Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Đảm bảo quyền con người của bị cáo trong hoạt động xét xử vụ án hình sự của tòa án nhân dân tỉnh nam định hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (753.63 KB, 79 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HOÀNG TIẾN NAM

ĐẢM BẢO QUYỀN CON NGƢỜI CỦA BỊ CÁO TRONG
HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA
TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH NAM ĐỊNH HIỆN NAY

Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. NGUYỄN VĂN ĐỘNG

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự của cá
nhân, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Nguyễn Văn
Động. Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong luận văn
này trung thực và chưa từng được công bố dưới bất cứ hình thức nào.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Học viên
Hoàng Tiến Nam



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ....................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ của Luận văn ......................................................... 7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn....................................... 7
5. Cơ sở phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu của Luận văn . 7
6. Ý nghĩa của Luận văn ................................................................................ 7
7. Cơ cấu của Luận văn ................................................................................. 8
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẢM BÀO QUYỀN CON NGƢỜI
CỦA BỊ CÁO TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA
TAND................................................................................................................ 9
1.1. Quyền con người và quyền con người của bị cáo trong hoạt động xét
xử vụ án hình sự của TAND .......................................................................... 9
1.1.1. Quyền con người .............................................................................. 9
1.1.2. Quyền con người của bị cáo trong hoạt động xét xử vụ án hình sự
của TAND ................................................................................................. 13
1.2 Nội dung đảm bảo quyền con người của bị cáo trong hoạt động xét xử
vụ án hình sự của TAND ............................................................................. 25
1.3. Các điều kiện cần thiết để đảm bảo quyền con người trong hoạt động
xét xử vụ án hình sự của TAND .................................................................. 33
1.3.1. Các điều kiện chung ....................................................................... 33
1.3.2. Điều kiện riêng mang tính pháp lý ................................................. 38
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO QUYỀN CON
NGƢỜI CỦA BỊ CÁO TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH
SỰ CỦA TAND TỈNH NAM ĐỊNH HIỆN NAY ....................................... 47
2.1 Thực trạng đảm bảo quyền con người của bị cáo trong hoạt động xét xử
vụ án hình sự của TAND tỉnh Nam Định hiện nay ..................................... 47
2.1.1. Những ưu điểm, thành tựu và nguyên nhân ................................... 47

2.1.2. Những nhược điểm, hạn chế và nguyên nhân ................................ 53
2.2. Những giải pháp nâng cao hiệu quả đảm bảo quyền con người của bị
cáo trong hoạt động xét xử vụ án hình sự của TAND tỉnh Nam Định hiện
nay ................................................................................................................ 59
KẾT LUẬN CHUNG .................................................................................... 72


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CHXHCN : Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa
TAND

: Tòa án nhân dân


1

MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài
Xét xử vụ án hình sự là hoạt động chủ yếu của quá trình tố tụng hình

sự. Đây là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước nhằm đảm bảo nền an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của
con người. Hoạt động xét xử hình sự sẽ tạo ra kết quả pháp lý quan trọng, ảnh
hưởng trực tiếp đến các quyền cơ bản của con người, được các quốc gia và
cộng đồng quốc tế đặc biệt quan tâm.
Ngày 12 tháng 11 năm 2013 vừa qua, Việt Nam trúng cử với số phiếu
cao nhất trong số 14 nước thành viên mới và lần đầu tiên trở thành thành viên
Hội đồng Nhân quyền Liên Hợp Quốc. Đây sự kiện quan trọng của đất nước

và cũng là sự ghi nhận của cộng đồng quốc tế đối với những thành tựu của
Việt Nam trong việc đảm bảo ngày càng tốt hơn các quyền con người trên tất
cả các lĩnh vực chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa, giáo dục, tôn giáo, tín
ngưỡng… Hiến pháp năm 2013 đã đưa Chương V “Quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân” của Hiến pháp 1992 lên thành Chương II: “Quyền con người,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”. Qua sự kiện này, trách nhiệm của
Nhà nước ta nói chung và ngành Tư pháp nói riêng trong việc đảm bảo quyền
con người càng nặng nề. Tuy vậy, trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện
nay, vấn đề đảm bảo quyền con người trong hoạt động tố tụng vẫn còn bộc lộ
những bất cập cả về lý luận cũng như hoạt động thực tiễn. Hiện nay, tại một
số địa phương xảy ra nhiều vụ việc xét xử hình sự oan, sai nghiêm trọng, gây
thiệt hại đến sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân; vi phạm đến các vấn đề về dân chủ, công bằng, bình đẳng trong xã
hội; làm ảnh hưởng đến bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa;
làm xói mòn niềm tin của nhân dân đối với hệ thống TAND… Thực trạng
trên đang là sự bức xúc lớn mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đặc biệt quan


2

tâm. Vì thế, đã có nhiều chủ trương, chính sách lớn được Đảng và Nhà nước
đề ra, nhằm từng bước làm rõ nguyên nhân, tìm ra giải pháp khắc phục. Một
trong những chủ trương, chính sách lớn vừa mang tính cấp bách và lâu dài là
tiếp tục cải cách hoàn thiện hệ thống TAND các cấp theo hướng đảm bảo
quyền con người, đảm bảo quyền công dân.
Với TAND tỉnh Nam Định, đơn vị đã có nhiều cố gắng trong hoạt
động xét xử, thực hiện theo tinh thần cải cách tư pháp chung, đồng thời cụ thể
hoá vào trong hoạt động xét xử ở mỗi Toà án, nhằm bảo đảm Toà án là hiện
thân của công lý, công bằng xã hội, không làm oan người vô tội, không bỏ lọt
tội phạm. Tuy nhiên vấn đề đảm bảo quyền con người của bị cáo trong hoạt

động xét xử ở TAND tỉnh vẫn đang còn là nội dung khá mới mẻ trong nhận
thức của người dân, cán bộ Tòa án, cũng như trong việc tổ chức và thực hiện
trên thực tế. Đây là vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu một cách toàn diện cả
về lý luận lẫn hoạt động thực tiễn để góp phần thiết thực vào việc đảm bảo
quyền con người trong hoạt động tố tụng hình sự nói chung và quyền con
người trong giai đoạn xét xử hình sự nói riêng. Đó là lý do tác giả chọn đề tài
"Đảm bảo quyền con người của bị cáo trong hoạt động xét xử vụ án hình sự
của TAND tỉnh Nam Định hiện nay" để thực hiện luận văn thạc sĩ Luật học,
chuyên ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tuyên ngôn Toàn thế giới về Quyền con người được Đại hội đồng Liên
hợp quốc thông qua năm 1948, đã đánh dấu bước phát triển mới về quyền con
người của lịch sử loài người. Đây là cơ sở tư tưởng chính trị cho việc hoàn
thiện về lý luận cũng như thực tiễn của việc đảm bảo quyền con người trong
lịch sử phát triển của thế giới hiện đại nói chung và các khu vực quốc gia nói
riêng.


