ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
PHẠM VŨ NGỌC QUANG
NGUYÊN TẮC KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO
PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
Chuyên ngành: LUẬT DÂN SỰ
Mã số: 60 38 30
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS Trần Anh Tuấn
HÀ NỘI - 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn
học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của
Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Phạm Vũ Ngọc Quang
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Bảng viết tắt
MỞ ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài 3
3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài luận văn 4
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài luận văn 4
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài luận văn 5
6. Những đóng góp mới của luận văn 5
7. Kết cấu của luận văn 6
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC KIỂM SÁT
VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ 7
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng dân sự 7
1.1.1. Khái niệm nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng
dân sự 7
1.1.2. Ý nghĩa của nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng dân sự 10
1.2. Cơ sở của nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng dân sự 11
1.2.1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
tố tụng dân sự 11
1.2.2. Cơ sở thực tiễn của việc ghi nhận nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong trong tố tụng dân sự 17
1.3. Mối quan hệ của nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng dân sự với các nguyên tắc khác trong tố tụng dân sự 27
1.3.1. Mối quan hệ với nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa
trong tố tụng dân sự 27
1.3.2. Mối quan hệ với nguyên tắc quyền yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp 29
1.3.3. Mối quan hệ với nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của
đương sự 31
1.3.4. Mối quan hệ với nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự 33
1.3.5. Mối quan hệ với nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan, người tiến
hành tố tụng dân sự 34
1.4. Sự hình thành và phát triển của nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong tố tụng dân sự trong pháp luật Việt Nam 35
1.4.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1959 35
1.4.2. Giai đoạn từ năm 1960 đến 1980 39
1.4.3. Giai đoạn từ 1980 đến 2004 40
1.4.4. Giai đoạn từ 2004 đến nay 43
Kết luận chương 1 45
Chương 2: NỘI DUNG NGUYÊN TẮC KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO
PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ THEO QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ HIỆN HÀNH 47
2.1. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại Toà án cấp sơ thẩm 47
2.1.1. Kiểm sát việc thụ lý vụ việc dân sự 47
2.1.2. Kiểm sát việc ra bản án, quyết định tố tụng 50
2.1.3. Tham gia phiên tòa, phiên họp giải quyết vụ việc dân sự 55
2.2. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại Toà án cấp phúc thẩm và
thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm 76
2.2.1. Kiểm sát thông qua việc kháng nghị phúc thẩm và tham gia phiên
tòa, phiên họp phúc thẩm 76
2.2.2. Kiểm sát thông qua việc kháng nghị và tham gia phiên tòa giám đốc
thẩm, tái thẩm 85
2.3. Thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị 90
2.3.1. Thực hiện quyền yêu cầu 90
2.3.2. Thực hiện quyền kiến nghị 92
Kết luận chương 2 94
Chương 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC KIỂM SÁT
VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
VÀ KIẾN NGHỊ 96
3.1. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong tố tụng dân sự 96
3.1.1. Thực tiễn thực hiện kiểm sát việc thụ lý vụ việc dân sự 96
3.1.2. Thực tiễn thực hiện việc kiểm sát bản án, quyết định 99
3.1.3. Thực tiễn thực hiện việc tham gia phiên tòa, phiên họp 104
3.1.4. Thực tiễn thực hiện thẩm quyền kháng nghị bản án, quyết định của
Tòa án 108
3.2. Các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện
có hiệu quả nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
tố tụng dân sự 114
3.2.1. Các yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện
nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự 115
3.2.2. Các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong tố tụng dân sự 119
3.2.3. Các kiến nghị bảo đảm tổ chức thực hiện nguyên tắc kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong TTDS 127
Kết luận chương 3 129
KẾT LUẬN CHUNG 131
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 135
BẢNG VIẾT TẮT
BLTTDS
:
Bộ luật tố tụng Dân sự
CHXHCN
:
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
KSV
:
Kiểm sát viên
KSVTTPL
:
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật
PLTTGQCVADS
:
Phap lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự
PLTTGQCVAKT
:
Phap lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế
PLTTGQCTCLĐ
:
Phap lệnh thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động
TAND
:
Tòa án nhân dân
TTDS
:
Tố tụng dân sự
XHCN
:
Xã hội chủ nghĩa
VKS
:
Viện kiểm sát
VKSND
:
Viện kiểm sát nhân dân
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã làm cuộc cách mạng thành công-
Cách mạng Tháng tám năm 1945. Từ đó, Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà,
một Nhà nước kiểu mới, Nhà nước Công nông đầu tiên ở Đông Nam Á ra đời.
Trong hơn 65 năm xây dựng và không ngừng hoàn thiện bộ máy Nhà nước, Đảng
và Nhà nước ta luôn quan tâm đến việc thành lập, kiện toàn và cải cách các cơ quan
tư pháp, trong đó có Viện kiểm sát nhân dân (VKSND).
