Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Kết hôn giữa công dân việt nam với công dân trung quốc, đài loan tại việt nam một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (720.08 KB, 81 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN ĐỨC VIỆT

KẾT HÔN GIỮA CÔNG DÂN VIỆT NAM VỚI CÔNG DÂN
TRUNG QUỐC, ĐÀI LOAN TẠI VIỆT NAM – MỘT SỐ
VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Mã số: 60 38 01 08

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN: TS. NGUYỄN THÁI MAI

HÀ NỘI – 2014


LỜI CAM ĐOAN
***
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi được
thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học trực tiếp của cô giáo, TS Nguyễn Thái Mai.
Các số liệu được dẫn trong Luận văn này là trung thực, khách quan dựa trên
kết quả khảo sát thực tế và các công trình khoa học đã được công bố.
Hà Nội, tháng 5 năm 2014
Tác giả

Nguyễn Đức Việt




LỜI CẢM ƠN
***
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô giáo, gia đình và bạn bè đã
quan tâm, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và rèn luyện tại trường Đại học
Luật Hà Nội cũng như trong quá trình tôi thực hiện Luận văn tốt nghiệp.
Đặc biệt, tôi xin trân trọng cảm ơn Tiến sĩ Nguyễn Thái Mai đã tận tình
hướng dẫn, chỉ bảo để tôi hoàn thành Luận văn tốt nghiệp này.
Tôi xin cảm ơn!
Tác giả

Nguyễn Đức Việt


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
***


:

Nghị định



:

Quyết định

NQ


:

Nghị quyết

TP

:

Thành phố

TW

:

Trung ương

UBND

:

Ủy ban nhân dân

CHXHCN

:

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

BLDS


:

Bộ luật Dân sự

BLTTDS

:

Bộ luật Tố tụng Dân sự

LHN&GĐ

:

Luật Hôn nhân và gia đình

HĐTTTP

:

Hiệp định tương trợ tư pháp


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1.Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................................ 1
Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KẾT HÔN VÀ KẾT HÔN CÓ
YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI ......................................................................................... 6
1.1. Những khái niệm cơ bản .......................................................................................... 6

1.2. Xung đột pháp luật về kết hôn và phƣơng pháp giải quyết .............................. 13
1.3. Nguyên tắc điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài tại Việt Nam .. 17
1.4. Nguồn luật áp dụng điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài tại Việt
Nam .................................................................................................................................... 22
Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH ĐIỀU
CHỈNH VIỆC KẾT HÔN GIỮA CÔNG DÂN VIỆT NAM VỚI CÔNG DÂN
TRUNG QUỐC, ĐÀI LOAN ................................................................................ 27
2.1. Điều kiện kết hôn ...................................................................................................... 27
2.2. Nghi thức kết hôn ..................................................................................................... 34
2.3. Thẩm quyền đăng ký kết hôn................................................................................. 34
2.4. Trình tự, thủ tục đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với công dân
Trung Quốc, Đài Loan................................................................................................... 36
2.5. Xử lý vi phạm trong việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với công dân
Trung Quốc, Đài Loan.................................................................................................... 41
2.6. Quản lý nhà nƣớc về quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với công dân
Trung Quốc, Đài loan ..................................................................................................... 42
Chương 3. THỰC TRẠNG KẾT HÔN GIỮA CÔNG DÂN VIỆT NAM VỚI
CÔNG DÂN TRUNG QUỐC VÀ ĐÀI LOAN - PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GẢI
PHÁP ....................................................................................................................... 45
3.1. Thực trạng kết hôn giữa công dân Việt Nam với công dân Trung Quốc, Đài
Loan ................................................................................................................................... 45
3.2. Phƣơng hƣớng và giải pháp nhằm hạn chế tiêu cực trong việc kết hôn giữa
công dân Việt Nam với công dân Trung Quốc, Đài loan .......................................... 62
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1
LỜI MỞ ĐẦU
***

1.Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với chính sách hội nhập quốc tế của Đảng và Nhà nước Việt Nam, các
quan hệ giao lưu quốc tế ngày càng được mở rộng về mọi mặt, trong đó có quan hệ
hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Hiện nay công dân Việt Nam kết hôn
với công dân của rất nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó có phụ nữ Việt Nam kết
hôn với người Trung Quốc, Đài Loan chiếm tỉ lệ khá cao. Đa số các cô dâu Việt
Nam sau khi đến Trung Quốc, Đài Loan đã ổn định cuộc sống, hoà nhập nhanh vào
gia đình và xã hội sở tại, được gia đình nhà chồng quý mến, được dư luận và chính
quyền các nước sở tại đánh giá cao. Nhiều người có thu nhập đã gửi tiền về giúp
thân nhân ở Việt Nam, một số người còn làm cầu nối cho các quan hệ giao dịch
thương mại, đầu tư giữa Việt Nam với Trung Quốc và Đài Loan.
Tuy nhiên, đã có một số trường hợp không nhỏ bị chồng và gia đình chồng
ngược đãi cả về thể xác và tinh thần. Có rất nhiều trường hợp bị xâm phạm đến
quyền và lợi ích hợp pháp như chồng chết không được hưởng quyền thừa kế, không
được nhập quốc tịch, không được quyền nuôi con, một số gặp khó khăn trong việc
hoà nhập với gia đình và cộng đồng dẫn đến ly hôn. Ngoài ra, do hậu quả của việc
kết hôn qua môi giới, không có cơ hội tìm hiểu văn hoá, tính cách người chồng
tương lai nên một số người lấy phải chồng nghiện ngập, khuyết tật, mắc bệnh tâm
thần, già nua….gây nên những bất hạnh khôn cùng đối với các cô dâu Việt.
Một trong những nguyên nhân chính của thực trạng trên là do sự thiếu hiểu
biết pháp luật của các bên trong quan hệ kết hôn. Một số quy định về vấn đề kết
hôn của Việt Nam còn nhiều bất cập. Pháp luật của Trung Quốc, Đài Loan quy
định về vấn đề hôn nhân lại có sự khác biệt so với nước ta. Ngoài ra, còn một số
nguyên nhân khác như mục đích đi đến hôn nhân với người nước ngoài của một số
phụ nữ Việt Nam là mục đích kinh tế chứ không xuất phát từ tình yêu. Người phụ
nữ muốn thoát khỏi cảnh nghèo đói, chạy chốn hiện tại, kiếm thêm thu nhập để gửi
về cho thân nhân tại quê nhà…tất cả những điều đó đã đẩy họ đến những hoàn cảnh


