Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (658.74 KB, 73 trang )

y
o

c u -tr a c k

.c

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

VŨ THỊ ANH ĐÀO

KIỂM SOÁT VIỆC TUÂN THEO PH ÁP LUẬT TRONG
HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG ĐỐI VỚI BỊ CAN, BỊ CÁO
LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN

Chuyên ngành: Luật Hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Đỗ Thị Phượng

HÀ NỘI - 2014

.d o

m



o

w

w

w

.d o

C

lic

k

to

bu

y
bu
to
k
lic
C

w


w

w

N

O
W

!

h a n g e Vi
e

N

PD

!

XC

er

O
W

F-

w


m

h a n g e Vi
e

w

PD

XC

er

F-

c u -tr a c k

.c


y
o

c u -tr a c k

.c

LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu nêu trong luận văn này là trung thực. Những kết luận khoa học của luận
văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Tác giả

Vũ Thị Anh Đào

.d o

m

o

w

w

w

.d o

C

lic

k

to


bu

y
bu
to
k
lic
C

w

w

w

N

O
W

!

h a n g e Vi
e

N

PD

!


XC

er

O
W

F-

w

m

h a n g e Vi
e

w

PD

XC

er

F-

c u -tr a c k

.c



y
o

c u -tr a c k

.c

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ..................................................................................................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG HOẠT
ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ĐỐI VỚI BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN ......................... 6

1.1.1. Khái niệm bị can, bị cáo là người chưa thành niên................................................................................... 6
1.1.2. Khái niệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự ............................ 8
1.1.3. Khái niệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng hình sự đối với bị can,
bị cáo là người chưa thành niên .................................................................................................................................... 12
1.2. CƠ SỞ CỦA VIỆC QUY ĐỊNH VỀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ ĐỐI VỚI BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN ............................................. 14

1.2.1. Cơ sở lý luận............................................................................................................................................................. 14
1.2.2. Cơ sở thực tiễn......................................................................................................................................................... 16
1.3. Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUY ĐỊNH VỀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG HOẠT
ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ĐỐI VỚI BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI
CHƯA THÀNH NIÊN............................................................................................................................................................. 18

1.3.1. Ý nghĩa chính trị ..................................................................................................................................................... 18
1.3.2. Ý nghĩa pháp lý ....................................................................................................................................................... 19
1.3.3. Ý nghĩa xã hội.......................................................................................................................................................... 20

Chương 2. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ KIỂM SÁT
VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
ĐỐI VỚI BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH ...................... 21
2.1. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ KIỂM SÁT VIỆC
TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ĐỐI VỚI
BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN ...................................................................................................... 21

2.1.1. Trong giai đoạn điều tra, truy tố ...................................................................................................................... 21
2.1.2. Trong giai đoạn xét xử những vụ án có bị cáo là người chưa thành niên .................................... 33
2.2. THỰC TIỄN THI HÀNH HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG HOẠT
ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ĐỐI VỚI BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI
CHƯA THÀNH NIÊN............................................................................................................................................................. 39

2.2.1. Kiểm sát việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn đối với vụ án mà bị can là người chưa
thành niên................................................................................................................................................................................ 39
2.2.2. Kiểm sát việc tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố đối với vụ án mà bị can là người
chưa thành niên .................................................................................................................................................................... 44
2.2.3. Kiểm sát các hoạt động xét xử đối với vụ án mà bị can, bị cáo là người chưa thành niên... 47

.d o

m

o

w

w

w


.d o

C

lic

k

to

bu

y
bu
to
k
lic
C

w

w

w

N

O
W


!

h a n g e Vi
e

N

PD

!

XC

er

O
W

F-

w

m

h a n g e Vi
e

w


PD

XC

er

F-

c u -tr a c k

.c


y
o

c u -tr a c k

.c

Chương 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG
TỐ TỤNG HÌNH SỰ ĐỐI VỚI BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN .... 51
3.1. HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG HOẠT
ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ĐỐI VỚI BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN ............................... 51
3.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP
LUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ĐỐI VỚI BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA
THÀNH NIÊN........................................................................................................................................................................... 57

3.2.1. Tăng cường công tác quản lý, chỉ đạo điều hành và tổng kết rút kinh nghiệm nghiệp vụ ... 57

3.2.2. Nâng cao chất lượng cán bộ của ngành kiểm sát..................................................................................... 59
3.2.3. Tăng cường về cơ sở vật chất cho ngành kiểm sát ................................................................................. 62
KẾT LUẬN............................................................................................................................................................................... 63
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................................................................................... 65

.d o

m

o

w

w

w

.d o

C

lic

k

to

bu

y

bu
to
k
lic
C

w

w

w

N

O
W

!

h a n g e Vi
e

N

PD

!

XC


er

O
W

F-

w

m

h a n g e Vi
e

w

PD

XC

er

F-

c u -tr a c k

.c


y

o

c u -tr a c k

.c

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

Bộ luật Hình sự

TAND

Tòa án nhân dân

TANDTC

Tòa án nhân dân tối cao

VKS

Viện Kiểm sát

VKSND

Viện Kiểm sát nhân dân

XHCN


Xã hội chủ nghĩa

NCTN

Người chưa thành niên

CQĐT

Cơ quan điều tra

TTHS

Tố tụng hình sự

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình sự

.d o

m

o

w

w

w


.d o

C

lic

k

to

bu

y
bu
to
k
lic
C

w

w

w

N

O
W


!

h a n g e Vi
e

N

PD

!

XC

er

O
W

F-

w

m

h a n g e Vi
e

w

PD


XC

er

F-

c u -tr a c k

.c


h a n g e Vi
e

N
bu
to
k
lic
.c

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Cải cách tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tư pháp
trong đó có Viện kiểm sát (VKS) là một đòi hỏi có tính cấp bách của Đảng, Nhà
nước ta trong giai đoạn hiện nay. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã
chỉ rõ: "Viện kiểm sát nhân dân tập trung làm tốt chức năng công tố và kiểm sát
hoạt động tư pháp", yêu cầu trên đã được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 1992

(sửa đổi) và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) năm 2002.
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong vụ án hình sự có bị can, bị cáo là
người chưa thành niên (NCTN) là thể hiện cụ thể một trong những chức năng của
VKS, bảo đảm việc giải quyết vụ án có bị can, bị cáo là NCTN được chính xác,
nhanh chóng, đảm bảo quyền con người của NCTN, đồng thời còn là biểu hiện của
việc thực hiện quyền lực nhà nước nhằm góp phần ổn định xã hội, phát triển kinh tế
và bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, Nghị quyết số 08/NQTW ngày
02/01/2002 của Bộ chính trị đã đặt ra yêu cầu: "Viện kiểm sát các cấp thực hiện tốt
chức năng công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp.
Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong suốt quá
trình tố tụng nhằm bảo đảm không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan
người vô tội, xử lý kịp thời những trường hợp sai phạm của những người tiến hành tố
tụng làm nhiệm vụ...". Để đáp ứng yêu cầu này ngành kiểm sát phải không ngừng
nâng cao chất lượng thực hiện chức năng của mình trong quá trình giải quyết vụ án.
Thực tiễn những năm qua cho thấy, trong công tác của mình, VKS đã thực
hiện tốt chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong vụ án hình sự nói chung, cũng
như vụ án có bị can, bị cáo là NCTN nói riêng. Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được,
hoạt động của VKS vẫn còn có những hạn chế trong việc thực hiện chức năng của
mình, như: Vẫn còn tình trạng bắt, tạm giam, tạm giữ NCTN chưa đáp ứng được điều
kiện, yêu cầu của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS); việc tạm giam NCTN còn
được áp dụng tương đối phổ biến trong khi đó biện pháp giám sát tại gia đình và cộng

.d o

m

o

o


c u -tr a c k

C
w

w

w

.d o

m

C

lic

k

to

bu

1
w

w

w


w

y

y

N

O
W

!