Là một trong bốn hệ thống cơ quan Nhà nước trong bộ máy Nhà nước ta,
VKSND có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm pháp chế thống nhất, góp phần
thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của Đảng và Nhà nước trong mỗi giai đoạn cách
mạng của đất nước. Trước yêu cầu nhiệm vụ của giai đoạn mới, trong những năm
qua, cùng với việc thực hiện cải cách, hoàn thiện bộ máy Nhà nước nói chung,
Đảng và Nhà nước ta đã và đang đẩy mạnh thực hiện chủ trương cải cách tư pháp,
trong đó có tổ chức và hoạt động của VKSND với yêu cầu VKSND tập trung thực
hiện tốt chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp.
Chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp là vấn đề có tính đặc thù, xuất phát từ
yêu cầu khách quan, gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của VKSND,
được thực hiện trong một số lĩnh vực, trong đó có hoạt động kiểm sát việc thuân
theo pháp luật (KSVTTPL) trong tố tụng dân sự (TTDS). Xét về mặt lịch sử, ở nước
ta, thực chất sự tham gia của Viện kiểm sát (VKS) vào quá trình TTDS giải quyết
các vụ việc dân sự đã được ghi nhận từ thời kỳ cơ quan Công tố - tiền thân của
VKSND. Trải qua các giai đoạn phát triển của đất nước, vị trí, vai trò của VKS
trong TTDS được ghi nhận ở những mức độ khác nhau, từ việc quy định những
quyền hạn của VKS trong TTDS rải rác ở các văn bản pháp luật và các văn bản
hướng dẫn thi hành đến việc khẳng định, ghi nhận KSVTTPL trong TTDS là một
trong những nguyên tắc cơ bản của TTDS và là cơ sở để quy định trách nhiệm,
thẩm quyền cụ thể của VKSND trong TTDS.
2
Thực hiện chủ trương cải cách tư pháp, thời gian qua đã có quan điểm cho
rằng, trong lĩnh TTDS không cần có sự tham gia can thiệp của VKSND, bởi vì đây
là lĩnh vực chỉ liên quan đến lợi ích của các đương sự và là việc của các bên
đương sự. VKSND can thiệp vào lĩnh vực TTDS là trái với nguyên tắc quyền
quyết định, tự định đoạt của đương sự. Đây cũng là lý do mà BLTTDS năm 2004
đã hạn chế phạm vi KSVTTPL trong TTDS của VKSND. Tuy nhiên, sau hơn 5
năm thi hành, bên cạnh thành tựu đạt được, BLTTDS năm 2004 đã bộc lộ những
hạn chế, bất cập mà một trong những hạn chế, bất cập đó là mặc dù tiếp tục quy
định KSVTTPL là nguyên tắc cơ bản của TTDS và VKSND là cơ quan tiến hành
tố tụng, nhưng đã loại bỏ một số thẩm quyền của VKSND, hạn chế phạm vi hoạt
động kiểm sát so với quy định của pháp luật trước đó, chưa có cơ chế thích hợp để
VKS thực hiện được đầy đủ, hiệu quả chức năng, nhiệm vụ của mình theo quy
định của Hiến pháp và Luật tổ chức VKSND. Trong khi đó, với việc đẩy mạnh
công cuộc đổi mới và hội nhập đất nước hiện nay, các tranh chấp dân sự phát sinh
ngày càng nhiều với tính chất ngày càng phức tạp thì vấn đề bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân mà trước hết là lợi ích của Nhà nước, lợi ích
công cộng, bảo đảm việc giải quyết các vụ việc dân sự kịp thời và đúng pháp luật
trở thành các yêu cầu quan trọng cần được giải quyết trong quá trình thực hiện
công cuộc cải cách tư pháp. Mặt khác, xuất phát từ điều kiện kinh tế-xã hội cụ thể
của đất nước, từ đặc điểm chính trị, từ nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ
máy Nhà nước ta cũng như lịch sử quá trình hình thành, phát triển, những thành
tựu và hiệu quả trong hoạt động thực hiện chức năng của VKSND cho thấy cần
thiết phải có sự can thiệp của VKSND vào quá trình tố tụng giải quyết các vụ việc
dân sự theo hướng mở rộng phạm vi hoạt động kiểm sát, tạo cơ chế thuận lợi để
VKSND thực hiện có hiệu quả chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh
vực dân sự. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, khi mà Đảng và Nhà nước ta đang
đẩy mạnh công cuộc cải cách tư pháp, với yêu cầu VKSND phải thực hiện có hiệu
quả và tốt hơn chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp, thì việc nghiên cứu để
làm rõ cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn, nội dung của nguyên tắc KSVTTPL trong
3
TTDS và thực tiễn thực hiện nguyên tắc, trên sơ sở đó kiến nghị đề xuất các kiến
nghị tiếp tục hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc
này trong TTDS là rất cần thết, có ý nghĩa quan trọng về lý luận và thực tiễn.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Nguyên tắc
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự” làm đề tài luận văn
thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước tình hình đẩy mạnh cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay, đã thu hút sự
quan tâm bàn luận của các chuyên gia pháp lý, những người hoạt động thực tiễn
trong các cơ quan tư pháp về hoạt động của VKSND thể hiện qua các công trình
nghiên cứu, bài viết về VKSND, như: “Vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong tố
tụng dân sự theo yêu cầu cải cách tư pháp”, của tập thể tác giả, do TS. Khuất Văn
