Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Pháp luật hiện hành về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại việt nam thực trạng và giải pháp hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (782.5 KB, 81 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐỖ PHƢƠNG HIỀN

PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP
NƢỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM - THỰC TRẠNG VÀ
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN

Chuyên ngành

: Luật Kinh tế

Mã số

: 60380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS.Nguyễn Viết Tý

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu và kết quả nghiên cứu trong Luận văn này là trung thực, có nguồn trích dẫn
rõ ràng.


Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2014
Tác giả Luận văn

Đỗ Phƣơng Hiền


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành Luận văn này, lời đầu tiên tôi xin tỏ lòng cảm ơn sâu sắc
tới Thầy giáo, PGS, TS. Nguyễn Viết Tý, ngƣời đã tận tình hƣớng dẫn tôi
trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô trong trƣờng Đại học
Luật Hà Nội, đặc biệt là các Thầy, Cô thuộc Khoa Sau đại học và bộ môn
Luật Thƣơng Mại, Khoa Pháp luật Kinh tế, trƣờng Đại học Luật Hà Nội,
những ngƣời đã tận tình dạy dỗ, chỉ bảo, truyền đạt kiến thức cho tôi trong
suốt thời gian học tập.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè, những ngƣời thân yêu
luôn là chỗ dựa vững chắc, ủng hộ, động viên tôi hoàn thành Luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin kính chúc quý Thầy, Cô, gia đình cùng bạn bè
sức khỏe và thành công trong sự nghiệp.
Hà Nội, ngày 20 tháng 5 năm 2014
Tác giả Luận văn
Đỗ Phƣơng Hiền


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP


1
5

NƢỚC NGOÀI VÀ PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI
1.1. KHÁI QUÁT VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI

5

1.1.1. Khái niệm đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài

5

1.1.2. Đặc điểm của đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài

7

1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài

8

1.2. KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI

14

TẠI VIỆT NAM

1.2.1. Sơ lƣợc về sự hình thành và phát triển của pháp luật đầu tƣ trực tiếp

14


nƣớc ngoài
1.2.2

Pháp luật về đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài - Một bộ phận của pháp

16

luật đầu tƣ ở Việt Nam
1.2.3. Cấu trúc của pháp luật đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài

17

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP

24

NƢỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
2.1.

NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP

24

NƢỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM

2.1.1. Nội dung của pháp luật về đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài tại Việt Nam

24

2.1.2. Những quy định về đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài tại Việt Nam theo


39

các điều ƣớc quốc tế
2.2.

THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC

45

NGOÀI TẠI VIỆT NAM

2.2.1. Những thành tựu

45

2.2.2. Những vƣớng mắc, bất cập

47


Chƣơng 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO

64

HIỆU QUẢ CƠ CHẾ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP
NƢỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
3.1.

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP


64

NƢỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM

3.1.1. Sửa đổi, bổ sung một số khái niệm đƣợc quy định trong Luật Đầu tƣ

64

3.1.2. Quy định cụ thể các lĩnh vực đầu tƣ có điều kiện, các lĩnh vực cấm

65

đầu tƣ
3.1.3. Hoàn thiện các quy định về thủ tục đầu tƣ

65

3.1.4. Hoàn thiện các quy định về chính sách ƣu đãi đầu tƣ

67

3.1.5. Hoàn thiện các quy định về quản lý và phân cấp đầu tƣ

68

3.2.

69


GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA CƠ CHẾ THỰC THI PHÁP
LUẬT VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM

3.2.1. Cải thiện hiệu quả công tác quản lý doanh nghiệp có vốn đầu tƣ

69

nƣớc ngoài
3.2.2. Tăng cƣờng công khai, minh bạch thông tin về đầu tƣ trực tiếp

70

nƣớc ngoài
3.2.3. Tăng cƣờng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, giải đáp vƣớng

70

mắc pháp luật về đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
KẾT LUẬN

71

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

72


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
AIA : Khu vực đầu tƣ ASEAN
APEC : Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á -Thái Bình Dƣơng

ASEAN : Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
BTA : Hiệp định thƣơng mại Việt Nam - Hoa Kỳ
FDI : Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
GATT : Hiệp định chung về Thuế quan và Thƣơng mại
GDP : Tổng sản phẩm quốc nội
IMF : Quỹ Tiền tệ quốc tế
ISCID : Trọng tài quốc tế giải quyết tranh chấp đầu tƣ
MFN : Đối xử tối huệ quốc
NT : Đối xử quốc gia
OECD : Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế
TRIMs : Hiệp định về các biện pháp đầu tƣ liên quan đến
thƣơng mại
UNCITRAL : Ủy ban Liên hợp quốc về luật thƣơng mại quốc tế
WTO : Tổ chức Thƣơng mại Thế giới


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Kể từ khi Luật Đầu tƣ nƣớc ngoài tại Việt Nam - khung pháp lý cơ bản
đầu tiên của nƣớc ta về hoạt động đầu tƣ nƣớc ngoài đƣợc ban hành vào tháng
12/1987 đến nay, sau gần 30 năm, hoạt động đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
(Foreign Direct Investment - FDI) đã có những đóng góp quan trọng vào tiến
trình phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Vai trò của FDI đƣợc thể hiện
thông qua các mặt, nhƣ: Bổ sung nguồn vốn đầu tƣ, chuyển giao công nghệ, đẩy
mạnh xuất khẩu, tạo việc làm và phát triển nguồn nhân lực. Trong đó, sự gia tăng
vốn đầu tƣ FDI đã bù đắp đáng kể sự sụt giảm tỷ lệ đầu tƣ trong nƣớc trong tổng
số vốn đầu tƣ phát triển toàn xã hội, nhất là trong những năm gần đây, khi mà
Chính phủ đã thắt chặt hơn chi tiêu và đầu tƣ công, đặc biệt là đầu tƣ cho các

doanh nghiệp nhà nƣớc. Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài là nguồn lực quan trọng của
nền kinh tế, cùng nguồn lực trong nƣớc tạo nên sức mạnh tổng hợp để thực hiện
mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc và tái cơ cấu nền kinh tế.
Việc ban hành Luật Đầu tƣ năm 2005 là một bƣớc tiến quan trọng trong
tiến trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về đầu tƣ tại Việt Nam. Cùng
với Luật Doanh nghiệp đƣợc thông qua và có hiệu lực thi hành vào cùng một
thời điểm (01/7/2006), đây là lần đầu tiên sau 20 năm thực hiện đƣờng lối đổi
mới, Việt Nam có một khung pháp luật về hoạt động đầu tƣ, doanh nghiệp áp
dụng thống nhất cho các nhà đầu tƣ và doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh
tế. Những quy định của Luật Đầu tƣ đã mở rộng quyền tự chủ trong hoạt động
đầu tƣ, kinh doanh của các nhà đầu tƣ bằng việc xóa bỏ một loạt rào cản đầu tƣ
không phù hợp với thông lệ kinh tế thị trƣờng và cam kết hội nhập của Việt
Nam, tạo cơ sở pháp lý cho việc cải thiện môi trƣờng đầu tƣ, kinh doanh theo
hƣớng ngày càng thuận lợi, minh bạch và bình đẳng giữa các nhà đầu tƣ.
Tuy nhiên, hiện nay Việt Nam đang phải đối mặt với xu hƣớng cạnh tranh
thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài ngày càng gay gắt từ các nƣớc trên thế giới và trong