XC

er

O
W

F-

w

PD

h a n g e Vi
e

!


XC

er

PD

F-

c u -tr a c k

.c


h a n g e Vi
e

N
bu
to
k
lic
.c

đồng thì lại ít được áp dụng trên thực tế, mặc dù đây là biện pháp tốt đối với quá trình
giáo dục, cải tạo đối với NCTN; các quyền cơ bản của NCTN trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự đặc biệt là quyền bào chữa của họ vẫn chưa được đảm bảo, điều
này dẫn đến tình trạng oan sai, vi phạm quyền con người của NCTN đang còn xảy ra;
về đội ngũ cán bộ tư pháp như Điều tra viên, Kiểm sát viên; Thẩm phán chưa được
đào tạo chuyên sâu về tâm lý học, về khả năng giao tiếp, làm việc với NCTN. Những

bất cập trên vẫn còn xảy ra, và có xu hướng gia tăng, chính vì vậy cần thiết phải có
những nghiên cứu, sửa đổi các quy định của BLTTHS và các văn bản có liên quan để
hoàn thiện hơn thủ tục tố tụng đối với người thành niên nói chung và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong vụ án có NCTN nói riêng.
Từ các lý do trên đây, chúng tôi đã chọn đề tài "Kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong hoạt động tố tụng đối với bị can, bị cáo là người chưa thành
niên" làm luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong khoa học pháp lý hình sự, thủ tục tố tụng đối với NCTN nói chung đã
được một số tác giả trong nước nghiên cứu ở các cấp độ và mức độ khác nhau.
Một số công trình nghiên cứu chuyên sâu về thủ tục tố tụng đối với NCTN như
luận văn thạc sỹ của Nguyễn Ngọc Thương với đề tài: Thủ tục TTHS đối với những vụ
án do NCTN thực hiện - Lý luận và thực tiễn năm 2006, Luận án tiến sỹ luật học của
tác giả Đỗ Thị Phượng với đề tài Thủ tục tố tụng đối với NCTN – một số vấn đề lý luận
và thực tiễn, tại Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2008.
Về đề tài khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội của tập thể tác giả: Nguyên tắc
nhân đạo trong các quy định của pháp luật hình sự và pháp luật TTHS đối với
NCTN ở Việt Nam, năm 2005. Ngoài ra, còn có những nghiên cứu đề cập đến những
vấn đề lý luận chung hoặc nghiên cứu những đề tài khác nhưng có một số nội dung
liên quan đến thủ tục tố tụng đối với NCTN như cuốn: Tăng cường năng lực hệ
thống tư pháp NCTN tại Việt Nam, thông tin khoa học pháp lý của Viện nghiên cứu
khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp năm 2000; hay cuốn: Thủ tục điều tra và xét xử liên
quan đến trẻ em và NCTN: Đánh giá về các thủ tục nhạy cảm đối với trẻ em của

.d o

m

o


o

c u -tr a c k

C
w

w

w

.d o

m

C

lic

k

to

bu

2
w

w


w

w

y

y

N

O
W

!

XC

er

O
W

F-

w

PD

h a n g e Vi
e


!

XC

er

PD

F-

c u -tr a c k

.c


h a n g e Vi
e

N
bu
to
k
lic
.c

Tòa án nhân dân (TAND); Trường Cao đẳng Kiểm sát Hà Nội với công trình: Đào
tạo kiểm sát viên làm việc với NCTN (Sách dự án Danida).
Bên cạnh đó, một số tác giả đã công bố các tác phẩm liên quan đến thủ tục tố
tụng đối với NCTN như :

- Tác giả Nguyễn Đức Mai với bài viết: Áp dụng các quy định của BLTTHS
về thủ tục tố tụng đối với NCTN phạm tội đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 6 tháng 3
năm 2007;
- Tác giả Mai Bộ với bài viết: Hoàn thiện các quy định của BLTTHS về việc
áp dụng biện pháp ngăn chặn đối với NCTN phạm tội đăng trên Tạp chí Kiểm sát số
6 tháng 3 năm 2007 ;
- Tác giả Phan Trung Hoài với bài viết: Vấn đề bảo đảm quyền bào chữa của
NCTN phạm tội đăng trên Tạp chí Kiểm sát số 6 tháng 3 năm 2007...
Như vậy, nghiên cứu về thủ tục tố tụng đối với NCTN nói chung đã có rất
nhiều người nghiên cứu dưới các góc độ khác nhau. Riêng về vấn đề kiểm sát việc
tuân theo pháp luật của VKS trong giải quyết vụ án có NCTN nói riêng còn chưa
được quan tâm nghiên cứu sâu sắc.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu đề tài Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
hoạt động tố tụng đối với bị can, bị cáo là NCTN là một yêu cầu cấp thiết hiện nay.

.d o

m

o

o

c u -tr a c k

C
w

w


w

.d o

m

C

lic

k

to

bu

3
w

w

w

w

y

y

N


O
W

!

XC

er

O
W

F-

w

PD

h a n g e Vi
e

!

XC

er

PD


F-

c u -tr a c k

.c


h a n g e Vi
e

N
bu
to
k
lic
.c

3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về vấn đề "Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt
động tố tụng đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên" nhằm làm rõ bản chất
của hoạt động này trong giải quyết vụ án có bị can, bị cáo là NCTN và những đặc
trưng cơ bản của hoạt động này trong vụ án có NCTN tham gia. Luận văn cũng
nghiên cứu thực trạng của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong vụ án
có NCTN tham gia. Trên cơ sở đó chỉ ra những hạn chế của hoạt động này và đề
xuất giải pháp nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật của
VKS trong giải quyết vụ án có NCTN.
Để thực hiện mục đích nói trên, luận văn có nhiệm vụ:
- Làm sáng tỏ lý luận bị can, bị cáo là NCTN; về kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong hoạt động tố tụng có bị can, bị cáo là NCTN.
- Khảo sát thực tiễn thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật

của VKS trong giải quyết các vụ án hình sự có bị can, bị cáo là NCTN, từ đó thấy
được những ưu điểm, tích cực và mặt hạn chế để từ đó đề xuất các giải pháp, kiến
nghị nâng cao hiệu quả của việc thực hiện chức năng này.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận cơ bản về kiểm sát
việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân trong giải quyết các vụ án có
NCTN. Luận văn giới hạn việc khảo sát thực tiễn từ năm 2008 đến nay.
4. Ý nghĩa và điểm mới của luận văn
Các kết quả của luận văn có ý nghĩa nhất định về mặt khoa học góp phần xây
dựng một cách nhìn toàn diện về hoạt động kiểm sát của VKS giải quyết các vụ án
có bị can, bị cáo là NCTN. Qua đó thấy được vai trò to lớn của VKS trong công tác
đấu tranh phòng ngừa tội phạm do NCTN thực hiện. Luận văn có nêu ra một số giải
pháp nâng cao hiệu quả cho công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS
trong giải quyết vụ án có NCTN. Hơn nữa, các kết quả nghiên cứu của luận văn có
thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, học tập cũng như làm tài
liệu cho các cán bộ kiểm sát trong hoạt động nghiệp vụ của mình.