Nga làm chủ biên, Nhà xuất bản Tư pháp 2008; “Tổ chức bộ máy và chức năng,
nhiệm vụ của Viện kiểm sát trong tiến trình cải cách tư pháp” của TS. Lê Hữu Thể,
Tạp chí Kiểm sát số 14-16/2008; “Một số ý kiến về đổi mới tổ chức Viện kiểm sát
trong chiến lược cải cách tư pháp” của PGS. TS. Trương Đắc Linh, Tạp chí Kiểm
sát số 14-16/2008; “Bàn về thẩm quyền khởi tố (khởi kiện) của Viện kiểm sát trong
tố tụng dân sự” của TS. Nguyễn Ngọc Khánh, Tạp chí Kiểm sát số 24/2010; “Viện
kiểm sát hay Viện công tố” của PGS, TS. Nguyễn Thái Phúc, Tạp chí Khoa học
Pháp lý số 2 (39)/2007; “Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự”
của Phạm Vũ Ngọc Quang, Tạp chí Kiểm sát số 3/2004
Nghiên cứu những công trình, tài liệu này cho thấy, nhìn chung tác giả tập
trung nghiên cứu các vấn đề chung về chức năng, nhiệm vụ, mô hình tổ chức bộ máy
và một số quyền hạn của VKS trong TTDS mà chưa nghiên cứu một cách hệ thống
về nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS. Vì vậy, tác giả vẫn mạnh dạn chọn đề tài
“Nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự” làm đề tài luận
văn thạc sĩ của mình, với mong muốn nghiên cứu một cách đầy đủ, toàn diện về
nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS, từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện
pháp luật và bảo đảm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS.
4
3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài luận văn
3.1. Mục đích của việc nghiên cứu đề tài luận văn
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài nhằm góp phần làm rõ những vấn đề lý
luận, nội dung và thực tiễn thực hiện nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS; trên cơ sở
đó đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện và thực hiện hiệu quả nguyên tắc theo yêu
cầu cải cách tư pháp.
3.2. Nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài luận văn
Để đạt được mục đích đó, việc nghiên cứu đề tài luận văn có các nhiệm vụ
cơ bản sau:
- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề về lý luận như khái niệm, ý nghĩa, cơ sở
của nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS và mối quan hệ giữa nguyên tắc này với các
nguyên tắc cơ bản khác của TTDS.
- Nghiên cứu và tham khảo pháp luật một số nước trên thế giới về vai trò,
trách nhiệm của Viện công tố/VKS trong TTDS để thấy được những ưu điểm phù
hợp với điều kiện của nước ta cần tiếp thu; làm rõ lịch sử hình thành và phát triển
nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS.
- Nghiên cứu làm rõ nội dung nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS, các quy
định của pháp luật TTDS cụ thể hoá nguyên tắc này và chỉ ra những hạn chế, bất
cập của pháp luật quy định về nguyên tắc.
- Khảo sát thực tiễn thực hiện nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS và chỉ
ra những hạn chế, khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện nguyên tắc này
trong thực tiễn.
- Trên cơ sở những hạn chế, bất cập của pháp luật và những hạn chế, khó
khăn, vướng mắc trong thực tiễn thực hiện nguyên tắc, đề xuất các kiến nghị tiếp
tục hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thực hiện có hiệu quả nguyên tắc KSVTTPL
trong TTDS.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận chung về nguyên
tắc KSVTTPL trong TTDS; nội dung nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS và các
5
quy định của BLTTDS (đã được sửa đổi, bổ sung năm 2011) cụ thể hóa nguyên tắc
này và thực tiễn thực hiện. Ngoài ra, việc nghiên cứu cũng được tiến hành đối với
các quy định tương ứng của pháp luật một số nước về vai trò, trách nhiệm của Viện
công tố/VKS để tham khảo.
Đề tài “Nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự”
là một đề tài có nội dung khá rộng. Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, với
thời gian triển khai nghiên cứu hạn chế, do vậy phạm vi nghiên cứu đề tài chỉ tập
trung vào một số vấn đề lý luận cơ bản về nguyên tắc KSVTTPL trong quá trình
giải quyết vụ việc dân sự tại Toà án như khái niệm, ý nghĩa của nguyên tắc, cơ sở
của việc quy định nguyên tắc, mối quan hệ giữa nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS
với các nguyên tắc cơ bản khác của TTDS; những nội dung cơ bản của nguyên tắc
trong pháp luật mà không đi sâu nghiên cứu về việc KSVTTPL trong thi hành án
dân sự. Ngoài ra, khi triển khai nghiên cứu về thực tiễn thực hiện nguyên tắc, luận
văn có những nghiên cứu, đánh giá tổng quan về thực tiễn KSVTTPL trong TTDS
nói chung và từ đó lồng ghép phân tích về thực tiễn thực hiện tại tỉnh Quảng Trị
trong những năm gần đây. Việc định hướng nghiên cứu này thực sự có ý nghĩa thiết
thực và phục vụ trực tiếp cho công tác kiểm sát giải quyết án dân sự tại địa phương
nơi học viên công tác.
