súc tích bao gồm có lời
nói đầu, 70 điều với 12 chương, nhưng giá trị và ý nghĩa của Hiến pháp 1946 là đặc
biệt quan trọng trong lịch sử lập hiến của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Tuy nhiên, do ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta mới giành được độc lập và
tiếp tục phải chống Thực dân Pháp quay lại xâm lược, chính vì vậy, mức độ được
bảo vệ cũng như hiệu lực thực tế của Hiến pháp năm 1946 vẫn còn rất nhiều hạn
chế. Cụ thể là, nội dung của Hiến pháp năm 1946 chứa đựng một số điểm bất cập
lớn như Điều 31 Hiến pháp quy định về các đạo luật của nghị viện, theo đó trong
trường hợp những luật do Nghị viện đã thông qua, dù trái với Hiến pháp và được
Chủ tịch nước phát hiện, yêu cầu thảo luận lại nhưng Nghị viện vẫn thông qua thì
luật đó vẫn phải được ban hành dù có nội dung trái với Hiến pháp. Bên cạnh đó,
hoạt động giám sát của Nghi viện đối với hoạt động lập quy của Chính phủ cũng
không được quy định một cách cụ thể, chẳng hạn theo quy định tại Điều 36 Hiến
pháp năm 1946 nếu các sắc luật do Chính phủ ban hành có nội dung trái với Hiến
pháp, thì Nghị viện có quyền ưng chuẩn hoặc phế bỏ, nhưng căn cứ để Nghị viện
phế bỏ sắc luật vi hiến đó thì không được xác định rõ ràng. Chính vì những quy
định trên đã phần nào làm hạn chế hoạt động giám sát, kiểm tra Hiến pháp của cơ
quan nhà nước như Nghị viện hoặc Chủ tịch nước, khiến cho hiệu quả hoạt động
của cơ chế bảo hiến ở thời kì này không phát huy được. Ngoài ra, tại Điều 21, Điều
32, Điều 70 Hiến pháp năm 1946 đã ghi nhận một cơ chế sửa đổi để bảo vệ Hiến
pháp không bị xâm phạm, thay đổi tùy tiện. Ở đây, việc sửa đổi Hiến pháp có thủ
tục bắt buộc là đưa ra “ toàn dân phúc quyết”. Đây là một trong những đặc điểm thể
hiện tính dân chủ của Hiến pháp năm 1946 và là một trong những biện pháp bảo vệ
Hiến pháp.

Sau Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959 của nước ta ra đời, nhưng
trong toàn bộ nội dung Hiến pháp năm 1959 vẫn không có quy định nào trực tiếp
xác nhận địa vị pháp lý tối cao của Hiến pháp trong hệ thống pháp luật. Tuy nhiên,
với quy định tại Điều 43: “Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất” trong


16

khi Quốc hội là cơ quan ban hành Hiến pháp. Đồng thời, Hiến Pháp năm 1959 trao
cho Quốc hội quyền “giám sát việc thi hành Hiến pháp”. Như vậy, Hiến pháp năm
1959 đã phần nào xác lập vị trí và hiệu lực pháp lý của Hiến pháp cao hơn so với
các đạo luật và các văn bản pháp lý khác kể cả những văn bản cùng chủ thể có thẩm
quyền ban hành với Hiến pháp. Điều này đồng nghĩa với việc các văn bản như Luật,
Nghị quyết hay các văn bản pháp lý khác do Quốc hội và các cơ quan nhà nước ban
hành không được chứa đựng những quy định đi ngược lại tinh thần, nội dung của
Hiến pháp. Tuy nhiên, trong khuôn khổ các quy định của mình, Hiến pháp năm
1959 lại không đề cập tới thẩm quyền của Quốc hội trong việc xử lý các văn bản có
nội dung vi hiến, trọng trách này được Hiến pháp năm 1959 trao cho Ủy ban thường
vụ Quốc hội 1. Cùng với Ủy ban thường vụ Quốc hội, Hiến pháp năm 1959 cũng
trao quyền xử lý các văn bản có nội dung không hợp lý của các cơ quan nhà nước
cấp dưới cho các cơ quan như Hội đồng Chính phủ, Hội đồng nhân dân và Viện
Kiểm sát nhân dân, Uỷ ban hành chính2.
Về hoạt động kiểm soát sự tuân thủ pháp luật, Hiến pháp năm 1959 trao cho
Viện kiểm sát nhân dân quyền được kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ
quan thuộc Hội đồng Chính phủ, cơ quan nhà nước địa phương, các nhân viên cơ
quan và công dân, cụ thể tại Điều 105 Hiến pháp năm 1959, Chương VIII – Tòa án
nhân dân và Viện kiểm sát.
Như vậy, so với Hiến pháp 1946, nội dung quy định của Hiến pháp 1959 đối
với vấn đề giám sát Hiến pháp đã có phần chặt chẽ và rõ ràng hơn. Đã có nhiều chủ
thể tham gia hoạt động bảo hiến, tuy là chưa sâu sắc và toàn diện nhưng đã có cơ

