Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

hoạt động xét xử vụ án dân sự của hội thẩm nhân dân thực trạng và giải pháp ở tòa án nhân dân huyện lai vung, tỉnh đồng tháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.42 MB, 41 trang )

Hoạt động xét xử vụ án dân sự của Hội thẩm nhân dân – thực trạng và giải
pháp ở Tòa án nhân dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp

TRƢỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ

KHOA LUẬT


LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
KHÓA 38

t i

HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ VỤ ÁN DÂN SỰ CỦA
HỘI THẨM NHÂN DÂN - THỰC TRẠNG VÀ
GIẢI PHÁP Ở TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LAI
VUNG, TỈNH ĐỒNG THÁP
Giảng viên hƣớng dẫn:
Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền
Bộ môn Luật Hành chính

Sinh viên thực hiện:
Võ Thanh Tòng
MSSV: S120089
Lớp: LuậtVB2 Đồng Tháp-K38

Cần Thơ, 11/2014

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

1



SVTH: Võ Thanh Tòng


Hoạt động xét xử vụ án dân sự của Hội thẩm nhân dân – thực trạng và giải
pháp ở Tòa án nhân dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp

MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu ............................................................................................ 1
1.

Lí do chọn đề tài.

2.

Mục tiêu nghiên cứu.

3.

Phạm vi nghiên cứu.

4.

Phƣơng pháp nghiên cứu.

5.

Kết cấu luận văn.


CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỘI THẨM NHÂN DÂN VÀ
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ HỘI THẨM
NHÂN DÂN
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỘI THẨM NHÂN DÂN
1.1.1. Khái niệm Hội thẩm ....................................................................................... 3
1.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển Hội thẩm
1.1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959 ...................................................... 4
1.1.2.2. Giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1980 ...................................................... 6
1.1.2.3. Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992 ...................................................... 7
1.1.2.4. Giai đoạn từ năm 1992 đến nay ................................................................ 8
1.1.3. Ý nghĩa của chế định Hội thẩm nhân dân ...................................................... 9
1.1.4. Các nguyên tắc cơ bản về Hội thẩm nhân dân
1.1.4.1. Nguyên tắc khi xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia ............................. 10
1.1.4.2. Nguyên tắc khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán ................. 11
GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

2

SVTH: Võ Thanh Tòng


Hoạt động xét xử vụ án dân sự của Hội thẩm nhân dân – thực trạng và giải
pháp ở Tòa án nhân dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp
1.1.4.3. Nguyên tắc khi xét xử Hội thẩm và Thẩm phán độc lập và chỉ tuân
theo pháp luật .................................................................................................................. 12
1.2. NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ HỘI THẨM
NHÂN DÂN
1.2.1. Tiêu chuẩn Hội thẩm nhân dân....................................................................... 12
1.2.2. Thủ tục bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm Hội thẩm nhân dân
1.2.2.1. Thủ tục bầu Hội thẩm nhân dân................................................................ 13

1.2.2.2. Thủ tục miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm nhân dân ................................... 14
1.2.3. Quyền, nghĩa vụ của Hội thẩm nhân dân
1.2.3.1. Quyền của Hội thẩm nhân dân ................................................................. 15
1.2.3.2. Nghĩa vụ của Hội thẩm nhân dân ............................................................. 16
1.2.4. Cơ cấu, số lƣợng, hoạt động của Hội thẩm nhân dân
1.2.4.1. Cơ cấu của Hội thẩm nhân dân ................................................................. 17
1.2.4.2 Số lượng của Hội thẩm nhân dân............................................................... 17
1.2.4.3 Hoạt động của Hội thẩm nhân dân ............................................................ 18
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ VỀ HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ
VỤ ÁN DÂN SỰ CỦA HỘI THẨM NHÂN DÂN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN LAI VUNG, TỈNH ĐỒNG THÁP
2.1. KHÁI QUÁT VỤ ÁN DÂN SỰ .............................................................................. 20
2.2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ VỤ ÁN DÂN SỰ CỦA HỘI
THẨM NHÂN DÂN TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN LAI VUNG, TỈNH
ĐỒNG THÁP
2.2.1. Mặt tích cực trong hoạt động xét xử vụ án dân sự của Hội thẩm
nhân dân tại Tòa án nhân dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp .............................. 21

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

3

SVTH: Võ Thanh Tòng


Hoạt động xét xử vụ án dân sự của Hội thẩm nhân dân – thực trạng và giải
pháp ở Tòa án nhân dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp
2.2.2. Mặt hạn chế trong hoạt động xét xử vụ án dân sự của Hội thẩm nhân
dân tại Tòa án nhân dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp
2.2.2.1. Về trình độ pháp lý và kiêm nhiệm của Hội thẩm nhân dân tại Tòa

án nhân dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp................................................................. 22
2.2.2.2. Hội thẩm nhân dân chưa thể theo sát vụ án dân sự ................................... 22
2.3. NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA HỘI THẨM
NHÂN DÂN
2.3.1. Những vụ án nhỏ, đơn giản, không phức tạp thì Hội thẩm không
tham gia

28

2.3.2. Pháp luật nên quy định thêm Hội thẩm nhân dân chuyên trách
2.3.2.1. Tiêu chuẩn, bầu, bổ nhiệm, nhiệm kỳ, bãi nhiệm, miễn nhiệm Hội
thẩm nhân dân chuyên trách ............................................................................................ 29
2.3.2.2. Cơ cấu, số lượng Hội thẩm nhân dân chuyên trách ................................... 30
2.3.2.3. Hội thẩm nhân dân chuyên trách tham gia các bước tố tụng trong
vụ án dân sự .................................................................................................................... 32
2.3.3. Kiến nghị đối với hoạt động của Hội thẩm tại Tòa án nhân dân
huyện Lai Vung ............................................................................................................. 33

Kết luận ............................................................................................... 35

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

4

SVTH: Võ Thanh Tòng


Hoạt động xét xử vụ án dân sự của Hội thẩm nhân dân – thực trạng và giải
pháp ở Tòa án nhân dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp


NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN

....................................................................................
....................................................................................
....................................................................................
....................................................................................
....................................................................................
....................................................................................
....................................................................................
....................................................................................
....................................................................................
....................................................................................
....................................................................................
....................................................................................
....................................................................................
....................................................................................
....................................................................................
....................................................................................
Cần Thơ, ngày 26 tháng 11 năm 2014

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

5

SVTH: Võ Thanh Tòng


Hoạt động xét xử vụ án dân sự của Hội thẩm nhân dân – thực trạng và giải
pháp ở Tòa án nhân dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp


LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình đi thực tập tại Tòa án nhân dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng
Tháp, người viết đã có dịp theo dõi quá trình giải quyết vụ án dân sự. Từ khi thụ
lý, hòa giải, thu thập chứng cứ, nghiên cứu hồ sơ, mở phiên tòa xét xử người viết
nhận thấy chỉ có Thẩm phán là theo sát vụ án. Trong đó, quan trọng nhất là hòa
giải và thu thập chứng cứ, quá trình trên quyết định đến kết quả giải quyết vụ án.
Còn Hội thẩm nhân dân chỉ xuất hiện khi mở phiên xét xử, nên không có thể theo
sát vụ án. Hội thẩm không tham gia phiên hòa giải, không tiến hành thu thập
chứng cứ từ đó khó mà nắm được tình tiết vụ án. Theo quy định của pháp luật Hội
thẩm có trách nhiệm nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi xét, nhưng có những
nguyên nhân chủ quan và khách quan mà Hội thẩm không thể nghiên cứu hồ sơ vụ
án. Đồng thời, Hội thẩm còn hạn chế về trình độ pháp lý, vì vậy trong thực tiễn
hoạt động xét xử ở Tòa án nhân dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp, thì Hội
thẩm không thể hiện được nguyên tắc độc lập với Thẩm phán.
Để khắc phụ những hạn chế trên cần có những giải pháp nhằm nâng cao
hoạt động xét xử của Hội thẩm nhân dân trong vụ án dân sự ở Tòa án nhân dân
huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp. Do đó, người viết đã chọn đề tài: “Hoạt động
xét xử vụ án dân sự của Hội thẩm nhân dân - thực tiễn và giải pháp ở Tòa án
nhân dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp” để làm luận văn tốt nghiệp.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Qua quá trình nghiên cứu nhằm đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động xét xử vụ án dân sự của Hội thẩm nhân dân tại Tòa án nhân dân
huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp.
3. Phạm vi nghiên cứu
Trong đề tài này, tác giả chủ yếu nghiên cứu hoạt động của Hội thẩm nhân
dân trong hoạt động xét xử vụ án dân sự ( không nghiên cứu về vụ án hình sự hoặc
hành chính) ở Tòa án nhân dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp.

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền


6

SVTH: Võ Thanh Tòng


Hoạt động xét xử vụ án dân sự của Hội thẩm nhân dân – thực trạng và giải
pháp ở Tòa án nhân dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, người viết sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu
khác nhau để tìm hiểu những hoạt xét xử vụ án dân của Hội thẩm nhân dân. Trong
đó, người viết chủ yếu tập trung vào phương pháp phân tích luật viết và phương
pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, quy nạp, diễn dịch.
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài mục lục, lời nói đầu, kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo thì nội
dung của Luận văn này gồm 2 chương:
Chương 1: Khái quát chung về Hội thẩm nhân dân và những quy định của
pháp luật hiện hành về Hội thẩm nhân dân.
Chương 2: Thực trạng và kiến nghị về hoạt động xét xử vụ án dân sự của
Hội thẩm nhân dân tại Tòa án nhân dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp.

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

7

SVTH: Võ Thanh Tòng


Hoạt động xét xử vụ án dân sự của Hội thẩm nhân dân – thực trạng và giải
pháp ở Tòa án nhân dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp


CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỘI THẨM NHÂN DÂN VÀ
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ
HỘI THẨM NHÂN DÂN
1.1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỘI THẨM NHÂN DÂN
1.1.1. Khái niệm Hội thẩm
Theo quy định tại Khoản 2, Điều 1, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân năm 2002 ( sửa đổi, bổ sung năm 2011), “ Hội thẩm là người được bầu
hoặc cử theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc
thẩm quyền của tòa án”1. Hội thẩm là người được bầu hoặc cử ra, để cùng với
Thẩm phán làm công tác xét xử tại tòa án, nhằm đảm bảo công lý được thực thi và
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của nhân dân. Theo quy định tại khoản 3, điều 2
của Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002 ( sửa đổi, bổ sung năm
2011) thì Hội thẩm nhân dân ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam gồm
có: “ Hội thẩm nhân dân tòa án nhân dân cấp tỉnh, Hội thẩm nhân dân tòa án
nhân dân cấp huyện ( gọi chung là Hội thẩm nhân dân)”2.
1.1.2. Lịch sử hình thành và phát triển Hội thẩm
Dưới chế độ thực dân, phong kiến nhân dân ta bị áp bức, bóc lột vô cùng
nặng nề và đánh mất đi độc lập, tự do. Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc
bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa nhà nước
công – nông đầu tiên ở Đông Nam Á giành lại độc lập, tự do cho đất nước. Sau khi
nhân dân ta giành được quyền làm chủ đất nước đã xây dựng nhà nước pháp
quyền với việc ban hành Hiến pháp năm 1946. Bản hiến pháp được xem là tiến bộ,
thể hiện tính dân chủ, độc lập tự chủ của nhân dân ta. Trong bản Hiến pháp năm
1946 quy định khi xét xử cần có Phụ thẩm nhân dân tham gia, nhằm bảo đảm
1

Điều 1 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội Thẩm nhân dân 2002 (2011).


2

Điều 2 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội Thẩm nhân dân 2002 (2011).

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

8

SVTH: Võ Thanh Tòng


Hoạt động xét xử vụ án dân sự của Hội thẩm nhân dân – thực trạng và giải
pháp ở Tòa án nhân dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp
khách quan, công bằng khi xét xử của vụ án. Từ đó đến nay, chúng ta đã trải qua 5
bản Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 và 2013, qua những bản hiến pháp đó
ta đã sửa đổi, bổ sung nhiều quy định mới cho phù hợp với thực tiễn đặt ra. Tuy
nhiên, về chế định Hội thẩm nhân dân qua 5 bản hiến pháp vẫn không thay đổi
chứng tỏ chế định Hội thẩm nhân dân rất quan trọng trong hoạt động tư pháp ở
nước ta.
1.1.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959
Để trấn áp và xét xử bọn phản cách mạng, bọn phản động nhằm mưu toan
lật đổ chính quyền, ngày 13/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 33/SL
thiết lập các Tòa án quân sự, đánh dấu sự ra đời của ngành Tòa án nhân dân ở Việt
Nam. Theo quy định của Sắc lệnh số 33, trên toàn lãnh thổ Việt Nam đã thiết lập
các Tòa án quân sự với nhiệm vụ “ Tòa án quân sự sẽ xử tất cả các người nào
phạm vào một việc gì có phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa”3. Theo Điều V của Sắc lệnh số 33C ngày 13 tháng 09 năm 1945 thì: “
Ngồi xử có Chánh án và hai Hội thẩm. Ghế Chánh án và ghế Hội thẩm sẽ do một
ủy viên quân sự và một ủy viên chính trị ngồi. Còn ghế Hội thẩm thứ nhì sẽ thuộc
về ông Thẩm phán chuyên môn của tư pháp”4. Đây có thể xem là văn bản pháp lý

đầu tiên quy định về Hội thẩm. Để đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới ngày 24/1/1946, Chủ tịch Chính phủ lâm thời
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ban hành Sắc lệnh số 13 về tổ chức các Tòa
án và các ngạch Thẩm phán. Đây là sắc lệnh đầu tiên quy định tổ chức các Tòa án
và quy định tiêu chuẩn, nhiệm vụ, quyền hạn của các ngạch Thẩm phán và Hội
thẩm nhân dân. Đã quy định khi xử việc tiểu hình phải có hai viên Phụ phẩm nhân
dân tham gia xét xử cùng Thẩm phán: “ Về dân sự và thương sự, Chánh án xử một
mình. Những khi xử các việc tiểu hình, phải có thêm hai viên Phụ thẩm nhân dân
góp ý kiến”5. Trong Sắc lệnh này cũng quy định về lập danh sách, cách thức chọn
Phụ thẩm nhân dân dự phiên tòa: “ Hai Phụ thẩm dự phiên toà sẽ chọn theo cách
rút thăm”6. Ngoài ra, Sắc lệnh còn quy định chi tiết những người không thể cùng
3

Điều II, Sắc lệnh 33C ngày 13 tháng 09 năm 1945.
Điều V, Sắc lệnh 33C ngày 13 tháng 09 năm 1945.
5
Điều 17 Sắc lệnh số 13 ngày 24 tháng 01 năm 1946.
4

6

Điều 19 Sắc lệnh số 13 ngày 24 tháng 01 năm 1946.