.d o

m

o

o

c u -tr a c k

C
w

w


w

.d o

m

C

lic

k

to

bu

4
w

w

w

w

y

y


N

O
W

!

XC

er

O
W

F-

w

PD

h a n g e Vi
e

!

XC

er

PD


F-

c u -tr a c k

.c


h a n g e Vi
e

N
bu
to
k
lic
.c

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở nhận thức luận của chủ nghĩa Mác - Lênin
với phương pháp luận là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Đồng thời để
phục vụ các nhiệm vụ khoa đặt ra từ đề tài luận văn, luận văn có sử dụng các phương
pháp nghiên cứu cụ thể như: Phân tích, tổng hợp, so sánh và khảo sát thực tế.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 3 chương
Chương 1: Những vấn đề chung về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
hoạt động tố tụng hình sự đối với bị can, bị cáo là NCTN
Chương 2: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện hành về
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng của Viện kiểm sát nhân

dân đối với bị can, bị cáo là NCTN và thực tiễn thi hành
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao chất
lượng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng đối với bị can, bị
cáo là NCTN.

.d o

m

o

o

c u -tr a c k

C
w

w

w

.d o

m

C

lic


k

to

bu

5
w

w

w

w

y

y

N

O
W

!

XC

er


O
W

F-

w

PD

h a n g e Vi
e

!

XC

er

PD

F-

c u -tr a c k

.c


h a n g e Vi
e


N
bu
to
k
lic
.c

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT
TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG ĐỐI VỚI BỊ CAN, BỊ CÁO
LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN

1.1. NHẬN THỨC CƠ BẢN VỀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT
TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ĐỐI VỚI BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI
CHƯA THÀNH NIÊN

1.1.1. Khái niệm bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Người chưa thành niên là thuật ngữ được dùng trong nhiều ngành, nhiều lĩnh
vực khoa học khác nhau như xã hội học, tâm lí học, luật học... Theo Từ điển Tiếng
Việt, Trung tâm ngôn ngữ học Việt Nam, năm 2002 đã đưa ra khái niệm về NCTN
như sau: “NCTN là người chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về thể lực, trí tuệ, tinh
thần cũng như chưa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân”. Dựa vào khái niệm này
chúng ta có thể xác định được NCTN trên hai góc độ: Thứ nhất, NCTN là người
chưa phát triển đầy đủ, toàn diện về thể lực, trí tuệ và tinh thần (đặc điểm về tâm
sinh lí). Điểm đặc trưng của lứa tuổi này là sự phát triển chưa đầy đủ về mặt tâm
sinh lí. NCTN là người đang ở giai đoạn phát triển và hình thành nhân cách và chưa
thể có suy nghĩ chín chắn khi quyết định hành vi của mình. Đối với NCTN, do tư
duy của họ chưa phát triển hoàn thiện nên họ chưa có hiểu biết đầy đủ về những
khái niệm thông thường trong cuộc sống hàng ngày, tính làm chủ bản thân còn thấp,
khả năng tự kiềm chế chưa cao... Thứ hai, NCTN đang ở một độ tuổi nhất định và

họ chưa có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân. Độ tuổi là sự phân chia ranh giới
giữa NCTN và người thành niên, sự phân chia này phụ thuộc vào rất nhiều các yếu tố
khách quan của xã hội. Việc xác định độ tuổi như thế nào cho phù hợp có ý nghĩa rất
quan trọng, liên quan tới nhiều chính sách lớn của Nhà nước trong quản lý xã hội. Ở
Việt Nam, từ ngày Cách mạng tháng Tám thành công tới nay, Nhà nước Việt Nam
đã nhất quán xác định độ tuổi ranh giới này là 18 tuổi tròn. Như vậy độ tuổi đối với
một người có đầy đủ quyền và nghĩa vụ công dân là đủ 18 tuổi. Quy tắc Bắc Kinh

.d o

m

o

o

c u -tr a c k

C
w

w

w

.d o

m

C


lic

k

to

bu

6
w

w

w

w

y

y

N

O
W

!

XC


er

O
W

F-

w

PD

h a n g e Vi
e

!

XC

er

PD

F-

c u -tr a c k

.c



h a n g e Vi
e

N
bu
to
k
lic
.c

được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 29 - 11 - 1985 cũng đưa ra định
nghĩa: “NCTN là trẻ em hay người ít tuổi tuỳ theo từng hệ thống pháp luật...” (phần
I - khoản 22 - mục a)1. Những quy tắc tối thiểu phổ biến của Liên Hợp quốc về bảo
vệ NCTN bị tước quyền tự do thông qua ngày 14 - 12 - 1990 đã bổ sung: “NCTN là
người dưới 18 tuổi. Giới hạn tuổi dưới mức này cần phải được luật xác định...”
(phần II - khoản 11 - mục a)2. Theo quy định này thì phạm vi độ tuổi của NCTN
được giới hạn từ 0 đến dưới 18 tuổi3. Trên cơ sở giới hạn độ tuổi của Hiến pháp, qua
tham khảo các quy định của Liên Hợp quốc, các văn bản pháp luật Việt Nam cũng
giới hạn độ tuổi cho NCTN. Mặc dù đều nhằm mục đích bảo vệ quyền trẻ em nhưng
do khách thể bảo vệ trong từng ngành luật khác nhau nên độ tuổi của NCTN cũng
được quy định khác nhau.
Đối với NCTN có những hành vi phạm tội thì việc xác định một độ tuổi nhất
định không những có ý nghĩa quan trọng trong đấu tranh phòng, chống tội phạm mà
còn gắn liền với trách nhiệm hình sự. Điều 68 Bộ luật hình sự (BLHS) Việt Nam
quy định: “NCTN từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm
hình sự theo những quy định của Chương này, đồng thời theo những quy định khác
của Phần chung Bộ luật không trái với những quy định của Chương này”. Dựa trên
quy định về NCTN phạm tội trong BLHS, chúng ta có thể hiểu “NCTN phạm tội là
người phạm tội từ đủ 14 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi được hưởng chính sách hình sự
riêng biệt có tính giảm nhẹ”4. Quy định vấn đề NCTN phạm tội trong luật hình sự

gắn liền với việc xác định chủ thể của tội phạm và tội phạm nói chung. Một NCTN
chưa đủ 14 tuổi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội hoặc NCTN từ đủ 14 tuổi
trở lên nhưng chưa đủ 16 tuổi phạm tội ít nghiêm trọng, tội nghiêm trọng, hoặc tội
rất nghiêm trọng với lỗi vô ý thì đều không phải là tội phạm. Ngoài ra, quy định vấn
đề NCTN phạm tội trong luật hình sự còn có ý nghĩa thể hiện nguyên tắc cá thể hoá
1

Liên Hợp Quốc (1985), Quy tắc tối thiểu phổ biến về việc áp dụng pháp luật đối với NCTN (Quy tắc Bắc
kinh) thông qua 29/11/1985.
2 Liên Hợp Quốc (1990), Những quy tắc tối thiểu phổ biến về bảo vệ NCTN bị tước quyền tự do
(14/12/1990).
3
Học viện CTQG Hồ Chí Minh, Trung tâm nghiên cứu quyền con người, Các văn bản quốc tế về quyền con
người, NXB TP. Hồ Chí Minh.
4
Đại học Luật Hà Nội (1999), Từ điển giải thích thuật ngữ luật học, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

.d o

m

o

o

c u -tr a c k

C
w


w

w

.d o

m

C

lic

k

to

bu

7
w

w

w

w

y

y


N

O
W

!