3

Trên thế giới, từ cơ sở Luật quốc tế về quyền con người, các quốc gia
đều xây dựng cho mình các thiết chế để đảm bảo và phát huy quyền con
người trên thực tế. Năm 1950, Ngoại trưởng các quốc gia thành viên Cộng
đồng châu Âu đã ký Hiệp ước về quyền con người, vạch ra hệ thống bảo vệ
quyền con người cho tất cả các quốc gia thành viên của cộng đồng. Uỷ ban
nhân quyền châu Âu, Toà án nhân quyền châu Âu cũng được ra đời.
Ở châu Á – Thái Bình Dương, các tổ chức nhân quyền ở các quốc gia
lần lượt được thành lập ở các nước như: Newzialand, Auatralias,
Philippines… để góp phần đảm bảo quyền con người trong phạm vi quốc gia
mình.

Cùng với các căn cứ pháp lý về quyền con người, các quan điểm, tư
tưởng và quy định pháp luật liên quan đến vấn đề này đã được phản ánh hết
sức phong phú đa dạng như: tác phẩm “Nhân quyền, bảo vệ nhân quyền theo
Công ước quốc tế về quyền dân sự và chính trị” của Lippman Matther, tạp chí
Quốc tế California, số 10-1980; tác phẩm “Việc áp dụng Hiệp ước châu Âu về
nhân quyền của Toà án Pháp” của Steiner Eva, tạp chí Luật Kings Collages,
số 6, 1996; tác phẩm “ Nhân quyền và đánh giá tư pháp tại Đức” của Grimm
Dicter và tác phẩm “Các đảm bảo quyền cá nhân theo Hiến pháp Liên Bang
Mỹ” của Scialia Antomin, nhà xuất bản Martinus Nijhoff publishers,
Dordrecht 1994; tác phẩm “Luật nhân quyền quốc tế liên quan đến phụ nữ,
các ghi nhớ từ các vụ án và bình luận” của Cook Rebeca J, tạp chí Vanderbilt
Jourual of Tran national law, số 23, 1990)…
Các tác phẩm nêu trên đề cập đến các vấn đề lý luận về quyền con
người nói chung, quyền con người ở từng lĩnh vực nói riêng, về tổ chức và
hoạt động thực tiễn đảm bảo quyền con người ở các quốc gia trong Cộng
đồng châu Âu, cũng như các quốc gia tổ chức khác trên thế giới….


4

Ở nước ta, đảm bảo quyền con người nói chung và đảm bảo quyền con
người trong hoạt động xét xử vụ án hình sự là vấn đề đã được Đảng, Nhà
nước cùng các nhà khoa học xã hội hết sức quan tâm nghiên cứu nhất là trong
thời kỳ đổi mới. Bên cạnh việc thành lập Trung tâm nghiên cứu quyền con
người trực thuộc Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, hiện nay đã có
nhiều công trình khoa học nghiên cứu về lĩnh vực này. Ngày 30/12/1990, tại
Học viện Nguyễn Ái Quốc (nay là học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh)
đã tổ chức Hội nghị khoa học về đề tài: “Chủ nghĩa xã hội và nhân quyền”
với sự tham gia của nhiều nhà khoa học trong Học viện và Viện nghiên cứu
Khoa học xã hội Việt Nam, Ban Văn hoá – Tư tưởng Trung ương, Viện Mác

– Lênin, Bộ ngoại giao, Tạp chí Cộng sản, Văn phòng Quốc hội… 27 báo cáo
tham luận trong hội nghị đã phân tích cụ thể của nhân quyền trong thực tiễn
xã hội Việt Nam và các kiến nghị liên quan đến lĩnh vực này. Tiếp đó, Nhà
nước ta đã cho triển khai chương trình KX-07 “Con người, mục tiêu và động
lực của sự phát triển kinh tế - xã hội” do GS.TS. Phạm Minh Hạc làm chủ
nhiệm, với hơn 200 nhà khoa học thuộc các chuyên ngành khác nhau tham
gia, trong đó, có đề tài KX.07-16 nghiên cứu về “Các điều kiện đảm bảo
quyền con người, quyền công dân trong sự nghiệp đổi mới đất nước” do
GS.TS. Hoàng Văn Hảo chủ nhiệm; Trung tâm Nghiên cứu Quyền con người
biên tập hai tập chuyên khảo “Quyền con người, quyền công dân” của nhiều
tác giả, xuất bản năm 1995; Viện thông tin Khoa học xã hội và nhân văn
Quốc gia phối hợp với Trung tâm Nghiên cứu Quyền con người đã tổ chức
nghiên cứu, sưu tầm cuốn “Quyền con người trong thế giới hiện đại” do PGS.
Phạm Khiêm Ích và GS.TS Hoàng Văn Hảo Chủ biên, Viện thông tin Khoa
học xã hội xuất bản năm 1995; công trình: Tìm hiểu vấn đề nhân quyền trong
thế giới hiện đại, do PGS.TS. Chu Hồng Thanh Chủ biên, Nxb. Lao động, Hà
Nội, 1996. Cuốn “Quyền con người tiếp cận đa ngành và liên ngành Khoa


5

học Xã hội” do GS.TS. Võ Khánh Vinh Chủ biên, Nxb. Khoa học xã hội,
2009. Bài viết “Các quyền hiến định của công dân và bảo đảm pháp lí ở nước
ta”, PGS.TS. Nguyễn Văn Động Tạp chí Luật học, 2004. Cuốn “Quyền con
người, quyền công dân trong Hiến pháp Việt Nam” PGS.TS Nguyễn Văn
Động, Nxb. Khoa học xã hội, 2005.
Về lĩnh vực tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước nhằm đảm
bảo quyền con người, bao gồm: Đề tài KX-05-07- về “Nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của bộ máy lập pháp, hành pháp, tư pháp nước ta với nhiệm vụ xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” năm 1995, do Nguyễn Văn