2

hết sức éo le, bị chà đạp, bị coi như hàng hoá và không được coi trọng khi đến gia
đình nhà chồng.
Nhận thức được tính cấp thiết nêu trên, tác giả mạnh dạn tìm hiểu, nghiên
cứu đề tài: “Kết hôn giữa công dân Việt Nam với công dân Trung Quốc, Đài
Loan tại Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” cho Luận văn tốt nghiệp
chương trình đào tạo thạc sỹ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài ở nước ta đã được rất nhiều nhà nhiên
cứu quan tâm và cho ra đời các công trình nghiên cứu như chuyên đề, Luận văn tốt
nghiệp, Luận văn thạc sĩ, Luận án tiến sĩ và một số bài nghiên cứu đăng trên các tạp
chí chuyên ngành. Có thể kể đến công trình nghiên cứu của TS. Nông Quốc Bình,
TS. Nguyễn Hồng Bắc với đề tài “Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước
ngoài ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập quốc tế”, Nxb Tư pháp, Hà Nội năm 2006.
TS. Trần Văn Chiến, Ths. Đinh Văn Quảng, Khoa xã hội học - Đại học khoa học xã
hội và nhân văn thành phố Hồ Chí Minh với bài viết “Tìm hiểu thực trạng phụ nữ
kết hôn với người Đài Loan tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long”. Luận án tiến sĩ
Nguyễn Hồng Bắc với đề tài “Pháp luật điều chỉnh quan hệ gia đình có yếu tố
nước ngoài ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới”. TS. Nông Quốc Bình, TS. Nguyễn
Hồng Bắc với đề tài “Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài những
vấn đề lý luận và thực tiễn”. Luận văn thạc sĩ của Đỗ Thị Kiều Ngân với đề tài: “
Bảo vệ quyền của phụ nữ Việt Nam trong quan hệ kết hôn với người nước ngoài”,
Hà Nội năm 2001…Tuy nhiên, các bài viết chủ yếu tìm hiểu về quan hệ hôn nhân
có yếu tố nước ngoài, trong đó bàn về quy phạm pháp luật xung đột hoặc có đề cập
đến vấn đề giải quyết xung đột pháp luật chứ chưa đi sâu nghiên cứu cụ thể về việc
kết hôn giữa công dân Việt Nam với công dân Trung Quốc, Đài Loan trên cơ sở
phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam có sự đối chiếu với pháp luật Trung
Quốc, Đài loan với các vấn đề tương ứng.
Việc thực hiện đề tài có ý nghĩa cả về mặt lý luận và thực tiễn. Về mặt lý
luận, luận văn góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật về hôn nhân gia đình Việt



3
Nam phù hợp với thực tiễn và phù hợp với xu hướng chung của các nước trên thế
giới. Về mặt thực tiễn, luận văn góp phần thúc đẩy quan hệ giữa Việt Nam với
Trung Quốc, Đài loan thông qua các giải pháp để xây dựng mô hình gia đình Việt Trung, Việt - Đài bền vững hạnh phúc.
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn
Quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài nói chung và kết hôn giữa công dân
Việt Nam với công dân Trung Quốc, Đài loan nói riêng là một lĩnh vực khá nhạy
cảm và phức tạp. Do đó, đề tài nghiên cứu nhằm mục đích sau:
- Làm sáng tỏ những vấn đề chung về kết hôn có yếu tố nước ngoài được quy
định trong pháp luật Việt Nam.
- Phân tích, bình luận các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành trong
việc điều chỉnh quan hệ kết hôn giữa công dân Việt Nam với công dân Trung
Quốc, Đài Loan.
- Đánh giá thực trạng kết hôn, tình trạng hôn nhân của phụ nữ Việt Nam; hạn
chế của pháp luật Việt Nam; hậu quả xã hội và hậu quả pháp lý từ việc phụ nữ Việt
Nam kết hôn với công dân Trung Quốc, Đài Loan.
- Qua quá trình nghiên cứu đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật Việt Nam. Bảo vệ quyền lợi của phụ nữ Việt Nam khi kết hôn với
người nước ngoài nói chung và người Trung Quốc, Đài Loan nói riêng.
4. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu của luận văn
Trong giới hạn cho phép, luận văn tập trung nghiên cứu các quy định trong
các văn bản pháp luật hiện hành của Việt Nam điều chỉnh quan hệ kết hôn giữa
công dân Việt Nam với công dân Trung Quốc, Đài Loan, bao gồm các vấn đề như
điều kiện kết hôn, nghi thức kết hôn, thẩm quyền đăng ký kết hôn....
Khi nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam, Luận văn có so sánh
với các quy định tương ứng của pháp luật Trung Quốc, Đài Loan để tìm ra các
điểm tương đồng và khác biệt trong các hệ thống pháp luật.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận khoa học của chủ nghĩa



4
Mác - Lênin, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Phương pháp duy vật biện chứng được sử dụng trong toàn bộ các chương của đề
tài. Ngoài ra, Luận văn còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học sau:
- Phương pháp phân tích: Nội dung các vấn đề mà đề tài đặt ra sẽ được phân
tích, mổ xẻ về mặt lý luận để thấy rõ tính khoa học của việc điều chỉnh quan hệ kết
hôn có yếu tố nước ngoài. Phương pháp phân tích được sử dụng trong chương 2.
- Phương pháp tổng hợp: Áp dụng phương pháp tổng hợp nhằm rút ra những
vấn đề cơ bản về mặt lý luận. Việc này sẽ tìm ra những ưu điểm và hạn chế trong
việc quy định về nội dung các quy phạm pháp luật điều chỉnh quan hệ kết hôn có
yếu tố nước ngoài. Phương pháp tổng hợp được sử dụng trong chương 2.
- Phương pháp so sánh: Phương pháp so sánh được quan tâm vì nó được sử
dụng khi xem xét các vấn đề về nội dung pháp luật điều chỉnh quan hệ kết hôn có
yếu tố nước ngoài ở Việt Nam so sánh với pháp luật của Trung Quốc, Đài Loan.
Khi sử dụng phương pháp này sẽ rút ra những điểm đã và chưa phù hợp trong quy
định của pháp luật so với lý luận, với mục đích hoàn thiện các quy định đó. Phương
pháp so sánh được sử dụng trong chương 2.
- Phương pháp thông kê: Phương pháp thống kê được sử dụng chủ yếu trong
chương 3 với mục đích cung cấp số liệu thực tế một cách đầy đủ, có hệ thống để
chứng minh cho các phần trình bày một cách khách quan, trung thực và khoa học.
6. Những đóng góp mới về khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Trên cơ sở mục đích của việc nghiên cứu đã đề ra, luận văn đã đóng góp một
số vấn đề mới sau đây:
Một là, luận văn nghiên cứu có hệ thống và toàn diện cả về lý luận và thực
tiễn pháp luật điều chỉnh vấn đề kết hôn giữa công dân Việt Nam với công dân
Trung Quốc và Đài Loan.
Hai là, trên cơ sở nghiên cứu thực trạng của việc áp dụng pháp luật trong vấn
đề này, luận văn đã tìm ra một số tồn tại, hạn chế của pháp luật hiện hành trong

việc điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài, trong đó có việc kết hôn giữa
công dân Việt Nam với công dân Trung Quốc, Đài Loan.