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

9

SVTH: Võ Thanh Tòng



Hoạt động xét xử vụ án dân sự của Hội thẩm nhân dân – thực trạng và giải
pháp ở Tòa án nhân dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp
làm Phụ thẩm trong một Toà án và không ai có thể làm Phụ thẩm trong một việc
mà mình là người đương sự, hoặc đã điều tra, hoặc đã làm chứng hay làm giám
định. Đây được xem là quy định tiến bộ để đảm bảo tính khách quan khi làm việc
và trách tiêu cực, tham nhũng trong cơ quan tòa án. Qua đây thể hiện tính răng đe
với Phụ thẩm và cho thấy vai trò quan trọng của Phụ thẩm trong phiên xét xử.
Ngoài ra, còn sử dụng chế tài phạt tù: “ Các Phụ thẩm nhân dân có bổn phận là
lấy trí sáng suốt và lương tâm ngay thẳng ra xét mọi việc rồi phát biểu ý kiến một
cách công bằng không vị nể, vì sợ một thế lực nào, vì riêng hay tư thù, mà bênh
vực hay làm hại ai. Các Phụ thẩm nhân dân phải giữ kín các điều bàn bạc trong
lúc nghị án. Nếu tiết lộ bí mật ấy ra sẽ bị Toà Thượng thẩm phạt từ sáu tháng đến
hai năm tù”7. Quy định phạt tù tối đa là hai năm trên được xem là chế tài mạnh tay
với Phụ thẩm nhằm tăng trách nhiệm khi tham gia xét xử.
Tiếp theo hai Sắc lệnh số 33C và số 13 thì trong bản Hiến pháp năm 1946
đã dành một điều trong chương 6 để quy định về Phụ phẩm nhân dân: “ Trong khi
xử việc hình thì phải có Phụ thẩm nhân dân để hoặc tham gia ý kiến nếu là việc
tiểu hình, hoặc cùng quyết định với thẩm phán nếu là việc đại hình”8. Hiến pháp là
văn bản pháp lý có giá trị cao nhất, khi chế định Phụ thẩm đã được ghi nhận trong
Hiến pháp từ đó có thể thấy được vai trò quan trọng, sự làm chủ của nhân dân.
Tham gia giám sát và tham gia hoạt động xét xử của nhân dân thể hiện tính công
bằng, dân chủ và nâng cao hoạt động xét xử của tòa án. Đến năm 1946 thực dân
Pháp quay trở lại xâm lược nước ta, mặc dù phải lo đối phó chống giặc ngoại xâm,
nhưng Chính phủ ta vẫn ra sức cải cách Bộ máy tư pháp. Sắc lệnh số 85/SL, ngày
22 tháng 05 năm 1950 có nhiều quy định mới và được đánh giá là tiến bộ so với
các quy định trước đây. Trong Điều 1 của Sắc lệnh số 85/SL đã thay đổi tên gọi
Phụ thẩm nhân dân thành Hội thẩm nhân dân, tên gọi này đến nay vẫn còn sử
dụng. Quy định số lượng Hội thẩm nhân cụ thể trong Điều 3 “ Toà án nhân dân
huyện và Toà án nhân dân tỉnh gồm một Thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân;
Toà phúc thẩm gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân”9. Và còn nhiều quy


7
8
9

Điều 24 Sắc lệnh số 13 ngày 24 tháng 01 năm 1946,
Điều 65 Hiến pháp 1992.
Điều 3, Sắc lệnh số 85/SL ngày 22 tháng 05 năm 1950.

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

10

SVTH: Võ Thanh Tòng


Hoạt động xét xử vụ án dân sự của Hội thẩm nhân dân – thực trạng và giải
pháp ở Tòa án nhân dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp
định tiến bộ khác như: Hội thẩm được xem hồ sơ, biểu quyết, Hội thẩm có những
đặc quyền như Thẩm phán…Tuy nhiên, bên cạnh những quy định tiến bộ thì Sắc
lệnh quy định về nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân là 1 năm.
Tóm lại, trong giai đoạn này có nhiều sắc lệnh được ban hành và sửa đổi
quy định về chế định Hội thẩm nhân được xem là tiến bộ, phù hợp với thực tiễn.
Trong đó, Hiến pháp năm 1946 lần đầu tiên quy định khi xét xử của cơ quan tòa
án có sự tham gia của Phụ thẩm nhân dân.
1.1.2.2. Giai đoạn từ năm 1959 đến năm 1980
Sau 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, nhân dân ta đã đánh đuổi bọn
thực dân Pháp và bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Để đáp ứng
sự phát triển đất nước trong tình hình mới, Quốc hội nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa đã thông qua bản Hiến pháp mới ngày 31 tháng 12 năm 1959, thay thế bản

Hiến pháp 1946. Bản Hiến pháp trên thể hiện sự làm chủ của nhân dân và quy
định nhiều điểm được xem là tiến bộ. Cụ thể: “ Việc xét xử ở các Tòa án nhân dân
có Hội thẩm nhân dân tham gia theo quy định của pháp luật. Khi xét xử, Hội thẩm
nhân dân ngang quyền với Thẩm phán”10. Quy định trên đã thể hiện tính dân chủ,
tránh độc đoán, lạm quyền của Thẩm phán và thể hiện sự giám sát của người dân
nhằm bảo đảm sự khách quan, công bằng trong xét xử.
Ngày 14 tháng 07 năm 1960, Quốc hội đã thông qua Luật Tổ chức tòa án
nhân. Trong luật đã quy định cụ thể về số lượng, quyền, nghĩa vụ, độ tuổi của Hội
thẩm nhân dân. Bên cạnh đó Luật tổ chức tòa án nhân dân năm 1960 còn quy định:
“ Tòa án nhân dân thực hành chế độ xét xử tập thể và quyết định theo đa số. Khi
sơ thẩm, Toà án nhân dân gồm một thẩm phán và hai Hội thẩm nhân dân; trường
hợp xử những vụ án nhỏ, giản đơn và không quan trọng thì Tòa án nhân dân có
thể xử không có Hội thẩm nhân dân”11. Ngoài ra, quy định đối với việc xét xử
những vụ án nhỏ, đơn giản, không quan trọng thì không cần Hội thẩm tham gia.
Đây là quy định hay, phù hợp, tránh tốn kém kinh phí nhà nước, thủ tục nhanh gọn
từ đó dẫn tránh tình trạng tồn nhiều vụ án như hiện nay.

10

Điều 99, Hiến pháp năm 1959.

11

Điều 12, Luật Tổ chức tòa án năm 1960.

