Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Hoàn thiện pháp luật về phí bảo vệ môi trường ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (799.93 KB, 81 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ HẰNG

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÍ BẢO VỆ
MÔI TRƢỜNG Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. ĐỒNG NGỌC BA

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình khoa học do tôi thực hiện, dưới sự
giúp đỡ khoa học của giáo viên hướng dẫn TS Nguyễn Văn Phương. Những
phần trích dẫn đã được nêu trong danh mục tài liệu tham khảo. Tôi xin chịu trách
nhiệm về tính trung thực, khách quan của các thông tin, số liệu nêu trong luận
văn.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hằng



LỜI CẢM ƠN

Em xin gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới Thầy giáo TS.
Nguyễn Văn Phương Trưởng Bộ môn Luật Môi trường, Trường Đại học Luật
Hà Nội, người đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành luận văn này.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới tất cả thầy giáo, cô giáo trong Bộ môn
Luật Môi trường; các thầy giáo, cô giáo trong khoa Pháp luật kinh tế cùng với
các thầy giáo, cô giáo công tác tại Trường Đại học Luật Hà Nội đã nhiệt tình
giảng dạy, cung cấp cho em những kiến thức quý báu, tạo điều kiện thuận lợi
động viên giúp đỡ em để em hoàn thành luận văn.
Với thời gian, kiến thức có hạn và trong phạm vi một luận văn thạc sỹ
không thể tránh khỏi những thiếu sót và còn nhiều vấn đề còn phải hoàn thiện
thêm. Em xin kính mong nhận được sự góp ý của Quý Thầy Cô và những ai
quan tâm đến vấn đề này. Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 18 tháng 5 năm 2014
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Hằng


BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

1. BVMT

Bảo vệ môi trường

2. BPP

Beneficiary Pay Principle: Nguyên tắc “Người hưởng thụ phải trả

tiền”

3. BTC

Bộ Tài Chính

4. COD

Nhu cầu oxy hóa học

5. CTR

Chất thải rắn

6. DN

Doanh nghiệp

7. HĐND

Hội đồng nhân dân

8. KCN

Khu công nghiệp

9. NĐ-CP

Nghị định Chính phủ


10. NQ-TW

Nghị quyết Trung ương

11. OECD

Organization of Economic Cooperation and Development: Tổ chức
hợp tác và phát triển kinh tế

12. PPP

Pollution Pay Principle: Nguyên tắc “Người gây ô nhiễm phải trả tiền”

13. TN&MT Tài nguyên và Môi trường
14. TTLT

Thông tư liên tịch

15. TW

Trung ương

16. TSS

Chất rắn lơ lửng

17. UBND

Ủy ban nhân dân


18.
Tp

UBND Ủy ban nhân dân thành phố


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÍ BẢO VỆ MÔI
TRƢỜNG .............................................................................................................. 7
1.1. Khái niệm phí bảo vệ môi trƣờng ............................................................ 7
1.1.1. Khái niệm phí bảo vệ môi trƣờng ......................................................... 7
1.1.2. Đặc điểm của phí bảo vệ môi trƣờng .................................................... 9
1.1.3. Phân loại phí bảo vệ môi trƣờng ........................................................11
1.2. Cở sở lý luận và cơ sở chính trị pháp lý của phí bảo vệ môi trƣờng .12
1.2.1. Cở sở lý luận của phí bảo vệ môi trƣờng............................................12
1.2.2. Cơ sở chính trị pháp lý của phí bảo vệ môi trƣờng ............................14
1.3. Vai trò, mục đích, ý nghĩa của phí bảo vệ môi trƣờng .........................17
1.3.1. Vai trò của phí bảo vệ môi trƣờng ......................................................17
1.3.2. Mục đích của phí bảo vệ môi trƣờng ..................................................18
1.3.3. Ý nghĩa của phí bảo vệ môi trƣờng .....................................................19
1.4. Kinh nghiệm áp dụng phí bảo vệ môi trƣờng của một số nƣớc trên thế
giới. ...................................................................................................................20
1.4.1. Kinh nghiệm của một số nƣớc thuộc nhóm OECD .............................20
1.4.2. Kinh nghiệm của một số nƣớc đang phát triển ...................................22
Kết luận chƣơng 1 ...........................................................................................25
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ PHÍ BẢO VỆ MÔI

TRƢỜNG Ở VIỆT NAM ..................................................................................26
2.1. Thực trạng pháp luật về phí bảo vệ môi trƣờng đối với nƣớc thải ....26
2.1.1. Thực trạng pháp luật về phí bảo vệ môi trƣờng đối với nƣớc thải sinh
hoạt ................................................................................................................26


2.1.2. Thực trạng pháp luật về phí bảo vệ môi trƣờng đối với nƣớc thải công
nghiệp. ...........................................................................................................32
2.2. Thực trạng pháp luật về phí bảo vệ môi trƣờng đối với chất thải rắn 40
2.3. Thực trạng pháp luật về phí bảo vệ môi trƣờng đối với hoạt động
khai thác khoáng sản. .....................................................................................43
2.4. Thực trạng xử lí vi phạm pháp luật về phí bảo vệ môi trường ..............46
2.4.1. Trách nhiệm hành chính .....................................................................46
2.4.2. Trách nhiệm kỷ luật.............................................................................48
Kết luận chƣơng 2 ...........................................................................................49
CHƢƠNG 3. PHƢƠNG HƢỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÍ BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG ................50
3.1. Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về phí bảo vệ môi trƣờng ........50
3.2. Một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về phí bảo vệ môi
trƣờng ở Việt Nam hiện nay ..........................................................................52
3.2.1. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về phí bảo vệ môi trƣờng .........52
3.2.2. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về phí bảo
vệ môi trƣờng. ...............................................................................................60
Kết luận chƣơng 3 ...........................................................................................64
KẾT LUẬN .........................................................................................................65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC SỐ 1
PHỤ LỤC SỐ 2
PHỤ LỤC SỐ 3