5
Ba là, từ việc đánh giá thực trạng kết hôn giữa công dân Việt Nam với công
dân Trung Quốc, Đài Loan, tác giả đã phân tích những ảnh hưởng tiêu cực tới đời
sống xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ Việt Nam từ những cuộc kết
hôn đó.
Bốn là, trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn về vấn đề trên, Luận văn
đã đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật, và giải pháp để hạn
chế các tiêu cực khi công dân Việt Nam kết hôn với công dân Trung Quốc, Đài
Loan.
Với những điểm nêu trên, tác giả của luận văn hy vọng đóng góp một phần
nhỏ bé vào việc hoàn thiện pháp luật trong nước và bảo vệ được quyền lợi của phụ
nữ Việt Nam khi kết hôn với công dân Trung Quốc, Đài Loan trong hiện tại cũng
như trong tương lai.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Lời mở đầu, Kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương :
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về kết hôn và kết hôn có yếu tố nước ngoài.
Chương 2: Quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành điều chỉnh việc kết
hôn giữa công dân Việt Nam với công dân Trung Quốc, Đài Loan.
Chương 3: Thực trạng kết hôn giữa công dân Việt Nam với công dân Trung
Quốc và Đài Loan - Phương hướng và giải pháp.


6
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ KẾT HÔN VÀ KẾT HÔN CÓ YẾU TỐ

NƢỚC NGOÀI
1.1. Những khái niệm cơ bản
1.1.1. Quan hệ hôn nhân và gia đình
Hôn nhân và gia đình là những hiện tượng xã hội luôn được nghiên cứu bởi
các nhà triết học, xã hội học, luật học… Hôn nhân là cơ sở của gia đình, còn gia
đình là tế bào của xã hội. Gia đình ra đời, tồn tại và phát triển trước hết là nhờ Nhà
nước thừa nhận hôn nhân của hai bên chủ thể, đồng thời quy định về quyền và
nghĩa vụ pháp lý giữa họ. Có thể nói, hôn nhân là sự liên kết đặc biệt giữa một
người nam và một người nữ (trừ trường hợp ngoại lệ), sự liên kết đó phải được Nhà
nước thừa nhận bằng sự phê chuẩn dưới hình thức pháp lý đó là đăng ký kết hôn.
“Hôn nhân” và “gia đình” là hai khái niệm độc lập nhưng có mối quan hệ
mật thiết với nhau. Từ điển giải thích thuật ngữ Luật học của Trường Đại học Luật
Hà Nội giải thích “hôn nhân là sự liên kết giữa người nam và nữ dựa trên nguyên
tắc tự nguyện, bình đẳng theo điều kiện và trình tự luật định, nhằm chung sống với
nhau suốt đời và xây dựng gia đình hạnh phúc và hoà thuận”, còn gia đình được
hiểu là “tập hợp những người cùng sống chung, gắn bó với nhau bằng quan hệ hôn
nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng, có quyền và nghĩa vụ tương ứng với nhau
”[33].
Dưới góc độ pháp lý, Điều 8 khoản 6 và khoản 10 của Luật HN&GĐ Việt
Nam năm 2000 quy định “hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết
hôn”, còn “gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ
huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền
giữa họ với nhau” theo quy định của pháp luật.
Với cách giải thích trên cho thấy quan hệ hôn nhân là quan hệ đối nhân đặc
biệt, là quan hệ bắt đầu cho chuỗi quan hệ hôn nhân và gia đình tiếp theo. Đây là
quan hệ dựa trên yếu tố tình cảm, mục đích kết hôn là nhằm xây dựng gia đình hoà
thuận, hạnh phúc, còn quan hệ gia đình là quan hệ giữa các thành viên trong gia


7

đình. Trên thực tế, quan hệ hôn nhân và gia đình bao gồm nhiều nhóm quan hệ
khác nhau. Cụ thể, theo quy định của Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000, quan hệ
hôn nhân và gia đình bao gồm các nhóm quan hệ sau:
- Kết hôn
- Ly hôn
- Quan hệ nhân thân và tài sản giữa vợ và chồng
- Quan hệ giữa cha mẹ và con
- Nuôi con nuôi
- Quan hệ giám hộ
Về mặt bản chất, quan hệ hôn nhân và gia đình là loại quan hệ dân sự. Tính
chất dân sự được thể hiện ở các điểm sau:
- Quan hệ hôn nhân và gia đình mang tính chất nhân thân và nhân thân - tài
sản. Quan hệ giữa các bên chủ thể được hình thành trên cơ sở thỏa thuận bình đẳng.
- Khi quan hệ hôn nhân và gia đình được xác lập thì các quan hệ về nhân
thân (danh dự, nhân phẩm, uy tín…) và quan hệ tài sản (tài sản chung, tài sản
riêng…) của các chủ thể cũng được xác lập và chịu sự điều chỉnh của pháp luật dân
sự. Ví dụ, trong BLDS Việt Nam năm 2005, các quy định về hôn nhân được ghi
nhận tại các Điều 24, Điều 39...
Mặc dù mang bản chất dân sự nhưng quan hệ hôn nhân và gia đình là quan
hệ dân sự đặc biệt. Tính đặc biệt trong quan hệ hôn nhân được thể hiện ở yếu tố
tình cảm của các bên chủ thể. Có thể nói, tình cảm của các bên chủ thể đối với nhau
được coi là cơ sở cơ bản và phổ biến trong việc xác lập quan hệ hôn nhân. Dựa trên
yếu tố tình cảm mà quan hệ hôn nhân tồn tại bền vững lâu dài, không mang tính
chất nhất thời và không mang tính chất đền bù ngang giá giống như hầu hết các
quan hệ dân sự khác. Hơn nữa, trong quá trình thực hiện nghĩa vụ của mình, các
chủ thể trong quan hệ hôn nhân không chỉ vì lợi ích của bản thân mà còn vì lợi ích
của những người khác trong các quan hệ phát sinh từ quan hệ hôn nhân như quan
hệ huyết thống (cha mẹ với con cái) hoặc quan hệ thân thuộc (cha, mẹ, anh, em, họ
hàng của các bên vợ và chồng) [15].