chế giám sát văn bản quy phạm pháp luật.
Kế thừa Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 được ban hành trong bối
cảnh đất nước hoàn toàn thống nhất và tiến hành xây dựng đất nước theo con đường
Chủ nghĩa xã hội. Do đó, so với hai bản Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm
1

Khoản 7, Điều 53 Hiến pháp 1959

2

Khoản 4 - 5, Điều 74 Hiến pháp 1959; Điều 85 Hiến pháp 1959; Điều 90 Hiến pháp 1959


17

1959, Hiến pháp năm 1980 có nhiều điểm khác biệt nổi bật. Thông qua quy định tại
Điều 146 Chương XII, Hiến pháp năm 1980 lần đầu tiên xác lập vị thế của Hiến
pháp trong hệ thống pháp luật nước ta khi khẳng định: “Hiến pháp nước cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là luật cơ bản của nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao
nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp”. Với quy định trên,
lần đầu tiên Hiến pháp chính thức ngự trị trên đỉnh cao của Hệ thống pháp luật Việt
Nam, là đạo luật gốc, đạo luật cơ bản, buộc các văn bản pháp luật khác phải được
ban hành với nội dung phù hợp với các quy định của Hiến pháp.
Trong Hiến pháp năm 1980, việc giải thích Hiến pháp được đề cập rõ ràng và
cụ thể hóa hơn. Tại khoản 5 Điều 100 Hiến pháp năm 1980 quy định Hội đồng nhà
nước có thẩm quyền và nhiệm vụ: “ giải thích Hiến pháp, luật và pháp lệnh” trong
đó vai trò giải thích Hiến pháp được đặt lên hàng đầu.
Hiến pháp năm 1980 cũng trao cho Quốc hội – cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất quyền được: “thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp
và pháp luật”. Tuy nhiên trên thực tế, thẩm quyền giám sát tối cao đối với việc tuân

thủ Hiến pháp của Quốc hội chỉ mang tính hình thức vì vai trò xử lý các văn bản vi
hiến của các cơ quan nhà nước ở trung ương và giải thích Hiến pháp vẫn do cơ quan
thường trực của Quốc hội - Hội đồng nhà nước nắm giữ. Theo quy định tại Khoản 8
Điều 83 Hiến pháp năm 1980 thì Hội đồng nhà nước có quyền đình chỉ việc thi
hành, sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị quyết, nghị định, quyết định của Hội đồng bộ
trưởng nếu những văn bản này chứa đựng những nội dung trái với nội dung quy
định của Hiến pháp, Luật và Pháp lệnh. Đồng thời, theo khoản 10 Điều 83 Hiến
pháp năm 1980 Hội đồng nhà nước còn có quyền sửa đổi hoặc bãi bỏ những nghị
quyết có nội dung “không thích đáng” của Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương hoặc cấp tương đương. Ngoài ra, thẩm quyền xử lý các văn bản
pháp luật có nội dung trái với Hiến pháp theo quy định của Hiến pháp năm 1980
còn được trao cho các cơ quan nhà nước khác như Hội đồng bộ trưởng, Hội đồng