5. Phương pháp nghiên cứu đề tài luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lê
nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; những quan điểm cơ bản
của Đảng và Nhà nước ta trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng, phát triển đất nước,
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam và cải cách tư
pháp ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài còn được
thực hiện bằng các phương pháp nghiên cứu khoa học như phân tích, thống kê, so
sánh, tổng hợp, tham khảo ý kiến chuyên gia …
6. Những đóng góp mới của luận văn
Có thể nói, đề tài luận văn là công trình nghiên cứu khoa học toàn diện, có hệ
thống và mới nhất ở cấp độ luận văn thạc sĩ về nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS.
Đề tài luận văn có những đóng góp về mặt khoa học và thực tiễn sau đây:
6
- Làm rõ khái niệm nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS và cơ sở lý luận, cơ
sở thực tiễn của việc xác định KSVTTPL trong TTDS là một trong những nguyên
tắc cơ bản của Luật TTDS trong điều kiện cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.
- Làm rõ nội dung cơ bản của nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS quy định
tại Điều 21 và một số quy định cụ thể của BLTTDS năm 2004 (đã được sửa đổi, bổ
sung năm 2011) có liên quan đến trách nhiệm, quyền hạn của VKSND trong TTDS.
- Chỉ ra được những hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật về nguyên
tắc KSVTTPL trong TTDS; những kết quả đạt được và hạn chế, vướng mắc, khó
khăn trong thực tiễn thực hiện nguyên tắc.
- Đề xuất được các nội dung xây dựng, hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực
hiện có hiệu quả nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS.
Với kết quả nghiên cứu, đề tài luận văn sẽ góp phần làm sáng tỏ những vấn
đề lý luận cơ bản về nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS và là cơ sở để tiếp tục ghi
nhận, khẳng định KSVTTPL trong TTDS là một trong những nguyên tắc cơ bản của
TTDS Việt Nam. Các kiến nghị mà tác giả đưa ra trong đề tài luận văn là cơ sở để
tiếp tục hoàn thiện pháp luật, giúp cho những người làm công tác thực tiễn về kiểm
sát việc giải quyết các vụ việc dân sự xác định đúng và sử dụng đầy đủ trách nhiệm,
quyền hạn của VKS trong TTDS, góp phần thực hiện hiệu quả nguyên tắc
KSVTTPL trong TTDS.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm có 03 chương, 09 tiết.
7
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC KIỂM SÁT
VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Khái niệm và ý nghĩa của nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong tố tụng dân sự
1.1.1. Khái niệm nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng dân sự
Bất kỳ hoạt động có mục đích nào muốn đạt được kết quả, đòi hỏi những
người tham gia hoạt động phải xác định được các nguyên tắc hoạt động và tuân thủ
triệt để nó. Theo nghĩa chung nhất, nguyên tắc được hiểu là “điều cơ bản định ra,
nhất thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm” [65, tr 694]. Như vậy, nguyên tắc
được hiểu với nghĩa là tư tưởng chỉ đạo, qui tắc cơ bản của một hoạt động nào đó.
Hoạt động xây dựng và thực hiện pháp luật là những hoạt động thực tiễn có tính
khoa học, nên cũng phải tuân theo các nguyên tắc pháp luật nhất định. Đó là những
tư tưởng chỉ đạo cơ bản, mang tính xuất phát điểm, định hướng, xuyên suốt toàn bộ
hoạt động xây dựng và thực hiện pháp luật.
TTDS là toàn bộ hoạt động của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố
tụng, người tham gia tố tụng và cá nhân, cơ quan nhà nước, tổ chức khác nhằm giải
quyết vụ việc dân sự nhanh chóng, kịp thời và đúng pháp luật, qua đó bảo vệ lợi ích
của nhà nước, tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Quá trình
TTDS là quá trình hoạt động thực hiện pháp luật (quá trình giải quyết vụ việc dân
sự) luôn phải tuân theo nguyên tắc, trình tự, thủ tục do pháp luật TTDS quy định.
Luật TTDS là một trong những ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật
của Nhà nước ta. Hoạt động xây dựng và thực hiện Luật TTDS một mặt cũng phải
tuân theo những nguyên tắc chung của pháp luật, nhưng mặt khác chịu sự chi phối,
chỉ đạo bởi các nguyên tắc đặc thù chuyên ngành phù hợp với tính chất, đặc điểm
các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của nó. Để thực hiện được mục đích
giải quyết vụ việc dân sự nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật, đảm bảo lợi ích
8
của nhà nước, tập thể, các quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức thì cần
phải có những định hướng trong việc xây dựng và thực hiện pháp luật TTDS.
Những định hướng này thể hiện quan điểm, đường lối và chính sách của Nhà nước
ta trong quá trình tố tụng giải quyết các vụ việc dân sự, được quy định trong luật và
được gọi là nguyên tắc của Luật TTDS. Theo đó, nguyên tắc của Luật TTDS được
hiểu là những tư tưởng chỉ đạo, định hướng xuyên suốt trong toàn bộ quá trình
nhận thức, xây dựng và thực hiện pháp luật TTDS.