2

khu vực, trong khi năng lực cạnh tranh quốc gia nói chung và sức cạnh tranh thu
hút đầu tƣ nƣớc ngoài nói riêng còn nhiều mặt hạn chế. Lĩnh vực và địa bàn
khuyến khích đầu tƣ còn dàn trải, thiếu tính thống nhất và chƣa thật sự hƣớng
mạnh vào thu hút các dự án đầu tƣ với chất lƣợng và hiệu quả cao hơn. Các quy
định về điều kiện và thủ tục đầu tƣ còn thiếu tính minh bạch, khả thi và đồng bộ,
chƣa thật sự tạo lập đƣợc mặt bằng pháp lý bình đẳng cho nhà đầu tƣ trong nƣớc
và nhà đầu tƣ nƣớc ngoài. Các quy định về thủ tục cấp Giấy chứng nhận đầu tƣ
và triển khai thực hiện dự án còn phức tạp, tồn tại nhiều đầu mối xem xét, giải
quyết, không phù hợp với chủ trƣơng đơn giản hóa thủ tục hành chính cho ngƣời
dân và doanh nghiệp. Thực trạng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó

có một nguyên nhân cơ bản là hệ thống pháp luật về đầu tƣ của nƣớc ta nói
chung và Luật Đầu tƣ nói riêng đã bộc lộ một số hạn chế, bất cập. Từ đây, yêu
cầu thực tế đặt ra là phải sửa đổi, hoàn thiện pháp luật về đầu tƣ đảm bảo phù
hợp với tình hình kinh tế - xã hội của đất nƣớc trong giai đoạn phát triển mới.
Để đáp ứng yêu cầu nêu trên, tôi đã lựa chọn đề tài “Pháp luật hiện hành
về đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam - Thực trạng và giải pháp hoàn
thiện” làm đề tài luận văn tốt nghiệp Cao học Luật của mình với mong muốn
đóng góp một phần nhỏ bé vào việc tiếp tục hoàn thiện các quy định của pháp
luật trong lĩnh vực đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài tại Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm vừa qua, đã có một số công trình nghiên cứu pháp luật
về đầu tƣ nói chung cũng nhƣ về đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài nói riêng, nhƣ:
“Hoàn thiện pháp luật đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài trong xu thế nhất thể hoá pháp
luật về đầu tƣ ở Việt Nam” - Luận án Tiến sỹ Luật học của tác giả Nguyễn Khắc
Định, đại học Luật Hà Nội (2003); “Pháp luật về quản lý nhà nƣớc đối với đầu tƣ
nƣớc ngoài - Thực trạng và phƣơng hƣớng hoàn thiện” - Luận văn Thạc sỹ của
tác giả Trần Thị Kim Oanh (2005); “Quản lý nhà nƣớc về đầu tƣ theo Luật Đầu
tƣ (2005) - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” - Luận văn Thạc sỹ của tác giả
Phạm Thị Minh Thuý (2005); “Quyền bình đẳng của các nhà đầu tƣ theo Luật


3

đầu tƣ (2005)” - Luận văn Thạc sỹ Luật học của tác giả Phạm Thị Thu Huyền,
Đại học Luật Hà Nội (2007); “Pháp luật quản lý nhà nƣớc về đầu tƣ - Những vấn
đề lý luận và thực tiễn” - Luận văn Thạc sỹ Luật học của tác giả Nguyễn Duy
Nam, Đại học Luật Hà Nội (2013);…
Các công trình nghiên cứu này chủ yếu đề cập đến một vài khía cạnh của
pháp luật về đầu tƣ nói chung. Có công trình chỉ tập trung nghiên cứu một khía
cạnh của pháp luật đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài; có công trình nghiên cứu toàn

diện về pháp luật đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài nhƣng trong bối cảnh trƣớc khi
Luật Đầu tƣ năm 2005 ra đời.
Do vậy, việc nghiên cứu một cách đầy đủ, có hệ thống và sâu sắc pháp
luật về đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện
nay, đồng thời đƣa ra những giải pháp để hoàn thiện và nâng cao hiệu quả cơ chế
thực thi pháp luật là một đòi hỏi cấp bách đối với khoa học pháp lý ở nƣớc ta.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận và thực tiễn áp
dụng pháp luật về đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài ở Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay, bao gồm các quy định về: Chủ thể đầu tƣ; quyền và nghĩa vụ của các nhà
đầu tƣ; hình thức đầu tƣ, lĩnh vực đầu tƣ; bảo đảm và khuyến khích đầu tƣ; thủ
tục đầu tƣ; quản lý nhà nƣớc về đầu tƣ, giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực đầu
tƣ đƣợc quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam và một số
điều ƣớc quốc tế song phƣơng, đa phƣơng mà Việt Nam tham gia ký kết.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Để nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng phƣơng pháp luận biện chứng duy
vật và những quan điểm, đƣờng lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tác giả đã sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể nhƣ: Phƣơng pháp phân
tích, phƣơng pháp chứng minh, phƣơng pháp diễn giải, phƣơng pháp lịch sử,
phƣơng pháp thống kê, phƣơng pháp so sánh,…


4

5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
5.1. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là lập luận một cách có sức thuyết
phục về việc cần phải hoàn thiện các quy định của pháp luật hiện hành về đầu tƣ
trực tiếp nƣớc ngoài tại Việt Nam. Đồng thời, luận văn đƣa ra phƣơng hƣớng và
giải pháp cụ thể để hoàn thiện hệ thống các quy định của pháp luật về đầu tƣ trực

tiếp nƣớc ngoài tại Việt Nam; các giải pháp để thực thi có hiệu quả các quy định
pháp luật trong lĩnh vực này.
5.2. Nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài nhằm trình bày một cách có hệ thống và phân
tích, chứng minh một cách có căn cứ các quy định pháp luật hiện hành về đầu
tƣ trực tiếp nƣớc ngoài tại Việt Nam, trong đó chỉ ra những nét chung và những
điểm riêng biệt của pháp luật đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài so với pháp luật đầu
tƣ nói chung.
Ngoài ra, tác giả cũng trình bày những thành công và ƣu điểm của pháp
luật hiện hành về đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài; đồng thời chỉ ra những khuyết
điểm và bất cập của các quy định pháp luật trong lĩnh vực này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
đƣợc kết cấu gồm ba chƣơng nhƣ sau:
Chƣơng 1. Những vấn đề lý luận chung về đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài và
pháp luật về đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài;
Chƣơng 2. Thực trạng pháp luật về đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài tại Việt Nam;
Chƣơng 3. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả cơ chế
thực thi pháp luật về đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài tại Việt Nam.