18

nhân dân và Ủy ban nhân dân3. Tương tự như Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm
1980 cũng trao cho Viện kiểm sát nhân dân thẩm quyền kiểm sát việc tuân theo
pháp luật của các cơ quan nhà nước như các bộ và các cơ quan thuộc Hội đồng bộ
trưởng, các cơ quan chính quyền địa phương, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân
dân, các nhân viên nhà nước và công dân, đồng thời thực hiện quyền công tố. Từ đó
góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, nội
dung cụ thể được quy định tại Điều 138 Hiến pháp năm 1980. Mặc dù so với hai
bản Hiến pháp trước đó, các quy định về bảo hiến của Hiến phá năm 1980 đã có
phần rõ ràng, chi tiết hơn nhưng Hiến pháp năm 1980 cũng có nhiều điểm chưa hợp
lý, chẳng hạn quy định về vai trò giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp và pháp
luật của Quốc hội. Thực tế cho thấy, Quốc hội khó có thể trực tiếp thực hiện trọng
trách này, bởi trong toàn bộ nội dung Hiến pháp không có bất cứ quy định nào cho
phép Quốc hội trực tiếp thực hiện vai trò trên, mà thẩm quyền thực tế xử lý những
vấn đề trong phạm vi hoạt động giám sát Hiến pháp và kiểm tra, giám sát việc tuân

thủ pháp luật lại do cơ quan thường trực của Quốc hội và các cơ quan khác nắm giữ.
Bản Hiến pháp 1992 được sửa đổi bổ sung 2001, kèm theo đó là một loạt các
luật về tổ chức bộ máy nhà nước và quy chế hoạt động của các cơ quan này được
ban hành trên cơ sở các quy định của Hiến pháp đã quy định một cách khá đầy đủ
về hoạt động kiểm tra, giám sát việc tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Theo đó, các
cơ quan nhà nước được trao thẩm quyền đối với vấn đề này, cụ thể như sau:
Khoản 2 Điều 84 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi năm 2001 quy định: Quốc hội
nắm giữ quyền giám sát tối cao việc tuân thủ Hiến pháp, Luật, Nghị quyết do Quốc
hội ban hành. So với các Hiến pháp trước đây, Hiến pháp năm 1992 sửa đổi năm
2001 đã thực hiện hóa quyền giám sát tối cao của Quốc hội, theo quy định tại
Khoàn 9 Điều 84 Hiến pháp năm 1992 Quốc hội có quyền bãi bỏ đối với các văn
bản pháp luật do Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng
chính phỉ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành nếu
3

Tại Khoản 23, 24, 25 Điều 107; Khoản 10 Điều 115; Điều 124 Hiến pháp 1980


19

các văn bản này có nội dung trái với Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội.
Như vậy, bên cạnh quyền giám sát Hiến pháp, quyền xử lý các văn bản có nội dung
vi hiến của Quốc hội đã được quy định một cách rõ ràng hơn, góp phần tăng thêm
tính hiệu quả cho hoạt động giám sát do Quốc hội thực hiện.
Khoản 5, 6 Điều 91 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi năm 2001 cho phép Ủy ban
thường vụ Quốc hội giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, văn bản
quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ương.
Khoản 2 Điều 112 Hiến pháp năm 1992 sửa đổi năm 2001 quy định Chính

phủ có nhiệm vụ và quyền hạn bảo đảm việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trong
các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang và công dân;
tổ chức và lãnh đạo công tác tuyên truyền, giáo dục Hiến pháp và pháp luật trong
nhân dân. Trong khi đó, theo quy định tại Khoản 4 và 5 Điều 115 Hiến pháp năm
1992, Thủ tướng chính phủ có quyền đình chỉ việc thi hành hoặc bãi bỏ các văn bản
như quyết định, chỉ thị, thông tư của bộ trưởng, các thành viên khác của Chính phủ,
quyết định, chỉ thị của Ủy ban nhân dân và chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương trái với Hiến pháp, Luật và các văn bản của các cơ quan
Nhà nước cấp trên; đình chỉ việc thi hành những nghị quyết của Hội đồng nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nếu những văn bản này có nội dung trái với
Hiến pháp, Luật và các văn bản của các cơ quan Nhà nước cấp trên, đồng thời đề
nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội bãi bỏ chung.
Việc kiểm sát các hoạt động tư pháp được trao cho Viện kiểm sát nhân dân
tối cao, theo quy định tại Điều 137 Hiến pháp 1992 sửa đổi năm 2001 nhằm góp
phần đảm bảo cho pháp luật nói chung và Hiến pháp nói riêng được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất trên phạm vi toàn quốc.
Mới đây nhất là bản Hiến pháp vừa được thông qua vào ngày 28/11/2013 và
chính thức có hiệu lực vào ngày 1/1/2014 cho phù hợp với tình hình thay đổi của
đất nước. Có thể nói, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013 là