XC

er

O
W

F-

w

PD

h a n g e Vi
e

!

XC

er


PD

F-

c u -tr a c k

.c


h a n g e Vi
e

N
bu
to
k
lic
.c

trách nhiệm hình sự, nguyên tắc giáo dục, giúp đỡ NCTN phạm tội sửa chữa sai
lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội. NCTN phạm tội
cũng có thể bị áp dụng hình phạt nhưng đó chỉ là biện pháp cuối cùng.
Như vậy, căn cứ vào quy định này và quy định tại Điều 12 của BLHS về tuổi
chịu trách nhiệm hình sự nêu trên và căn cứ vào quy định của BLTTHS về khái
niệm bị can, bị cáo thì có thể hiểu: Bị can là NCTN là người từ đủ 14 tuổi đến chưa
đủ 18 tuổi bị khởi tố về hình sự. Bị cáo là NCTN là người từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ
18 tuổi ở thời điểm đã bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử.
1.1.2. Khái niệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố
tụng hình sự
Năm 2013, Hiến pháp mới được ban hành. Theo quy định tại Điều 107 Hiến

pháp năm 2013 thì VKS nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con
người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật
được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất... So với Hiến pháp năm 1992 thì chức
năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát không có gì thay đổi.
Luật tổ chức VKSND năm 2002 đã thể chế hóa quy định của Hiến pháp về
chức năng, nhiệm vụ của VKSND. Theo quy định tại Điều 1 Luật tổ chức VKSND
thì VKSND thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy
định của Hiến pháp và pháp luật. VKSND thực hiện chức năng, nhiệm vụ bằng
những công tác sau được quy định tại Điều 3 Luật tổ chức VKSND năm 2002.
- Khái niệm “Kiểm sát”:
Theo Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Từ điển học thuộc Viện ngôn ngữ Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia xuất bản năm 2000, thì “kiểm sát”
có nghĩa là kiểm tra, giám sát việc chấp hành pháp luật của Nhà nước.
Còn theo Từ điển bách khoa Việt Nam xuất bản năm 2002 do Hội đồng quốc
gia chỉ đạo biên sọan, thì “kiểm sát” là hoạt động của VKSND nhằm kiểm tra, giám
sát việc tuân thủ pháp luật của các cơ quan Nhà nước...

.d o

m

o

o

c u -tr a c k

C
w


w

w

.d o

m

C

lic

k

to

bu

8
w

w

w

w

y

y


N

O
W

!

XC

er

O
W

F-

w

PD

h a n g e Vi
e

!

XC

er


PD

F-

c u -tr a c k

.c


h a n g e Vi
e

N
bu
to
k
lic
.c

Theo Từ điển luật học do Viện Khoa học pháp lý - Bộ tư pháp xuất bản năm
2006, thì “kiểm sát hoạt động tư pháp” là kiểm tra, giám sát, xem xét, theo dõi việc
tuân theo pháp luật đối với hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án, giam giữ,
cải tạo của các cơ quan tiến hành tố tụng...
Theo cách giải thích khái niệm “kiểm sát” của các cuốn Từ điển nêu trên,
chúng tôi cho rằng, kiểm sát gồm hai loại hình hoạt động cơ bản - giám sát và kiểm
tra. Hoạt động giám sát là hoạt động theo dõi các hoạt động của các đối tượng bị
giám sát và khi cần thiết thì sử dụng các biện pháp tác động phù hợp để yêu cầu
người, cơ quan bị giám sát có hành vi vi phạm pháp luật sửa chữa vi phạm đó. Hoạt
động kiểm tra là hoạt động xem xét, đánh giá hoạt động của người, cơ quan bị kiểm
tra. Người kiểm tra có quyền kiểm tra bất kỳ lúc nào, có quyền yêu cầu bên bị kiểm

tra cung cấp hồ sơ, tài liệu... có liên quan để xác định hoạt động của đối tượng bị
kiểm tra có đúng quy định của pháp luật hay không và nếu có sai phạm thì sai phạm
ở chỗ nào, theo điều khoản nào của văn bản pháp luật nào? Người thực hiện hoạt
động kiểm sát, cũng như người thực hiện hoạt động kiểm tra, giám sát không phải là
người trực tiếp hay gián tiếp thực hiện các hoạt động của người bị kiểm sát, của
người bị kiểm tra, bị giám sát. Người tiến hành hoạt động kiểm sát là người “đứng
ngoài” hoạt động đó. Ví dụ, kiểm sát điều tra cũng như các hoạt động kiểm sát
khác, chẳng hạn như kiểm sát thi hành án..., hoạt động điều tra, hoạt động thi hành
án là đối tượng bị kiểm sát thì VKS không phải là cơ quan thực hiện các hoạt động
thi hành án, thực hiện các hoạt động điều tra... Hoạt động điều tra, hoạt động thi
hành án do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khác tiến hành và Viện kiểm sát chỉ là
người, cơ quan “đứng ngoài” kiểm sát hoạt động của các cơ quan này để bảo đảm
hoạt động điều tra, thi hành án... được thực hiện đúng theo quy định của pháp luật,
tuân thủ pháp luật. Khi phát hiện hoạt động điều tra, hoạt động thi hành án... có vi
phạm pháp luật, thì VKS phải tiến hành các hoạt động: kiểm tra, xác minh để tìm
chứng cứ khẳng định hoạt động điều tra, thi hành án… có vi phạm pháp luật, sau đó
VKS áp dụng biện pháp phù hợp để loại trừ vi phạm, như kháng nghị, kiến nghị,
yêu cầu... cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp cần thiết để loại trừ vi

.d o

m

o

o

c u -tr a c k

C

w

w

w

.d o

m

C

lic

k

to

bu

9
w

w

w

w

y


y

N

O
W

!

XC

er

O
W

F-

w

PD

h a n g e Vi
e

!

XC


er

PD

F-

c u -tr a c k

.c


h a n g e Vi
e

N
bu
to
k
lic
.c

phạm, khôi phục lại trật tự pháp luật đã bị xâm phạm. Trong trường hợp khẩn cấp
VKS có quyền tạm đình chỉ việc thực hiện quyết định, hành vi vi phạm pháp luật để
chờ quyết định chính thức của cơ quan có thẩm quyền. Nếu cơ quan, người đã có
hành vi vi phạm mà không loại trừ vi phạm đó thì cơ quan có thẩm quyền cấp trên
của người đó, cơ quan đó phải có trách nhiệm áp dụng biện pháp khắc phục vi phạm
một cách triệt để.
- Khái niệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự:
Theo pháp luật TTHS Việt Nam, TTHS là toàn bộ quá trình giải quyết vụ án
hình sự, từ khởi tố, điều tra, truy tố đến xét xử và thi hành án. Nói cách khác, tố

tụng hình sự là toàn bộ hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tham gia
tố tụng và cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội nhằm giải quyết vụ án khách
quan, toàn diện, nhanh chóng, chính xác và đúng pháp luật”5, các hoạt động tố tụng
hình sự bao gồm:
+ Hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng trong vụ án hình sự: là hoạt
động của các cơ quan: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án. Đây là các cơ quan
có vai trò chủ đạo trong việc giải quyết các vụ án hình sự.
+ Hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng được thực hiện thông qua hoạt
động của người tiến hành tố tụng. Người tiến hành tố tụng là những công chức
trong cơ quan tiến hành tố tụng, được bổ nhiệm vào các chức danh tố tụng, có thẩm
quyền thực hiện những hoạt động tố tụng nhất định trong phạm vi chức năng, nhiệm
vụ của cơ quan đó nhằm góp phần giải quyết vụ án hình sự.
+ Hoạt động của những người tham gia tố tụng: Bao gồm hoạt động của
người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình (người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan); hoạt động của người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của người khác; hoạt động của người tham gia tố tụng nhằm giúp

5

Giáo trình Luật Tố tụng hình sự Việt Nam, Khoa Luật trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, Nxb Đại học
Quốc gia, 2005.