8
1.1.2. Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nƣớc ngoài
Như trên đã phân tích, quan hệ hôn nhân và gia đình là một loại quan hệ dân
sự đặc biệt nên để xác định quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài có
thể căn cứ theo quy định trên của Bộ luật Dân sự khi quy định về quan hệ dân sự có
yếu tố nước ngoài. Yếu tố nước ngoài là thuật ngữ của Tư pháp quốc tế, dùng để
chỉ những yếu tố cấu thành của quan hệ pháp luật mà những yếu tố đó liên quan
đến pháp luật nước ngoài. Tại Việt Nam, Điều 758 - BLDS năm 2005 quy định rõ
quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài là quan hệ dân sự có ít nhất một trong các bên
tham gia là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài hoặc là các quan hệ dân sự giữa các bên tham gia là công dân, tổ chức Việt
Nam nhưng căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước
ngoài, phát sinh tại nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài.
Tương tự như quy định của BLDS, khoản 14, Điều 8 Luật HN&GĐ năm
2000 quy định: “Quan hệ Hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ
Hôn nhân và gia đình phát sinh giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài
hoặc giữa người thường trú tại Việt Nam với nhau hoặc giữa công dân Việt Nam
với nhau mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước
ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài”.
Khoản 4 Điều 100 Luật HN&GĐ Việt Nam 2000 quy định: “Các quy định
của Chương này cũng được áp dụng đối với quan hệ hôn nhân và gia đình giữa
công dân Việt Nam với nhau mà một bên hoặc cả hai bên định cư ở nước ngoài”.
Căn cứ vào quy định của BLDS, Luật HN&GĐ Việt Nam, việc xác định
quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài dựa trên các yếu tố sau:
* Về chủ thể tham gia quan hệ hôn nhân và gia đình: Có sự tham gia của
người nước ngoài hoặc người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Người nước ngoài, theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Nghị định số
138/2006/NĐ-CP ngày 15/11/2006 của Chính phủ hướng dẫn thi hành các quy định
của Bộ luật dân sự về quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài quy định rõ “ Người

nước ngoài là người không có quốc tịch Việt Nam bao gồm người có quốc tịch


9
nước ngoài và người không quốc tịch”. Như vậy, người nước ngoài có thể là công
dân nước ngoài, mang một hoặc nhiều quốc tịch nước ngoài (không có quốc tịch
Việt Nam); hoặc là người không mang quốc tịch nước nào.
Để tham gia quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài, người nước ngoài
trước hết phải đảm bảo có đầy đủ năng lực pháp luật và có năng lực hành vi theo
quy định của nước mà người đó là công dân hoặc nước mà người đó đang thường
trú (đối với người không có quốc tịch); đồng thời khi xác lập quan hệ hôn nhân tại
Việt Nam, họ cũng phải đảm bảo đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi
theo quy định của pháp luật Việt Nam (Điều 761, Điều 762 BLDS Việt Nam năm
2005).
Ngoài ra, quan hệ hôn nhân và gia đình cũng được coi là có yếu tố nước
ngoài khi có sự tham gia của người Việt Nam đang định cư ở nước ngoài. Theo quy
định tại khoản 3 Điều 3 Nghị định số 138/2006/NĐ-CP ngày 15/11/2006 của Chính
phủ hướng dẫn thi hành các quy định của BLDS về quan hệ dân sự có yếu tố nước
ngoài quy định rõ: “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài là người có quốc tịch
Việt Nam và người gốc Việt Nam đang làm ăn sinh sống ở nước ngoài”.
* Sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ hôn nhân và gia
đình: Trong trường hợp các bên chủ thể đều là công dân Việt Nam, quan hệ hôn
nhân và gia đình được xem là có yếu tố nước ngoài khi sự kiện pháp lý làm phát
sinh, thay đổi chấm dứt quan hệ đó xảy ra ở nước ngoài, theo pháp luật nước ngoài.
Sự kiện pháp lý trong trường hợp này có thể là việc đăng ký kết hôn tiến
hành ở nước ngoài, ly hôn ở nước ngoài, nhận nuôi con nuôi tại nước ngoài... Ví
dụ, hai công dân Việt Nam định cư tại Australia, chưa nhập quốc tịch Australia,
nhưng làm thủ tục kết hôn tại cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước Australia.
Trên thực tế có một số trường hợp công dân Việt Nam công tác, học tập ở
nước ngoài làm thủ tục đăng ký kết hôn với nhau tại Đại sứ quán, Lãnh sự quán

Việt Nam tại nước ngoài; công dân Việt Nam đi học tập, lao động ở nước ngoài có
thời hạn, trong thời gian nghỉ phép về nước kết hôn với công dân Việt Nam ở trong
nước. Trên thực tế, đó là trường hợp có “yếu tố nước ngoài” nhưng về mặt pháp lý


10
lại không phải là quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài, vì theo quy định tại khoản
3 Điều 1 Thông tư 22/2013/TT-BTP ngày 31/12/2013 của Bộ Tư pháp quy định:
“Các quy định của Nghị định số 24/2013/NĐ-CP và Thông tư này không áp dụng
đối với việc kết hôn, nhận cha, mẹ, con giữa công dân Việt Nam đang công tác, học
tập, lao động, du lịch có thời hạn ở nước ngoài với nhau hoặc với công dân Việt
Nam cư trú trong nước”. Công dân Việt Nam kết hôn với nhau ở nước ngoài (ít
nhất một bên định cư ở nước ngoài) nếu đã hết thời hạn tạm trú ở nước ngoài mà
không được nhà nước nước ngoài cho phép cư trú thì không thuộc diện định cư ở
nước ngoài. Như vậy, trường hợp này chỉ áp dụng quy định của pháp luật Việt
Nam, chịu sự điều chỉnh của Luật HN&GĐ Việt Nam và các quy định của pháp
luật Việt Nam về đăng ký hộ tịch trong nước.
* Tài sản là đối tượng của quan hệ hôn nhân và gia đình: Tài sản với tư cách
là đối tượng của quan hệ hôn nhân và gia đình nếu đang tồn tại ở nước ngoài thì
quan hệ đó được xem là có yếu tố nước ngoài. Điều 163 BLDS Việt Nam 2005 quy
định: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản ”. Tương tự
như vậy Điều 181 BLDS 2005 quy định: “Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng
tiền và có thể chuyển giao trong giao lưu dân sự, kể cả quyền sở hữu trí tuệ”. Ví
dụ, Năm 2011, Ông A - công dân Việt Nam và bà B - công dân Việt Nam kết hôn
tại Việt Nam. Năm 2012, ông bà cùng sang Nhật Bản sinh sống. Tại Nhật, ông bà
đã mua được 1 ngôi nhà và 1 chiếc xe ô tô. Năm 2013, ông A về Việt Nam và đến
tháng 3/2014, ông A gửi đơn xin ly hôn với bà B tới tòa án Việt Nam và yêu cầu
tòa án Việt Nam phân chia tài sản thuộc sở hữu chung của vợ chồng ông. Trong
trường hợp này, quan hệ ly hôn giữa A và B được coi là quan hệ ly hôn có yếu tố
nước ngoài vì trong quan hệ ly hôn này có tài sản đang tồn tại tại Nhật Bản.

Từ sự phân tích trên cho thấy, yếu tố nước ngoài có thể xuất hiện ở tất cả
mọi lĩnh vực của quan hệ hôn nhân và gia đình (kết hôn, ly hôn, quan hệ giữa vợ và
chồng, quan hệ giữa cha mẹ và con, nuôi con nuôi, giám hộ).
Trong khuôn khổ của Luận văn, ở các phần tiếp theo tác giả xin tập trung
vào vấn đề kết hôn có yếu tố nước ngoài.