5

Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI VÀ
PHÁP LUẬT VỀ ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI
1.1. KHÁI QUÁT VỀ ĐẦU TƢ TRỰC TIẾP NƢỚC NGOÀI

1.1.1. Khái niệm đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
● Định nghĩa đầu tư trực tiếp nước ngoài

Hiện nay, hoạt động đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài đang diễn ra ở hầu hết các
quốc gia trên thế giới và ngày càng có vai trò quan trọng trong thúc đẩy phát
triển kinh tế toàn cầu. Khái niệm đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài đã đƣợc nhiều tổ
chức kinh tế quốc tế đƣa ra nhằm mục đích giúp các quốc gia hoạch định chính
sách kinh tế vĩ mô về FDI, tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động tự do hoá thƣơng
mại, đầu tƣ quốc tế.
Quỹ Tiền tệ quốc tế (International Monetary Fund - IMF) trong Báo cáo
cán cân thanh toán hàng năm đã đƣa ra định nghĩa về đầu tƣ trực tiếp nƣớc
ngoài: “Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài là hoạt động có lợi ích lâu dài
của một doanh nghiệp tại một nước khác (nước nhận đầu tư - hosting country),
không phải tại nước mà doanh nghiệp đang hoạt động (nước đi đầu tư - source
country) với mục đích quản lý một cách có hiệu quả doanh nghiệp” [34, tr,27].
Theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD): Đầu tƣ trực tiếp nƣớc
ngoài bao gồm các hoạt động kinh tế của các cá nhân và pháp nhân, kể cả việc cho
vay dài hạn hoặc sử dụng nguồn lợi nhuận tại nƣớc sở tại nhằm mục đích tạo dựng
các quan hệ kinh tế lâu dài và mang lại khả năng ảnh hƣởng thực sự về quản lý.
OECD có quan niệm rất rộng về nhà đầu tƣ nƣớc ngoài: Nhà đầu tƣ nƣớc ngoài là
cá nhân hoặc tổ chức có thể thuộc cơ quan Chính phủ hoặc không thuộc cơ quan
Chính phủ đầu tƣ tại nƣớc ngoài [34, tr.28].
Uỷ ban Thƣơng mại và phát triển của Liên hợp quốc (UNCTAD) trong Báo
cáo đầu tƣ thế giới năm 1996 đã đƣa ra định nghĩa về đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài


6

nhƣ sau: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài là đầu tư có mối liên hệ, lợi ích và sự kiểm
soát lâu dài của một pháp nhân hoặc thể nhân (nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài
hoặc công ty mẹ) đối với một doanh nghiệp ở một nền kinh tế khác (doanh nghiệp
FDI hoặc chi nhánh nước ngoài hoặc chi nhánh doanh nghiệp)” [34, tr.28].
Ngoài ra, các nhà kinh tế học Hoa Kỳ khi xác định khái niệm FDI còn

đƣa ra dƣới quan điểm: FDI là bất kỳ dòng vốn nào thuộc sở hữu đa phần của
công dân hoặc công ty của nƣớc đi đầu tƣ có đƣợc từ việc cho vay hoặc dùng để
mua sở hữu của doanh nghiệp nƣớc ngoài. Hoa Kỳ coi việc sở hữu đa phần chỉ
cần chiếm 10% giá trị của doanh nghiệp nƣớc ngoài.
Từ các định nghĩa trên, có thể nhận thấy, về mặt kinh tế, “FDI là một hình
thức đầu tƣ quốc tế đƣợc đặc trƣng bởi quá trình di chuyển tƣ bản từ nƣớc này
sang nƣớc khác” [42,tr.8]. FDI bao giờ cũng là một dạng quan hệ kinh tế có yếu
tố nƣớc ngoài (chủ đầu tƣ, vốn đầu tƣ và địa điểm đầu tƣ từ các quốc gia khác
nhau). Yếu tố nƣớc ngoài ở đây không chỉ thể hiện ở sự khác biệt về quốc tịch
hoặc về lãnh thổ cƣ trú thƣờng xuyên của các bên tham gia vào quan hệ đầu tƣ
trực tiếp nƣớc ngoài mà còn thể hiện ở việc di chuyển tƣ bản trong đầu tƣ trực
tiếp nƣớc ngoài vƣợt ra ngoài tầm kiểm soát của một quốc gia. Việc di chuyển tƣ
bản này nhằm phục vụ mục đích kinh doanh tại nƣớc tiếp nhận đầu tƣ mà việc
kinh doanh đó do chính các chủ đầu tƣ nƣớc ngoài thực hiện hoặc kết hợp với
chủ đầu tƣ của nƣớc tiếp nhận đầu tƣ thực hiện.
Trong quan hệ đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài, đối với nƣớc xuất khẩu tƣ bản,
đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài đƣợc xem nhƣ việc di chuyển tƣ bản ra nƣớc ngoài
nhằm thiết lập ở đó những hoạt động kinh doanh nhất định để thu lợi nhuận. Đối
với nƣớc tiếp nhận đầu tƣ, đó là việc tiếp nhận vốn của ngƣời nƣớc ngoài để cho
phép chủ đầu tƣ nƣớc ngoài tổ chức các hoạt động kinh doanh theo những hình thức
mà pháp luật quy định. Từ đó cho thấy, dù nhìn nhận dƣới góc độ nào thì FDI cũng
đều là hoạt động kinh doanh quốc tế dựa trên cơ sở của quá trình di chuyển tƣ bản
giữa các quốc gia, chủ yếu do các pháp nhân và thể nhân thực hiện theo những hình
thức nhất định mà qua đó chủ đầu tƣ trực tiếp tham gia vào quá trình đầu tƣ.


7

1.1.2. Đặc điểm của đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
Từ khái niệm đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài, có thể rút ra một số đặc điểm cơ

bản của hình thức này nhƣ sau:
Thứ nhất, có sự dịch chuyển tƣ bản trong phạm vi quốc tế. Vốn FDI là
nguồn vốn thuộc sở hữu của nhà đầu tƣ nƣớc ngoài hoặc công dân nƣớc tiếp
nhận đầu tƣ định cƣ ở nƣớc ngoài chuyển dịch vào nƣớc tiếp nhận đầu tƣ thông
qua hoạt động đầu tƣ. Đây chính là điểm khác biệt so với nguồn vốn đầu tƣ trong
nƣớc là nguồn vốn huy động từ các nhà đầu tƣ trong nƣớc. Xuất phát từ nhu cầu
quản lý nên hoạt động đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài phải tuân thủ pháp luật về
xuất khẩu, chuyển giao tài sản để tiến hành góp vốn, về quản lý ngoại hối,… với
những quy định thƣờng là phức tạp hơn so với hoạt động đầu tƣ từ nguồn vốn
trong nƣớc. Ngoài hoạt động xuất nhập khẩu, đi kèm với FDI còn có các yếu
tố chuyển giao công nghệ và di cƣ lao động quốc tế. Trong đó di cƣ lao động
quốc tế góp phần vào việc chuyển giao kỹ năng quản lý doanh nghiệp FDI.
Nhƣ vậy, trong đầu tƣ trực tiếp, vốn đầu tƣ có thể bằng tiền, tài sản khác hoặc
bằng công nghệ.
Thứ hai, chủ đầu tƣ (pháp nhân, thể nhân) trực tiếp tham gia vào hoạt
động sử dụng vốn và quản lý đối tƣợng đầu tƣ. Chủ đầu tƣ có thể tự quản lý,
giám sát, điều chỉnh nguồn vốn đầu tƣ và triển khai đối tƣợng đầu tƣ. Đặc điểm
này giúp phân biệt với hình thức đầu tƣ gián tiếp trong đó nhà đầu tƣ chỉ bỏ vốn
mà không tham gia quản lý đối tƣợng đầu tƣ. Hình thức đầu tƣ trực tiếp nƣớc
ngoài tạo sự chủ động cho nhà đầu tƣ nƣớc ngoài nhằm sử dụng nguồn vốn có
hiệu quả, có biện pháp bảo toàn nguồn vốn khi xảy ra rủi ro. Tuy vậy, tuỳ theo
quy định pháp luật của mỗi nƣớc, nhà đầu tƣ nƣớc ngoài phải có một tỷ lệ sở
hữu nhất định thì mới đƣợc tham gia quản lý doanh nghiệp FDI. Ví dụ, “theo
hƣớng dẫn của OECD và Bộ Thƣơng mại Hoa Kỳ thì nhà đầu tƣ nƣớc ngoài phải
chiếm tối thiểu 10% cổ phiếu thƣờng hoặc quyền bỏ phiếu trong các doanh
nghiệp FDI để cho nhà đầu tƣ có tiếng nói hay tham gia quản lý trong các doanh
nghiệp FDI” [34, tr.32].