1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong tiến trình toàn cầu hóa ngày càng gia tăng, mối quan tâm của thế
giới về vấn đề bảo vệ môi trường (BVMT) cũng được nâng cao rõ rệt. Tốc độ
phát triển kinh tế quá nhanh chóng và sự bùng nổ dân số thế giới đã khiến môi
trường sống ngày càng bị ô nhiễm nặng nề. Ô nhiễm môi trường đã trở thành vấn
đề toàn cầu mà không phải của riêng quốc gia hoặc vùng lãnh thổ nào.
Việt Nam đang thực hiện chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước với nhịp độ ngày càng cao. Phát triển đã mang lại những thành tựu
kinh tế - xã hội to lớn cho đất nước, tuy nhiên một trong những mặt trái là chất
lượng môi trường ngày càng xấu đi.
Để BVMT, Nhà nước có thể áp dụng nhiều công cụ khác nhau như công
cụ hành chính, công cụ thông tin, công cụ dựa vào cộng đồng, công cụ kinh tế.
Một trong những công cụ mà nhiều quốc gia đang áp dụng là sử dụng công cụ
kinh tế trong quản lý môi trường. Công cụ này đem lại những kết quả hết sức
khả quan bởi nó được xây dựng dựa trên mục tiêu điều hòa xung đột giữa tăng
trưởng kinh tế và BVMT. Các công cụ kinh tế tạo điều kiện cho các chủ thể chủ
động lập kế hoạch BVMT thông qua việc lồng ghép chi phí BVMT và chi phí
sản xuất kinh doanh vào giá thành sản phẩm. Trong điều kiện của nước ta hiện
nay khi mà ngân sách Nhà nước còn khó khăn, khả năng phân bổ kinh phí cho
mục tiêu quản lý và BVMT còn hạn chế thì việc sử dụng các công cụ kinh tế để
huy động nguồn lực toàn xã hội tham gia BVMT là hướng đi đúng, vừa giúp
giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước, vừa đạt được các mục tiêu BVMT với
hiệu quả cao. Phí BVMT là một công cụ kinh tế hữu hiệu trong BVMT, là một
bước tiến hết sức quan trọng trong công tác quản lý môi trường ở nước ta.
Cùng với Nghị quyết số 41/NQ – TW của Bộ Chính trị về bảo vệ môi
trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Nghị

quyết số 24-NQ/TW ngày 03/6/2013 của Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ


2

7 (Khóa XI) về chủ động ứng phó biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên
và bảo vệ môi trường và Luật bảo vệ môi trường năm 2005 thì phí BVMT đã được
quy định tương đối đầy đủ trong các văn bản như: Nghị định số 25/2013/NĐ-CP
ngày 29/3/2013 của Chính phủ quy định về phí BVMT đối với nước thải
(NĐ25/2013/NĐ-CP); Nghị định số 174/2007/NĐ-CP ngày 29/11/2007 của Chính
phủ quy định về phí BVMT đối với chất thải rắn (NĐ174/2007/NĐ-CP); Nghị
định số 74/2011/NĐ-CP ngày 25/8/2011 của Chính phủ quy định về phí BVMT
đối với hoạt động khai thác khoáng sản (NĐ74/2011/NĐ-CP). Tuy nhiên, trong
thực tiễn thi hành các quy định về phí BVMT trong thời gian qua đã bộc lộ một
số vướng mắc, những điểm chưa thật sự phù hợp với yêu cầu của công tác quản
lý và BVMT.
Do vậy tác giả mong muốn nghiên cứu các quy định về phí BVMT ở Việt
Nam hiện nay nhằm đánh giá tác động của quy định về phí BVMT đối với công
tác quản lý và BVMT, chỉ ra những quy định còn chưa hợp lý để từ đó kiến nghị
sửa đổi các quy định theo hướng ngày càng hoàn thiện hơn. Vì thế tác giả chọn
đề tài “Hoàn thiện pháp luật về phí bảo vệ môi trƣờng ở Việt Nam” làm luận
văn thạc sỹ cho mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đây là vấn đề thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu và hoạt động
thực tiễn, vì vậy đã có nhiều công trình nghiên cứu ở những khía cạnh khác nhau
luận giải về những quy định của pháp luật trong lĩnh vực này. Có thể kể đến một
vài công trình nghiên cứu sau:
- Luận án Tiến sĩ: “Pháp luật về sử dụng công cụ kinh tế trong bảo vệ môi
trƣờng ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Ngọc Anh Đào (2013), Học
viện khoa học xã hội Việt Nam. Công trình đã nghiên cứu và đưa ra thực tiễn áp

dụng các công cụ kinh tế như thuế bảo vệ môi trường, ký quỹ, phí BVMT…
- Luận văn thạc sĩ:


3

+ “Pháp luật về phí bảo vệ môi trƣờng đối với nƣớc thải ở Việt Nam” của
tác giả Nguyễn Thanh Tú (2010),Viện nhà nước và pháp luật. Nghiên cứu quy
định pháp luật về phí BVMT đối với nước thải, một loại phí trong hệ thống phí
BVMT ở Việt Nam.
+ Luận văn “Áp dụng phí bảo vệ môi trƣờng đối với nƣớc thải công
nghiệp tại thành phố Hà Nội” của tác giả Nguyễn Thanh Thắm (2009), Đại học
Kinh tế quốc dân. Trên cơ sở nghiên cứu lí luận, quy định pháp luật về phí tác
giả đưa ra các biện pháp nâng cao hiệu quả áp dụng phí BVMT ở Hà Nội sao
cho phù hợp với điều kiện kinh tế, vị trí địa lý...
- Khóa luận tốt nghiệp cử nhân:
+ “Nguyên tắc ai gây ô nhiễm ngƣời đó phải trả giá” của tác giả Nguyễn
Thị Hồng Ánh (2000), Trường Đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh. Khóa luận đi tìm
hiểu và nghiên cứu nguyên tắc được thừa nhận rộng rãi trên thế giới hiện nay
theo đó người gây ra ô nhiễm phải chịu mọi khoản chi phí để thực hiện các biện
pháp giảm thiểu ô nhiễm ở mức có thể chấp nhận được.
+ “Những vấn đề pháp lý về phí bảo vệ môi trƣờng đối với nƣớc thải” của
tác giả Nguyễn Thị Lan Hướng (2011), Trường Đại học Luật Hà Nội. Nghiên
cứu các quy định pháp luật về phí BVMT đối với nước thải theo quy định tại NĐ
67/2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành. Trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp
sửa đổi, hoàn thiện pháp luật về phí BVMT đối với nước thải.
- Trên các tạp chí, báo cũng đăng tải các bài viết như:
+ “Kinh nghiệm quốc tế về phí bảo vệ môi trƣờng đối với nƣớc thải công
nghiệp và đề xuất định hƣớng cho Việt Nam” của tiến sĩ Đỗ Nam Thắng (Tạp
chí môi trường số 7/2010). Giới thiệu kinh nghiệm thực tiễn áp dụng phí BVMT

của một số quốc gia trên thế giới. Từ đó gợi mở cho quá trình xây dựng và thực
hiện pháp luật về phí BVMT ở Việt Nam.
+ “Pháp luật về phí bảo vệ môi trƣờng đối với nƣớc thải ở Việt Nam hiện
nay” của tác giả Nguyễn Ngọc Anh Đào (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp điện tử