Các nguyên tắc cơ bản của Luật TTDS được ghi nhận trong BLTTDS năm
2004 thành một chế định riêng biệt (tại Chương II). Tổng cộng, BLTTDS năm 2004
(được sửa đổi, bổ sung năm 2011) quy định 23 nguyên tắc cơ bản của Luật TTDS
Việt Nam, từ Điều 3 đến Điều 24 (bao gồm nguyên tắc bảo đảm quyền tranh luận
trong TTDS mới được bổ sung tại Điều 23a). Trong số 23 nguyên tắc cơ bản,
nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS được quy định tại Điều 21 BLTTDS.
Với quy định tại Điều 21 BLTTDS đã khẳng định VKSND là cơ quan chịu
trách nhiệm KSVTTPL trong TTDS; các hoạt động TTDS của những người tiến
hành TTDS và những người tham gia TTDS là đối tượng của hoạt động kiểm sát
của VKSND. Cụ thể hóa nguyên tắc này, BLTTDS cũng đã có những quy định cụ
thể về trách nhiệm, thẩm quyền của VKSND trong TTDS.
Pháp luật TTDS quy định tương đối đầy đủ các quyền và nghĩa vụ của các
chủ thể. Khi tham gia quan hệ pháp luật TTDS, các chủ thể thực hiện các quyền và
nghĩa vụ do pháp luật quy định để bảo vệ quyền, lợi ích của chính mình hoặc của tổ
chức, cá nhân khác. Tuy nhiên, hoạt động TTDS - hoạt động giải quyết các vụ việc
dân sự là hoạt động thực tiễn khá đa dạng và phức tạp, dễ xâm phạm đến quyền, lợi
ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân nên đòi hỏi phải có một cơ chế thích hợp để kiểm
tra, giám sát nhằm bảo đảm cho việc giải quyết các vụ việc dân sự được kịp thời,
đúng pháp luật, đó là hoạt động KSVTTPL của Toà án và các chủ thể khác của
TTDS do VKSND thực hiện. Nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS là một bảo đảm
pháp lý quan trọng để hoạt động TTDS được tiến hành theo đúng quy định của pháp
luật TTDS, nó phải được quán triệt xuyên suốt trong quá trình TTDS.
9
KSVTTPL trong TTDS là giám sát, kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ
đối với hành vi của các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng, đối với văn bản áp
dụng pháp luật giải quyết vụ việc dân sự của chủ thể tiến hành tố tụng và đó là hình
thức thực hiện quyền lực Nhà nước, một trong những hoạt động thực hiện chức
năng kiểm sát các hoạt động tư pháp của VKSND. Mục đích của hoạt động
KSVTTPL trong TTDS là nhằm bảo đảm cho các hành vi xử sự của các chủ thể tiến
hành, tham gia tố tụng và văn bản áp dụng pháp luật giải quyết vụ việc dân sự được
thực hiện theo quy định của pháp luật. Nội dung hoạt động KSVTTPL trong TTDS
là việc VKSND sử dụng các biện pháp, quyền năng pháp lý do BLTTDS quy định
để kịp thời phát hiện và loại bỏ vi phạm, tiêu cực của cơ quan, người tiến hành tố
tụng và những người tham gia tố tụng, nhằm bảo đảm cho pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất, bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng, quyền
và lợi ích hợp pháp của các đương sự.
Với những phân tích trên đây, có thể đưa ra định nghĩa về nguyên tắc
KSVTTPL trong tố tụng dân sự như sau:
Nguyên tắc KSVTTPL trong tố tụng dân sự là tư tưởng chỉ đạo, xuyên suốt
trong quá trình TTDS; là cơ chế pháp lý (kiểm tra, giám sát) do chủ thể duy nhất là
VKSND thực hiện thông qua việc sử dụng các biện pháp, quyền năng pháp lý do
pháp luật TTDS quy định để ngăn ngừa, phát hiện và loại bỏ vi phạm, tiêu cực của
cơ quan, người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố tụng nhằm bảo đảm
cho việc giải quyết vụ việc dân sự nhanh chóng, kịp thời và đúng quy định của pháp
luật, bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của
các đương sự.
Từ định nghĩa trên đây, có thể rút ra các đặc điểm của nguyên tắc KSVTTPL
trong TTDS, đó là: (1) là những tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt quá trình TTDS giải
quyết các vụ việc dân sự; (2) là cơ chế pháp lý (kiểm tra, giám sát trong TTDS) do
chủ thể duy nhất là VKSND thực hiện; (3) nội dung là việc sử dụng các biện pháp,
quyền năng pháp lý do BLTTDS quy định để ngăn ngừa, phát hiện và loại bỏ vi
phạm, tiêu cực của cơ quan, người tiến hành tố tụng và những người tham gia tố
10
tụng; (4) mục đích là nhằm bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự nhanh chóng,
kịp thời và đúng pháp luật, bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và
lợi ích hợp pháp của các đương sự; (5) được ghi nhận và thể hiện thông qua các quy
phạm của pháp luật TTDS.