Thảo Chủ nhiệm, đề tài đã đề cập đến các vấn đề cơ bản như xây dựng nhận
thức, quan niệm thống nhất về Nhà nước pháp quyền Việt Nam, về chiến lược
tổng thể xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam và các đề nghị về các
bước đi trong quá trình tổ chức thực hiện; tập sách về “Quyền con người
trong quản lý tư pháp” (Vũ Ngọc Bình tuyển chọn, Nxb. Chính trị quốc gia,
2000); Chuyên đề “Tổng hợp các kiến nghị khoa học góp phần đổi mới tổ
chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp” (của Viện Nghiên cứu Khoa học
pháp lý, 2000)…. Các công trình này đã đề cập về các khía cạnh như khái
niệm về quyền con người, sự phát triển các học thuyết, tư tưởng về quyền con
người trên thế giới, thực trạng quyền con người ở Việt Nam trong lịch sử và
hiện nay, các kiến nghị khoa học về đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ
quan tư pháp….
Về lĩnh vực hoạt động nhằm đảm bảo quyền con người, bao gồm:
Nguyễn Văn Tuân về đề tài: “Sự tham gia của người bào chữa ở Toà sơ thẩm
theo pháp luật Việt Nam” (Luận án tiến sĩ Luật học); tác giả Dương Thị Thanh
Mai về đề tài: “Giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp ở Việt Nam (Bằng
thực tiễn của Toà án và luật sư) (Luận án phó tiến sĩ Luật học, 1995); tác phẩm:
Cải cách tư pháp ở Việt Nam trong xây dựng Nhà nước pháp quyền, Nxb. Đại


6

học quốc gia, Hà Nội, 2004 do TSKH Lê Cảm – PGS.TS. Nguyễn Ngọc Chí
Chủ biên, đề cập đến cơ sở lý luận về cải cách tư pháp, các vấn đề cải cách tư
pháp cụ thể trong lĩnh vực hình sự, dân sự, tố tụng, kinh tế, lao động; tác phẩm:
Thể chế tư pháp trong nhà nước pháp quyền, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2004, đề
cập đến vấn đề lý luận về thể chế tư pháp, về thể chế tư pháp ở các nước trong
xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam…
Năm 2001, Trung tâm nghiên cứu quyền con người trực thuộc Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức hội thảo khoa học về chủ đề:

“Hiến pháp, pháp luật và quyền con người – Kinh nghiệm Việt Nam và Thụy
Điển” với Hiến 20 tham luận và ý kiến chọn lọc đề cập về hoạt động lập hiến,
lập pháp cũng như hoạt động thực tiễn đảm bảo quyền con người trong các
quốc gia….
Ngoài ra, còn nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả khác đã được
đăng tải trong các luận án, luận văn tốt nghiệp, tập san, tạp chí chuyên ngành
như Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp chí
Toà án nhân dân , Tạp chí Lập pháp….
Mặc dù trên thế giới cũng như trong nước đa có nhiều công trình khoa
học nghiên cứu về lĩnh vực quyền con người, nhưng nhìn chung, những công
trình nghiên cứu nêu trên chủ yếu đề cập đến những vấn đề lý luận về quyền
con người, từng lĩnh vực hoạt động cụ thể về quyền con người, về tổ chức và
hoạt động của các bộ máy nhà nước, về việc xây dựng pháp luật về đảm bảo
quyền con người nói chung. Cho đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên
cứu một cách trực tiếp và toàn diện cả về lý luận và thực tiễn đảm bảo quyền
con người trong xét xử hình sự của TAND tỉnh cấp tỉnh ở Việt Nam. Tuy vậy,
các công trình nêu trên vẫn là những tài liệu tham khảo quan trọng đối với tác
giả trong quá trình thực hiện Luận văn.


7

3. Mục đích và nhiệm vụ của Luận văn
Nghiên cứu đề tài này, tác giả hướng tới mục đích làm rõ thêm cơ sở lý
luận và thực tiễn đảm bảo quyền con người của bị cáo trong hoạt động xét xử
vụ án hình sự của TAND tỉnh Nam Định, trên cơ sở đó đề xuất những giải
pháp thiết thực nhằm đảm bảo quyền con người và nâng cao hiệu quả trong
xét xử vụ án hình sự tại địa phương đảm bảo xét xử đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật, không xử oan sai người vô tội, không bỏ lọt tội phạm.
Để thực hiện mục đích trên, Luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu cơ sở lý

luận đảm bảo quyền con người trong hoạt động xét xử án hình sự; đánh giá
thực trạng đảm bảo quyền con người của bị cáo trong xét xử hình sự tại
TAND tỉnh Nam Định và đề xuất những giải pháp tiếp tục đảm bảo quyền
con người của bị cáo trong hoạt động xét xử vụ án hình sự của TAND tỉnh
tỉnh Nam Định trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của Luận văn
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là đảm bảo quyền con người của bị
cáo trong hoạt động xét xử vụ án hình sự của TAND tỉnh. Trong phạm vi
Luận văn này, tác giả chỉ nghiên cứu việc đảm bảo quyền con người của bị
cáo trong hoạt động xét xử vụ án hình sự của TAND tỉnh Nam Định hiện nay.
5. Cơ sở phƣơng pháp luận và các phƣơng pháp nghiên cứu của Luận
văn
Luận văn dựa trên cơ sở phương pháp luận là chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về nhà nước và
pháp luật. Ngoài ra, Luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu như
phân tích – tổng hợp, so sánh, thống kê.
6. Ý nghĩa của Luận văn
Kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần nhất định và việc làm
phong phú thêm hệ thống tri thức khoa học về quyền con người của bị cáo và