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

11

SVTH: Võ Thanh Tòng



Hoạt động xét xử vụ án dân sự của Hội thẩm nhân dân – thực trạng và giải
pháp ở Tòa án nhân dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp
Để chế định Hội thẩm nhân dân hoạt động đồng bộ cùng với Luật Tổ chức
tòa án nhân dân năm 1960, ngày 23 tháng 03 năm 1961 Ủy ban thường vụ Quốc
hội đã thông qua Pháp lệnh Quy định cụ thể về Tổ chức tòa án nhân dân tối cao và
Tổ chức của các tòa án nhân dân địa phương. Trong Pháp lệnh trên đã quy định cụ
thể về việc bầu, bổ nhiệm, bãi nhiệm, chế độ phụ cấp, nhiệm vụ và quyền hạn của
Hội thẩm nhân dân. Về nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân: “ Nhiệm kỳ của hội
thẩm nhân dân của các Toà án nhân dân địa phương các cấp là hai năm”12.
1.1.2.3. Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1992
Sau khi lật đổ chính quyền Mỹ - Ngụy thống nhất đất nước, khắc phục hậu
quả chiến tranh, củng cố bộ máy nhà nước. Trong giai đoạn mới hiện nay, để phát
triển và xây dựng đất nước thì cần phải thay đổi Hiến pháp cho phù hợp với thực
tiễn đặt ra. Ngày 18 tháng 12 năm 1980 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam khóa 6, kỳ họp thứ 7, đã thông qua Hiến pháp của nước Việt Nam thống
nhất. Bản hiến pháp đã dành chương X để quy định về cơ quan tư pháp, trong đó
có quy định về Hội thẩm nhân dân. Cụ thể được quy định tại Điều 130, Hiến pháp
năm 1980: “ Việc xét xử ở Tòa án nhân dân có hội thẩm nhân dân tham gia, theo
quy định của pháp luật. Khi xét xử, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm
phán. Chế độ bầu cử Hội thẩm nhân dân được thực hiện ở Tòa án nhân dân các
cấp. Nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân tối cao là hai năm rưỡi;
nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân địa phương là hai năm”. Kế
thừa quy định của Hiến pháp 1959, khi xét có Hội thẩm nhân nhân dân tham gia
và quyền hạn quy định ngang với Thẩm phán là phù hợp. Trong Điều 131, Hiến
pháp năm 1980 quy định: “ Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật”, nhằm bảo đảm khách quan, công bằng khi xem xét vụ
án.
Để những quy định của Hiến pháp năm 1980 về chế định Hội thẩm nhân

dân được cụ thể, Quốc hội đã thông qua Luật Tổ chức tòa án nhân ngày năm 1981.
Trong Luật này cũng kế thừa những quy định trước về nguyên tắc xét xử có tham
gia của Hội thẩm nhân dân, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán.
Ngoài ra, còn quy định nhiệm kỳ và tính độc lập giữa Thẩm phán và Hội thẩm
12

Điều 17, Pháp Lệnh về Tổ chức TANDTC và TAND địa phương năm 1961.

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

12

SVTH: Võ Thanh Tòng


Hoạt động xét xử vụ án dân sự của Hội thẩm nhân dân – thực trạng và giải
pháp ở Tòa án nhân dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp
nhân dân giống trong Hiến pháp. Nhìn chung, Luật Tổ chức tòa án nhân dân năm
1981 cũng kế thừa những quy định trước đây và cũng không có nhiều điểm mới
đáng kể.
1.1.2.4. Giai đoạn từ năm 1992 đến nay
Hiến pháp năm 1992 quy định: “ Việc xét xử của Tòa án nhân dân có Hội
thẩm nhân dân. Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán”13. Và trong
Hiến pháp năm 1992 quy định: “ Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và
chỉ tuân theo pháp luật”14. Những quy định trong hai điều trên cũng không có gì
khác biệt và cũng kế thừa những quy định trước đây. Để cụ thể hóa những quy
định của Hiến pháp năm 1992 về tổ chức và hoạt động của tòa án nhân dân, ngày
06 tháng 10 năm 1992, Quốc hội khóa IX, đã thông qua Luật Tổ chức tòa án nhân
dân. Nhìn chung, những quy định trong luật cũng kế thừa những quy định trước đã
ban hành như: Khi xét xử phải có Hội thẩm tham gia, Hội thẩm ngang quyền với

Thẩm phán, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật…Tuy
nhiên, trong luật cũng quy định những điểm mới như sau: Nhiệm kỳ của Hội thẩm
nhân dân Tòa án nhân dân tối cao là 5 năm và Hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân
địa phương theo nhiệm kỳ của Hội đồng nhân dân cùng cấp. Qua gần mười năm
áp dụng Luật Tổ chức tòa án nhân dân đã, không còn phù hợp với thực tiễn đất
nước, nên Quốc hội khóa X, đã thông qua Luật Tổ chức tòa án nhân dân ngày năm
2002. Luật mới đã loại bãi bỏ quy định Hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân tối
cao, vì tòa án chỉ thực hiện hai cấp xét xử và chỉ Hội đồng xét xử sơ thẩm là có
Hội thẩm tham gia: “Hội đồng xét xử sơ thẩm vụ án dân sự gồm một Thẩm phán
và hai Hội thẩm nhân dân. Trong trường hợp đặc biệt thì Hội đồng xét xử sơ thẩm
có thể gồm hai Thẩm phán và ba Hội thẩm nhân dân”15. Đồng thời đã ban hành
những quy định mới được xem là tiến bộ và phù hợp với thực tiễn đặt ra trong
hoạt động xét xử về tiêu chuẩn sức khỏe, bị xử lý kỷ luật – trách nhiệm hình sự,
trách nhiệm bồi hoàn, phải tôn trọng và chịu sự giám sát của nhân dân, cấm cản
trở Hội thẩm thực hiện nhiệm vụ. Những quy định mới như trên nhằm tạo điều

13
14
15

Điều 129, Hiến pháp năm 1992.
Điều 130, Hiến pháp năm 1992.
Điều 52, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 ( sửa đổi, bổ sung năm 2011).

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

13

SVTH: Võ Thanh Tòng



Hoạt động xét xử vụ án dân sự của Hội thẩm nhân dân – thực trạng và giải
pháp ở Tòa án nhân dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp
kiện thuận lợi cho hoạt động của Hội thẩm nhân dân hoàn thành tốt nhiệm vụ được
giao.
Để những quy định của Luật Tổ chức tòa án nhân dân cụ thể hơn khi áp
dụng, ngày 14 tháng 05 năm 1993, Ủy ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp
lệnh về Thẩm phán và Hội thẩm toà án nhân dân. Pháp lệnh trên cũng kế những
quy định trước về tiêu chuẩn, chế độ, nhiệm vụ, quyền hạn, thủ tục bầu cử, bãi
nhiệm, miễn nhiệm Hội thẩm nhân dân của Luật Tổ chức tòa án nhân dân năm
1992. Đến Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002, vẫn tiếp tục tục
kế thừa những quy định trong Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm
1993.
Sau gần 20 năm, bản Hiến pháp năm 1992 đã không còn phù hợp với sự
phát triển về kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Do đó, Quốc hội khóa XIII, tại kỳ hợp
thứ 6, ngày 28 tháng 11 năm 2013, đã sửa đổi Hiến pháp 1992. Bản Hiến pháp
năm 2013 đã kế thừa và quy định mới về chế định Hội thẩm nhân dân cho phù hợp
với thực tiễn đặt ra. Quy định mới là khi xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia,
trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn. Đây là quy định hay và phù hợp với
thực tiễn, đối với những vụ án nhỏ, tình tiết rõ ràng, không phức tạp thì thủ tục rút
gọn và không cần có sự tham gia của Hội thẩm nhân dân, nhằm giải quyết nhanh
vụ án tránh tồn án như hiện nay.
1.1.3. Ý nghĩa của chế định Hội thẩm nhân dân
Việc quy định chế định Hội thẩm trong các nguyên tắc tổ chức và hoạt
động của Tòa án có ý nghĩa rất quan trọng cụ thể là:
Thứ nhất, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân trong hoạt động xét xử
của Tòa án. Tham gia vào công tác xét xử của Tòa án chính là tham gia trực tiếp
vào việc thực hiện quyền lực của nhà nước (quyền tư pháp).
Thứ hai, đưa tiếng nói từ phía xã hội vào quá trình xét xử, giúp cho việc
xét xử chính xác, khách quan, phù hợp với quyền lợi và nguyện vọng của nhân

dân. Hội thẩm là những người sống và làm việc tại các cơ quan, tổ chức, cơ sở sản
xuất, khu dân cư nên có kinh nghiệm trong hoạt động xã hội, có vốn kiến thức
thực tế phong phú, có mối quan hệ mật thiết với nhân dân, vì vậy các vị Hội thẩm
hiểu rõ tình hình, hoàn cảnh, nguyên nhân của các vụ án. Trong một số trường
hợp, Hội thẩm nhân dân còn có kiến thức sâu về một số lĩnh vực như quản lý kinh
GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