4

số tháng 4/2010). Bài viết bàn về pháp luật về phí BVMT đối với nước thải chỉ
ra bất cập, hạn chế và đưa ra một số kiến nghị nhằm sửa đổi quy định về vấn đề
phí BVMT đối với nước thải.
- Sách “Kinh tế hóa lĩnh vực môi trƣờng: Một số vấn đề lý luận và thực
tiễn” do Nhà xuất bản Tư pháp xuất bản năm 2011, PGS.TS. Phạm Văn Lợi chủ
biên. Cuốn sách nghiên cứu quy định pháp luật và thực tiễn thi hành một số công
cụ kinh tế trong bảo vệ môi trường ở Việt Nam. Phân tích ưu điểm, hạn chế của
các công cụ này, nhằm đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng công cụ
trong nền kinh tế thị trường hiện nay.
Qua những tài liệu đã nêu trên cho thấy, phí BVMT là một vấn đề khá
quan trọng, và được nhiều học giả quan tâm. Tuy nhiên ở mỗi công trình lại
nghiên cứu, đánh giá pháp luật về phí ở những khía cạnh khác nhau và về mỗi
loại phí khác nhau và chủ yếu về phí BVMT đối với nước thải. Chưa có công
trình nào nghiên cứu đầy đủ về tất cả các loại phí BVMT đang áp dụng tại Việt
Nam hiện nay.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Pháp luật về phí BVMT là vấn đề khá phức tạp, theo quy định tại Nghị
định số 57/2002/NĐ–CP ngày 03/06/2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi
hành pháp lệnh phí và lệ phí (NĐ57/2002/NĐ–CP) có quy định 6 loại: phí
BVMT đối với nước thải; phí BVMT đối với xăng dầu, khí thải từ việc sử dụng
than đá và các nguyên liệu khác; phí BVMT với chất thải rắn (CTR); phí BVMT
tiếng ồn; phí BVMT đối với sân bay, nhà ga bến cảng, phí BVMT với việc khai

thác dầu mỏ, khí đốt và khoáng sản khác. Tuy nhiên trong phạm vi luận văn tác
giả chỉ tập trung vào 3 loại phí BVMT đã được quy định cụ thể đó là: phí BVMT
đối với nước thải; phí BVMT đối với CTR; phí BVMT đối với hoạt động khai
thác khoáng sản.
Hơn nữa, tác giả cũng không đề cập hết tất cả các khía cạnh, tất cả các
quy định của vấn đề này mà chỉ tập trung nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực


5

trạng pháp luật và những tác động của phí BVMT đối với công tác quản lý và
BVMT. Thông qua đánh giá thực trạng pháp luật về phí BVMT để có cơ sở kiến
nghị một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về phí BVMT với mục đích
nâng cao hiệu quả BVMT trong giai đoạn hiện nay.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt được các mục đích nghiên cứu mà luận văn đặt ra; trong quá trình
nghiên cứu luận văn đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau đây:
- Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lê nin;
- Hệ thống quan điểm, lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng Hồ
Chí Minh về xây dựng Nhà nước và pháp quyền xã hội chủ nghĩa;
Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
- Phương pháp bình luận, diễn giải, phương pháp lịch sử…được sử dụng trong
chương 1 khi nghiên cứu tổng quan những vấn đề lý luận chung về phí BVMT.
- Phương pháp so sánh luật học, phân tích, phương pháp tổng hợp được sử
dụng trong chương 2 khi tìm hiểu thực trạng, phân tích những ưu điểm và hạn
chế các quy định về phí BVMT. Từ đó đánh giá những tác động của các quy
định này đối với công tác quản lý và BVMT hiện nay.
- Phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp… được sử dụng ở
chương 3 khi xem xét, tìm hiểu về định hướng và đưa ra giải pháp hoàn thiện các

quy định của pháp luật về phí BVMT ở Việt Nam hiện nay.
5. Mục đích và nhiệm vụ
* Mục đích nghiên cứu đề tài
Mục đích nghiên cứu của đề tài là làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực
tiễn về phí BVMT ở Việt Nam hiện nay qua đó đề ra những phương hướng, giải
pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về vấn đề này nhằm đáp ứng tốt hơn yêu
cầu BVMT thực tế đang đặt ra trong tiến trình phát triển bền vững, hội nhập kinh
tế quốc tế của đất nước.


6

* Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn đặt ra những nhiệm
vụ nghiên cứu cụ thể sau:
+ Nghiên cứu tổng quan những vấn đề lý luận chung về phí BVMT: phân
tích cơ sở lý luận; cơ sở pháp lý chính trị của phí BVMT, nghiên cứu kinh
nghiệm thực tiễn áp dụng phí BVMT của một số quốc gia trên thế giới.
+ Nghiên cứu, phân tích, đánh giá pháp luật và thực tiễn áp dụng các quy
định về phí BVMT để tìm ra những tồn tại, vướng mắc để làm cơ sở cho việc
hoàn thiện pháp luật về phí BVMT. Ngoài ra luận văn còn tìm hiểu những tác
động của các quy định của phí BVMT đối với công tác quản lý và BVMT.
+ Đề xuất phương hướng và các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống pháp
luật về phí BVMT ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, mục lục,
phụ lục luận văn được kết cấu với ba chương:
Chƣơng 1: Những vấn đề lí luận chung về phí bảo vệ môi trường
Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật về phí bảo vệ môi trường ở Việt Nam
Chƣơng 3: Phương hướng và một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật

về phí bảo vệ môi trường


7

CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG
VỀ PHÍ BẢO VỆ MÔI TRƢỜNG
1.1. Khái niệm phí bảo vệ môi trƣờng
1.1.1. Khái niệm phí bảo vệ môi trường
Theo quy định tại Điều 2 của Pháp lệnh phí và lệ phí năm 2001 thì “phí là
khoản tiền mà t chức cá nhân phải trả khi đƣ c một t chức cá nhân khác
cung cấp dịch vụ theo quy định trong danh mục phí đƣ c ban hành k m theo
Pháp lệnh”. Như vậy, việc đóng phí của các tổ chức, cá nhân chỉ phải thực hiện
khi họ nhận được sự cung ứng một dịch vụ từ một chủ thể khác. Tiền phí s
tương ứng với tính chất, mức độ của dịch vụ được cung ứng.
Theo Giáo trình Luật tài chính (ĐH Luật Hà Nội), phí là “khoản thu của
Ngân sách Nhà nƣớc nhằm bù đắp một phần khoản chi đầu tƣ bảo dƣỡng các
công trình công cộng và duy trì các hoạt động của Nhà nƣớc” [42, tr.58]
Phí là khoản đóng góp bắt buộc là vì Nhà nước chi ngân sách vào các
công trình công cộng, dịch vụ công cộng… nhằm phục vụ nhu cầu của nhân dân,
do vậy nhân dân phải đóng góp cho Nhà nước để bù đắp lại một phần chi phí mà
Nhà nước đã chi ra, và cũng là để bổ sung cho nguồn ngân sách Nhà nước để
tiếp tục đầu tư vào các công trình khác. Mức thu phí do Nhà nước quy định, tuỳ
thuộc vào chính sách động viên, đóng góp với từng khoản thu, không căn cứ trên
nguyên tắc hoạch toán kinh phí.
Trước tình hình ô nhiễm môi trường nghiêm trọng như hiện nay thì yêu
cầu về quản lí và BVMT càng trở nên bức thiết, cần có những công cụ hiệu quả
để tăng cường quản lí và BVMT. Ở nước ta hiện nay, phí BVMT được coi là
một trong các công cụ kinh tế hữu hiệu và là một bước tiến hết sức quan trọng
trong công tác quản lí và BVMT. Điều 113 Luật BVMT năm 2005 quy định “T