.d o

m

o

o


c u -tr a c k

C
w

w

w

.d o

m

C

lic

k

to

bu

10
w

w

w


w

y

y

N

O
W

!

XC

er

O
W

F-

w

PD

h a n g e Vi
e


!

XC

er

PD

F-

c u -tr a c k

.c


h a n g e Vi
e

N
bu
to
k
lic
.c

cơ quan tiến hành tố tụng xác định sự thật vụ án (người làm chứng, người giám
định, người phiên dịch).
Bộ luật tố tụng hình sự còn quy định cả nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm
của các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, các cơ quan,
tổ chức và công dân trong việc thực hiện một số biện pháp ngăn chặn, thi hành bản án,

quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng… Như vậy, trong một chừng mực nhất định,
đây cũng là các hoạt động tố tụng hình sự.
Trong lý luận cũng như thực tiễn, có một vấn đề dễ gây nhầm lẫn là xác định
thế nào là kiểm sát hoạt động tư pháp, thế nào là kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng hình sự. Hoạt động kiểm sát hoạt động tư pháp và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng hình sự là hai hoạt động khác nhau, mà cụ thể là khác
nhau về đối tượng. Theo đó, thứ nhất, hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự là
hoạt động chỉ do các cơ quan tư pháp và các cơ quan được giao thực hiện một số
thẩm quyền tư pháp chịu trách nhiệm trực tiếp thực hiện. Đây là những hoạt động
có tính quyền lực nhà nước. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
hay kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với các hoạt động tố tụng hình sự không
chỉ là kiểm sát các hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự mà còn bao gồm cả
những hoạt động của các cơ quan, tổ chức không phải là các cơ quan tư pháp, hoạt
động của những người tham gia tố tụng, không mang tính quyền lực Nhà nước.
Thứ hai, hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự bao gồm những dạng thực
hiện pháp luật ở mức độ cao: áp dụng pháp luật và sử dụng pháp luật – do các dạng
thực hiện pháp luật này gắn với chức năng, nghề nghiệp của những người tiến hành
tố tụng. Trong khi đó, những hoạt động tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự
bao gồm cả các dạng thực hiện pháp luật ở mức độ thấp, gắn với nghĩa vụ, trách
nhiệm công dân của những người tham gia tố tụng (tuân thủ pháp luật – kiềm chế
không tiến hành những hoạt động mà pháp luật cấm, chấp hành pháp luật – thực
hiện nghĩa vụ một cách tích cực)6.
6

Lê Lan Chi (2007), “Phân biệt khái niệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật và các khái niệm liền kề”, Tạp
chí Nghề luật, số 5/2007.

.d o

m


o

o

c u -tr a c k

C
w

w

w

.d o

m

C

lic

k

to

bu

11
w


w

w

w

y

y

N

O
W

!

XC

er

O
W

F-

w

PD


h a n g e Vi
e

!

XC

er

PD

F-

c u -tr a c k

.c


h a n g e Vi
e

N
bu
to
k
lic
.c

Từ những phân tích trên, theo chúng tôi thì: Kiểm sát việc tuân theo pháp

luật trong tố tụng hình sự là việc kiểm tra, giám sát của Viện kiểm sát đối với các
hoạt động cụ thể của các cơ quan, người tiến hành tố tụng hình sự, của các cơ
quan khác được giao một số thẩm quyền điều tra trong quá trình tố tụng hình sự,
của người tham gia tố tụng hình sự hoặc của các cá nhân, cơ quan, tổ chức khác
trong tố tụng hình sự.
1.1.3. Khái niệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố
tụng hình sự đối với bị can, bị cáo là người chưa thành niên
Trong vụ án có bị can, bị cáo là NCTN, ngoài việc thực hiện chức năng kiểm
sát việc tuân theo pháp luật nói chung như vụ án thông thường khác, VKS còn có
chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng trong
việc tuân theo các quy định của BLTTHS và các văn bản pháp lý có liên quan nhằm
đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của NCTN là bị can, bị cáo trong vụ án. Tránh
trường hợp bị can, bị cáo là NCTN bị áp dụng những biện pháp mà BLTTHS cấm
áp dụng hoặc hạn chế áp dụng như tạm giam, áp dụng hình phạt quá nặng...
Khi thực hiện việc bảo vệ quyền con người, VKS thực hiện đồng thời hai
chức năng là thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Nếu
kiểm sát việc tuân theo pháp luật được thực hiện để phát hiện nhanh chóng các vi
phạm pháp luật trong hoạt động tố tụng thì thực hành quyền công tố là chức năng để
VKS buộc các cơ quan tiến hành tố tụng phải tuân theo pháp luật. Do tính chất khác
nhau của từng giai đoạn mà vai trò bảo vệ NCTN biểu hiện ở những mức độ khác
nhau, đặc biệt là giai đoạn điều tra và truy tố, xét xử.
Từ những phân tích trên có thể hiểu: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
hoạt động tố tụng đối với bị can, bị cáo là NCTN là việc kiểm tra, giám sát của Viện
kiểm sát đối với các hoạt động của các cơ quan, người tiến hành tố tụng và một số
cơ quan có thẩm quyền điều tra khác trong quá trình tố tụng hình sự khi điều tra,
truy tố, xét xử bị can, bị cáo là người chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến chưa đủ 18
tuổi.

.d o


m

o

o

c u -tr a c k

C
w

w

w

.d o

m

C

lic

k

to

bu

12

w

w

w

w

y

y

N

O
W

!

XC

er

O
W

F-

w


PD

h a n g e Vi
e

!