11
1.1.3. Kết hôn và kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài.
1.1.3.1. Kết hôn
Kết hôn là sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ hôn nhân và gia đình. Khi
kết hôn, các bên nam nữ phải tuân thủ đầy đủ các điều kiện kết hôn được pháp luật
quy định và phải thực hiện đăng ký kết hôn tại cơ quan đăng ký kết hôn theo quy
định của pháp luật thì việc kết hôn mới được công nhận là hợp pháp.
Trong khoa học pháp lý nói chung và khoa học Luật Hôn nhân và gia đình
nói riêng, việc đưa ra một khái niệm đầy đủ về kết hôn có ý nghĩa quan trọng. Điều
đó phản ánh quan điểm chung nhất của Nhà nước về hôn nhân; tạo cơ sở lý luận
cho việc xác định bản chất pháp lý của hôn nhân; xác định nội dung, phạm vi điều
chỉnh của các quy phạm pháp luật hôn nhân và gia đình.
Khái niệm kết hôn được nhìn nhận từ nhiếu góc độ khác nhau:
Từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam giải thích: “Kết hôn là sự kết hợp hai
người khác giới để lập gia đình, sinh con đẻ cái, thực hiện chức năng sinh học và
các chức năng khác của gia đình”.
Theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam năm 2000: “Kết hôn là việc nam,
nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và
đăng ký kết hôn” (Khoản 2, Điều 8).
Kết hôn là quyền dân sự của cá nhân được quy định trong BLDS năm 2005
(Điều 24, Điều 39), theo đó nam và nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của
pháp luật về HN&GĐ có quyền tự do kết hôn, không bên nào được ép buộc, lừa dối
bên nào, không ai được cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ hoặc cưỡng ép kết hôn.

Thông qua sự kiện đăng ký kết hôn, Nhà nước đã công nhận chính thức quan
hệ hôn nhân của hai bên nam nữ. Giấy chứng nhận kết hôn là chứng cứ viết về mặt
pháp lý ghi nhận rằng hai bên nam nữ là vợ chồng trước pháp luật, đồng thời phát
sinh các quyền và nghĩa vụ của vợ - chồng, thời điểm phát sinh quan hệ là thời
điểm hai bên nam nữ chính thức ký vào Giấy chứng nhận kết hôn và Sổ đăng ký
kết hôn.
Mặc dù có sự khác nhau trong nội dung của quy phạm pháp luật, nhưng nhìn
chung khi quy định về vấn đề kết hôn, pháp luật các nước đều tập trung vào hai vấn
đề pháp lý cơ bản đó là điều kiện kết hôn và nghi thức kết hôn. Nói cách khác, để


12
xác định một hôn nhân hợp pháp hay không người ta dựa vào hai tiêu chí pháp lý,
đó là điều kiện kết hôn và nghi thức kết hôn.
a. Điều kiện kết hôn: Điều kiện kết hôn là các quy định của pháp luật để việc
kết hôn được xem là có giá trị pháp lý về mặt nội dung: “ Điều kiện kết hôn là điều
kiện để Nhà nước công nhận việc kết hôn của các bên nam nữ ”[33]. Nghiên cứu
Luật hôn nhân và gia đình của các quốc gia trên thế giới cho thấy điều kiện kết hôn
là tiêu chí pháp lý đầu tiên để xác định tính hợp pháp của hôn nhân. Mặc dù, nội
dung về điều kiện kết hôn của các quốc gia là khác nhau, tuy nhiên các tiêu chí để
xác định về điều kiện kết hôn thường tập trung vào các vấn đề như ý chí của các
bên, độ tuổi kết hôn, điều kiện về sức khỏe, các trường hợp cấm kết hôn....
b. Nghi thức kết hôn: Nghi thức kết hôn là trình tự tiến hành kết hôn chính
thức để công nhận một cách hợp pháp quan hệ vợ - chồng giữa hai bên đương sự.
Xuất phát từ bản chất giai cấp của Nhà nước, phong tục tập quán, pháp luật các
nước quy định nghi thức kết hôn khác nhau, như:
+ Nghi thức tôn giáo: nghi thức này được áp dụng phổ biến ở các nước theo
các tôn giáo như thiên chúa giáo, hồi giáo, các nước này đều thừa nhận nghi thức
tôn giáo là nghi thức kết hôn hợp pháp.
+ Nghi thức kết hôn dân sự: theo nghi thức này, các bên nam nữ muốn kết

hôn sẽ đến cơ quan có thẩm quyền của nhà nước để đăng ký kết hôn và nếu đủ điều
kiện theo quy định của pháp luật thì cơ quan có thẩm quyền sẽ đăng ký vào Sổ
đăng ký kết hôn và cấp Giấy chứng nhận kết hôn cho các bên. Pháp luật Trung
Quốc quy định: “Yêu cầu hai bên nam nữ có mặt tại cơ quan đăng ký kết hôn để
tiến hành đăng ký kết hôn. Nếu điều kiện đăng ký phù hợp với quy định pháp luật,
cơ quan đăng ký đồng ý tiếp nhận đăng ký và cấp giấy đăng ký kết hôn. Sau khi
nhận được giấy đăng ký kết hôn, quan hệ vợ chồng lập tức được thiết lập. Trường
hợp chưa tiến hành đăng ký kết hôn, phải lập tức hoàn thành bổ sung”(Điều 8 Luật
Hôn nhân gia đình Trung Quốc sửa đổi năm 2001).
+ Kết hợp nghi thức dân sự và nghi thức tôn giáo: là nghi thức kết hôn mà
các bên sau khi tiến hành đăng ký kết hôn theo nghi thức dân sự trước cơ quan có
thẩm quyền của nhà nước sẽ tiến hành kết hôn trước sự chứng kiến của những
người có thẩm quyền của đạo giáo theo quy định của tôn giáo.
Qua phân tích ở trên có thể đưa ra khái niệm chung như sau: “kết hôn là việc


13
nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng và thoả mãn các quy định về điều kiện kết hôn
và nghi thức kết hôn theo quy định của pháp luật”.
1.1.3.2. Kết hôn có yếu tố nước ngoài
Luật HN&GĐ cũng như các văn bản hướng dẫn thi hành Luật HN&GĐ của
Việt Nam không có giải thích cụ thể thế nào là kết hôn “có yếu tố nước ngoài”. Tuy
nhiên, kết hôn là một nội dung của quan hệ hôn nhân và gia đình nên việc xác định
yếu tố nước ngoài sẽ tương tự như quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước
ngoài đã được phân tích tại phần trên. Mặt khác, việc xác định yếu tố nước ngoài
có thể căn cứ vào Điều 103 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định: “Trong việc kết hôn
giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi bên phải tuân theo pháp luật
của nước mình về điều kiện kết hôn; nếu việc kết hôn được tiến hành tại cơ quan
nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam thì người nước ngoài còn phải tuân theo
các quy định của Luật này về điều kiện kết hôn.