8


Thứ ba, khác với đầu tƣ gián tiếp, FDI là hoạt động mang tính ổn định, lâu
dài. Đầu tƣ gián tiếp thƣờng là dòng vốn có thời gian hoạt động ngắn và có thu
nhập thông qua việc mua, bán chứng khoán (cổ phiếu hoặc trái phiếu). Đầu tƣ
gián tiếp có tính thanh khoản cao hơn so với đầu tƣ trực tiếp, dễ dàng thu lại số
vốn đầu tƣ ban đầu khi đem bán chứng khoán. Vì vậy, dễ xảy ra tình trạng rút
vốn ồ ạt mà nƣớc nhận đầu tƣ không kiểm soát nổi. Ngƣợc lại, FDI không có các
đặc điểm nhƣ vậy nên việc tiếp nhận FDI có độ an toàn về kinh tế cao hơn đối
với nƣớc tiếp nhận đầu tƣ so với đầu tƣ gián tiếp.
Thứ tư, FDI là hình thức kéo dài “chu kỳ tuổi thọ sản xuất”, “chu kỳ tuổi
thọ kỹ thuật”. Trong nền kinh tế hiện đại có một số yếu tố liên quan đến kỹ thuật
sản xuất, kinh doanh đã buộc nhiều nhà sản xuất phải lựa chọn phƣơng thức đầu
tƣ trực tiếp ra nƣớc ngoài nhƣ là một điều kiện cho sự tồn tại và phát triển của
mình. Đầu tƣ trực tiếp ra nƣớc ngoài sẽ giúp cho doanh nghiệp thay đổi đƣợc
dây chuyền công nghệ lạc hậu của nƣớc mình, nhƣng dây chuyền đó lại dễ dàng
đƣợc chấp nhận ở nƣớc có trình độ sản xuất thấp hơn, từ đó góp phần kéo dài
chu kỳ sản xuất.
Thứ năm, FDI gắn liền với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Hiện nay,
quan điểm về hội nhập kinh tế quốc tế trong phạm vi giữa các quốc gia, khu vực
và trên toàn thế giới biểu hiện tự do hoá trong bốn lĩnh vực: Thƣơng mại hàng
hoá, sở hữu trí tuệ, đầu tƣ và thƣơng mại dịch vụ. Đầu tƣ là một trong bốn lĩnh
vực mà các quốc gia xem xét tự do hoá. Chính sách về FDI của mỗi quốc gia tiếp
nhận đầu tƣ thể hiện chính sách mở cửa và quan điểm hội nhập quốc tế về đầu tƣ.
1.1.3. Vai trò, ý nghĩa của đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
Thực tiễn đã phản ánh rằng hoạt động đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài có vai
trò hết sức to lớn đối với nƣớc tiếp nhận đầu tƣ, đặc biệt là những nƣớc đang
phát triển. Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài tác động đến mọi mặt đời sống của nƣớc
tiếp nhận đầu tƣ, không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà còn trong các mặt chính
trị, xã hội. Về chính trị, thông qua hoạt động đầu tƣ trực tiếp, các công ty đa



9

quốc gia đã đóng vai trò chi phối, thậm chí tham gia các bộ máy chính quyền của
nƣớc tiếp nhận đầu tƣ. Về mặt xã hội, FDI có tác động đến văn hoá, đạo đức của
nƣớc tiếp nhận đầu tƣ.
Xét trên khía cạnh kinh tế, đối với nƣớc tiếp nhận đầu tƣ, đầu tƣ trực tiếp
nƣớc ngoài có những tác động sau đây:
● Những tác động tích cực:
Thứ nhất, hoạt động đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài đóng vai trò là một nguồn
cung cấp vốn lớn, góp phần giải quyết tình trạng thiếu vốn đầu tƣ. Đối với các
nƣớc đang phát triển, vốn là một yếu tố đặc biệt quan trọng cho phát triển kinh
tế. Vốn đầu tƣ cho phát triển kinh tế đƣợc huy động từ hai nguồn chủ yếu là vốn
trong nƣớc và vốn ngoài nƣớc. Trong đó, vốn ngoài nƣớc đƣợc hình thành thông
qua vay thƣơng mại, đầu tƣ gián tiếp và đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài. So với các
nguồn vốn hình thành từ đầu tƣ gián tiếp hoặc vay thƣơng mại, vốn đầu tƣ trực
tiếp nƣớc ngoài có những lợi thế nhƣ: (i) Không tạo ra khoản nợ giữa nƣớc đi
đầu tƣ và nƣớc tiếp nhận đầu tƣ; (ii) Lợi nhuận chỉ đƣợc chuyển về nƣớc khi dự
án đầu tƣ tạo ra lợi nhuận và một phần lợi nhuận đƣợc các nhà đầu tƣ sử dụng để
tái đầu tƣ; (iii) Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài có sự ổn định cao và không thuận lợi
cho việc rút vốn về nƣớc nhƣ các khoản vay thƣơng mại, ngân hàng hoặc đầu tƣ
gián tiếp khác [34, tr.69].
Ở Việt Nam, theo Nghị quyết số 103/NQ-CP ngày 29/8/2013 của Chính
phủ về định hƣớng nâng cao hiệu quả thu hút, sử dụng và quản lý đầu tƣ trực
tiếp nƣớc ngoài trong thời gian tới: Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài đã trở thành
nguồn bổ sung quan trọng cho tổng vốn đầu tƣ xã hội (chiếm khoảng 23,3% tổng
vốn đầu tƣ xã hội năm 2012).
Thứ hai, bên cạnh vai trò cung cấp vốn, đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài còn
mang lại cho nƣớc tiếp nhận đầu tƣ những kỹ thuật công nghệ tiên tiến, góp
phần phát triển lực lƣợng sản xuất. Khu vực đầu tƣ nƣớc ngoài sử dụng công