XC

er

PD

F-

c u -tr a c k

.c


h a n g e Vi
e

N
bu
to
k
lic
.c


Đối tượng của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố
tụng hình sự là hành vi xử sự của các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Tòa án) và một số cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động
điều tra trong vụ án có bị can, bị cáo là người từ đủ 14 đến chưa đủ 18 tuổi bị khởi
tố về hình sự hoặc bị Tòa án quyết định đưa ra xét xử…
Như vậy, từ khái niệm trên chúng ta có thể rút ra một số đặc điểm của hoạt động
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong vụ án có bị can, bị cáo là NCTN như sau:
Thứ nhất, đây chính là nội dung của chức năng kiểm sát các hoạt động tư
pháp nói chung của VKS được ghi nhận trong Hiến pháp và các văn bản khác. Đây
là một trong những chức năng cụ thể hóa của VKS, trong quá trình thực hiện chức
năng kiểm sát các hoạt động tư pháp của mình, trong vụ án có bị can, bị cáo là
NCTN, VKS tiến hành kiểm sát việc tuân theo pháp luật nhằm đảm bảo việc tuân
thủ pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt là quyền của NCTN.
Thứ hai, đối tượng của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong vụ
án có NCTN là bị can, bị cáo chính là các hoạt động cụ thể của các cơ quan tư pháp
và các cơ quan được giao một số thẩm quyền tư pháp trong quá trình tố tụng hình sự
đối với NCTN. Đây chính là nội dung quan trọng, có ý nghĩa phân biệt kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong vụ án hình sự nói chung và vụ án có NCTN nói riêng.
Điều này nhằm đảm bảo việc tuân theo pháp luật trong hoạt động tố tụng nói chung
và hoạt động tố tụng đối với NCTN nói riêng.
Thứ ba, phạm vi của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong vụ án
có bị can, bị cáo là NCTN chính là những vụ án được khởi tố, điều tra, truy tố, xét
xử mà người bị khởi tố, bị đưa ra xét xử là người đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự
cho đến khi họ dưới 18 tuổi. Đây là những trường hợp mà BLTTHS và các văn bản
pháp luật khác quy định là lứa tuổi chưa thành niên, cần được bảo đảm về các
quyền con người tối thiểu.
Thứ tư, mục đích của việc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong vụ án có bị
can, bị cáo là NCTN chính là việc đảm bảo sự tuân thủ pháp luật của các cơ quan
tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong việc điều tra, truy tố, xét xử đối


.d o

m

o

o

c u -tr a c k

C
w

w

w

.d o

m

C

lic

k

to

bu


13
w

w

w

w

y

y

N

O
W

!

XC

er

O
W

F-


w

PD

h a n g e Vi
e

!

XC

er

PD

F-

c u -tr a c k

.c


h a n g e Vi
e

N
bu
to
k
lic

.c

với vụ án có NCTN. Bên cạnh đó, mục đích của hoạt động kiểm sát này còn nhằm
đảm bảo các quyền của NCTN trong vụ án được bảo đảm một cách triệt để tuân
theo đầy đủ các quy định của BLTTHS, BLHS và các Công ước quốc tế mà Việt
Nam đã tham gia.
1.2. CƠ SỞ CỦA VIỆC QUY ĐỊNH VỀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP
LUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ ĐỐI VỚI BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ
NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN

1.2.1. Cơ sở lý luận
Trước hết, xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý của NCTN nói chung và NCTN
tham gia tố tụng trong các vụ án hình sự nói riêng mà hoạt động kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong những vụ án có bị can, bị cáo là NCTN cần phải tiến hành khác với
những vụ án có bị can bị cáo là người đã thành niên. Chính vì vậy mà pháp luật TTHS
có những quy định về thủ tục tố tụng đối với NCTN.
NCTN trong độ tuổi từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi là người đang ở độ tuổi
phát triển mạnh về thể chất và tinh thần. Đây là thời kì chuyển tiếp từ tuổi trẻ con
sang tuổi người lớn. Bên cạnh những NCTN đang cố gắng trau dồi kiến thức, nỗ lực
vươn lên tự hoàn thiện mình thì vẫn còn có một số thiếu sự rèn luyện nghiêm túc.
Họ luôn có thói quen dựa dẫm, thiếu cương quyết và không có khả năng độc lập
giải quyết những vấn đề đang đặt ra trước cuộc sống. Do đặc điểm tâm sinh lý của
NCTN như vậy nên khả năng nhận thức tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội đã thực hiện và khả năng tự kiềm chế nói chung còn yếu. Mặt khác, sự
hiểu biết về pháp luật của họ rất hạn chế, đồng thời do tuổi còn trẻ nên ý thức phạm
tội của NCTN nói chung chưa sâu sắc7. NCTN là người rất dễ bị kích động, lôi kéo
vào con đường phạm tội nhưng cũng là người dễ uốn nắn, giáo dục nếu chúng ta kịp
thời có những biện pháp đối với họ. Năng lực nhận thức ý nghĩa xã hội và năng lực
điều khiển hành vi theo những đòi hỏi của xã hội của họ có ảnh hưởng rất lớn đến
việc Nhà nước cần đưa ra nguyên tắc xử lý đối với họ như thế nào cho phù hợp.

Chính từ đặc điểm phát triển tâm sinh lý không ổn định của NCTN một mặt nó làm
7

Dương Tuyết Miên (2003), Quyết định hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam, Luận án tiến sỹ luật học,
Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội

.d o

m

o

o

c u -tr a c k

C
w

w

w

.d o

m

C

lic


k

to

bu

14
w

w

w

w

y

y

N

O
W

!

XC

er


O
W

F-

w

PD

h a n g e Vi
e

!

XC

er

PD

F-

c u -tr a c k

.c


h a n g e Vi
e


N
bu
to
k
lic
.c

cho NCTN rất dễ lôi kéo vào con đường phạm tội, nhưng mặt khác nó hình thành
phẩm chất tâm lý tiêu cực nhưng không có tính bền vững, do vậy khả năng cải tạo
NCTN phạm tội trở thành công dân có ích cho xã hội có thể đạt được hiệu quả cao nếu
Nhà nước có những biện pháp xử lý thích hợp đối với họ. Chính vì vậy, hoạt động
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự đối với NCTN thì VKS cũng
cần phải kiểm sát chặt chẽ các vấn đề mang tính thủ tục và bắt buộc đối với vụ án có
NCTN này. Có như vậy, mới có thể đạt tới nhiệm vụ của TTHS đặt ra trong việc đảm
bảo các quyền và lợi ích chính đáng của NCTN khi tham gia vào các hoạt động tố
tụng, xác định sự thật khách quan của vụ án và giáo dục công dân tuân thủ pháp
luật, tôn trọng các quy tắc của cuộc sống xã hội.
Thứ hai, xuất phát từ chính sách hình sự của Nhà nước Việt Nam đối với
NCTN phạm tội. Chính vì vậy, nên hoạt động của VKS trong vụ án có bị can, bị
cáo cần phải được thực hiện một cách chặt chẽ, nhằm đảm bảo tốt nhất quyền của
NCTN bị buộc tội, thực hiện tốt chính sách của Nhà nước đối với NCTN.
Quan điểm của Nhà nước Việt Nam về vấn đề giải quyết đối với NCTN
phạm tội đó là: “Việc xử lý NCTN phạm tội chủ yếu nhằm giáo dục, giúp đỡ họ sửa
chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành công dân có ích cho xã hội” (Điều
69, khoản 1 BLHS). Điều đó cho thấy, Nhà nước Việt Nam luôn quan tâm đến
NCTN dù họ là người bị buộc tội. Mục đích chủ yếu của Nhà nước Việt Nam trong
việc xử lý hành vi phạm tội của NCTN là nhằm giúp đỡ, giáo dục họ sửa chữa sai
lầm, phát triển lành mạnh để trở thành công dân có ích cho xã hội. Tư tưởng chỉ đạo
của Đảng và Nhà nước Việt Nam đã được cụ thể hoá thành những nguyên tắc cơ

bản về đường lối xử lý những hành vi phạm tội của NCTN quy định tại Điều 69
BLHS. Quyền lợi của NCTN trong các hoạt động tố tụng thể hiện ở chỗ: Người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo là NCTN cần được đối xử theo cách thức phù hợp với đặc
điểm lứa tuổi, trên tinh thần tôn trọng nhân cách, phẩm giá và các quyền tự do cơ
bản của các em cũng như tăng cường lòng tôn trọng của trẻ em đối với các quyền
con người và các quyền tự do cơ bản của người khác nhằm mục đích giáo dục, thúc
đẩy sự tái hoà nhập của NCTN trong cộng đồng, tránh làm cho các em có những ác

.d o

m

o

o

c u -tr a c k

C
w

w

w

.d o

m

C


lic

k

to

bu

15
w

w

w

w

y

y

N

O
W

!