14

SVTH: Võ Thanh Tòng


Hoạt động xét xử vụ án dân sự của Hội thẩm nhân dân – thực trạng và giải
pháp ở Tòa án nhân dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp
tế, y học, tâm lý xã hội… Các kiến thức thực tiễn sinh động đó của đội ngũ Hội
thẩm nhân dân sẽ rất có ích trong việc bổ sung các kiến thức thực tiễn cho Thẩm
phán về những lĩnh vực mà Thẩm phán không chuyên sâu, giúp cho công tác xét
xử đúng đắn.
Thứ ba, tăng cường mối quan hệ giữa Tòa án và nhân dân. Cũng thông
qua Hội thẩm nhân dân, Tòa án nắm bắt được những vướng mắc, suy nghĩ, tình
cảm của nhân dân. Một phán quyết của Tòa án có thể nhận được sự đồng tình của
nhân dân, nhưng cũng có thể bị phản ứng, thậm chí là phản ứng gay gắt của dư
luận.
Thứ tư, Hội thẩm nhân dân sẽ giúp Tòa án thực hiện tốt công tác tuyên
truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trong nhân dân. Là người trực tiếp tham gia
quá trình giải quyết vụ án, Hội thẩm nhân dân sẽ là những người giúp Tòa án
tuyên truyền về kết quả xét xử; phân tích rõ cơ sở áp dụng pháp luật trong quá
trình giải quyết vụ án, từ đó góp phần vào việc tuyên truyền, phổ biến, giáo dục ý
thức pháp luật của công dân tại nơi Hội thẩm nhân dân làm việc hoặc sinh sống.
1.1.4. Các nguyên tắc cơ bản về Hội thẩm nhân dân

1.1.4.1. Nguyên tắc khi xét xử có Hội thẩm nhân dân tham gia
Với bản chất nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân nên trong
hoạt động xét xử của cơ quan tòa án bắt buộc phải có có sự tham gia, giám sát của
người dân, nhằm bảo đảm tính khách quan, công bằng khi xét xử. Nguyên tắc trên
được quy định lần đầu trong Hiến pháp năm 1946 và các bản Hiến pháp năm
1959, 1980, 1992, 2013 cũng đã quy định. Trong bản Hiến pháp năm 2013, quy
định như sau: “ Việc xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia,
trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn”16. Theo quy định trên thì khi xét xử sơ
thẩm của tòa án phải có Hội thẩm nhân dân tham gia, tránh việc xét xử tùy tiện,
chủ quan của Thẩm phán, đảm bảo công bằng khi xét xử. Tuy nhiên, Hiến pháp
năm 2013 còn quy định thêm là một số trường hợp không cần có sự tham gia của
Hội thẩm nhân dân, theo rút gọn thủ tục tố tụng của cơ quan tòa án. Đây là quy
định mới trong Hiến pháp năm 2013, chưa được cụ thể hóa trong Luật Tổ chức tòa
án nhân dân.
16

Điều 65, Hiến pháp năm 1946.

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

15

SVTH: Võ Thanh Tòng


Hoạt động xét xử vụ án dân sự của Hội thẩm nhân dân – thực trạng và giải
pháp ở Tòa án nhân dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp
1.1.4.2. Nguyên tắc khi xét xử Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán
Trong bản Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 2013 không có đề cập
tới nguyên tắc khi xét xử sơ thẩm vụ án dân sự Hội thẩm nhân dân ngang quyền

với Thẩm phán. Tuy nhiên, các bản Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 đã đề cập
rất rõ về nguyên tắc trên. Trong bản Hiến pháp năm 1992 quy định: “ Khi xét xử,
Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán”17. Đây là nguyên tắc cơ bản để khi xét xử
Hội thẩm tự tin xem xét vụ án, quyền xét xử ngang với Thẩm phán, đảm bảo tính
công bằng, khách quan của vụ án. Từ những quy định trong hiến pháp đã được cụ
thể trong Luật Tổ chức tòa án nhân dân năm 1960, 1981, 1992 và 2002 về Hội
thẩm ngang quyền với Thẩm phán. Luật Tổ chức tòa án nhân dân năm 2002 quy
định tại Điều 4: “ Khi xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán”. Trong bản
Hiến pháp năm 2013 lại không có quy định nào về chế định khi xét xử Hội thẩm
ngang quyền với Thẩm phán, không quy định rõ trong Hiến pháp thì sẽ không
được cụ thể trong các văn bản luật sau này, sẽ dẫn tới vai trò Hội thẩm có khả
năng mờ nhạt hơn về sau. Trong quá trình xét xử Hội đồng xét xử khi tiến hành
nghị án thảo luận tập thể và quyết định theo đa số, nếu Hội thẩm không ngang
quyền với Thẩm phán sẽ khó khăn cho hoạt động xét xử.
1.1.4.3. Nguyên tắc khi xét xử Hội thẩm và Thẩm phán độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật
Trong bản Hiến pháp năm 1946, không có quy định nguyên tắc: “ Khi xét
xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Sau đó, các bản
Hiến pháp năm 1959, 1980, 1992 và 2013 đã quy định cụ thể nguyên tắc trên.
Trong Khoản 2, Điều 103, Hiến Pháp năm 2013 quy định: “ Thẩm phán, Hội thẩm
xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân
can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm”. Quy định trên nhằm tạo ra
sự độc lập giữa Hội thẩm với Thẩm phán khi xem xét vụ án, những suy nghĩ,
quyết định của họ không bị tác động khách quan từ bên ngoài. Trong Hội đồng xét
xử phải độc lập với nhau và Hội đồng xét xử phải độc lập với cá nhân, cơ quan, tổ
chức bên ngoài.

17

Điều 129, Hiến pháp năm 1992.


GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

16

SVTH: Võ Thanh Tòng


Hoạt động xét xử vụ án dân sự của Hội thẩm nhân dân – thực trạng và giải
pháp ở Tòa án nhân dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp
Trong Hội đồng xét xử thì Thẩm phán và Hội thẩm phải độc lập với nhau
trong suy nghĩ, xem xét chứng cứ, hồ sơ vụ án…Khi đó Hội thẩm sẽ tự ra quyết
định và chịu trách nhiệm về quyết định của mình, không phụ thuộc vào ý kiến của
Thẩm phán mà chỉ làm đúng theo quy định của pháp luật.
1.2. Những quy định của pháp luật hiện hành về Hội thẩm nhân dân
1.2.1. Tiêu chuẩn Hội thẩm nhân dân
Hội thẩm cùng với Thẩm phán là người trực tiếp tham gia hoạt động xét xử
của tòa án và là người quyết định đến kết quả của vụ án. Do đó, việc đưa ra tiêu
chuẩn của Hội thẩm nhân dân phải phù hợp với vị trí công tác của họ sau này. Cơ
sở pháp lý để chọn những vị Hội thẩm thật sự xứng đáng ngồi vào vị trí cầm cân
nẩy mực, được quy định trong Khoản 2, Điều 37, Luật Tổ chức tòa án nhân dân
năm 2002 (2011) và trong Khoản 2, Điều 5, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm
nhân dân năm 2002 (2011). Cụ thể : “ Công dân Việt Nam trung thành với Tổ
quốc và Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có phẩm chất đạo
đức tốt, liêm khiết và trung thực, có kiến thức pháp lý, có tinh thần kiên quyết bảo
vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, kiên quyết đấu tranh bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, có sức khỏe bảo đảm hoàn thành nhiệm
vụ được giao thì có thể được bầu hoặc cử làm Hội thẩm”18.
1.2.2. Thủ tục bầu, bãi nhiệm, miễn nhiệm Hội thẩm nhân dân
1.2.2.1. Thủ tục bầu Hội thẩm nhân dân

Thủ tục bầu Hội thẩm nhân dân nơi có tổ chức Hội đồng nhân dân
Chế định Hội thẩm nhân dân rất quan trọng trong hoạt động xét xử của cơ
quan tòa án nên việc bầu cử phải công khai, dân chủ. Theo quy định của pháp luật
hiện hành thì: “ Chế độ bầu Hội thẩm nhân dân được thực hiện đối với các Tòa án
nhân dân địa phương”19. Khi chọn được người đủ tiêu chuẩn thì Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc cùng cấp sẽ giới thiệu với Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu: “ Hội thẩm
nhân dân Tòa án nhân dân địa phương do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu theo

18

Khoản 2, Điều 5, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân 2002 ( sửa đổi, bổ sung năm 2011).

19

Điều 3, Luật Tổ chức tòa án nhân dân năm 2002 (2011).

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

17

SVTH: Võ Thanh Tòng


Hoạt động xét xử vụ án dân sự của Hội thẩm nhân dân – thực trạng và giải
pháp ở Tòa án nhân dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp
sự giới thiệu của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp”20. Hội thẩm nhân
dân được sự giới thiệu của cơ quan Mặt trận Tổ quốc cùng cấp, đã thể hiện được
tính dân chủ rất cao. Vì cơ quan Mặt trận Tổ quốc là nơi tập hợp tất cả các tầng
lớp người dân, cơ quan, tổ chức, tôn giáo…trong xã hội. Đó là tiếng nói của tập
thể, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân.

Thủ tục bầu Hội thẩm nhân dân nơi không có tổ chức Hội đồng nhân
dân huyện, quận
Việc chuẩn bị nhân sự và giới thiệu bầu Hội thẩm Tòa án nhân dân huyện,
quận nơi không tổ chức Hội đồng nhân dân được thực hiện theo trình tự, thủ tục
như quy định tại Thông tư số: 03/2009/TT-TANDTC Hướng dẫn việc giới thiệu
bầu và đề nghị miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm tòa án nhân dân huyện, quận nơi
không tổ chức Hội đồng nhân dân.
Hình thức và cách thức bầu Hội thẩm nhân dân được thực hiện theo Hướng
dẫn của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa XII, số 738/HD-UBTVQH12 Về việc tổ
chức kỳ họp thứ nhất của Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2011 – 2016.
1.2.2.2. Thủ tục miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm nhân dân
 Thủ tục miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm nhân dân nơi có tổ chức Hội
đồng nhân dân huyện, quận
Việc miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm nhân dân được quy định tại Điều 41,
Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002 (sửa đổi, bổ sung 2011): “
Hội thẩm có thể được miễn nhiệm vì lý do sức khỏe hoặc lý do khác. Hội thẩm bị
bãi nhiệm khi có vi phạm về phẩm chất đạo đức hoặc có hành vi vi phạm pháp
luật không còn xứng đáng làm Hội thẩm”21. Thủ tục miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội
thẩm nhân dân được quy định như sau: “ Hội đồng nhân dân cùng cấp miễn
nhiệm, bãi nhiệm theo đề nghị của Chánh án Tòa án nhân dân cùng cấp sau khi
thống nhất với Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp”22. Hội đồng nhân
dân là cơ quan có thẩm quyền bầu Hội thẩm nhân dân và cũng là cơ quan có thẩm
quyền miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm nhân dân. Việc miễn nhiệm, bãi nhiệm

20
21
22

Khoản 1, Điều 38, Luật Tổ chức tòa án nhân dân năm 2002 (2011).
Điều 41, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân 2002 (2011).

Khoản 1, Điều 38, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân 2002 (2011).

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

18

SVTH: Võ Thanh Tòng


Hoạt động xét xử vụ án dân sự của Hội thẩm nhân dân – thực trạng và giải
pháp ở Tòa án nhân dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp
cũng là sự thống nhất giữa Chánh án và Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp, thể
hiện tính dân chủ rất cao.
 Thủ tục miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm nhân dân nơi không có tổ chức
Hội đồng nhân dân huyện, quận
Việc đề nghị miễn nhiệm, bãi nhiệm Hội thẩm Tòa án nhân dân huyện,
quận nơi không tổ chức Hội đồng nhân dân được thực hiện theo trình tự,
thủ tục sau:
Bước một: Khi xét thấy Hội thẩm Tòa án nhân dân huyện, quận, có thể
được miễn nhiệm hoặc bãi nhiệm theo quy định tại Điều 41, Pháp lệnh Thẩm phán
và Hội thẩm Tòa án nhân dân năm 2002 ( sửa đổi, bổ sung năm 2011), thì Chánh
án Tòa án nhân dân huyện, quận, sau khi trao đổi thống nhất với Ban Thường trực
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam huyện, quận lập hồ sơ đề nghị miễn nhiệm,
bãi nhiệm để báo cáo với Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương.
Bước hai: Chánh án Tòa án tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương căn cứ
vào hồ sơ đề nghị miễn nhiệm, bãi nhiệm của Chánh án Tòa án nhân dân huyện,
quận báo cáo, sau khi trao đổi thống nhất với Ban Thường trực Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đề nghị Hội đồng nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xem xét, quyết định việc miễn nhiệm,

bãi nhiệm Hội đồng nhân dân huyện, quận23.
1.2.3. Quyền, nghĩa vụ của Hội thẩm nhân dân
1.2.3.1. Quyền của Hội thẩm nhân dân
Hội thẩm nhân dân cũng có những quyền cơ bản được quy định trong Luật
Tổ chức tòa án nhân dân năm 2002 (sửa đổi, bổ sung 2011) và Pháp lệnh Thẩm
phán và Hội thẩm nhân dân năm 2002. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, Hội thẩm được bồi dưỡng về nghiệp vụ, tham gia hội nghị tổng
kết công tác xét xử của Tòa án. Hội thẩm là cán bộ, công chức, quân nhân tại ngũ,
công nhân quốc phòng thì thời gian làm nhiệm vụ Hội thẩm được tính vào thời
gian làm việc ở cơ quan, đơn vị;
23

Mục III, Thông tư Số: 03/2009/TT-TANDTC Hướng dẫn việc giới thiệu bầu và đề nghị miễn nhiệm, bãi

nhiệm Hội thẩm tòa án nhân dân huyện, quận nơi không tổ chức Hội đồng nhân dân.