nghệ cao hơn hoặc bằng công nghệ tiên tiến đã có trong nƣớc và thuộc loại


10

phổ cập trong khu vực. Thông qua hợp đồng chuyển giao công nghệ, khu vực
đầu tƣ nƣớc ngoài đã góp phần thúc đẩy chuyển giao công nghệ tiên tiến vào
Việt Nam, nâng cao năng lực công nghệ trong nhiều lĩnh vực. Chi phí mua và
chuyển giao công nghệ thấp hơn so với hình thức mua công nghệ trực tiếp.
Sản phẩm mới đƣợc áp dụng công nghệ sản xuất tiên tiến, có hàm lƣợng khoa
học cao sẽ kích thích tiêu dùng, dẫn đến kích thích sản xuất và tăng thu nhập
của nền kinh tế quốc dân. Có thể nói, đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài là một kênh
chuyển giao công nghệ có hiệu quả, nhanh và tiết kiệm chi phí. Chuyển giao
công nghệ thông qua FDI sẽ góp phần thu hẹp “khoảng cách công nghệ” giữa
nƣớc đi đầu tƣ và nƣớc tiếp nhận đầu tƣ. “Một số ngành đã thực hiện tốt
chuyển giao công nghệ, nhƣ: Dầu khí, điện tử, viễn thông, tin học, cơ khí chế
tạo, ôtô, xe máy và dệt may, giày dép, trong đó viễn thông, dầu khí đƣợc đánh
giá có hiệu quả nhất” [38, tr.25].
Thứ ba, đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài góp phần nâng cao chất lƣợng lao
động, phát triển nguồn nhân lực. FDI đã làm thay đổi cơ bản, nâng cao năng lực,
kỹ năng lao động và quản trị doanh nghiệp thông qua trực tiếp đào tạo lao động
và gián tiếp nâng cao trình độ lao động. Trƣớc hết, hoạt động FDI có vai trò nhƣ
một hình thức đào tạo giúp nƣớc tiếp nhận đầu tƣ học tập kiến thức sử dụng công
nghệ hiện đại. Đến nay, hầu hết các công nghệ tiên tiến và đội ngũ công nhân kỹ
thuật cao đều tập trung chủ yếu trong khu vực có vốn FDI. Đầu tƣ trực tiếp nƣớc
ngoài nâng cao trình độ của công nhân, kỹ thuật viên và cán bộ quản lý, trong đó
một bộ phận đã có năng lực quản lý, trình độ khoa học, công nghệ đủ sức thay
thế chuyên gia nƣớc ngoài. Thực tiễn đầu tƣ nƣớc ngoài cũng đã cho nhiều bài
học kinh nghiệm về công tác quản lý kinh tế, góp phần thay đổi tƣ duy quản lý,
thúc đẩy quá trình hoàn thiện pháp luật, chính sách theo hƣớng bình đẳng, công

khai, minh bạch, phù hợp với thông lệ quốc tế. Mặt khác, hiện nay, chất lƣợng và
trình độ lao động của các nƣớc tiếp nhận đầu tƣ là một trong những tiêu chí quan
trọng để các công ty đa quốc gia tiến hành hoạt động đầu tƣ ở những nƣớc này.
Bởi các công ty không muốn mất quá nhiều chi phí vào việc đào tạo lại lao động.


11

Điều này thúc đẩy Chính phủ nƣớc tiếp nhận đầu tƣ phải tiến hành phát triển
nguồn nhân lực để thu hút đƣợc đầu tƣ FDI.
Thứ tư, đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài cũng có tác động lan tỏa đến các khu
vực khác của nền kinh tế; khơi dậy nguồn lực đầu tƣ trong nƣớc, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế của nƣớc tiếp nhận đầu tƣ. Cơ cấu kinh tế của một quốc gia là cấu trúc
của nền kinh tế, hay nói cách khác là tổng thể các mối quan hệ hữu cơ giữa các
yếu tố cấu thành nền kinh tế. Ba yếu tố cơ bản cấu thành nên cơ cấu kinh tế của
một quốc gia đó là: Cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế và cơ cấu
vùng kinh tế. Nguồn vốn FDI chủ yếu tập trung vào sản xuất công nghiệp và dịch
vụ, đối với ngành sản xuất nông nghiệp tỷ lệ đầu tƣ tƣơng đối thấp, do vậy đã có
tác động mạnh và làm dịch chuyển cơ cấu kinh tế của nƣớc tiếp nhận đầu tƣ. Cụ
thể nhƣ: (i) Thay đổi cơ cấu ngành của nƣớc tiếp nhận đầu tƣ: Chuyển đổi từ
ngành sản xuất nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp và dịch vụ; (ii) Thay đổi
cơ cấu bên trong một ngành sản xuất: Ngành công nghiệp, nông nghiệp hoặc dịch
vụ chuyển đổi từ năng suất thấp, công nghệ lạc hậu, sử dụng nhiều lao động sang
sản xuất có năng suất cao, công nghệ hiện đại, sử dụng ít lao động; (iii) Thay đổi
cơ cấu bên trong của một lĩnh vực sản xuất, ví dụ: Ngành sản xuất xe ôtô, thông
qua quá trình chuyển đổi từ việc áp dụng công nghệ lạc hậu, giá trị hàng hoá và
dịch vụ có hàm lƣợng công nghệ thấp sang ngành sản xuất áp dụng công nghệ tiên
tiến, giá trị hàng hoá có hàm lƣợng khoa học công nghệ cao [34, tr.78].
Thứ năm, đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài góp phần giải quyết việc làm, nâng
cao thu nhập cho ngƣời lao động. Hoạt động đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài góp

phần tạo việc làm cho ngƣời lao động, làm giảm tỷ lệ thất nghiệp ở những quốc
gia tiếp nhận đầu tƣ. FDI có thể trực tiếp tạo việc làm thông qua việc tuyển dụng
lao động địa phƣơng trong các doanh nghiệp có vốn FDI. FDI gián tiếp tạo việc
làm thông qua việc hình thành các doanh nghiệp vệ tinh cung cấp hàng hoá và
dịch vụ cho các doanh nghiệp FDI; khi các doanh nghiệp vệ tinh này đƣợc hình
thành và phát triển sẽ tạo việc làm trong phạm vi toàn xã hội. FDI cũng góp phần
nâng cao thu nhập của ngƣời lao động tại nƣớc tiếp nhận đầu tƣ. Nguyên do là