XC


er

O
W

F-

w

PD

h a n g e Vi
e

!

XC

er

PD

F-

c u -tr a c k

.c



h a n g e Vi
e

N
bu
to
k
lic
.c

cảm, mặc cảm với mọi người, với xã hội8.
Thứ ba, xuất phát chức năng, nhiệm vụ quyền hạn của VKS trong tố tụng
hình sự là đảm bảo các hoạt động TTHS được thực hiện đúng các quy định của
pháp luật cũng như đảm bảo quyền con người trong TTHS.
Như trên đã phân tích, bị can, bị cáo là NCTN nói riêng và NCTN trong tố tụng
hình sự nói chung là chủ thể đặc biệt cần được quan tâm và hỗ trợ từ các cơ quan tiến
hành tố tụng. VKSND là cơ quan nhà nước có chức năng thực hành quyền công tố
và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Trong TTHS, VKSND ngoài chức năng thực
hành quyền công tố để truy tố người thực hiện hành vi phạm tội ra trước Tòa án để
xét xử một cách nghiêm minh thì còn một chức năng rất quan trọng khác là chức
năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các hoạt động tư pháp. Trong TTHS
chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKS được thực hiện xuyên suốt từ
khi khởi tố vụ án đến khi bản án đã được thi hành bao gồm: hoạt động khởi tố, điều
tra, xét xử, thi hành án.
Với một đối tượng đặc thù, cần được quan tâm như NCTN, với chức năng hiến
định của VKS do đó, cần thiết phải có các quy định cụ thể về thủ tục tố tụng hình sự
đối với NCTN nói chung cũng như hoạt động của VKS trong tố tụng hình sự đối với
NCTN nói riêng. Quy định này góp phần bảo đảm quyền của bị can, bị cáo là NCTN
trong TTHS cũng như thực hiện tốt hơn chức năng của VKS trong TTHS.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn

Thứ nhất, xuất phát từ tình hình tội phạm là NCTN ở Việt Nam.
Sự tồn tại tình trạng tội phạm của NCTN cho tới ngày nay là một cơ sở chứng
minh cho sự cần thiết của các quy định về hình sự và TTHS đối với họ. Đồng thời việc
quy định thủ tục đặc biệt đối với NCTN nói chung và kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong vụ án có bị can, bị cáo là NCTN là một trong những biện pháp để hạn chế tình
trạng tội phạm ở NCTN. Bởi vì, bên cạnh tác dụng giáo dục NCTN, các biện pháp
cưỡng chế về mặt tố tụng còn có tác dụng nhất định đến việc ngăn chặn tội phạm.
8

Đỗ Thị Phượng- Lê Cảm (2004), “Tư pháp hình sự đối với NCTN: Những khía cạnh pháp lý hình sự,
TTHS, tội phạm học và so sánh luật học”, Phần thứ hai, Tạp chí TAND (21), Hà Nội. Trang 3

.d o

m

o

o

c u -tr a c k

C
w

w

w

.d o


m

C

lic

k

to

bu

16
w

w

w

w

y

y

N

O
W


!

XC

er

O
W

F-

w

PD

h a n g e Vi
e

!

XC

er

PD

F-

c u -tr a c k


.c


h a n g e Vi
e

N
bu
to
k
lic
.c

NCTN là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và tinh thần, mức độ nhận
thức về hành vi phạm tội còn hạn chế, do đó chịu tác động rất lớn từ những nguyên
nhân khách quan trong quá trình hình thành và phát triển hành vi phạm tội. Bên
cạnh những nguyên nhân xuất phát từ sự thiếu quan tâm, giáo dục của gia đình, nhà
trường và xã hội thì sự tác động tiêu cực của người thành niên đối với NCTN là
nguyên nhân rất quan trọng. Từ thực tiễn tình hình tội phạm NCTN như vậy luôn
đặt ra cho chúng ta câu hỏi làm thế nào để hạn chế đi đến loại trừ tình hình tội phạm
NCTN phạm tội ra khỏi đời sống xã hội? Khi đưa NCTN ra khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử, cần phải áp dụng các thủ tục tố tụng như thế nào cho phù hợp đối với đặc điểm
về lứa tuổi, mức độ nhận thức về hành vi phạm tội của NCTN mà vẫn có tác dụng tích
cực trong việc đấu tranh phòng và chống tội phạm là NCTN. Muốn vậy, Điều tra
viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán khi tiến hành tố tụng đối với người bị tạm giữ, bị
can, bị cáo là NCTN phải là những người có những hiểu biết về tình hình tội phạm của
NCTN, cũng như hoạt động đấu tranh phòng, chống tội phạm của NCTN thì mới có
thể đạt được các nhiệm vụ tố tụng đặt ra.
Thứ hai, xuất phát từ thực tiễn kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong vụ án

có bị can, bị cáo là NCTN.
Thực tế cho thấy, công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong vụ án có
bị can, bị cáo là NCTN ở Việt Nam đã đạt được những kết quả nhất định. Tỷ lệ bắt,
tạm giữ chuyển khởi tố duy trì ở tỷ lệ cao hơn trước, tình trạng bị can bỏ trốn hoặc
phạm tội mới đã giảm; công tác kiểm sát tạm giữ, tạm giam đã có nhiều kiến nghị
được chấp thuận và các vi phạm trong quá trình áp dụng đã được khắc phục đáng
kể; Tòa án đã hạn chế đến mức thấp nhất việc xét xử oan và bỏ lọt tội phạm; các vụ
án được đưa ra xét xử đúng thời hạn theo quy định của pháp luật, tránh tình trạng
tồn đọng án; tỷ lệ các bản án, quyết định bị sửa, huỷ... giảm. Tuy nhiên, vẫn còn
nhiều hạn chế trong công tác điều tra, truy tố, xét xử như các cơ quan tiến hành tố
tụng lạm quyền, chưa thực sự tôn trọng quyền lợi của người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo là NCTN, vẫn còn xảy ra một số trường hợp bị oan, sai...
Từ những vướng mắc trong thực tế trên nên hoạt động kiểm sát việc tuân

.d o

m

o

o

c u -tr a c k

C
w

w

w


.d o

m

C

lic

k

to

bu

17
w

w

w

w

y

y

N


O
W

!

XC

er

O
W

F-

w

PD

h a n g e Vi
e

!