1.1.2. Ý nghĩa của nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng dân sự
Việc ghi nhận KSVTTPL trong TTDS là một trong những nguyên tắc cơ bản
của TTDS có ý nghĩa rất quan trọng, thể hiện ở các nội dung sau đây:
Một là, nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS là sự cụ thể hóa quy định của
Điều 126 và Điều 137 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) về nhiệm
vụ và chức năng của VKSND:
“VKSND nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong phạm vi chức
năng của mình, có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế XHCN, bảo vệ chế độ XHCN và quyền
làm chủ của nhân dân, bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng,
tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân”.
“VKSND tối cao thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp,
góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Các VKSND địa phương, các VKS quân sự thực hành quyền công tố và kiểm
sát các hoạt động tư pháp trong phạm vi trách nhiệm do luật định”.
Hai là, Nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS là một hình thức kiểm soát việc
thực hiện quyền lực nhà nước trong lĩnh vực hoạt động tư pháp giải quyết các vụ
việc dân sự. Đồng thời là cơ chế pháp lý (kiểm tra, giám sát) bảo đảm cho việc giải
quyết vụ việc dân sự nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật, bảo vệ lợi ích của nhà
nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Hoạt động
KSVTTPL trong TTDS góp phần phát hiện và đẩy lùi sự lạm quyền, những tiêu
cực, vi phạm trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án, người tiến hành
tố tụng và người tham gia tố tụng, qua đó bảo vệ tính tối thượng của pháp luật, đảm
bảo cho pháp luật được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất.
Ba là, nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS thể hiện sự can thiệp của nhà
11
nước vào lĩnh vực TTDS trong đó có việc sử dụng các biện pháp, quyền năng
pháp lý của VKSND.
Bốn là, nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS là nền tảng, định hướng, cơ sở
cho việc xây dựng các quy định cụ thể về trách nhiệm, quyền hạn và các biện pháp
mà VKSND tiến hành KSVTTPL đối với cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành
tố tụng, người tham gia tố tụng trong quá trình TTDS giải quyết vụ việc dân sự.
Năm là, việc vi phạm nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS có thể là căn cứ để
huỷ bỏ phán quyết của Toà án.
1.2. Cơ sở của nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố
tụng dân sự
1.2.1. Cơ sở lý luận của nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
tố tụng dân sự
Việc ghi nhận nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS xuất phát từ những cơ sở
lý luận sau đây:
Thứ nhất, xuất phát từ nhu cầu hoạt động kiểm tra, giám sát đối với các cơ
quan nhà nước trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ.
Lịch sử hình thành và phát triển bộ máy nhà nước ta hơn 65 năm qua đã
khẳng định rằng, để hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước đạt hiệu quả cao, đòi
hỏi phải có cơ chế kiểm tra, giám sát. Và bất kỳ cơ quan nhà nước nào cũng đều tồn
tại (có) bộ phận thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát của cơ quan đó mà chúng ta
thường gọi là cơ chế tự kiểm tra, giám sát từ bên trong của hệ thống. Điều này hoàn
toàn phù hợp với lý luận về quy trình quản lý, trong đó bao gồm các khâu: Nhận
thức chủ thể; ra quyết định; tổ chức thực hiện quyết định; kiểm tra (giám sát) việc
thực hiện quyết định và cuối cùng là đánh giá hiệu quả việc thực hiện quyết định và
tổng kết kinh nghiệm [23]. Như vậy, cơ chế kiểm tra, giám sát bên trong, hay còn
gọi là tự kiểm tra, giám sát hoạt động của chính mình (cơ quan, tổ chức) là một
khâu trong quy trình quản lý và đó là nhu cầu tự thân, khách quan. Tuy nhiên, cơ
chế tự kiểm tra, giám sát từ bên trong của chủ thể thực hiện quyền lực nhà nước (cơ
quan nhà nước cụ thể) bao giờ cũng có những yếu tố chủ quan, khó kiểm soát được
12
hoạt động của chính mình nên đã dẫn đến sự lạm quyền, vi phạm pháp luật. Để khắc
phục tình trạng này, cần thiết phải có một cơ chế kiểm tra, giám sát từ bên ngoài do
một cơ quan chuyên trách thực hiện.
Hoạt động TTDS giải quyết các vụ việc dân sự của TAND là một trong
những hoạt động tư pháp thực hiện quyền lực Nhà nước và hoạt động này có ảnh
hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích của tổ chức, cá nhân. Những sai sót, vi phạm
trong hoạt động giải quyết các vụ việc dân sự luôn có khả năng hạn chế quyền của
các đương sự, gây thiệt hại cho người khác, làm giảm niềm tin của nhân dân vào
công lý. Chính vì vậy, để hoạt động giải quyết các vụ việc dân sự có hiệu quả,
nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật, thì hoạt động này cần thiết phải chịu sự kiểm
tra, giám sát của nhiều cơ chế khác nhau, bao gồm cả cơ chế tự kiểm tra bên trong
và cơ chế kiểm tra, giám sát từ bên ngoài. Đặc biệt phải thiết lập cho được cơ chế
giám sát trực tiếp, thường xuyên, có tính chuyên nghiệp cao. Trong điều kiện cụ thể
của nước ta, cơ chế đó chính là hoạt động KSVTTPL trong TTDS của VKSND.