chức cá nhân xả thải ra môi trƣờng hoặc có hoạt động làm phát sinh nguồn tác
động xấu đối với môi trƣờng phải nộp phí BVMT. Mức phí BVMT đƣ c quy định
trên cơ sở sau đây:a) Khối lƣ ng chất thải ra môi trƣờng quy mô ảnh hƣởng tác


8

động xấu đối với môi trƣờng;b) Mức độ độc hại của chất thải mức độ gây hại
đối với môi trƣờng;c) Sức chịu tải của môi trƣờng tiếp nhận chất thải.”
Từ quy định trên, có thể xác định phí BVMT có những tính chất sau:

Thứ nhất, chủ thể nộp phí BVMT theo quy định là tất cả các tổ chức, cá
nhân có hoạt động xả thải ra môi trường hoặc có hoạt động làm phát sinh nguồn
tác động xấu đối với môi trường. Phí BVMT mà các tổ chức, cá nhân phải nộp
thực chất là số tiền họ phải đóng cho Nhà nước để nhận lấy sự cung cấp dịch vụ
từ phía Nhà nước, đó là những hoạt động nhằm bảo vệ và đầu tư cho môi trường
tại địa phương nơi họ xả thải mà đáng l ra những hoạt động này phải do chính
các chủ thể xả thải phải thực hiện, nhưng Nhà nước đã đứng ra thực hiện thay
cho họ.
Thứ hai, đối tượng chịu phí BVMT là các chất thải như nước thải, CTR,
hoặc là các yếu tố vật chất là đối tượng tác động của các hoạt động làm phát sinh
nguồn tác động xấu đối với môi trường như các loại khoáng sản kim loại, dầu thô,
khí thiên nhiên…trong hoạt động khai thác khoáng sản.
Thứ ba, mức thu phí BVMT phải dựa trên các yếu tố sau đây:
- Khối lượng chất thải, quy mô ảnh hưởng tác động xấu đến môi trường
khác nhau cho nên mức thu phí phải có sự phân hóa giữa chủ thể xả thải số
lượng khác nhau. Bởi l trên thực tế ta dễ dàng nhận thấy khối lượng chất thải
càng nhiều thì nguy cơ gây ra tình trạng ô nhiễm, suy thoái môi trường càng lớn.
Hơn nữa, khối lượng chất thải lớn thì chi phí xử lý có thể tăng theo. Trong quy
định về mức thu phí BVMT đối với CTR là dựa trên khối lượng đơn vị tấn, mức

thu phí BVMT đối với nước thải công nghiệp dựa trên tổng lưu lượng nước thải
và hàm lượng các chất gây ô nhiễm. Việc thu phí BVMT dựa trên khối lượng xả
thải buộc các tổ chức, cá nhân xả thải phải tìm biện pháp giảm tổng khối lượng
xả thải, giảm các tác nhân gây ra tình trạng ô nhiễm môi trường.
- Mức thu phí BVMT phải dựa trên mức độ độc hại; mức độ gây hại tới
môi trường: nhằm đảm bảo sự công bằng giữa các đối tượng nộp phí và buộc các
chủ thể xả thải phải áp dụng công nghệ để xử lý, giảm thiểu độ độc hại có trong


9

chất thải. Thực tiễn cho thấy các nhà máy, cơ sở sản xuất ở các lĩnh vực đặc thù,
ngành nghề khác nhau thì thải chất thải ra môi trường s có tính chất, mức độ
độc hại khác nhau. Ví dụ khi quy định về phí BVMT đối với nước thải thì nước
thải chứa các chất ô nhiễm nồng độ càng lớn thì mức phí áp dụng càng cao. Để
thực hiện nguyên tắc trên việc thu phí BVMT phải đảm bảo số tiền phí mà chủ
thể xả thải phải trả phải tương ứng với mức độ tác động xấu đến môi trường, số
phí này cũng phải đủ sức tác động tới lợi ích cũng như hành vi của các chủ thể,
để các chủ thể này hạn chế việc xả thải. Nếu mức phí quá thấp s không tạo ra
động lực thay đổi hành vi, nếu mức phí quá cao có thể làm giảm tính cạnh tranh
của sản phẩm, lợi ích DN bị giảm đi, ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.
- Ngoài ra, mức thu phí BVMT cũng dựa trên cơ sở sức chịu tải của môi
trường hay dựa vào môi trường tiếp nhận các chất gây ô nhiễm. Sức chịu tải của
môi trường là giới hạn cho phép mà môi trường có thể tiếp nhận và hấp thụ các
chất gây ô nhiễm.[14, Khoản 1 Điều 3]. Trong quy định về phí BVMT đối với
nước thải áp dụng đối với môi trường là các khu vực nội thành, nội thị của các đô
thị loại đặc biệt loại I, II, III thì mức phí s cao hơn khi thải ra các môi trường
tiếp nhận là đô thị loại IV, V, rồi đến khu vực ngoại thành, vùng sâu, vùng sa.
Bởi vì ở các đô thị loại đặc biệt thì dân cư đông đúc hơn rất nhiều so với khu vực
khác, đồng thời cũng là trung tâm văn hóa, kinh tế, xã hội của cả nước nên việc

gây ô nhiễm môi trường ở những đô thị này nguy hiểm hơn những vùng khác. Vì
vậy sức chịu tải môi trường khác nhau thì s có mức thu phí BVMT khác nhau.
Như vậy, chúng ta có thể đưa ra khái niệm về phí BVMT như sau: “Phí
BVMT là khoản tiền mà t chức hộ gia đình xả thải ra môi trƣờng hoặc có hoạt
động làm phát sinh nguồn tác động xấu đối với môi trƣờng phải nộp vào ngân
sách nhà nƣớc nhằm đầu tƣ lại vào hoạt động BVMT ”.
1.1.2. Đặc điểm của phí bảo vệ môi trường
- Phí BVMT là một trong những công cụ kinh tế trong quản lí và BVMT:
Công cụ kinh tế hay còn gọi là công cụ dựa vào thị trường là các công cụ chính