XC

er

PD

F-


c u -tr a c k

.c


h a n g e Vi
e

N
bu
to
k
lic
.c

theo pháp luật trong giải quyết vụ án có bị can, bị cáo là NCTN của VKS càng có
một ý nghĩa quan trọng. Bởi vì, ngoài các quy định về kiểm sát hoạt động tố tụng
hình sự nói chung thì trong vụ án có bị can, bị cáo là NCTN, VKS còn có những vai
trò, nhiệm vụ quyền hạn nhất định cần phải được quy định một cách chặt chẽ.
1.3. Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUY ĐỊNH VỀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO
PHÁP LUẬT TRONG HOẠT ĐỘNG TỐ TỤNG HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN ĐỐI VỚI BỊ CAN, BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN

1.3.1. Ý nghĩa chính trị
Trong các quyền cơ bản của công dân thì các quyền về chính trị thể hiện rõ nhất
tính dân chủ của chế độ Nhà nước ta. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động
tố tụng hình sự có bị can, bị cáo là NCTN mang một ý nghĩa hết sức quan trọng. Quá
trình này không chỉ góp phần đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, đảm bảo
quyền con người đặc biệt quyền của NCTN phạm tội trong TTHS mà còn góp phần đảm

bảo cho quá trình TTHS được thực hiện một cách đúng luật, đúng trình tự theo quy định.
Tại Điều 107 của Hiến pháp năm 2013 đã quy định “Viện kiểm sát nhân dân
thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”. Với chức năng thực hành quyền
công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự, VKS đã góp phần
bảo vệ pháp chế trong hoạt động tư pháp hình sự, đồng thời đóng vai trò quan trọng
trong việc bảo vệ những quyền, lợi ích hợp pháp của NCTN phạm tội được ghi nhận
trong BLHS và BLTTHS nước ta. Qua đó, đạt được những yêu cầu mà Đảng và Nhà
nước đặt ra đối với việc xử lý NCTN phạm tội, giúp cho họ được giáo dục, cải tạo đủ
điều kiện trở lại làm người có ích cho xã hội. Như vậy, trong TTHS bất kỳ hoạt động tư
pháp nào đều có sự xuất hiện và có chức năng kiểm sát của VKS. Trong vụ án có bị
can, bị cáo là người chưa thành việc có VKS thực hành quyền công tố cũng như kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình tiến hành tố tụng có những đặc trưng cơ bản
khác nhau, tạo điều kiện thực hiện tốt nhất chức năng của đơn vị mình.
Khi thực hiện việc bảo vệ quyền con người nói chung và NCTN nói riêng trong
tố tụng hình sự VKS tiến hành đồng thời hai chức năng là thực hành quyền công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Nếu kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS

.d o

m

o

o

c u -tr a c k

C
w


w

w

.d o

m

C

lic

k

to

bu

18
w

w

w

w

y

y


N

O
W

!

XC

er

O
W

F-

w

PD

h a n g e Vi
e

!

XC

er


PD

F-

c u -tr a c k

.c


h a n g e Vi
e

N
bu
to
k
lic
.c

đối với những vụ án có bị can, bị cáo là NCTN để phát hiện nhanh chóng các vi phạm
trong hoạt động tố tụng thì thực hành quyền công tố là thực hành quyền năng để VKS
buộc cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng tuân thủ pháp luật, khắc phục
những vi phạm phát sinh trong quá trình tố tụng. Trong những vụ án NCTN là bị can,
bị cáo càng cần nắm chắc vai trò thực thành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo
pháp luật, bởi lẽ đây là những đối tượng đặc biệt cần được bảo vệ của xã hội. Quá trình
áp dụng pháp luật hình sự không chỉ nhằm trừng trị mà còn nhằm giáo dục, cải tạo yêu
cầu này còn có vai trò quan trọng hơn cả mục đích trừng trị.
1.3.2. Ý nghĩa pháp lý
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật nói chung là một trong những nguyên tắc
cơ bản của BLTTHS. Theo quy định của Điều 23 BLTTHS năm 2003 quy định:

“Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng hình sự có trách
nhiệm phát hiện kịp thời vi phạm pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng, áp dụng những biện pháp do Bộ luật
này quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ quan hoặc cá nhân
này”. Như vậy, trong quá trình giải quyết vụ án hình sự nói chung và vụ án có
NCTN tham gia nói riêng VKS thực hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp
luật của mình để đảm bảo việc xử lý vụ án là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong vụ án có bị can, bị cáo là NCTN còn
tác động tích cực đến chất lượng hoạt động điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan
tiến hành tố tụng và bảo đảm cho việc xác định sự thật khách quan của vụ án. Nếu
không thực hiện tốt kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong vụ án có bị can, bị cáo là
NCTN thì sẽ dẫn đến nhiều vi phạm pháp luật TTHS, bởi vì nó hạn chế quyền của
họ và ảnh hưởng đến việc ra các quyết định tố tụng của các cơ quan tiến hành tố
tụng có căn cứ và hợp pháp.
Thực hiện tốt quá trình kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong vụ án có bị can,
bị cáo là NCTN sẽ tránh được đến mức thấp nhất tình trạng oan sai trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự. VKS là cơ quan không chỉ có chức năng công tố mà bên cạnh đó

.d o

m

o

o

c u -tr a c k

C
w


w

w

.d o

m

C

lic

k

to

bu

19
w

w

w

w

y


y

N

O
W

!

XC

er

O
W

F-

w

PD

h a n g e Vi
e

!

XC

er


PD

F-

c u -tr a c k

.c


h a n g e Vi
e

N
bu
to
k
lic
.c

còn có chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp. Do đó, hoạt động điều tra, truy tố,
xét xử đối với vụ án có bị can, bị cáo là NCTN cần có sự kiểm sát của VKS.
1.3.3. Ý nghĩa xã hội
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong vụ án có bị can, bị cáo là NCTN có
một ý nghĩa xã hội hết sức sâu sắc. Ý nghĩa xã hội ở đây thể hiện trên các phương
diện khác nhau. Trước hết, nó thể hiện tính nhân đạo XHCN. Việc VKS thực hiện tốt
chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật sẽ giúp bảo đảm tốt hơn quyền con người
của NCTN trong tố tụng hình sự. Trong quá trình thực hiện chức năng kiểm sát việc
tuân theo pháp luật, nếu thấy các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện không đúng các
thủ tục tố tụng đối với NCTN thì VKS sẽ phát hiện và kiến nghị, yêu cầu kịp thời để

các cơ quan tiến hành tố tụng sửa chữa và tuân thủ đúng quy định của luật.
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong vụ án có bị can, bị cáo là NCTN,
ngoài việc thể hiện tính nhân đạo XHCN còn thể hiện tính dân chủ. Người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo là NCTN thường ở trong trạng thái bất lợi hơn so với người thành
niên về thể chất cũng như sự hiểu biết về các mặt của đời sống xã hội. Vì vậy, việc
VKS tiến hành các kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng đối với NCTN là
hết sức cần thiết nhằm đảm bảo quyền tự do, dân chủ của họ trong quá trình tham
gia tố tụng. Ví dụ, như việc pháp luật cho phép người đại diện hợp pháp của người
bị tạm giữ, bị can, bị cáo là NCTN có thể lựa chọn người bào chữa hoặc tự mình
bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Sự tham gia của người đại diện hợp
pháp hay của người bào chữa là để bảo vệ quyền và lợi ích cho cho người bị tạm
giữ, bị can, bị cáo là NCTN. Sự dân chủ còn thể hiện ở việc các chủ thể (người bị
tạm giữ, bị can, bị cáo là NCTN, người đại diện hợp pháp, người bào chữa) được
quyền sử dụng tất cả những biện pháp gì mà pháp luật không cấm để chống lại, bác
bỏ, phủ nhận lời buộc tội của CQĐT, VKS hoặc Toà án để giảm nhẹ trách nhiệm
hình sự của mình trong vụ án.

.d o

m

o

o

c u -tr a c k

C
w


w

w

.d o

m

C

lic

k

to

bu

20
w

w

w

w

y

y


N

O
W

!

XC

er

O
W

F-

w

PD

h a n g e Vi
e

!

XC

er


PD

F-

c u -tr a c k

.c


×