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

19

SVTH: Võ Thanh Tòng


Hoạt động xét xử vụ án dân sự của Hội thẩm nhân dân – thực trạng và giải
pháp ở Tòa án nhân dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp
Thứ hai, Hội thẩm được cấp trang phục, Giấy chứng minh Hội thẩm để làm
nhiệm vụ xét xử. Khi làm nhiệm vụ xét xử Hội thẩm được hưởng phụ cấp theo quy
định của pháp luật;
Thứ ba, trong một năm mà Hội thẩm không được Chánh án Tòa án phân
công làm nhiệm vụ xét xử thì có quyền yêu cầu Chánh án Tòa án cho biết lý do.

Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Thẩm phán, Hội thẩm có quyền liên
hệ với cơ quan nhà nước, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên của
Mặt trận, các tổ chức xã hội khác, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân và
công dân. Trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình, các cơ quan, tổ chức và
công dân có trách nhiệm tạo điều kiện để Thẩm phán, Hội thẩm làm nhiệm vụ;
Thứ tư, trong thời gian Hội thẩm làm nhiệm vụ theo sự phân công của
Chánh án Tòa án thì cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang nhân dân có Hội thẩm đó
không được điều động, phân công Hội thẩm làm việc khác, trừ trường hợp đặc
biệt;
Thứ năm, Hội thẩm có thể được miễn nhiệm vì lý do sức khỏe hoặc lý do
khác24.
1.2.3.2. Nghĩa vụ của Hội thẩm nhân dân
Trong khi thực hiện nhiệm vụ, chức năng của Tòa án nhân dân, Hội thẩm
nhân dân có các nghĩa vụ sau:
Thứ nhất, Hội thẩm làm nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh án Tòa án
nơi mình được bầu hoặc cử làm Hội thẩm. Khi được Chánh án Tòa án phân công
làm nhiệm vụ xét xử thì Hội thẩm có nghĩa vụ tham gia mà không được từ chối,
trừ trường hợp có lý do chính đáng.
Thứ hai, Hội thẩm có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; bảo vệ tài sản của Nhà
nước, của tập thể; bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của
công dân;
Thứ ba, tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật. Tuân thủ các quy định
của pháp luật tố tụng khi thực hiện nhiệm vụ xét xử;

24

Khoản 1, Điều 41, Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân 2002 (2011).

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền


20

SVTH: Võ Thanh Tòng


Hoạt động xét xử vụ án dân sự của Hội thẩm nhân dân – thực trạng và giải
pháp ở Tòa án nhân dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp
Thứ tư, Hội thẩm phải giữ bí mật nhà nước và bí mật công tác theo quy
định của pháp luật;
Thứ năm, Hội thẩm phải từ chối tham gia xét xử hoặc bị thay đổi trong
trường hợp do pháp luật tố tụng quy định.
Thứ sáu, không tư vấn cho bị can, báo cáo, đương sự hoặc người tham gia
tố tụng khác làm cho việc giải quyết vụ án hoặc những việc khác không đúng quy
định của pháp luật;
Thứ bảy, không can thiệp trái pháp luật vào việc giải quyết vụ án hoặc lợi
dụng ảnh hưởng của mình tác động đến người có trách nhiệm giải quyết vụ án;
Thứ tám, không đem hồ sơ vụ án hoặc tài liệu trong hồ sơ vụ án ra khỏi cơ
quan Tòa án;
Thứ chín, không tiếp bị can, bị cáo, đương sự hoặc người tham gia tố tụng
khác trong vụ án mà mình được phân công tham gia xét xử ngoài nơi quy định.
1.2.4. Cơ cấu, số lƣợng, hoạt động của Hội thẩm nhân dân
1.2.4.1. Cơ cấu của Hội thẩm nhân dân
Theo quy định chung của Luật Tổ chức tòa án nhân dân năm 2002 thì: “
Tòa án xét xử những vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân và gia đình, lao động, kinh
tế, hành chính và giải quyết những việc khác theo quy định của pháp luật”25. Do
đó, việc chọn người làm Hội thẩm nhân dân cần phải hợp lý, phù hợp với từng vụ
án cụ thể, phù hợp với đặc điểm vùng miền, văn hóa, phong tục tập quán của từng
địa phương cụ thể. Theo quy định của Thông tư liên tịch số 01/2004/TANDTCUBTWMTTQVN ngày 1 tháng 3 năm 2004 của Tòa án nhân dân tối cao và Ủy
ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn về việc chuẩn bị nhân sự

và giới thiệu bầu Hội thẩm Tòa án nhân dân. Cụ thể : “ Về cơ cấu Hội thẩm Tòa
án nhân dân cần chú ý lựa chọn những người thuộc các tổ chức xã hội, các đoàn
thể ở địa phương như Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn, Hội Nông dân, Hội
Cựu chiến binh, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, ngành
giáo dục, các nhà doanh nghiệp, kinh tế, tôn giáo…”26. Đồng thời, về cơ cấu
25

Điều 1, Luật Tổ chức tòa án nhân dân năm 2002 (2011).
Khoản 1, Mục I, Thông tư liên tịch số 01/2004/TTLT-TANDTC-UBTWMTTQVN ngày 1 tháng 3 năm
2004 của Tòa án nhân dân tối cao và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn về việc
26

chuẩn bị nhân sự và giới thiệu bầu Hội thẩm Tòa án nhân dân.

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

21

SVTH: Võ Thanh Tòng


Hoạt động xét xử vụ án dân sự của Hội thẩm nhân dân – thực trạng và giải
pháp ở Tòa án nhân dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp
người được giới thiệu bầu Hội thẩm Tòa án nhân dân huyện, quận nơi không tổ
chức Hội đồng nhân dân được thực hiện theo quy định giống như nơi có tổ chức
Hội đồng nhân dân.
1.2.4.2. Số lƣợng của Hội thẩm nhân dân
Thông tư liên tịch số 01/2004/TANDTC-UBTWMTTQVN hướng dẫn về
việc chuẩn bị nhân sự và giới thiệu bầu Hội thẩm Tòa án nhân dân thực hiện như
sau:

Đối với Hội thẩm Tòa án nhân dân cấp tỉnh: cứ 2 Thẩm phán Tòa án nhân
dân cấp tỉnh thì có 3 Hội thẩm Tòa án nhân dân cấp tỉnh, nhưng tổng số Hội thẩm
của một Tòa án nhân dân tỉnh không dưới 20 người và không nhiều hơn 100
người.
Đối với Hội thẩm Tòa án nhân dân cấp huyện: cứ 1 Thẩm phán Tòa án
nhân dân cấp huyện thì có 2 Hội thẩm Tòa án nhân dân cấp huyện, nhưng tổng số
Hội thẩm của một Tòa án nhân dân cấp huỵên không dưới 15 người và không
nhiều hơn 50 người.27
1.2.4.3. Hoạt động của Hội thẩm nhân dân
Trƣớc khi mở phiên tòa
Hội thẩm tham gia hoạt động xét xử theo sự phân công của Chánh án. “ Khi
được phân công làm nhiệm vụ xét xử, trong thời hạn ít nhất 7 ngày làm việc trước
khi mở phiên tòa, Thẩm phán được phân công làm chủ tọa phiên tòa có trách
nhiệm gửi giấy mời Hội thẩm đến trụ sở Tòa án để nghiên cứu hồ sơ vụ án và
trao đổi các vấn đề cần thiết về nghiệp vụ xét xử đối với vụ án đó”28. Bảy ngày
làm việc là quá ít, đối với nhiều vụ án lớn, phức tạp, có nhiều đối tượng liên quan
đến quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân thì thời gian đó là không hợp lý. Hội
thẩm nhân dân hầu hết là kiêm nhiệm, họ có rất nhiều việc phải giải quyết ở cơ
quan của họ, nên thời gian dành cho hoạt động xét xử còn hạn chế. Hội thẩm
không được đem hồ sơ vụ án ra khỏi tòa án, nên thời gian nghiên cứu hồ sơ ở tòa
27

Khoản 2, Mục I, Thông tư liên tịch số 01/2004/TTLT-TANDTC-UBTWMTTQVN ngày 1 tháng 3 năm
2004 của Tòa án nhân dân tối cao và Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hướng dẫn về việc
chuẩn bị nhân sự và giới thiệu bầu Hội thẩm Tòa án nhân dân.
28
Điều 21, Nghị quyết liên tịch Về việc ban hành Quy chế về tổ chức và hoạt động
của Hội thẩm Tòa án nhân dân ngày 05 tháng 12 năm 2005.