8

đảm bảo quyền con người của bị cáo trong hoạt động thực tiễn xét xử của
TAND nói chung, của TAND tỉnh Nam Định nói riêng. Đồng thời, Luận văn
là tài liệu tham khảo có giá trị đối với các Tòa án hình sự trong việc đảm bảo
quyền con người của bị cáo khi xét xử vụ án hình sự.
7. Cơ cấu của Luận văn
Ngoài phần tử đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn
có kết cấu hai chương: Chương 1 phân tích làm rõ cơ sở lý luận của việc đảm

bảo quyền con người của bị cáo trong hoạt động xét xử vụ án hình sự của
TAND; Chương 2 đánh giá thực trạng đảm bảo quyền con người của bị cáo
trong hoạt động xét xử vụ án hình sự và đề xuất những giải pháp nâng cao
hiệu quả đảm bảo quyền con người của bị cáo khi xét xử vụ án hình sự của
TAND tỉnh Nam Định


9

CHƢƠNG 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẢM BÀO QUYỀN CON NGƢỜI CỦA BỊ CÁO
TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ CỦA TAND
1.1. Quyền con ngƣời và quyền con ngƣời của bị cáo trong hoạt động xét
xử vụ án hình sự của TAND
1.1.1. Quyền con người
Quyền con người là một trong những vấn đề thiêng liêng, cơ bản và
cũng luôn luôn là khát vọng của toàn thể nhân loại. Quyền con người được
sinh ra và đồng thời cũng phải bảo đảm thực hiện như một lẽ tự nhiên. Cho
nên, nó không chỉ là vấn đề trọng yếu trong luật pháp quốc tế mà còn là chế
định pháp lý cơ bản trong pháp luật của mỗi quốc gia.
Theo Từ điển giải thích thuật ngữ pháp lý thông dụng, "Quyền con
người là các quyền tất yếu mà con người phải được hưởng và các quốc gia
phải tôn trọng" [15, tr. 338]. Vì vậy, theo quan niệm chung hiện nay, "quyền con
người là những giá trị, năng lực, nhu cầu vốn có và chỉ có ở con người với tư
cách là thành viên của cộng đồng nhân loại được thể chế hóa bằng pháp luật
quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế" [12].
Khi bàn đến quyền con người Jaeque Mourgeon trong cuốn "Các quyền
con người" đã cho rằng: “Quyền con người trước hết được hiểu là những đặc
quyền tự nhiên mà con người có. Đó là khả năng hành động có ý thức, trách
nhiệm nhất là tự bảo vệ. Nhưng bản thân đặc quyền (quyền tự nhiên) chưa phải

là quyền con người. Mà để đạt đến cái gọi là "quyền" thì phải có yếu tố thứ hai
là pháp luật. Chỉ khi được pháp luật ghi nhận thì các đặc quyền của cá nhân
mới trở thành đối tượng điều chỉnh của pháp luật mới trở thành quyền con
người” [21, tr. 131].


10

Quyền con người là giá trị chung của nhân loại, nhưng do điều kiện
kinh tế, chính trị - xã hội ở các châu lục, các khu vực, các quốc gia phát triển
không giống nhau nên ở các quốc gia khác nhau thì năng lực và nhu cầu của
mỗi thành viên xã hội sẽ không giống nhau mà phụ thuộc vào điều kiện kinh
tế - chính trị - xã hội nhất định mà thành viên đó sinh sống. Cho nên, ở các
quốc gia, quyền con người được thể hiện thành quyền công dân và được đảm
bảo thực hiện bởi hệ thống pháp luật của quốc gia đó.
Trong các thời kỳ cổ đại và phong kiến, tư tưởng về quyền con người
đã được đề cập đến nhưng còn rời rạc, nhưng khi cách mạng tư sản nổ ra
thắng lợi với những tiền đề tư tưởng và thành tựu của khoa học tự nhiên thì
vấn đề quyền con người mới được đặt ra như một học thuyết, hay nói cách
khác, quyền con người bắt đầu được chính thức công khai thừa nhận. Có thể
nói rằng, sự kiện này được đánh dấu bằng Tuyên ngôn độc lập của Hợp chủng
quốc Hoa Kỳ năm 1776 "Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng,
tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong đó có
quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc". Tuyên ngôn nhân quyền và
dân quyền năm 1791 của Pháp tuyên bố: "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng
về quyền lợi và phải được tự do bình đẳng về quyền lợi"... Từ đó các tiêu chí
về quyền con người từng bước được các quốc gia thừa nhận và quy định trong
pháp luật của nước mình.
Sau chiến tranh thế giới thứ 2, cộng đồng quốc tế thông qua Liên hiệp
quốc tuyên bố chính thức về các quyền và tự do của con người bằng Hiến

chương Liên hiệp quốc 1945 và Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền năm
1948. Cụ thể hoá quyền con người trong các văn bản trên, năm 1966, Liên
hiệp quốc thông qua Công ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá và
Công ước về các quyền dân sự và chính trị (ngày 24/9/1982 Việt Nam gia
nhập hai Công ước này). Ở Việt Nam, Tuyên ngôn độc lập năm 1945 đánh


11

dấu bước ngoặt quan trọng cho thời kỳ phát triển mới về quyền con người trên
đất nước ta.
Quyền con người là một trong những giá trị xã hội cao quý nhất, đồng
thời là vấn đề rộng lớn, phức tạp, được nhiều chuyên ngành khoa học nghiên
cứu, do đó có nhiều quan điểm, định nghĩa khác nhau về quyền con người.
Song, trước hết, quyền con người được hiểu là những đặc quyền tự nhiên mà
con người sinh ra có. Đó là những đặc quyền mang tính tự nhiên mà nổi bật là
quyền được sống, được bảo vệ, được tự do phát triển. Mặc dù những đặc
quyền đó có trước, song chừng nào chưa được công nhận thì chúng không thể
được đưa ra áp dụng. Do đó, để đạt tới cái gọi là quyền cần phải có sự ghi
nhận mà cụ thể là bằng pháp luật.
Cho đến nay, đặc tính quan trọng nhất của quyền con người được tất cả
các văn kiện của Liên hợp quốc công nhận là quyền con người được thực hiện
trên cơ sở tôn trọng nhân phẩm và giá trị của mỗi con người. Nhà nước có
trách nhiệm hàng đầu trong việc thúc đẩy và thực hiện quyền con người và
được thực hiện trên cơ sở bình đẳng, không phân biệt đối xử với tất cả mọi
con người. Như vậy quan điểm về quyền con người của Jaeque Mourgeon
được coi là toàn diện, có giá trị nhất.
Theo các công ước quốc tế và văn kiện của Liên hợp quốc, quyền con
người được chia thành hai nhóm cơ bản sau đây:
- Nhóm các quyền dân sự, chính trị. Trong đó có các quyền con người