10

sách được sử dụng nhằm tác động tới chi phí và lợi ích trong hoạt động của các
cá nhân và tổ chức kinh tế để tạo ra các tác động ảnh hưởng đến hành vi của các
tác nhân kinh tế theo hướng có lợi cho môi trường [10, tr.284-285]
Phí BVMT được coi là công cụ kinh tế hữu hiệu trong kiểm soát ô nhiễm
vì nó có tác dụng điều chỉnh hành vi của người xả thải: người xả thải phải chi trả
một khoản tiền nhất định cho mỗi đơn vị chất gây ô nhiễm, nồng độ càng cao thì
số phí phải nộp càng lớn. Ngược lại, nếu chủ thể xả thải giảm lượng chất thải
cũng như hàm lượng chất gây ô nhiễm trong chất thải khi xả ra môi trường thì số
phí phải nộp s ít đi. Như vậy, mục đích của việc áp dụng phí BVMT là khuyến
khích giảm các tác nhân gây ô nhiễm, giảm thiểu lượng chất gây ô nhiễm thải ra
môi trường và tăng thêm nguồn thu cho Nhà nước để sử dụng cho việc khôi phục
cải thiện chất lượng môi trường.
- Phí BVMT đƣ c thu dựa trên 2 nguyên tắc chính là: Nguyên tắc người
gây ô nhiễm phải trả tiền (Polluter Pays Principle viết tắt là PPP) và Nguyên tắc
người hưởng lợi phải trả tiền (Benefit Pays Principle viết tắt là BPP). Hai nguyên
tắc này tác giả xin phân tích kỹ hơn ở phần 1.2.1 cơ sở lý luận của việc thu phí
BVMT.

- Phí BVMT góp phần làm giảm ô nhiễm và tạo nguồn thu để tái đầu tƣ
vào cho công tác BVMT.
Việc thu phí BVMT tạo ra tác động tới hành vi của DN, bởi vì DN càng
xả nhiều chất độc hại ra môi trường càng phải nộp phí nhiều, để không phải nộp
nhiều phí, DN phải cắt giảm lượng thải xả trực tiếp ra môi trường. Điều này cho
thấy phí BVMT góp phần làm giảm ô nhiễm, đồng thời số phí thu được s được
dùng cho các hoạt động xử lí, khắc phục thiệt hại từ chất thải và các hoạt động
BVMT khác. Việc thu phí BVMT có thể bù đắp một phần chi phí thường xuyên
và không thường xuyên cho việc duy trì, bảo vệ và cải thiện các thành phần môi
trường, giữ gìn sự cân bằng sinh thái và các chi phí khác về tổ chức và quản lí


11

phục vụ cho vấn đề BVMT. Khoản 4 Điều 113 Luật BVMT 2005 quy định toàn
bộ nguồn thu từ phí BVMT được sử dụng đầu tư trực tiếp cho việc BVMT.
1.1.3. Phân loại phí bảo vệ môi trường
Trên thực tế phí BVMT được áp dụng dưới nhiều dạng khác nhau, tùy
thuộc vào mục tiêu và đối tượng gây ô nhiễm. Hiện nay trên thế giới đa số các
nước chia thành các loại phí sau đây: phí đánh vào nguồn gây ô nhiễm; phí đánh
vào sản phẩm; phí đánh vào người sử dụng. [46]
+ Phí đánh vào nguồn gây ô nhiễm là phí phải trả cho việc thải các chất
thải gây ô nhiễm vào trong môi trường (nước, không khí, đất…) người xả thải
phải trả tiền cho mỗi đơn vị xả thải, nghĩa là đánh trên hàm lượng hay nồng độ
các chất gây ô nhiễm và khối lượng xả thải. Như vậy để tránh phải đóng loại phí
này chủ thể xả thải s hạn chế việc xả thải các chất thải ra môi trường; hướng tới
hành vi thân thiện với môi trường. Phí đánh vào nguồn gây ô nhiễm có thể áp
dụng trong các trường hợp sau:
- Nguồn thải gây ô nhiễm là tĩnh tại;
- Các tác nhân gây ô nhiễm có các chi phí giảm ô nhiễm cận biên khác;

- Có khả năng hình thành và duy trì hệ thống kiểm soát gây ô nhiễm;
-

Có các tác động làm các tác nhân gây ô nhiễm giảm mức ô nhiễm hoặc

thay đổi hành vi gây ô nhiễm của mình. Loại phí này được sử dụng khá rộng rãi
đối với chất thải gây ô nhiễm nước, nhưng lại khó kiểm soát đối với các chất thải
gây ô nhiễm không khí.
+ Phí đánh vào ngƣời sử dụng: là khoản tiền phải trả cho dịch vụ thu gom
và xử lý chất thải có quốc gia gọi nó là thuế môi trường, có quốc gia gọi là phí
đánh vào người sử dụng. Loại phí này sử dụng chủ yếu cho các loại chất thải có
thể kiểm soát. Có hai cách thu chủ yếu là dựa vào số lượng và chất lượng chất
thải hoặc thu theo mức cố định đối với các tổ chức cá nhân hiện nay ở Việt Nam
gọi là lệ phí vệ sinh.


12

+ Phí đánh vào sản phẩm: là khoản tiền phải trả khi hàng hóa được sử
dụng có nguy cơ ảnh hưởng tới môi trường. Thông thường với hàng hóa nhập
khẩu người ta sử dụng thuế môi trường còn với hàng hóa sử dụng trong nước
người ta sử dụng hình thức phí đánh vào sản phẩm. Mức thu phí s tùy thuộc vào
mục tiêu đối với loại phí này là gì? Đối với mục đích tăng thu ngân sách mức phí
s được xác định dựa vào tổng mức thu dự định hàng năm và số sản phẩm s
được tiêu thụ. Còn để khuyến khích giảm ô nhiễm thì mức thu phí được xác định
dựa vào các tác nhân như: độ co giãn về giá cả đường cầu của sản phẩm bị đánh
phí, khả năng tồn tại sản phẩm thay thế ít gây ô nhiễm hơn và mục tiêu muốn
giảm ô nhiễm. Phí đánh vào sản phẩm chỉ đạt hiệu quả tối ưu khi trên thị trường
có sản phẩm thay thế và ít ảnh hưởng tới môi trường. Chỉ khi nào có sản phẩm
thay thế thì người tiêu dùng mới có cơ hội lựa chọn sản phẩm ít có hại cho môi