12

sản lƣợng sản xuất của các doanh nghiệp FDI thƣờng cao hơn so với các doanh
nghiệp trong nƣớc, lao động đƣợc tuyển dụng thƣờng là lao động có trình độ cao
và có tính kỷ luật cao, những công ty FDI thƣờng là những doanh nghiệp có uy
tín và quy mô lớn.
Thứ sáu, hoạt động đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài góp phần tăng thu ngân
sách, thúc đẩy kinh tế phát triển. Theo Nghị quyết số 103/NQ-CP ngày
29/8/2013 của Chính phủ về định hƣớng nâng cao hiệu quả thu hút, sử dụng và
quản lý đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài trong thời gian tới: Tính đến tháng 6 năm
2013, ở nƣớc ta đã có 15.067 dự án đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài còn hiệu lực, với
tổng vốn đăng ký khoảng 218,8 tỷ USD, vốn thực hiện khoảng 106,3 tỷ USD.
FDI đã góp phần quan trọng hình thành nhiều ngành kinh tế, nhƣ khai thác, lọc
hóa dầu, ô tô, xe máy, điện tử, xi măng, sắt thép, thực phẩm, thức ăn gia súc;
cũng nhƣ góp phần hình thành một số khu đô thị hiện đại nhƣ Phú Mỹ Hƣng,
Nam Thăng Long, nhiều khách sạn 4- 5 sao, khu nghỉ dƣỡng cao cấp, văn phòng
cho thuê... ; gia tăng kim ngạch xuất khẩu (chiếm khoảng 64% tổng kim ngạch
xuất khẩu năm 2012), cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, đóng góp ngân sách
khoảng 3,7 tỷ USD năm 2012.
Thứ bảy, đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài có tác động nâng cao năng lực cạnh
tranh ở cả ba cấp độ: Quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm. Sự xuất hiện của

dòng vốn FDI tại Việt Nam đã tạo nên những mô hình quản lý và phƣơng thức
kinh doanh hiện đại, buộc các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác
phải đổi mới tƣ duy, thay đổi cách thức quản lý, đổi mới công nghệ, cải tiến và
nâng cao chất lƣợng sản phẩm để tăng sức cạnh tranh trên thị trƣờng. Hiện nay,
nhiều sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam đã đủ sức cạnh tranh và có chỗ đứng
vững chắc trên các thị trƣờng Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản,…
Thứ tám, đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài góp phần vào quá trình mở rộng hợp
tác kinh tế quốc tế. Đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài đóng vai trò quan trọng trong
việc gắn kết giữa các quốc gia đi đầu tƣ và quốc gia tiếp nhận đầu tƣ. Cùng với
xu thế hội nhập kinh tế khu vực và thế giới đang diễn ra, hoạt động đầu tƣ trực


13

tiếp nƣớc ngoài đã góp phần giúp Việt Nam mở rộng quan hệ kinh tế với các
nƣớc, tạo điều kiện thuận lợi để nƣớc ta gia nhập vào các tổ chức kinh tế khu
vực và toàn cầu, nhƣ: Gia nhập ASEAN; ký hiệp định khung với Liên minh
Châu Âu (EU); Hiệp định Thƣơng mại với Hoa Kỳ; Hiệp định khuyến khích và
bảo hộ đầu tƣ với 62 quốc gia/vùng lãnh thổ; Hiệp định đối tác kinh tế (EPA) với
Nhật Bản,… Thông qua hợp tác đầu tƣ nƣớc ngoài, Việt Nam đã tăng cƣờng mối
quan hệ chính trị, đối ngoại, phát triển quan hệ hữu nghị với nhiều quốc gia,
vùng lãnh thổ, đối tác trên thế giới.
Ngoài ra, đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài cũng đóng vai trò tích cực trong việc
hỗ trợ cho quá trình cải cách doanh nghiệp nhà nƣớc, khuyến khích đổi mới thủ
tục hành chính và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trƣờng.
● Những tác động tiêu cực:
Bên cạnh vai trò to lớn nêu trên, đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài còn có một số
ảnh hƣởng tiêu cực tới nền kinh tế - xã hội của nƣớc tiếp nhận đầu tƣ. Hoạt động
đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài tiềm ẩn nguy cơ nhập khẩu công nghệ lạc hậu; gây
mất cân đối giữa các ngành lĩnh vực trong nền kinh tế (do FDI thƣờng tập trung

vào những ngành có khả năng sinh lợi cao, nhƣ: Khai thác tài nguyên khoáng
sản, dầu khí, công nghiệp nặng,… Trong khi các ngành nhƣ nông nghiệp lại thu
hút đƣợc rất ít vốn FDI); nguồn vốn FDI thƣờng tập trung chủ yếu vào các đô thị
lớn, đây là một trong những nguy cơ làm gia tăng khoảng cách phát triển giữa
vùng đô thị và vùng nông thôn, giữa vùng ngƣợc và vùng xuôi, mặt khác cũng
gia tăng sức ép về dân số, hạ tầng kỹ thuật, ô nhiễm môi trƣờng,… tại các đô thị.
Ngoài ra, hiện tƣợng chuyển giá hầu nhƣ đều xảy ra đối với các công ty đa quốc
gia. Tại Việt Nam hiện tƣợng này đã xuất hiện và ngày càng phổ biến tại các
doanh nghiệp FDI. Một số doanh nghiệp FDI đã lợi dụng sơ hở trong công tác
quản lý nhà nƣớc để thực hiện việc chuyển giá bằng cách nâng giá đầu vào, hạ
giá đầu ra để ăn chênh lệch; gian lận thƣơng mại, gian lận trong hạch toán để
doanh nghiệp lỗ trên sổ sách kế toán và lãi trên thực tế;…


14

1.2. KHÁI QUÁT VỀ PHÁP LUẬT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
TẠI VIỆT NAM

1.2.1. Sơ lƣợc về sự hình thành và phát triển của pháp luật đầu tƣ
trực tiếp nƣớc ngoài
Căn cứ vào tình hình kinh tế, xã hội của đất nƣớc và đƣờng lối, chính sách
của Đảng Cộng sản Việt Nam, pháp luật đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài tại Việt
Nam có thể chia thành các giai đoạn phát triển sau đây:
● Giai đoạn từ năm 1977 đến năm 1986
Năm 1975, đất nƣớc ta hoàn toàn giải phóng, hai miền Nam - Bắc thống
nhất là một. Từ đây, chúng ta mới có điều kiện xây dựng lại nền kinh tế, phát
triển đất nƣớc. Về đƣờng lối kinh tế đối ngoại, Đại hội IV của Đảng đã khẳng
định chủ trƣơng thiết lập và mở rộng quan hệ bình thƣờng giữa nƣớc ta với tất
cả các nƣớc khác trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có

lợi, tích cực tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi để nhanh chóng xây dựng cơ
sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; đồng thời tranh thủ vốn và kỹ thuật
để tận dụng khả năng tiềm năng về tài nguyên và sức lao động của nƣớc ta
nhằm nhanh chóng đƣa nƣớc ta lên trình độ tiên tiến của thế giới. Trong giai
đoạn này, nƣớc ta chủ yếu thực hiện chính sách mở rộng quan hệ đối ngoại với
các nƣớc xã hội chủ nghĩa. Nhằm thể chế chủ trƣơng, đƣờng lối đó, ngày
18/4/1977, Hội đồng Bộ trƣởng đã ban hành Điều lệ Đầu tƣ nƣớc ngoài, đặt
nền tảng cho việc hình thành một khung pháp luật đầu tƣ riêng đối với hoạt
động đầu tƣ của các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài. Điều lệ cho phép nhà đầu tƣ nƣớc
ngoài tiến hành hoạt động đầu tƣ tại Việt Nam dƣới ba hình thức: Hợp tác sản
xuất chia sản phẩm; xí nghiệp và công ty hỗn hợp. Tuy nhiên, tại thời điểm
này, nƣớc ta còn bị bao vây cấm vận, nền kinh tế còn vận hành theo cơ chế kế
hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp, nên những quy định của Điều lệ này
trên thực tế chƣa đƣợc thực hiện.