Thứ hai, xuất phát từ yêu cầu pháp chế và chức năng, nhiệm vụ của VKSND
do pháp luật quy định.
Ở nước ta, một trong những hình thức của cơ chế kiểm tra, giám sát từ bên
ngoài đối với hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức đó là hoạt động KSVTTPL
của VKSND. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của VKSND ở nước ta gắn với quá
trình xây dựng và phát triển nhà nước Việt Nam và xuất phát từ quan điểm của
Lênin về Nhà nước và Pháp luật.
Khi bàn về vai trò của kiểm tra và kiểm sát, Lênin đã khẳng định vai trò của
một nền pháp chế thống nhất và để bảo đảm cho pháp chế thống nhất, chống lại tình
trạng “cát cứ”, tình trạng pháp chế của địa phương này khác với pháp chế của địa
phương khác cần phải có cơ chế giám sát việc tuân thủ pháp luật của các chủ thể (kể
cả pháp nhân và cá nhân), kịp thời phát hiện và xử lý các vi phạm pháp luật trong
hành vi và các quyết định của các chủ thể. Sau Cách mạng Tháng Mười năm 1917,
đến năm 1922, VKS Liên xô được thành lập. Đây chính là thời kỳ Lênin - người
sáng lập nhà nước kiểu mới - tìm kiếm mô hình cơ quan thay thế cho mô hình Viện
13
công tố của Nga Hoàng. Năm 1922 trong bức thư về "Song trùng trực thuộc và
pháp chế" gửi đồng chí Stalin để chuyển tới Bộ Chính trị, Lê-nin đã vạch rõ:
"Pháp chế thì chỉ có một thôi; và mối nguy hại to lớn nhất của chúng ta,
cũng như biểu hiện của tình trạng kém văn hoá của chúng ta, đều là do chúng ta
dung túng quan điểm muôn thuở của nước Nga và những tập quán nửa man rợ
đã cố ý muốn duy trì pháp chế của tỉnh Ca-lu-ga cho khác với pháp chế của tỉnh
Ca-dan" [45].
Cội nguồn của hiện tượng vi phạm pháp chế thống nhất, theo Lênin, chính là
chủ nghĩa cục bộ địa phương, bản vị. Hình thức phổ biến vi phạm pháp chế thống
nhất của các cơ quan nhà nước, chính quyền địa phương vì lợi ích cục bộ là không
thực hiện đúng pháp luật hoặc ban hành các văn bản của mình trái với luật làm vô
hiệu hóa hoặc biến dạng các quy định của luật [38]. Theo Lênin, để bảo đảm pháp
chế thống nhất, chống lại chủ nghĩa địa phương, phải thành lập hệ thống cơ quan
VKS. Quyền và bổn phận của VKS là phải làm cho sự nhận thức và thực hiện pháp
luật thống nhất trên toàn quốc, đó là nhân tố đảm bảo hơn tất cả mọi sự đảm bảo của
việc thiết lập pháp chế [67, tr 19]. Với nhu cầu về một cơ quan nhà nước có chức
năng duy nhất là giám sát tuân thủ pháp luật, bảo đảm pháp chế thống nhất trong
mọi lĩnh vực hoạt động nhà nước, Lênin đã tiếp thu và phát triển từ mô hình Viện
công tố của Pier Đệ nhất năm 1772 khi mở rộng phạm vi hoạt động kiểm sát tuân
theo pháp luật và coi hoạt động này như là chức năng thuộc tính - chức năng nhà
nước - của VKS.
Đối với nước ta, sau khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng, cách mạng bước vào
giai đoạn phát triển mới, thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược theo Nghị
quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng vạch ra là: Xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở miền Bắc, tiếp tục hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ ở miền Nam tiến
tới thống nhất nước nhà, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Nhu cầu của cuộc
cách mạng XHCN đòi hỏi pháp luật phải được chấp hành nghiêm chỉnh và thống
nhất, đòi hỏi một sự nhất trí về mục đích và hành động trong nhân dân, giữa nhân dân
và nhà nước cũng như giữa các ngành hoạt động nhà nước với nhau. Nếu không đạt
14
được sự thống nhất trong việc chấp hành pháp luật thì sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội (CNXH) sẽ gặp nhiều khó khăn. Vì lẽ trên phải tổ chức ra VKSND để
KSVTTPL nhằm giữ vững pháp chế XHCN, bảo đảm cho pháp luật được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất [70, tr 5]. Trên cơ sở đó, Hiến pháp năm 1959 đã đưa ra
chế định VKSND, tạo cơ sở pháp lý thành lập hệ thống cơ quan VKSND ở nước ta.