cụ thể: Quyền sống (Điều 3 Tuyên ngôn Toàn thế giới về Quyền con người
năm 1948; Điều 6 Công ước về các Quyền dân sự và Chính trị năm 1966;
Công ước về quyền trẻ em, 1989), Quyền không bị phân biệt đối xử, được
thừa nhận và bình đẳng trước pháp luật (Điều 1, 2, 6, 7, 8 Tuyên ngôn Toàn
thế giới về Quyền con người năm 1948; Điều 2, 3, 16 và 26 Công ước về các
Quyền dân sự và Chính trị năm 1966). Quyền được bảo vệ không bị tra tấn,


12

đối xử tàn bạo, vô nhân đạo (Điều 5 Tuyên ngôn Toàn thế giới về Quyền con
người năm 1948; Điều 7 Công ước về các Quyền dân sự và Chính trị năm
1966; Công ước chống tra tấn và các hình thức đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo,
vô nhân đạo hoặc hạ nhục), Quyền được bảo vệ khỏi bị bắt, giam giữ tùy tiện
(Điều 9 Tuyên ngôn Toàn thế giới về Quyền con người năm 1948, Điều 9
Công ước về các Quyền dân sự và Chính trị năm 1966), Quyền được đối xử
nhân đạo và tôn trọng nhân phẩm của người bị tước tự do (Điều 5 Tuyên ngôn
Toàn thế giới về Quyền con người năm 1948; Điều 10 Công ước về các
Quyền dân sự và Chính trị năm 1966). Quyền về xét xử công bằng (Điều 10,
11 Tuyên ngôn Toàn thế giới về Quyền con người năm 1948; Điều 11, 14 và
15 Công ước về các Quyền dân sự và Chính trị năm 1966)…
- Nhóm các quyền về kinh tế - xã hội, văn hóa. Trong đó có các quyền
con người cụ thể: Quyền được hưởng an sinh xã hội (Điều 22 Tuyên ngôn
Toàn thế giới về Quyền con người năm 1948; Điều 9 Công ước về các Quyền
Kinh tế, Xã hội và Văn hóa năm 1966), Quyền lao động (Điều 23 Tuyên ngôn
Toàn thế giới về Quyền con người năm 1948; Điều 6, 7, 8 Công ước về các
Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa năm 1966), Quyền được hưởng và duy trì
tiêu chuẩn sống thích đáng (Điều 25 Tuyên ngôn Toàn thế giới về Quyền con
người năm 1948; Điều 11 Công ước về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa
năm 1966), quyền giáo dục (Điều 26 Tuyên ngôn Toàn thế giới về Quyền con

người năm 1948; Điều 13, 14 Công ước về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn
hóa năm 1966), Quyền được tham gia vào đời sống văn hóa và được hưởng
các thành tựu của khoa học (Điều 27 Tuyên ngôn Toàn thế giới về Quyền con
người năm 1948; Điều 15 Công ước về các Quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa
năm 1966) và các quyền của một số nhóm người dễ bị tổn thương như phụ nữ,
trẻ em, người khuyết tật...


13

Thế giới hiện đại với sự thay đổi thường xuyên và nhanh chóng trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - chính trị - xã hội, cho nên quyền con
người được phát triển không ngừng, phong phú hơn cả về nội dung lẫn hình
thức. Cho nên, trong quá trình phát triển của nhân loại một số quyền con
người mới được xuất hiện như: Quyền được sống trong hòa bình và môi
trường trong sạch. Ngày nay nhân loại đang đứng trước nhiều hiểm họa mang
tính toàn cầu như hiểm họa chiến tranh hạt nhân, nạn khủng bố mang tính
quốc tế, khủng hoảng nghiêm trọng về lương thực, thực phẩm, những cuộc
xung đột tôn giáo, chủng tộc, căn bệnh AIDS đến nay chưa có phương cứu
chữa thực sự hiệu quả... Thực trạng đó đã và đang đe dọa đến sự tồn tại và
phát triển của loài người. Do đó, yêu cầu về quyền được sống trong một thế
giới hòa bình, bền vững đang là vấn đề cấp bách thật sự của các quốc gia, khu
vực và cộng đồng trên thế giới.
1.1.2. Quyền con người của bị cáo trong hoạt động xét xử vụ án hình
sự của TAND
Quyền con người của bị cáo trong hoạt động xét xử của vụ án hình sự
của TAND không chỉ có trong hoạt động xét xử tại phiên tòa mà còn trong
hoạt động giam giữ bị cáo để chờ xét xử (với phiên tòa kéo dài nhiều ngày).
Quyền con người của bị cáo trong hoạt động xét xử của vụ án hình sự có thể
được chia ra thành hai nhóm sau đây:

* Nhóm thứ nhất: Nhóm quyền con người mang tính tự nhiên, bẩm
sinh của bị cáo, không thể bị tước đoạt mà bất kể người nào đều có. Nhóm
quyền con người mang tính tự nhiên của bị cáo xuất hiện từ khi bị cáo được
sinh ra và không cần ai cho phép. VD: quyền được coi là con người, quyền
sống, quyền ăn uống, quyền hít thở, quyền nghỉ ngơi….
- Quyền sống.