trường [45]
Ở Việt Nam hiện nay phí BVMT là loại phí đánh vào nguồn gây ô nhiễm
được tính theo lượng phát thải ra môi trường và thiệt hại gây ra cho môi trường
(phí BVMT đối với nước thải, phí BVMT đối với CTR…) hoặc từ sản lượng quy
ra chất thải gây ô nhiễm (phí BVMT đối với hoạt động khai thác khoáng sản)
đây là điểm khá đặc thù của pháp luật về phí BVMT ở nước ta. Còn phí đánh
vào người sử dụng nước ta quy định dưới dạng là thuế BVMT.
Tuy nhiên việc phân loại phí BVMT ở nước ta hiện nay vừa dựa vào tiêu
chí loại chất thải nên có phí BVMT đối với nước thải, phí BVMT đối với CTR
vừa dựa vào tiêu chí lĩnh vực hoạt động làm phát sinh chất thải là phí BVMT đối
với hoạt động khai thác khoáng sản vì vậy s dẫn đến sự chồng chéo, và có thể
dẫn tới hiện tượng phí trùng phí.
1.2. Cở sở lý luận và cơ sở chính trị pháp lý của phí bảo vệ môi trƣờng
1.2.1. Cở sở lý luận của phí bảo vệ môi trường

Phí BVMT là một trong những công cụ kinh tế chủ yếu được áp dụng
ở nhiều nước trên thế giới nhằm hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường và đã
được áp dụng từ khá lâu ở nhiều nước phát triển, chẳng hạn, từ năm 1961 ở


13

Phần Lan, từ năm 1970 ở Thụy Điển, từ năm 1980 ở Đức… và đã mang lại
những kết quả đáng ghi nhận trong việc quản lý ô nhiễm do chất thải gây ra ở
các nước này. [46] Đây là công cụ kinh tế trực tiếp đưa chi phí môi trường
vào giá thành sản phẩm dựa trên cơ sở lý luận là hai nguyên tắc được thế giới
thừa nhận rộng rãi sau đây:
1.2.1.1. Nguyên tắc ngƣời gây ô nhiễm phải trả tiền
Nguyên tắc “Người gây ô nhiễm phải trả tiền” (PPP) do Tổ chức hợp tác
kinh tế và phát triển (Organization for Economic Cooperation and Development

- OECD) soạn thảo năm 1972. Nguyên tắc này ra đời chính dựa trên cơ sở xem
môi trường là một loại hàng hoá. Theo nguyên tắc PPP thì người gây ra ô nhiễm
phải chịu mọi khoản chi phí để thực hiện các biện pháp làm giảm ô nhiễm do
chính quyền tổ chức thực hiện, nhằm đảm bảo cho môi trường ở trong trạng thái
có thể chấp nhận được.
Nguyên tắc PPP xuất phát từ những luận điểm của Pigou về nền kinh tế
phúc lợi. Trong đó, nội dung quan trọng nhất đối với một nền kinh tế lý tưởng là
giá cả các loại hàng hóa và dịch vụ có thể phản ánh đầy đủ các chi phí xã hội, kể
cả các chi phí môi trường (bao gồm các chi phí chống ô nhiễm, khai thác tài
nguyên cũng như những dạng ảnh hưởng khác của môi trường). Giá cả phải “nói
lên sự thật” về những chi phí sản xuất và tiêu dùng hàng hóa, dịch vụ. Nếu
không, s dẫn đến việc sử dụng bừa bãi các nguồn tài nguyên, làm cho ô nhiễm
trở nên trầm trọng hơn so với mức tối ưu đối với xã hội. Việc buộc những người
gây ô nhiễm trả tiền là một trong những cách tốt nhất để làm giảm bớt các tác
động của ngoại ứng gây ra làm thất bại thị trường [9, tr.16-17]
1.2.1.2. Nguyên tắc ngƣời hƣởng l i phải trả tiền
Nội dung cơ bản của nguyên tắc này là người hưởng thụ các thành phần
môi trường thì phải trả tiền cho việc hưởng thụ cũng như các tác động tiêu cực
đến môi trường do việc hưởng thụ các thành phần môi trường đó gây ra. Các
công cụ kinh tế được áp dụng phải căn cứ vào nguyên tắc này bởi dưới tác động


14

của nhiều yếu tố khác nhau dù là nhỏ nhất cũng có thể gây hại cho môi trường,
từ đó làm cho môi trường bị ô nhiễm. Thêm nữa, quá trình cải thiện môi trường
tốn kém nhiều thời gian, tiền bạc và sức lực nên người hưởng thụ một môi
trường trong lành - một môi trường đã được cải thiện thì phải trả tiền là một điều
dễ hiểu.
Nguyên tắc này đưa ra giải pháp BVMT với một cách nhìn nhận khá mới

mẻ, chú trọng tới việc phòng ngừa và cải thiện môi trường. Tuy nhiên, hiệu quả
của nó lại phụ thuộc chủ yếu vào việc xác định chính xác và hợp lý các khoản
phí cũng như việc sử dụng chúng cho các mục đích BVMT. Nguyên tắc này chủ
trương tạo lập một cơ chế nhằm đạt được các mục tiêu về môi trường. Đối
nghịch với việc người trực tiếp gây ô nhiễm phải trả tiền, người được hưởng một
môi trường đã được cải thiện cũng phải trả một khoản phí. Thực hiện nguyên tắc
BPP cũng s tạo ra một khoản thu nhập đáng kể. Mức phí tính theo đầu người
càng cao và càng có nhiều người nộp phí, thì số thu được càng nhiều. Số tiền thu
được theo nguyên tắc BPP có thể do các cá nhân muốn BVMT, hoặc do những
cá nhân không phải trả tiền cho việc thải ra các chất gây ô nhiễm trong giá thành
sản phẩm nộp. Tuy nhiên, vì tiền không phải do các công ty gây ô nhiễm trực
tiếp trả, nên nguyên tắc BPP không tạo ra một sự khuyến khích nào đối với việc
BVMT trực tiếp.
Về thực chất, nguyên tắc BPP có thể được sử dụng như là một định hướng
hỗ trợ nhằm đạt được các mục tiêu BVMT, cho dù đó là mục tiêu bảo vệ hay là
phục hồi môi trường. Nếu mức phí có thể được thu đủ để dành cho các mục tiêu
môi trường, thì lúc đó chính sách này có thể được coi là chính sách có hiệu quả
về môi trường. Đích hướng tới của BPP là nhằm BVMT, nên có thể coi là nó
được công chúng ủng hộ rộng rãi. [10, tr.20]
1.2.2. Cơ sở chính trị pháp lý của phí bảo vệ môi trường
Bảo vệ môi trường luôn được xác định là một chủ trương, chính sách lớn,
nhiệm vụ quan trọng của Đảng và Nhà nước trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước. Điều 29 Hiến pháp năm 1992 qui định: “Các cơ quan Nhà