Việc kết hôn giữa những người nước ngoài với nhau tại Việt Nam trước cơ
quan có thẩm quyền của Việt Nam phải tuân theo các quy định của Luật này về
điều kiện kết hôn”.
Tương tự như vậy, Điều 1 Nghị đinh 24/2013/NĐ-CP ngày 28/3/2013 Quy
định chi tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về quan hệ hôn
nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài đã giải thích: “Nghị định này quy định chi
tiết thi hành một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình về kết hôn giữa công dân
Việt Nam với người nước ngoài, giữa công dân Việt Nam với nhau mà ít nhất một
bên định cư ở nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau tại Việt Nam”.
Từ sự phân tích trên khái niệm kết hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam có
thể hiểu một cách khái quát là: “ quan hệ kết hôn phát sinh giữa công dân Việt Nam
và người nước ngoài hoặc giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt
Nam hoặc giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ để xác lập quan hệ đó phát
sinh ở nước ngoài, theo pháp luật nước ngoài”.
1.2. Xung đột pháp luật về kết hôn và phƣơng pháp giải quyết
Khi quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài phát sinh, sẽ làm cho quan hệ này
liên quan tới hai hay nhiều hệ thống pháp luật khác nhau. Xuất phát từ yếu tố chủ
quyền quốc gia, các hệ thống pháp luật trên thế giới là bình đẳng với nhau, có giá


14
trị pháp lý như nhau, do vậy đều có thể được áp dụng để điều chỉnh quan hệ kết
hôn có yếu tố nước ngoài. Nói cách khác, khi kết hôn có yếu tố nước ngoài phát
sinh thì cũng thường làm xuất hiện hiện tượng hai hay nhiều hệ thống pháp luật
khác nhau cùng có thể áp dụng để điều chỉnh quan hệ đó, hiện tượng này trong Tư
pháp quốc tế gọi là xung đột pháp luật về kết hôn. Ví dụ, ngày 21/10/2011, A - nam
công dân Trung Quốc 20 tuổi và B - nữ công dân Việt Nam 18 tuổi đến Sở Tư pháp
thành phố Hồ Chí Minh nộp hồ sơ xin đăng ký kết hôn. Theo Điều 6 Luật Hôn
nhân của Cộng hoà nhân dân Trung Hoa 2001 thì nam dưới 22 tuổi và nữ dưới 20
tuổi không được phép kết hôn. Theo Điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam

năm 2000 thì: “nam từ 20 tuổi trở lên và nữ từ 18 tuổi trở lên được phép kết hôn”.
Trong trường hợp này, có 2 hệ thống pháp luật là pháp luật Việt Nam và pháp luật
Trung Quốc cùng có thể áp dụng để điều chỉnh quan hệ kết hôn giữa A và B và các
cơ quan có thẩm quyền cần phải xác định rõ pháp luật nước nào sẽ được áp dụng để
điều chỉnh quan hệ đó.
Để giải quyết xung đột pháp luật về kết hôn, có hai phương pháp chính được
áp dụng, là phương pháp xung đột và phương pháp thực chất.
1.2.1. Phƣơng pháp xung đột
Trong tư pháp quốc tế, phương pháp xung đột được áp dụng khá sớm và phổ
biến để điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài bao gồm cả quan hệ kết
hôn. Phương pháp xung đột được hình thành, xây dựng trên nền tảng hệ thống các
quy phạm xung đột của quốc gia gọi là (quy phạm xung đột thông thường) và các
quy phạm xung đột trong các điều ước quốc tế mà quốc gia đó là thành viên ( gọi là
quy phạm xung đột thống nhất).
Quy phạm xung đột là quy phạm pháp luật đặc biệt, không trực tiếp quy định
quyền và nghĩa vụ của chủ thể tham gia quan hệ kết hôn đó mà nó chỉ ra việc áp
dụng pháp luật của nước nào đó để điều chỉnh quan hệ này. Khoa học pháp lý các
nước coi việc xây dựng và áp dụng quy phạm xung đột là nội dung trước tiên của
phương pháp xung đột. Nhiệm vụ của cơ quan có thẩm quyền khi đăng ký việc kết
hôn có yếu tố nước ngoài là phải căn cứ vào sự dẫn chiếu của quy phạm xung đột


15
để tìm ra pháp luật của nước nào được áp dụng, điều đó đồng nghĩa với việc cơ
quan có thẩm quyền sẽ tiến hành chọn pháp luật nước này hay pháp luật nước khác
để giải quyết trên cơ sở sự dẫn chiếu của quy phạm xung đột. Ví dụ, đoạn 1 khoản
1 Điều 103 Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000 quy định: “Trong việc kết hôn giữa
công dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi bên phải tuân theo pháp luật của
nước mình về điều kiện kết hôn; nếu việc kết hôn được tiến hành tại cơ quan nhà
nước có thẩm quyền của Việt Nam thì người nước ngoài còn phải tuân theo các quy

định của Luật này về điều kiện kết hôn”. Như vậy, điều luật này không quy định
trực tiếp quyền, nghĩa vụ các chủ thể, không quy định trực tiếp về điều kiện kết hôn
cũng như những trường hợp cấm kết hôn mà chỉ định pháp luật nước nào cần áp
dụng để đăng ký cuộc kết hôn đó.
Giải quyết xung đột pháp luật về kết hôn được chia thành hai lĩnh vực là
xung đột về điều kiện kết hôn và nghi thức kết hôn.
1.2.1.1. Giải quyết xung đột về điều kiện kết hôn: Để giải quyết xung đột
pháp luật về điều kiện kết hôn đa số các nước thường áp dụng nguyên tắc Luật
nhân thân (Lex personalis) của các bên đương sự với hai hệ thuộc chính:
+ Hệ thuộc luật nơi cư trú của đương sự (Lex domicilli): Áp dụng phổ biến
tại các nước thuộc hệ thống Luật tập quán (Common law). Ví dụ, theo pháp luật
của Anh thì “Điều kiện kết hôn do pháp luật của nước nơi đương sự cư trú vào thời
điểm kết hôn quyết định”[31, Tr.260].
+ Hệ thuộc luật quốc tịch (Lex patriae): Áp dụng phổ biến tại các nước
thuộc hệ thống pháp luật thành văn (Civil law). Ví dụ, theo Điều 13 BLDS Đức thì:
“Điều kiện kết hôn do pháp luật của nước đương sự mang quốc tịch điều chỉnh”.
Tương tự Điều 170 BLDS Pháp thì: “Việc kết hôn ở nước ngoài giữa công dân
Pháp với nhau hoặc giữa công dân Pháp với người nước ngoài có giá trị (…) với
điều kiện (…) công dân Pháp không vi phạm các quy định nêu tại các điều tại
chương I Thiên V ”[31, Tr.260]. Như vậy, điều kiện kết hôn của công dân Pháp do
pháp luật của Pháp điều chỉnh.
Ngoài ra, pháp luật một số nước còn áp dụng hệ thuộc luật nơi tiến hành kết