14

Quyền sống đầu tiên được đề cập trong Điều 3 Tuyên ngôn Toàn thế
giới về Quyền con người năm 1948 “Mọi người đều có quyền sống, quyền tự
do và an toàn cá nhân”. Khoản 1 Điều 6 Công ước về các Quyền dân sự và
Chính trị năm 1966 cụ thể hóa quy định về quyền sống trong Điều 3 Tuyên
ngôn Toàn thế giới về Quyền con người năm 1948, theo đó: “Mọi người đều
có quyền cố hữu là quyền sống. Quyền này phải được pháp luật bảo vệ.
Không ai có thể bị tước mạng sống một cách tùy tiện”. Điều 19, Hiến pháp
Việt Nam năm 2013 của nước ta cũng khẳng định: “Mọi người có quyền sống.
Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính
mạng trái luật”. Như vậy, quyền sống là quyền đầu tiên, cơ bản và quan trọng
nhất của con người và được pháp luật mọi quốc gia ghi nhận và bảo vệ.
Mặt khác, Khoản 2, 3, 4, 5, 6 Điều 6 Công ước về các quyền dân sự và
chính trị năm 1966 quy định cụ thể các nguyên tắc cơ bản trong việc áp dụng
hình phạt tử hình (tước bỏ quyền sống) ở những nước còn duy trì hình phạt
này có thể tóm tắt như sau: Chỉ được phép áp dụng hình phạt tử hình đối với
những tội ác nghiêm trọng nhất, căn cứ vào luật pháp hiện hành tại thời điểm
tội phạm được thực hiện, hình phạt tử hình chủ được thi hành trên cơ sở bản
án đã có hiệu lực pháp luật, do một tòa án có thẩm quyền phán quyết. Không
áp dụng hình phạt tử hình với người dưới 18 tuổi và không được thi hành án
tử hình đối với phụ nữ đang mang thai theo Khoản 5, Điều 6 của Công ước

này: “Không được phép tuyên án tử hình với người phạm tội dưới 18 tuổi và
không được thi hành án tử hình đối với phụ nữ đang mang thai”. Như vậy
việc tước bỏ quyền sống của bị cáo chỉ được áp dụng đối với tội ác nghiêm
trọng nhất và phải do Tòa án có thẩm quyền quyết định và tuân thủ theo quy
định của pháp luật. Đảm bảo được quyền sống cho bị cáo thì việc đảm bảo
những quyền con người khác của bị cáo mới còn ý nghĩa và hoạt động xét xử
có thể thực hiện được.
- Quyền được thừa nhận là con người (thể nhân) trước pháp luật.


15

Theo Điều 6, Tuyên ngôn Toàn thế giới về Quyền con người năm
1948: “Mọi người đều có quyền được công nhận tư cách là con người trước
pháp luật ở mọi nơi.” và Điều 16 Công ước về các Quyền dân sự và Chính
trị năm 1966 đều khẳng định: “Mọi người đều có quyền được thừa nhận là
thể nhân trước pháp luật ở mọi nơi”, trước khi được đảm bảo những quyền
con người khác của bị cáo, bị cáo phải được pháp luật thừa nhận là một con
người (thể nhân). Bị cáo trong phiên tòa phải là con người, Tòa án hình sự
không xét xử những chủ thể không phải là con người. Nếu bị cáo không
được pháp luật thừa nhận là một con người thì sẽ mất đi sự thừa nhận các
quyền khác của mình. Quyền này được luật pháp quốc tế và pháp luật mỗi
quốc gia mặc nhiên thừa nhận.
- Quyền có những điều kiện sống tối thiểu.
Điều 25, Tuyên ngôn Toàn thế giới về Quyền con người năm 1948:
“Mọi người đều có quyền được hưởng một mức sống thích đáng, đủ để đảm
bảo sức khoẻ và phúc lợi của bản thân và gia đình, về các khía cạnh ăn, mặc,
ở, chăm sóc y tế và các dịch vụ xã hội cần thiết..”. Đây là những điều kiện
sống cơ bản của mỗi con người. Quyền có những điều kiện sống tối thiểu có
yếu tố quyết định tới quyền sống của bị cáo. Trong giai đoạn xét xử vụ án

hình sự, bị cáo có quyền được đảm bảo những điều kiện sống tối thiểu như: ăn
uống đầy đủ, được mặc quần áo, được hít thở không khí, được vận động
khuôn khổ cho phép, quyền được nói, được nghỉ ngơi, được vệ sinh, được
chăm sóc sức khỏe khi có ốm đau, bệnh tật… Đặc biệt, với những vụ án hình
sự có quá trình xét xử kéo dài, quyền sống và quyền được đảm bảo các điều
kiện sống của bị cáo càng phải được Tòa án và các cơ quan thực thi pháp luật
đảm bảo thực hiện đầy đủ.
- Quyền tự do đi lại.


16

Điều 13, Tuyên ngôn Toàn thế giới về Quyền con người năm 1948:
“Mọi người đều có quyền tự do đi lại và tự do cư trú trong phạm vi lãnh thổ
của quốc gia.” và Điều 12, Công ước về các quyền dân sự và chính trị năm
1966: “Bất cứ ai cư trú hợp pháp trên lãnh thổ của một quốc gia đều có
quyền tự do đi lại và tự do lựa chọn nơi cư trú trong phạm vi lãnh thổ quốc
gia đó. … 3.Những quyền trên đây sẽ không phải chịu bất kỳ hạn chế nào, trừ
những hạn chế do luật định và là cần thiết để bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự
công cộng, sức khoẻ hoặc đạo đức xã hội hoặc các quyền tự do của người
khác, và phải phù hợp với những quyền khác được Công ước này công
nhận.”; Điều 9, Công ước về các Quyền dân sự và Chính trị năm 1966: “ Mọi
người đều có quyền hưởng tự do và an toàn cá nhân. Không ai bị bắt hoặc bị
giam giữ vô cớ. Không ai bị tước quyền tự do trừ trường hợp việc tước quyền
đó là có lý do và theo đúng những thủ tục mà luật pháp đã quy định”. Như
vậy quyền tự do đi lại của bị can, bị cáo phải được tôn trọng và bảo đảm. Bị
cáo chỉ bị tạm giam, tạm giữ hay áp dụng các biện pháp ngăn chặn khác khi
Thẩm phán có cơ sở cho rằng bị cáo sẽ bỏ trốn, không có mặt tại phiên tòa khi
Tòa án yêu cầu. Đặc biệt với những bị cáo đang trong thời gian chờ xét xử
(trước phiên tòa) hoặc trong thời gian giam giữ do phiên tòa kéo dài nhiều

ngày (trong phiên tòa). Mặt khác, trong cơ sở giam giữ (trại giam, phòng
giam) cần để bị cáo đi lại trong giới hạn cho phép. Quyền này còn được phải
được thực hiện triệt để theo nguyên tắc suy đoán vô tội, nghiêm cấm các hành
vi trói chân, xích chân bị cáo.
- Quyền bất khả xâm phạm về thân thể, sức khỏe, tính mạng danh dự
nhân phẩm.
Quyền bất khả xâm phạm về thân thể, sức khỏe, tính mạng danh dự
nhân phẩm được quy định trong Điều 7, Công ước về các Quyền dân sự và
Chính trị năm 1966: “ Không ai có thể bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt một