15

● Giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2005
Ngày 29/12/1987, Quốc hội khoá VII, kỳ họp thứ hai đã thông qua Luật
Đầu tƣ nƣớc ngoài tại Việt Nam. Luật Đầu tƣ nƣớc ngoài năm 1987 đã thể hiện
một sự tiến bộ vƣợt bậc về kỹ thuật lập pháp, thể hiện sự phù hợp với tập quán
và pháp luật quốc tế. Để thực hiện Luật Đầu tƣ nƣớc ngoài năm 1987, Chính phủ
và các bộ, ngành đã ban hành nhiều văn bản pháp luật hƣớng dẫn thi hành, tạo
thành hệ thống pháp luật về đầu tƣ nƣớc ngoài, điều chỉnh khá toàn diện hoạt
động đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài tại Việt Nam và đƣợc đánh giá là “khá thông
thoáng, cởi mở và có tính hấp dẫn đối với các nhà đầu tƣ nƣớc ngoài” [25, tr37].
Luật Đầu tƣ nƣớc ngoài tại Việt Nam đã thể hiện quan điểm chính thức của
Chính phủ Việt Nam đối với hoạt động FDI và nhà đầu tƣ nƣớc ngoài, khuyến
khích và tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động FDI phát triển, khuyến khích nhiều

công ty của các nƣớc phát triển đầu tƣ vào Việt Nam thay vì hoạt động đầu tƣ
chỉ xảy ra giữa các nƣớc xã hội chủ nghĩa nhƣ trong giai đoạn trƣớc. Luật Đầu tƣ
nƣớc ngoài tại Việt Nam trải qua các lần sửa đổi, bổ sung, thay thế vào các năm
1990, 1992, 1996 và năm 2000, ghi nhận những nội dung tiến bộ, nhƣ: Quy định
cụ thể những hình thức mà nhà đầu tƣ nƣớc ngoài có thể đầu tƣ vào Việt Nam; mở
rộng quyền tự chủ trong tổ chức và quản lý kinh doanh của doanh nghiệp FDI; áp
dụng chính sách thuế ƣu đãi cho hoạt động đầu tƣ nƣớc ngoài;… Trong giai đoạn
này, cùng với quan điểm quản lý kinh tế bằng pháp luật đƣợc khẳng định trong
Hiến pháp năm 1992, Nhà nƣớc ta đã ban hành và từng bƣớc xây dựng các văn
bản pháp luật về đầu tƣ, nhƣ: Luật công ti và Luật doanh nghiệp tƣ nhân năm
1990 (đã đƣợc thay thế bằng Luật doanh nghiệp năm 1999, Luật doanh nghiệp
năm 2005);…
● Giai đoạn từ năm 2005 đến nay
Trong giai đoạn trƣớc đó, pháp luật về đầu tƣ vẫn còn tồn tại 2 hệ thống
pháp luật: Hệ thống pháp luật về đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài và hệ thống pháp
luật về đầu tƣ trong nƣớc. Do tồn tại 2 hệ thống pháp luật này nên không tránh
khỏi tình trạng phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp trong nƣớc và doanh
nghiệp có vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài. Để tăng cƣờng hội nhập kinh tế khu


16

vực và quốc tế, mà trực tiếp nhất là thực hiện các thoả thuận trong Hiệp định đầu
tƣ khu vực ASEAN, Hiệp định thƣơng mại Việt Nam - Hoa Kỳ, để tạo cơ sở cho
Việt Nam gia nhập WTO, pháp luật Việt Nam về đầu tƣ nói chung và đầu tƣ trực
tiếp nƣớc ngoài nói riêng phải vận động theo xu hƣớng hội nhập kinh tế quốc tế.
Đó là xu hƣớng nhất thể hoá pháp luật về đầu tƣ, tiến tới ban hành một luật đầu
tƣ chung để thống nhất điều chỉnh hoạt động đầu tƣ trong nƣớc và hoạt động đầu
tƣ nƣớc ngoài. Trƣớc yêu cầu đó, ngày 29/11/2005, Quốc hội đã thông qua Luật
Đầu tƣ năm 2005 thay thế Luật Đầu tƣ nƣớc ngoài và Luật khuyến khích đầu tƣ

trong nƣớc. Việc ban hành Luật Đầu tƣ năm 2005 là một bƣớc tiến lớn trong sự
phát triển của pháp luật đầu tƣ hƣớng vào việc tạo cơ sở pháp lý bình đẳng,
thống nhất trong khuyến khích và bảo đảm đầu tƣ ở Việt Nam. Điểm nổi bật của
Luật Đầu tƣ là các quy định thông thoáng về quy trình, thủ tục thực hiện dự án
đầu tƣ. Theo đó, Luật đã bãi bỏ hàng loạt các quy định mang tính chất xin - cho,
kiểm duyệt đối với nhà đầu tƣ; chuyển thủ tục quản lý hoạt động của dự án đầu
tƣ từ cơ chế tiền kiểm sang cơ chế hậu kiểm... từ đó đã cải thiện môi trƣờng đầu
tƣ, góp phần tạo một sân chơi bình đẳng, không phân biệt đối xử giữa các nhà
đầu tƣ, nhằm tăng cƣờng thu hút đầu tƣ nƣớc ngoài.
1.2.2. Pháp luật về đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài - Một bộ phận của
pháp luật đầu tƣ ở Việt Nam
Bên cạnh các yếu tố nhƣ: Kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, công nghệ,…
pháp luật về hoạt động đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài đƣợc xem là nhân tố then
chốt hợp thành môi trƣờng đầu tƣ. Bởi thông qua pháp luật, Nhà nƣớc ghi nhận
các quyền lợi và nghĩa vụ của nhà đầu tƣ nƣớc ngoài khi đầu tƣ vào một quốc
gia, tạo lập môi trƣờng thu hút nhà đầu tƣ và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu
tƣ trực tiếp nƣớc ngoài.
Định nghĩa về khái niệm pháp luật đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài xuất phát từ
định nghĩa về pháp luật đầu tƣ nói chung: “Luật đầu tƣ là hệ thống các quy phạm
pháp luật do Nhà nƣớc ban hành hoặc thừa nhận, điều chỉnh các quan hệ xã hội
phát sinh trong quá trình tổ chức thực hiện và quản lý hoạt động đầu tƣ kinh