16
hôn (Lex celebrationis) để giải quyết xung đột pháp luật về điều kiện kết hôn. Ví dụ
theo Luật của Hoa Kỳ điều kiện kết hôn giải quyết theo pháp luật của nước nơi tiến
hành kết hôn bất kể quốc tịch và nơi cư trú của các bên đương sự [31, Tr.260].
1.2.1.2. Giải quyết xung đột pháp luật về nghi thức kết hôn: Để giải quyết
xung đột pháp luật về nghi thức kết hôn các nước thường áp dụng nguyên tắc luật

nơi tiến hành kết hôn (Lex loci celebrationis). Theo nguyên tắc này, kết hôn được
tiến hành tại quốc gia nào thì pháp luật của quốc gia đó sẽ được áp dụng để xác
định về tính hợp pháp về mặt nghi thức của cuộc kết hôn. Ví dụ, Điều 170 BLDS
Pháp quy định: “Việc kết hôn ở nước ngoài giữa công dân Pháp với nhau hoặc
giữa công dân Pháp với người nước ngoài có giá trị nếu việc kết hôn được thực
hiện theo đúng thủ tục tại nước đó (..)”[31, tr.262].
Bên cạnh nguyên tắc chủ đạo trên, khi giải quyết xung đột về nghi thức kết
hôn, một số nước còn kèm theo điều khoản bảo lưu hoặc áp dụng nguyên tắc bổ
sung. Ví dụ, theo Điều 20 Tư pháp quốc tế của Cộng Hòa Séc quy định: “Nghi thức
kết hôn xác định theo luật nơi tiến hành kết hôn”, và “Việc kết hôn sẽ có hiệu lực
nếu nó tuân theo nghi thức dân sự”. Tương tự, Điều 13 khoản 3 Tư pháp quốc tế
Đức quy định: “Một cuộc hôn nhân có yếu tố nước ngoài nếu không phù hợp với
pháp luật nước nơi tiến hành kết hôn, nhưng phù hợp với pháp luật quốc tịch của
đương sự thì cuộc hôn nhân đó vẫn được coi là hợp pháp về mặt nghi thức” [31,
Tr.263].
Nhằm mục đích thống nhất hoá việc chọn pháp luật áp dụng điều về điều
kiện kết hôn, nghi thức kết hôn có yếu tố nước ngoài, các quốc gia còn ký kết, tham
gia các điều ước quốc tế đa phương và song phương. Trong các điều ước quốc tế
này, hầu hết đều ghi nhận điều kiện kết hôn do Luật quốc tịch của các bên điều
chỉnh, còn nghi thức kết hôn tuân thủ Luật nơi tiến hành kết hôn. Ví dụ, Điều 1,
Điều 5 Công ước LaHay 1902 về giải quyết xung đột pháp luật về kết hôn quy
định: “Điều kiện kết hôn sẽ do luật quốc tịch của các bên tham gia kết hôn điều
chỉnh” và “Nghi thức kết hôn được công nhận là hợp pháp nếu nó tuân theo luật
nơi tiến hành kết hôn”[31, Tr.261-264].


17
1.2.2. Phƣơng pháp thực chất
Phương pháp thực chất được xây dựng trên cơ sở hệ thống các quy phạm
thực chất trực tiếp điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài bao gồm cả

quan hệ kết hôn. Tức là các quy phạm thực chất trực tiếp quy định quyền và nghĩa
vụ của các bên tham gia quan hệ. Khi cơ quan có thẩm quyền giải quyết quan hệ đó
không phải tiến hành chọn hệ thống pháp luật của nước này hay nước khác mà căn
cứ vào nội dung quy định đó để xác định rõ các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể
tham gia quan hệ đó.
Các quy phạm thực chất có thể được xây dựng thông qua việc ký kết các
điều ước quốc tế song phương và đa phương (được gọi là quy phạm thực chất
thống nhất). Bên cạnh đó các quy phạm thực chất còn được xây dựng trong các văn
bản pháp quy của mỗi nhà nước (được gọi là quy phạm thực chất thông thường). Ví
dụ, khoản 2 Điều 100 Luật HN&GĐ năm 2000 có quy định: “Trong quan hệ hôn
nhân và gia đình với công dân Việt Nam, người nước ngoài tại Việt Nam được
hưởng các quyền và có nghĩa vụ như công dân Việt Nam, trừ trường hợp pháp luật
Việt Nam có quy định khác” Như vậy, Luật HN&GĐ năm 2000 trực tiếp quy định
quyền và nghĩa vụ của người nước ngoài trong quan hệ hôn nhân họ được đối xử
như công dân Việt Nam.
Bên cạnh đó, quy phạm thực chất cũng được áp dụng để quy định về trình tự
thủ tục khi đăng ký kết hôn có yếu tố nước ngoài tại cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Khi áp dụng quy phạm thực chất để điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố
nước ngoài sẽ giúp cho cơ quan có thẩm quyền giải quyết việc đăng ký kết hôn có
yếu tố nước ngoài một cách nhanh chóng, thuận tiện nhất.
Trên đây là hai phương pháp chính để giải quyết xung đột pháp luật về kết
hôn. Trong hai phương pháp đó, phương pháp xung đột được coi là đặc thù và phổ
biến nhất trong việc điều chỉnh các quan hệ về kết hôn có yếu tố nước ngoài.
Tương tự như các quốc gia trên thế giới, pháp luật Việt Nam cũng sử dụng hai
phương pháp trên để điều chỉnh về kết hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam. Vấn
đề này sẽ được phân tích kỹ tại Chương 2 của Luận văn thông qua việc phân tích
các quy định quy định của pháp luật điều chỉnh việc kết hôn giữa công dân Việt
Nam với công dân Trung Quốc, Đài Loan.
1.3. Nguyên tắc điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài tại Việt Nam
Trong những năm gần đây, tại Việt Nam việc kết hôn với người nước ngoài

có chiều hướng gia tăng, đây là hệ quả tất yếu của quá trình giao lưu hợp tác quốc