17

cách tàn ác, vô nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm…”, Khoản 1, Điều 10
Công ước về các Quyền dân sự và Chính trị năm 1966: “Những người bị tước
tự do phải được đối xử nhân đạo với sự tôn trọng nhân phẩm vốn có của con
người”. Khoản 1, Điều 20 Hiến pháp Việt Nam năm 2013: “Mọi người có
quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ,
danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất
kỳ hình thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh
dự, nhân phẩm”. Với quyền bất khả xâm phạm về thân thể, sức khỏe, tính
mạng danh dự nhân phẩm, bị cáo phải được đối xử nhân đạo với sự tôn trọng
nhân phẩm tương tự như nhân phẩm của những người tự do. Khi chưa bị Tòa
án kết tội họ vẫn là người vô tội. Ở giai đoạn xét xử vụ án hình sự, bị cáo tuy
bị tước tự do vẫn có những quyền dân sự, chính trị được quy định trong Công
ước về các Quyền dân sự và Chính trị năm 1966, họ chỉ bị hạn chế một số
quyền bắt nguồn từ môi trường bị quản chế. Khoản 2 điều này quy định: “trừ
những hoàn cảnh đặc biệt, bị can, bị cáo phải được giam giữ tách biệt với
những người đã bị kết án và phải được đối xử theo chế độ riêng, phù hợp với
quy chế dành cho những người bị tạm giam. Những bị can chưa thành niên

phải được giam giữ tách riêng khỏi người lớn và phải được đưa ra xét xử
càng sớm càng tốt”.
Quyền bất khả xâm phạm về thân thể, sức khỏe, tính mạng danh dự
nhân phẩm của bị cáo bao gồm việc tuân thủ các quy định về cấm tra tấn hay
uy hiếp, hành hạ về thể chất hoặc tinh thần. Trong quá trình tố tụng hình sự
nói chung và hoạt động xét xử hình sự nói riêng việc tra tấn và các hình thức
đối xử tồi tệ hoàn toàn bị cấm, kể cả trong quá trình điều tra hay xét xử, và
không thể biện minh cho chúng. Những hành vi đi ngược nhân quyền này phải
được phòng ngừa, điều tra và xử lý triệt để. Tính nhân đạo còn phải được thể
hiện bằng những thủ tục tố tụng đặc biệt khi xét xử vụ án hình sự với những


18

bị cáo đặc biệt như là người chưa thành niên, phụ nữ mang thai hoặc người
có nhược điểm về tinh thần và thể chất khác… Bị cáo được tôn trọng đời tư,
cuộc sống gia đình, không ai được xâm phạm một cách tùy tiện hoặc trái
pháp luật vào đời tư của bị cáo và không được xâm hại đến danh dự và nhân
phẩm của họ.
* Nhóm thứ hai: Nhóm quyền con người được pháp luật quốc tế và trong
nước ghi nhận khi bị nghi là phạm tội. Những quyền này không thể tự nhiên
có mà phải thông qua pháp luật mới xuất hiện. VD: Quyền được suy đoán vô
tội, quyền được bào chữa, quyền được xét xử công bằng…
- Quyền được suy đoán vô tội của bị cáo
Quyền được suy đoán vô tội của bị cáo là quyền có ý nghĩa quan trọng,
xuyên suốt quá trình tố tụng hình sự. Trong giai đoạn xét xử vụ án hình sự của
Tòa án, bị cáo được coi là người vô tội và có quyền được hưởng các quyền
như những người bình thường khác. Họ bị coi là có tội chỉ khi bị Tòa án có
thẩm quyền tuyên phạt bằng bản án và bản án đó có hiệu lực pháp luật.
Trong tư pháp hình sự, suy đoán vô tội được cộng đồng quốc tế thừa

nhận là một nguyên tắc quan trọng. Nguyên tắc suy đoán vô tội được hình
thành tương đối sớm trong nhiều nền tư pháp trên thế giới. Tuyên ngôn nhân
quyền và dân quyền của Pháp (1789) đã khẳng định mọi người đều được coi
là vô tội cho đến khi bị tuyên bố phạm tội (Điều 9). Trong Hiến pháp Hoa Kỳ,
dù không trực tiếp đề cập đến nhưng có thể được suy ra từ các Tuyên ngôn
nhân quyền Hoa Kỳ. Điều 11 Tuyên ngôn Toàn thế giới về Quyền con người
năm 1948 quy định: “Mỗi người bị buộc tội có quyền được coi là vô tội cho
đến khi được chứng minh là phạm tội theo luật pháp tại một phiên toà xét xử
công khai với mọi bảo đảm biện hộ cần thiết”.
Khoản 2 Điều 14 Công ước về các Quyền dân sự và Chính trị năm
1966 đã ghi nhận quyền được suy đoán vô tội của bị can, bị cáo “Người bị


19

buộc là phạm một tội hình sự có quyền được coi là vô tội cho tới khi tội của
người đó được chứng minh theo pháp luật“. Bên cạnh đó, khoản 7 của Bình
luận chung số 13 nhấn mạnh mối quan hệ của quyền này với nghĩa vụ chứng
minh của bên công tố, bên công tố có nghĩa vụ chứng minh trong suốt quá
trình xét xử. “Quy định về suy đoán vô tội có quan hệ chặt chẽ với quy định về
Toà án không thiên vị. Các cơ quan tiến hành tố tụng, các Thẩm phán, Công
tố viên có nghĩa vụ không được có định kiến trước về kết quả của việc xét xử”
[17].