20

một công trình khoa học, một văn kiện chính trị - pháp lý quan trọng bậc nhất, kết
tinh cao độ ý Đảng, lòng Dân, tinh thần dân chủ, đổi mới, phát huy sức mạnh đoàn
kết dân tộc, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền và phát triển nền kinh
tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời
kỳ mới. Tuy nhiên, những hoạt động kiểm tra, giám sát việc tuân thủ Hiến pháp và
pháp luật được quy định gần như về mặt thẩm quyền trao cho các cơ quan nhà nước
không thay đổi đáng kể so với Hiến pháp năm 1992 sửa đổi năm 2001.

Chương I quy định về chế độ chính trị: Hiến pháp khẳng định Nhà nước
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân (khác với trước, chữ Nhân dân được viết hoa).
Đồng thời, Hiến pháp tuy vẫn khẳng định quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự
phân công, phối hợp, nhưng lần đầu tiên có quy định thêm việc kiểm soát giữa các
cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp
(khoản 3 Điều 2). Đây được xem là một điểm mới cực kỳ quan trọng trong việc tổ
chức quyền lực Nhà nước, tránh những nhánh quyền lực vượt quá quyền hạn, không
thể kiểm soát. Hiến pháp vẫn khẳng định vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội của
Đảng Cộng sản Việt Nam nhưng bổ sung một quy định rất quan trọng đó là “Đảng
gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự giám sát của Nhân dân,
chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định của mình”. Khác với Hiến
pháp trước, từ nay Nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước không chỉ bằng dân chủ
đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân mà còn thông qua các cơ quan
khác của Nhà nước.
Điều 69 Hiến pháp năm 2013 vẫn khẳng định Quốc hội là cơ quan đại biểu
cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhưng không khẳng định trực tiếp Quốc hội là cơ quan
duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp như Hiến pháp năm 1992 mà tại Hiến pháp
năm 2013, Quốc hội nhân danh quyền lực của Nhân dân, nhấn mạnh quyền lực của
nhân dân được cụ thể hóa và trao quyền cho Quốc hội thực hiện quyền lập hiến,


21

quyền lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao
đối với hoạt động của Nhà nước, đồng thời thông qua hình thức dân chủ trực tiếp.
Tiếp tục thực hiện hóa quyền giám sát tối cao của Quốc hội, giống như Hiến
pháp năm 1992 sửa đổi năm 2001 đồng thời nhiệm vụ và quyền hạn trong việc giám
sát các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước đều không thay đổi.

Tại Điều 119, Chương XI Hiến pháp năm 2013 thì ngoài việc nhấn mạnh
“Hiến pháp là luật cơ bản của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có hiệu
lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp. Mọi
hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý” thì Hiến pháp đã nêu cụ thể “Quốc hội,
các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm
sát nhân dân, các cơ quan khác của Nhà nước và toàn thể Nhân dân có trách nhiệm
bảo vệ Hiến pháp”. Điều này để thấy rõ việc bảo vệ Hiến pháp không phải của riêng
một cơ quan nào mà phải là của toàn bộ hệ thống nhà nước. Cơ chế bảo vệ Hiến
pháp do luật định và được thực hiện toàn diện trên mọi mặt của đời sống xã hội.
Như vậy, trong suốt chiều dài lịch sử lập hiến của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, hoạt động bảo hiến đã có sự hoàn thiện dần từng bước, song hành
hoàn thiện cùng các bản Hiến pháp từ năm 1946 cho tới gần nhất là Hiến pháp năm
2013 vừa được thông qua. Đồng thời đòi hỏi sự quan tâm hơn nữa của các cơ quan
nhà nước, đánh giá đúng thực trạng pháp luật của nước ta để có thể bảo đảm thực
hiện Hiến pháp một cách đúng và hoàn chỉnh nhất.


×