18
tế giữa Việt Nam với các nước.
Việc pháp luật Việt Nam công nhận việc kết hôn có yếu tố nước ngoài đã
khẳng định Việt Nam luôn tôn trọng và bảo vệ những quyền thiêng liêng, cơ bản
nhất của con người trong đó có quyền tự do kết hôn. Điều 39 BLDS 2005 quy định
“Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia
đình có quyền tự do kết hôn. Việc tự do kết hôn giữa những người thuộc các dân
tộc, tôn giáo khác nhau, giữa những người theo tôn giáo và không theo tôn giáo,
giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài được tôn trọng và được pháp luật
bảo vệ”.
Cũng như các quan hệ pháp luật khác, việc điều chỉnh các quan hệ kết hôn có
yếu tố nước ngoài phải tuân thủ những nguyên tắc nhất định. Nguyên tắc điều
chỉnh quan hệ kết hôn nhân có yếu tố nước ngoài là những tư tưởng chỉ đạo đối với
việc điều chỉnh quan hệ kết hôn nhân có yếu tố nước ngoài. Tại Việt Nam các
nguyên tắc này được ghi nhận trong Hiến pháp, Luật HN&GĐ năm 2000 và các
văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan. Như trên đã phân tích, kết hôn nằm
trong nhóm các quan hệ hôn nhân và gia đình nói chung, do vậy trong việc điều
chỉnh các quan hệ này trước hết phải tuân thủ các nguyên tắc được quy định tại
Điều 2 Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000, bao gồm các nguyên tắc sau:
1.3.1. Nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quan hệ kết hôn có yếu tố nƣớc
ngoài ở Việt Nam phù hợp với pháp luật Việt Nam và các điều ƣớc quốc tế mà
Việt Nam ký kết hoặc gia nhập.
Đây là nguyên tắc được quy định trong pháp luật Việt Nam. Cụ thể khoản 1
Điều 100 Luật HN&GĐ Việt Nam 2000 quy định: “Ở nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài được tôn trọng
và bảo vệ phù hợp với các quy định của pháp luật Việt Nam và điều ước quốc tế mà
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia”. Như vậy, tại Việt Nam

quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài thực hiện theo quy định của pháp luật sẽ
được tôn trọng và bảo vệ bằng nhiều biện pháp khác nhau trên cơ sở các quy định
của pháp luật. Khi quyền của các chủ thể tham gia vào quan hệ kết hôn có yếu tố
nước ngoài bị vi phạm, chủ thể đó có thể sử dụng các biện pháp bảo vệ mà pháp


19
luật cho phép hoặc có thể yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền bảo vệ quyền
lợi cho mình. Các biện pháp bảo vệ quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài tại Việt
Nam phải phù hợp với pháp luật Việt Nam và các điều ước quốc tế mà Việt Nam kí
kết hoặc tham gia. Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết với các
nước điều chỉnh quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài khác với quy định của pháp
luật Việt Nam thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế, tức là các quy định điều
ước quốc tế có giá trị ưu tiên so với pháp luật trong nước.
Trong quan hệ quốc tế, các quốc gia đều bình đẳng về chủ quyền, khi kí kết
hoặc tham gia điều ước quốc tế, các quốc gia thể hiện ý chí của mình trong việc
chấp nhận hiệu lực ràng buộc của điều ước quốc tế và gánh vác những trách nhiệm
và nghĩa vụ phát sinh từ điều ước quốc tế đó. Như vậy, khi kí kết điều ước quốc tế,
các quốc gia cần phải tuân thủ nguyên tắc đã được thừa nhận chung là nguyên tắc
thiện chí thực hiện các cam kết quốc tế (pacta sunt sevanda) và không thể dựa vào
những lí do không hợp lí để biện minh cho việc không tuân thủ các nghĩa vụ pháp lí
quốc tế, ngay cả khi chúng có nội dung khác với pháp luật của nước mình [14,
Tr.11].
Ở Việt Nam, để giải quyết trường hợp có sự khác biệt giữa các quy định của
pháp luật trong nước và điều ước quốc tế, pháp luật đều có cách giải quyết thống
nhất là ưu tiên áp dụng các quy định của điều ước quốc tế đó (Khoản 2 Điều 759
BLDS năm 2005). Tương tự, khoản 2 Điều 7 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định rõ:
“Trong trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam kí
kết hoặc tham gia có quy định khác với quy định của Luật này thì áp dụng quy định
của điều ước quốc tế”.

1.3.2. Nguyên tắc bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Việt
Nam ở nƣớc ngoài phù hợp với pháp luật Việt Nam, pháp luật nƣớc sở tại,
pháp luật và tập quán quốc tế. Đồng thời, không phân biệt đối xử với ngƣời
nƣớc ngoài trong quan hệ kết hôn có yếu tố nƣớc ngoài.
Trong những năm gần đây, quan hệ hợp tác về mọi mặt giữa Việt Nam với
các quốc gia trên thế giới ngày càng phát triển dẫn đến số lượng công dân Việt
Nam sinh sống, làm ăn ở nước ngoài ngày càng tăng. Họ có thể đã nhập quốc tịch
nước ngoài nhưng phần đông vẫn giữ quốc tịch Việt Nam. Từ trước đến nay Đảng
và Nhà nước Việt Nam luôn luôn quan tâm đến những người Việt Nam định cư ở


20
nước ngoài, họ được xem là một bộ phận dân cư không thể thiếu của dân tộc Việt
Nam. Khi công dân Việt Nam ở nước ngoài tham gia vào quan hệ kết hôn quyền và
lợi ích hợp pháp của họ được pháp luật Việt Nam bảo hộ. Nguyên tắc này đã được
ghi nhận tại khoản 3 Điều 100 Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2000: “Nhà nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân
Việt Nam ở nước ngoài trong quan hệ hôn nhân và gia đình phù hợp với pháp luật
Việt Nam, pháp luật của nước sở tại, pháp luật và tập quán quốc tế ”.
Việc bảo hộ quyền lợi của công dân Việt Nam ở nước ngoài được thực hiện
thông qua các cơ quan đại diện ngoại giao và lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài.
Trong quan hệ kết hôn có yếu tố nước ngoài, vấn đề bảo vệ quyền lợi của công dân
Việt Nam ở nước ngoài tại cơ quan đại diện đã được quy định rõ trong khoản 2
Điều 102 Luật HN&GĐ năm 2000: “Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự
của Việt Nam ở nước ngoài…có trách nhiệm thực hiện bảo hộ quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân Việt Nam trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước
ngoài”.
Bên cạnh việc bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân Việt Nam ở
nước ngoài, pháp luật Việt Nam còn bảo hộ quyền và lợi ích hợp pháp của người
nước ngoài ở Việt Nam. Nói chung, người nước ngoài kết hôn tại Việt Nam được

đối xử bình đẳng như công dân Việt Nam. Khoản 2 Điều 100 Luật HN&GĐ quy
định rõ: “Trong quan hệ hôn nhân và gia đình với công dân Việt Nam, người nước
ngoài tại Việt Nam được hưởng các quyền và có nghĩa vụ như công dân Việt Nam,
trừ trường hợp pháp luật Việt Nam có quy định khác”. Với quy định này, khi người
nước ngoài kết hôn tại Việt Nam họ sẽ được hưởng các quyền và thực hiện các
nghĩa vụ như công dân Việt Nam, trừ một số trường hợp ngoại lệ mà pháp luật Việt
Nam quy định dành riêng cho công dân Việt Nam (ví dụ, công dân Việt Nam làm
việc trong các lực lượng vũ trang khi kết hôn với người nước ngoài phải tuân thủ
các quy định riêng của ngành nghề đó).


×