15

nƣớc các đơn vị thuộc lực lƣ ng vũ trang các đoàn thể xã hội và tất cả các cá
nhân phải tuân thủ các quy định của Nhà nƣớc về việc sử dụng h p lý các tài
sản thiên nhiên và bảo vệ môi trƣờng”. Như vậy, Hiến pháp khẳng định bảo vệ

môi trường là nghĩa vụ của mọi cá nhân, tổ chức trong xã hội. Đây là cơ sở pháp
lý quan trọng để nước ta xây dựng Luật bảo vệ môi trường 2005 trong đó có quy
định về phí BVMT.
Ngoài ra Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 41/NQ–TW ngày
15/11/2004 về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước khẳng định “BVMT là một trong những vấn đề sống còn của
nhân loại; là nhân tố bảo đảm sức khoẻ và chất lƣ ng cuộc sống của nhân dân;
góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế - xã hội, n định chính trị, an
ninh quốc gia và thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế...”
Trong tình hình thực tiễn có nhiều đòi hỏi và yêu cầu mới Đảng và Nhà
nước tiếp tục nhấn mạnh vai trò, ý nghĩa đặc biệt của công tác BVMT.
Điều 43 Hiến pháp 2014 quy định “Mọi ngƣời có quyền đƣ c sống trong
môi trƣờng trong lành và có nghĩa vụ BVMT” Khoản 2 Điều 63 lần nữa khẳng
định: “Nhà nƣớc khuyến khích mọi hoạt động BVMT phát triển sử dụng năng
lƣ ng mới năng lƣ ng tái tạo” Hiến pháp là cơ sở pháp lý chính trị quan trọng
nhất để nhà nước tiếp tục thể chế hóa các quy định về BVMT trong hệ thống
pháp luật.
Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7 (Khóa XI) ban hành Nghị
quyết số 24-NQ/TW ngày 03/6/2013 của về chủ động ứng phó biến đổi khí hậu,
tăng cường quản lý tài nguyên và BVMT tiếp tục khẳng định vai trò sống còn
của việc BVMT.
Tiếp tục Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 35/2013/NQ-CP ngày 18
tháng 03 năm 2013 về một số vấn đề cấp bách trong lĩnh vực môi trường nhấn
mạnh: “Tỷ lệ thu gom và xử lý CTR, chất thải y tế nƣớc thải sinh hoạt và công
nghiệp đúng quy chuẩn còn thấp; khí thải, bụi phát sinh từ hoạt động giao thông


16

vận tải, xây dựng cơ sở sản xuất không đƣ c kiểm soát chặt chẽ đã và đang gây

ô nhiễm môi trƣờng nghiêm trọng tại các thành phố lớn và các lƣu vực sông.
Chất thải từ sản xuất nông nghiệp và sinh hoạt của ngƣời dân khu vực nông thôn
không đƣ c thu gom, xử lý đúng quy cách h p vệ sinh; tình trạng sử dụng phân
bón hóa học, thuốc bảo vệ thực vật tràn lan dẫn đến ô nhiễm môi trƣờng nông
thôn ngày càng gia tăng một số nơi rất nghiêm trọng...” Và đưa ra nhiều biện
pháp cần giải quyết ngay trong đó nhấn mạnh “Xây dựng và ban hành cơ chế
khuyến khích các t chức, cá nhân tham gia nghiên cứu khoa học và công nghệ
phục vụ công tác BVMT, tập trung nghiên cứu và chuyển giao công nghệ xử lý
chất thải, sản xuất sạch, tiết kiệm năng lƣ ng, thân thiện môi trƣờng, các mô
hình phát triển kinh tế xanh...”
Những văn bản pháp lý trên đây là cơ sở, tiền đề quan trọng để Nhà nước
ban hành, sửa đổi, hoàn thiện những văn bản pháp luật nhằm thực hiện thu phí
BVMT để đảm bảo phát triển bền vững.
Luật BVMT năm 2005 ngày 29/11/2005 là cơ sở pháp lý quy định cụ thể
về việc thu phí BVMT. Tại Điều 113 có quy định: “T chức cá nhân xả thải ra
môi trƣờng hoặc có hoạt động làm phát sinh nguồn tác động xấu đối với môi
trƣờng phải nộp phí BVMT.”
Đây là quy định mang tính chất nguyên tắc có tác dụng chi phối và quyết
định đến các quy định pháp luật về thu phí BVMT cụ thể.
Hiện nay, Nhà nước đã ban hành các quy định về phí BVMT trong các
trường hợp sau đây:
- Phí BVMT đối với nƣớc thải: Được quy định tại Nghị định số 25/2013/NĐCP ngày 29/3/2013 về phí BVMT đối với nước thải, có hiệu lực từ ngày 1/7/2013.
- Phí BVMT đối với CTR: Nghị định số 174/2007/NĐ-CP của chính phủ
ngày 29/11/2007 về phí BVMT đối với CTR quy định đối tượng chịu phí BVMT
đối với CTR là CTR thông thường và CTR nguy hại được thải ra từ quá trình sản
xuất, kinh doanh, dịch vụ hoặc các hoạt động khác (trừ CTR thông thường phát
thải trong sinh hoạt của cá nhân, hộ gia đình).