Khoản 1, Điều 31 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 khẳng định: “Người bị

buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự
luật định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Cụ thể,
việc tiến hành phiên toà phải được dựa trên việc giả định/suy đoán là vô tội,
nguyên tắc có lợi cho bị cáo, nếu không có đầy đủ chứng cứ chứng minh một

người phạm tội một cách vững chắc thì phải thả tự do cho bị cáo. Điều này
còn xuất phát từ cái gốc là nghĩa vụ chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan
tố tụng. Tương tự, khi hết thời hạn điều tra, truy tố, xét xử mà không chứng
minh được tội phạm thì cơ quan tố tụng cũng phải thẳng thắn thừa nhận,
không nên dùng thủ thuật kéo dài vụ án nhằm chứng minh cho bằng được.
Liên quan đến suy đoán vô tội, các yếu tố có thể tạo nên định kiến cũng cần
phải tránh như việc yêu cầu bị can, bị cáo đeo còng tay, mặc đồng phục trại
giam hoặc buộc phải cắt tóc ngắn. Khi chưa bị Tòa án kết tội bằng một bản
án có hiệu lực pháp luật bị cáo vẫn là người vô tội vì thế cần phải đối xử như
một người vô tội.
Vận dụng các nội dung trên, nhiều nước trên thế giới đã luật hóa trong
luật pháp tố tụng hình sự của nước mình. Ở Liên bang Nga, nguyên tắc suy
đoán vô tội được quy định tại Điều 49 Hiến pháp và Điều 14 của Bộ luật tố
tụng hình sự Liên bang Nga năm 2001, trong pháp luật Tố tụng hình sự Liên
bang Nga, nguyên tắc suy đoán vô tội với tính chất là nguyên tắc hiến định đã


20

được chính thức ghi nhận theo tên gọi của điều luật với 04 nội dung thể hiện
bước phát triển của khoa học pháp lý Tố tụng hình sự quốc gia này theo
hướng bảo đảm dân chủ, quyền con người trong Tố tụng hình sự.
Tại Canada, Điều 11.d của Hiến chương về quyền và tự do (đây là một
bộ phận của Hiến pháp Canada) quy định: Bất kỳ người nào bị buộc tội phạm
một tội đều có quyền suy đoán vô tội cho đến khi được một Tòa án độc lập và
công bằng xét xử một cách công khai theo quy định của pháp luật. Canada là
một nước có hệ thống thông luật, do vậy các quy định cụ thể về suy đoán vô
tội thường được thể hiện ở nhiều án lệ khác nhau.
Ở Trung Quốc, Điều 12 Bộ luật tố tụng hình sự được ban hành năm
1979 và được sửa đổi, bổ sung năm 1996, có hiệu lực thi hành kể từ ngày

01/01/1997 quy định: Không ai bị coi là có tội, nếu không bị xét xử bởi một
TAND theo quy định của pháp luật; Điều 43 Bộ luật này cũng quy định:
Thẩm phán, Kiểm sát viên, Điều tra viên theo trình tự, thủ tục quy định trong
luật, phải thu thập các loại chứng cứ khác nhau chứng minh sự có tội hay vô
tội của nghi can, bị cáo và mức độ nghiêm trọng của tội phạm. Nghiêm cấm
việc bức cung, dùng nhục hình và thu thập chứng cứ bằng các biện pháp như
đe dọa, dụ dỗ, lừa gạt và các biện pháp bất hợp pháp khác. Trong pháp luật
Tố tụng hình sự của nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, mặc dù tên gọi của
nguyên tắc suy đoán vô tội chưa được ghi nhận trong luật nhưng nội dung
quan trọng nhất của nguyên tắc này đã được thừa nhận.
Quyền được coi là vô tội hay nguyên tắc suy đoán vô tội được Việt
Nam cam kết thực hiện với sự kiện Việt Nam gia nhập Công ước về các
quyền dân sự và chính trị ngày 24/9/1982. Lần đầu tiên, tại Việt Nam, suy
đoán vô tội được khẳng định là nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự
(Điều 10 Bộ luật tố tụng hình sự năm 1988) và là quyền cơ bản của công dân
(Khoản 1, Điều 32 Hiến pháp năm 2013). Như vậy, trong hệ thống pháp luật


21

Việt Nam, nguyên tắc suy đoán vô tội có vị trí của một nguyên tắc hiến định.
Ngoài ra tại Khoản 2, Điều 32 Hiến pháp 2013 cũng đã công nhận nguyên tắc
không ai kết án hai lần vì một tội phạm.
Nguyên tắc suy đoán vô tội là bước tiến trong nhận thức của con người
đối với việc tôn trọng, bảo vệ quyền và phẩm giá của chính con người. Điều 9
Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam năm 2003 quy định: “Không ai bị coi là có
tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của toà án đã có hiệu lực
pháp luật”. Như vậy, phạm vi chủ thể có quyền được suy đoán vô tội bị giới
hạn bởi thời điểm có hiệu lực pháp luật của bản án kết tội của Toà án nhưng
không bị giới hạn bởi sự buộc tội.

- Quyền được xét xử công bằng, bình đẳng và công khai trước Tòa án
Quyền được xét xử công bằng (right to a fair trial) là một quyền con
người cơ bản của bị cáo và có tính phổ quát cao, tồn tại trong cả các vụ án
hình sự. Đây là quyền đương nhiên được thừa nhận trên hầu hết các quốc gia
trên thế giới. Quyền được xét xử công bằng đầu tiên được đề cập trong các
Điều 10 và 11 Tuyên ngôn Toàn thế giới về Quyền con người năm 1948. Theo
Điều 10, “Mọi người đều bình đẳng về quyền được xét xử công bằng và công
khai bởi một toà án độc lập và khách quan để xác định các quyền và nghĩa vụ
của họ, cũng như về bất cứ sự buộc tội nào đối với họ”.
Theo Khoản 1, Điều 14 Công ước về các Quyền dân sự và Chính trị
năm 1966 “Mọi người đều bình đẳng trước tòa án. Mọi người đều có quyền
được xét xử công bằng và công khai bởi một tòa án có thẩm quyền, độc lập,
không thiên vị và được lập ra trên cơ sở pháp luật để quyết định về lời buộc
tội người đó trong các vụ án hình sự hoặc để xác định quyền và nghĩa vụ của
người đó trong các vụ kiện dân sự. Báo chí và công chúng có thể không được
phép tham dự toàn bộ hay một phần của phiên tòa vì lý do đạo đức, trật tự
công cộng hay an ninh quốc gia trong một xã hội dân chủ, hoặc vì cuộc sống


×