17

doanh” [25, tr.20,21]. Từ đây, có thể hiểu pháp luật về đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nƣớc ban hành hoặc thừa nhận để điều
chỉnh những quan hệ phát sinh trong lĩnh vực đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài.
Pháp luật đầu tƣ nói chung và pháp luật đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài nói
riêng là một bộ phận của pháp luật về thƣơng mại, đồng thời có mối liên hệ chặt

chẽ với pháp luật dân sự. Các quy định nguyên tắc chung trong pháp luật dân sự
và pháp luật thƣơng mại có ảnh hƣởng sâu sắc tới nội dung của pháp luật đầu tƣ.
“Nếu nhƣ các quy định trong pháp luật dân sự truyền thống là cơ sở pháp lý bảo
đảm quyền sở hữu tài sản trong trạng thái “tĩnh” thì luật đầu tƣ, với tƣ cách là
một chế định của luật thƣơng mại, là cơ sở pháp lý để đảm bảo quyền sở hữu tài
sản trong trạng thái “động” [24,tr.21].
So với pháp luật đầu tƣ nói chung, pháp luật đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài có
điểm khác biệt cơ bản là ngoài hệ thống các văn bản pháp luật của quốc gia, còn
một bộ phận của pháp luật về đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài nằm trong các điều ƣớc
quốc tế song phƣơng hoặc đa phƣơng và tập quán đầu tƣ quốc tế.
1.2.3. Cấu trúc của pháp luật đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài
● Cấu trúc về nội dung:
Với chức năng cơ bản là đảm bảo an toàn pháp lý cho hoạt động đầu tƣ
trực tiếp nƣớc ngoài, pháp luật về hoạt động đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài có nội
dung chủ yếu là các quy định về những vấn đề sau:
- Các nguyên tắc trong thực hiện hoạt động đầu tư:
Thứ nhất, Nhà nƣớc khuyến khích nhà đầu tƣ thuộc mọi thành phần kinh
tế thực hiện hoạt động đầu tƣ phù hợp với quy hoạch, kế hoạch và định hƣớng
phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ.
Thứ hai, nhà đầu tƣ đƣợc đầu tƣ trong tất cả các lĩnh vực và ngành, nghề
mà pháp luật không cấm; đƣợc quyền tự chủ quyết định hoạt động đầu tƣ theo
quy định của Luật Đầu tƣ và pháp luật liên quan.


18

Thứ ba, Nhà nƣớc đối xử bình đẳng trƣớc pháp luật đối với các nhà đầu tƣ
thuộc mọi thành phần kinh tế phù hợp với pháp luật và điều ƣớc quốc tế mà Việt
Nam là thành viên.
Thứ tư, Nhà nƣớc khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động đầu

tƣ và có chính sách ƣu đãi đối với dự án đầu tƣ vào các lĩnh vực, địa bàn khuyến
khích đầu tƣ.
- Quy định về hình thức đầu tư, lĩnh vực đầu tư: Pháp luật đầu tƣ hiện
hành quy định các hình thức đầu tƣ trực tiếp: Đầu tƣ vào tổ chức kinh tế (thành
lập hoặc góp vốn); đầu tƣ theo hợp đồng; đầu tƣ phát triển kinh doanh; đầu tƣ
thực hiện việc sáp nhập, mua lại doanh nghiệp, chi nhánh doanh nghiệp. Đối với
lĩnh vực đầu tƣ, pháp luật quy định 3 nhóm lĩnh vực: Lĩnh vực ƣu đãi đầu tƣ,
lĩnh vực đầu tƣ có điều kiện và lĩnh vực cấm đầu tƣ.
- Quy định về biện pháp bảo đảm và khuyến khích đầu tư: Nội dung các
biện pháp bảo đảm đầu tƣ theo pháp luật Việt Nam bao gồm: Bảo đảm quyền sở
hữu tài sản hợp pháp; bảo đảm đối xử bình đẳng giữa các nhà đầu tƣ; bảo đảm
cơ chế giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động đầu tƣ; bảo đảm việc chuyển
lợi nhuận và thu nhập hợp pháp khác của nhà đầu tƣ ra nƣớc ngoài; bảo đảm
quyền lợi của nhà đầu tƣ khi có những thay đổi về chính sách và pháp luật và
những biện pháp bảo đảm khác.
- Quy định về quyền và nghĩa vụ của các nhà đầu tư: Luật Đầu tƣ quy
định ở mức độ nguyên tắc những quyền và nghĩa vụ cơ bản của nhà đầu tƣ. Gắn
với từng dự án đầu tƣ, các quyền và nghĩa vụ cụ thể của nhà đầu tƣ đƣợc quy
định trong các văn bản pháp luật thuộc các lĩnh vực khác nhau, nhƣ: Pháp luật về
tổ chức doanh nghiệp, pháp luật về thuế, pháp luật về đất đai,…
- Quy định về thủ tục đầu tư trực tiếp nước ngoài: Các thủ tục pháp lý liên
quan đến đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài đƣợc quy định theo 2 nhóm dự án đầu tƣ là
dự án đầu tƣ phải làm thủ tục đăng ký đầu tƣ và dự án đầu tƣ phải làm thủ tục
thẩm tra đầu tƣ.


19

Ngoài ra, pháp luật đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài còn bao gồm các quy định
về chủ thể đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài, quản lý nhà nƣớc về đầu tƣ và các quy

định về giải quyết tranh chấp trong lĩnh vực đầu tƣ.
● Cấu trúc về hình thức:
Một môi trƣờng pháp lý ổn định và có hiệu lực là một yếu tố quan trọng để
quản lý và thực hiện đầu tƣ một cách có hiệu quả. Môi trƣờng này bao gồm các
chính sách, quy định, luật cần thiết đảm bảo sự nhất quán, không mâu thuẫn,
chồng chéo nhau và có tính hiệu lực cao. Trong thực tiễn điều chỉnh pháp luật về
đầu tƣ hiện nay, nguồn cơ bản của pháp luật đầu tƣ là pháp luật quốc gia và các
điều ƣớc quốc tế.
Các quy phạm pháp luật về đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài nằm trong nhiều
văn bản pháp luật khác nhau trong hệ thống các văn bản pháp luật của Nhà nƣớc,
tồn tại dƣới nhiều hình thức, tên gọi và cấp độ hiệu lực khác nhau. Trƣớc hết
phải kể đến Hiến pháp - Đạo luật gốc của quốc gia. Hiến pháp nƣớc Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam (sau đây viết tắt là Hiến pháp năm 2013) đã đƣợc Quốc
hội khóa XIII, kỳ họp thứ 6, thông qua ngày 28/11/2013 và có hiệu lực kể từ
ngày 01/01/2014 thay thế Hiến pháp năm 1992. Kế thừa, phát triển Hiến pháp
1992, Hiến pháp năm 2013 tại Điều 33 đã ghi nhận quyền tự do kinh doanh của
cá nhân, tổ chức: Mọi ngƣời có quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề
mà pháp luật không cấm. Ngoài ra, trong lịch sử lập pháp của nƣớc ta, đây là lần
đầu tiên các quy định về doanh nhân, về quyền đầu tƣ, sản xuất, kinh doanh của
doanh nhân, của doanh nghiệp đƣợc hiến định: “Nhà nƣớc khuyến khích, tạo
điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức khác đầu tƣ, sản
xuất, kinh doanh; phát triển bền vững các ngành kinh tế, góp phần xây dựng đất
nƣớc” (Khoản 1, Điều 51). Không chỉ nhƣ vậy, Hiến pháp năm 2013 còn đƣa ra
các quy định rất rộng mở và thông thoáng để tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho
các doanh nhân, doanh nghiệp thực hiện các quyền kinh tế của mình: Mọi ngƣời
có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tƣ liệu sinh hoạt,
tƣ liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế



×