17


- Phí BVMT đối với hoạt động khai thác khoáng sản: Hoạt động khai thác
khoáng sản vừa tác động trực tiếp đến nguồn tài nguyên khoáng sản vì làm suy
giảm trữ lượng tài nguyên vừa ảnh hưởng trực tiếp đến đất, nước, môi sinh, môi
trường tại khu vực diễn ra hoạt động khai thác khoáng sản. Hiện nay việc thu phí
BVMT đối với hoạt động khoáng sản được thực hiện theo Nghị định số
74/2011/NĐ-CP của Chính phủ quy định về phí BVMT đối với hoạt động khai
thác khoáng sản.
Bên cạnh hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về BVMT còn có một số
văn bản pháp luật có những nội dung quan trọng liên quan đến vấn đề tài chính
trong BVMT như: Luật Thuế thu nhập DN năm 2008; Luật Ngân sách nhà nước
năm 2002; Luật Thuế tài nguyên 2009, Pháp lệnh Phí và lệ phí 2001, Nghị định
số 57/2002/NĐ – CP ngày 03/06/2002 của Chính phủ, quy định chi tiết thi hành
pháp lệnh phí và lệ phí 2001. Nghị định số 24/2006/NĐ-CP ngày 06 tháng 3 năm
2006 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 57/2002/NĐCP ngày 03 tháng 6 năm 2002 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Pháp
lệnh phí và lệ phí.
1.3. Vai trò, mục đích, ý nghĩa của phí bảo vệ môi trƣờng
1.3.1. Vai trò của phí bảo vệ môi trường
Là một công cụ kinh tế trong hoạt động BVMT phí BVMT có những vai
trò sau đây:
- Thứ nhất, điều chỉnh hành vi môi trường một cách tự động. Phí BVMT
là phí đánh vào chất gây ô nhiễm. Điều này có nghĩa là, lượng chất thải ra của
DN càng chứa nhiều chất gây ô nhiễm, nồng độ càng cao thì số tiền DN phải bỏ
ra để nộp phí BVMT càng lớn. Vì thế DN buộc phải điều chỉnh hành vi của
mình, hạn chế xả thải, hạn chế hàm lượng chất gây ô nhiễm thải ra môi trường;
đồng thời sử dụng các máy móc, phương tiện hiện đại nhằm hạn chế khả năng
gây ảnh hưởng xấu tới môi trường.


18


- Thứ hai, khuyến khích hành vi BVMT do phí BVMT không chỉ có tác
dụng trực tiếp và lâu dài đối với các hành vi gây ảnh hưởng tới môi trường của
DN mà còn có tác dụng khuyến khích quá trình nghiên cứu, triển khai, thay đổi
và phát triển kĩ thuật, công nghệ sản xuất có lợi cho môi trường.
- Thứ ba, giúp tăng hiệu quả sử dụng nguồn tài nguyên bởi nó tác động
trực tiếp đến quyền lợi kinh tế của các cá nhân và DN nên khi tiến hành sản xuất
- kinh doanh cũng như tiêu dùng, các chủ thể phải tính đến việc sử dụng nguồn
tài nguyên như thế nào là tiết kiệm và hiệu quả nhất mà không ảnh hưởng tới lợi
nhuận thông qua việc thường xuyên cải tiến công nghệ kiểm soát và giảm thiểu ô
nhiễm. Khuyến khích sự năng động, sáng tạo trong nghiên cứu và ứng dụng
những quy trình công nghệ phù hợp nhất để giảm thiểu chất thải phát sinh, qua
đó tiết kiệm nguyên liệu, tiết kiệm chi phí sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh
doanh. Nguồn tài nguyên được sử dụng hợp lý s đem lại những lợi ích kinh tế
đáng kể cho các chủ thể.
1.3.2. Mục đích của phí bảo vệ môi trường
Nhà nước thực hiện thu phí BVMT với những mục đích cơ bản sau:
- Thứ nhất, làm thay đổi hành vi của người gây ô nhiễm: khuyến khích
các tác nhân gây ô nhiễm giảm lượng chất gây ô nhiễm thải ra môi trường,
hướng tới hành vi thân thiện, BVMT của các DN, hộ gia đình, cá nhân…
Trong cơ chế thị trường, các DN phải cạnh tranh nhau để tìm kiếm lợi
nhuận, và cũng phải không ngừng BVMT. Ngày nay khi mức sống và ý thức
BVMT của con người đang được nâng lên từng bước, họ có xu hướng gắn bó với
thiên nhiên và môi trường hơn thể hiện cụ thể nhất ở việc họ thường lựa chọn
những sản phẩm sạch hay các sản phẩm thân thiện với môi trường.
Có thể thấy ý thức về sản phẩm sạch của người tiêu dùng càng ngày càng
cao nên các DN có hành vi gây ô nhiễm môi trường thì s dần dần khiến cho
người tiêu dùng bài trừ sản phẩm của họ, DN có thể vì thế s mất chỗ đứng trên
thị trường. Như vậy, DN s phải tìm cách hạn chế việc xả thải, tránh gây ô nhiễm
môi trường



19

- Thứ hai, tạo ra nguồn kinh phí để đầu tư trở lại cho các hoạt động
BVMT. Đối với số phí BVMT thu được, các cơ quan có thẩm quyền phải sử
dụng một cách hợp lí, chỉ được chi dùng cho hoạt động BVMT theo quy định
của pháp luật. Cụ thể là: trích một tỷ lệ % nhất định để trang trải chi phí cho việc
thu phí; phần còn lại s được sử dụng cho hoạt động BVMT như đầu tư mới, nạo
vét cỗng rãnh, duy tu bảo dưỡng hệ thống thoát nước tại địa phương, phòng ngừa
và hạn chế các tác động xấu đối với môi trường, giữ gìn vệ sinh, bảo vệ và tái
tạo cảnh quan môi trường…
1.3.3. Ý nghĩa của phí bảo vệ môi trường
- Thứ nhất, phí BVMT thể hiện sự quan tâm của nhà nước đến lĩnh vực
môi trường, phù hợp với xu thế phát triển của thế giới: Nhà nước đã xây dựng
các quy định về phí BVMT đối với từng loại hình như: phí BVMT đối với nước
thải, phí BVMT đối với CTR, phí BVMT đối với hoạt động khai thác khoáng
sản…những quy định này đã tạo điều kiện cho môi trường nước ta được quan
tâm, được giữ gìn, được bảo vệ tốt hơn thể hiện sự quan tâm của nhà nước đối
với công tác BVMT.
- Thứ hai, phí BVMT thể hiện sự liên kết chặt ch giữa môi trường với
phát triển: Phát triển bền vững là phạm trù được hình thành do nhu cầu của quá
trình BVMT; thực chất là quá trình kết hợp chặt ch giữa phát triển với việc duy
trì và BVMT. Phí BVMT là một trong những biểu hiện rõ nét của phạm trù phát
triển bền vững, sự kết hợp hài hòa lợi ích kinh tế đi đôi với lợi ích môi trường.
- Thứ ba, phí BVMT góp phần giáo dục, nâng cao ý thức của người dân
và DN về BVMT: môi trường ảnh hưởng tới bất cứ cá nhân nào vì vậy việc
BVMT không chỉ là việc của quốc gia, cộng đồng mà phải được coi là công việc
của từng cá nhân cụ thể. Việc quy định phí BVMT không chỉ ảnh hưởng tới kinh
tế của các đối tượng nộp phí mà còn tác động đến tâm lí và nhận thức của họ,

giúp họ hiểu được tác hại của việc xả thải ra môi trường từ đó có ý thức hơn
trong việc xả thải cũng như BVMT. Ngoài ra nó còn có tác động trực tiếp và
mạnh m tới quá trình hạch toán kinh tế nhằm làm giảm giá thành của sản phẩm


×