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền


22

SVTH: Võ Thanh Tòng


Hoạt động xét xử vụ án dân sự của Hội thẩm nhân dân – thực trạng và giải
pháp ở Tòa án nhân dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp
án rất hạn chế. Có rất nhiều vụ án khi mở phiên tòa xét xử thì mới gặp mặt được
Hội thẩm, họ ít nghiên cứu trước hồ sơ vụ án, nên hoàn toàn phụ thuộc vào ý kiến
Thẩm phán. Trước khi mở phiên tòa Hội thẩm tham gia các hoạt động tố tụng của
tòa án rất ít, không tham gia công tác hòa giải, thẩm định, đánh giá chứng cứ, đo
đạc, lấy lời khai, đối chất…
Ngoài ra, còn có thêm quy định: “ Trong trường hợp có lý do chính đáng để
từ chối việc tham gia xét xử thì trong thời hạn ít nhất 7 ngày làm việc trước khi mở
phiên tòa, Hội thẩm phải có văn bản nêu rõ lý do từ chối xét xử và gửi cho Chánh
án Tòa án nhân dân cùng cấp để xem xét, cử Hội thẩm khác tham gia xét xử”29.
Quy định như trên là chưa thật sự phù hợp, vì khi Hội thẩm vừa nhận được giấy
mời, đồng thời cũng là hạn chót cho việc từ chối tham gia xét xử. Khi Hội thẩm
vừa nhận được giấy mời, chưa thể biết vụ án đó có phải bị bắt buộc từ chối hay
không. Hoặc trong quá trình nghiên cứu hồ sơ vụ án, những ngày tiếp sau đó có
những tình tiết mới của vụ án mà bắt buộc Hội thẩm phải từ chối tham gia. Nếu
như thế thì Hội thẩm có được tham gia xét xử hay không.
Tại phiên tòa xét xử
Nếu Hội thẩm có quyền nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên tòa xét
xử và tại phiên tòa thì Hội thẩm có quyền hỏi để làm rõ tình tiết của vụ án. Về quy
định xét hỏi tại phiên tòa được thực hiện như sau: “ Sau khi nghe xong lời trình
bày của đương sự, việc hỏi từng người về từng vấn đề được thực hiện theo thứ tự,
chủ tọa phiên tòa hỏi trước rồi đến các Hội thẩm nhân dân, sau đó đến Kiểm sát
viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự”30. Hội thẩm nhân dân

cũng có quyền đề nghị với chủ tọa phiên tòa hỏi thêm về những tình tiết cần làm
sáng tỏ. Khi xét hỏi, Hội đồng xét xử xem xét những vật chứng có liên quan trong
vụ án. Việc hỏi Hội thẩm nhân dân tham gia hỏi là cần thiết và Thẩm phán chủ tọa
phiên tòa không nên hạn chế thời gian hay câu hỏi tại phiên tòa, nếu xét thấy vấn
đề nào Thẩm phán chủ tọa phiên tòa chưa xét hỏi hoặc xét hỏi chưa đầy đủ thì Hội
thẩm nhân dân cần chủ động hỏi bổ sung và những vấn đề nào chưa rõ thì Hội

29

Điều 22, Nghị quyết liên tịch Về việc ban hành Quy chế về tổ chức và hoạt động
của Hội thẩm Tòa án nhân dân ngày 05 tháng 12 năm 2005.
30

Điều 222, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 ( sửa đổi, bổ sung năm 2011)

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

23

SVTH: Võ Thanh Tòng


Hoạt động xét xử vụ án dân sự của Hội thẩm nhân dân – thực trạng và giải
pháp ở Tòa án nhân dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp
thẩm nhân dân tự mình hỏi. Ngoài hoạt động trên thì Hội thẩm còn tham gia thủ
tục quan trọng nữa, đó là phần nghị án cùng với Thẩm phán. Chỉ có các thành viên
của Hội đồng xét xử mới có quyền nghị án.

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền


24

SVTH: Võ Thanh Tòng


Hoạt động xét xử vụ án dân sự của Hội thẩm nhân dân – thực trạng và giải
pháp ở Tòa án nhân dân huyện Lai Vung, tỉnh Đồng Tháp

CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ VỀ HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ
VỤ ÁN DÂN SỰ CỦA HỘI THẨM NHÂN DÂN TẠI TÒA ÁN
NHÂN DÂN HUYỆN LAI VUNG, TỈNH ĐỒNG THÁP
2.1. KHÁI QUÁT VỤ ÁN DÂN SỰ
Vụ án dân sự (hay còn gọi là vụ kiện dân sự) là vụ kiện mà giữa các bên
đương sự trong vụ việc đó có những mâu thuẫn bất hòa về quyền và nghĩa vụ dân
sự mà bản thân họ không thể giải quyết được nên họ yêu cầu tòa án giải quyết.
Theo quy định tại Điều 1, Bộ luật tố tụng dân sự 2004 (sửa đổi, bổ sung năm
2011) thì vụ kiện dân sự bao gồm những vụ việc sau:
 Những tranh chấp về dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án.
 Những tranh chấp về hôn nhân và gia đình thuộc thẩm quyền giải quyết của
tòa án.
 Những tranh chấp về kinh doanh, thương mại thuộc thẩm quyền giải quyết
của tòa án.
 Những tranh chấp về lao động thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án..
Trong vụ án dân sự có cũng có những đặc điểm riêng khác với vụ án hình
sự và hành chính như:
 Thứ nhất, phải có đơn khởi kiện của nguyên đơn yêu cầu tòa án bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. Khi đó, tòa án sẽ xem xét đơn khởi
kiện và chỉ khi nào tòa án ra quyết định thụ lý, thì tranh chấp đó mới được
xem là vụ án dân sự. Trong vụ án dân sự phải có nguyên đơn và bị đơn.

 Thứ hai, trong vụ án dân sự thì các đương sự tự do thỏa thuận (thỏa thuận
này không trái với quy định của pháp luật).
 Thứ ba, trong trường hợp pháp luật không quy định và các bên không có
thoả thuận thì có thể áp dụng tập quán; nếu không có tập quán thì áp dụng
quy định tương tự của pháp luật. Tập quán và quy định tương tự của pháp
luật không được trái với những nguyên tắc quy định của pháp luật.

GVHD: Ths. Huỳnh Thị Sinh Hiền

25

SVTH: Võ Thanh Tòng


×