Hiến pháp năm 1959 và Luật Tổ chức VKSND năm 1960 được ban hành đã đánh dấu
sự ra đời của một hệ thống cơ quan nhà nước mới trong bộ máy của nhà nước ta, thực
hiện chức năng KSVTTPL và thực hành quyền công tố. Như vậy, sự ra đời của mô
hình VKS thay thế cho mô hình Viện công tố ở nước ta gắn liền với yêu cầu của
nhiệm vụ bảo đảm pháp chế thống nhất-điều kiện nền tảng cho việc xây dựng nhà
nước kiểu mới và việc thành lập hệ thống cơ quan VKSND không chỉ xuất phát từ
yêu cầu khách quan của công cuộc xây dựng CNXH mà còn là quá trình vận dụng
nguyên lý của Lênin về VKS vào điều kiện cụ thể của nước ta.
Trải qua các giai đoạn phát triển của đất nước, mặc dù chức năng của VKS
có sự điều chỉnh: Thực hiện chức năng KSVTTPL và thực hành quyền công tố theo
quy định của Hiến pháp 1959, 1980, 1992 và các Luật Tổ chức VKSND 1960,
1981, 1992; thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt
động tư pháp theo Hiến pháp 1992, được sửa đổi, bổ sung năm 2001 và Luật Tổ
chức VKSND năm 2002. Song, yêu cầu kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung và
trong lĩnh vực tư pháp dân sự nói riêng luôn đặt ra và được pháp luật ghi nhận.
KSVTTPL trong TTDS xuất phát từ chức năng KSVTTPL, kiểm sát các hoạt động
tư pháp (cơ chế kiểm tra, giám sát từ bên ngoài) và gắn liền với quá trình hình thành
và phát triển của VKSND.
Việc ghi nhận nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS là xác định cơ chế kiểm
soát quyền lực tư pháp để tránh sự lạm quyền, tiêu cực của Tòa án trong quá trình
giải quyết vụ việc dân sự; bảo đảm việc tuân thủ pháp luật, tôn trọng các quyền tố
tụng của đương sự; bảo vệ quyền, lợi hợp pháp của đương sự, nhất là trường hợp
đương sự là người yếu thế (người mất năng lực hành vi, người có nhược điểm thể
chất, tâm thần, người chưa thành niên ), không thể tham gia tố tụng (trường hợp
15
tuyên bố một người đã chết hoặc mất tích) hoặc kém hiểu biết về luật pháp.
KSVTTPL trong TTDS còn là cơ chế bảo đảm sự kết hợp hài hoà giữa quyền tự
định đoạt của đương sự và sự can thiệp của nhà nước để bảo vệ công lý.
Thứ ba, Xuất phát từ đặc điểm chế độ chính trị và nguyên tắc tổ chức thực
hiện quyền lực nhà nước ở nước ta.
Về chế độ chính trị, chúng ta không chấp nhận đa nguyên chính trị và đa
Đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo nhà nước và xã hội.
Bộ máy Nhà nước ta được tổ chức theo nguyên tắc tập quyền, không theo nguyên
tắc tam quyền phân lập. Theo nguyên tắc tập quyền, thì quyền lực nhà nước là
thống nhất, chủ thể duy nhất của quyền lực nhà nước là nhân dân, nhân dân thực
hiện quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Quốc hội được khẳng định là cơ
quan quyền lực Nhà nước cao nhất. Song, do tính chất của Quốc hội là cơ quan đại
biểu cao nhất của nhân dân; phần lớn đại biểu Quốc hội làm việc theo chế độ kiêm
nhiệm; chế độ làm việc của Quốc hội thông qua các kỳ họp v.v…nên Quốc hội chỉ
thực hiện quyền lập Hiến, lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất
nước và thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của bộ máy nhà
nước thông qua hình thức nghe, xem xét báo cao (giám sát gián tiếp). Đối với hoạt
động tư pháp, bao gồm các lĩnh vực hoạt động tố tụng hình sự, tố tụng dân sự, tố
tụng hành chính giải quyết các vụ án hình sự (khởi tố, điều tra, giam, giữ, truy tố,
xét xử ), các vụ việc dân sự, vụ án hành chính và thi hành án, Quốc hội phân công
cho VKS thực hiện KSVTTPL, bảo đảm cho pháp luật trong lĩnh vực hoạt động tư
pháp được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Do đó, kiểm sát các hoạt động tư
pháp là hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước (quyền giám sát) do Quốc hội giao
cho VKS. Vì vậy, chừng nào còn thừa nhận chế độ nhất nguyên về chính trị với vai
trò lãnh đạo tuyệt đối và duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, vận dụng nguyên
tắc quyền lực nhà nước là thống nhất trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước, thì việc quy định VKSND thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư
pháp nói chung và KSVTTPL trong việc giải quyết các vụ việc dân sự nói riêng với
tính cách một nguyên tắc của TTDS là phù hợp và rất cần thiết.
16
Thứ tư, xuất phát từ quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về xây
dựng, hoàn thiện bộ máy nhà nước và cải cách tư pháp.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta chủ trương đẩy mạnh xây dựng Nhà nước
pháp quyền XHCN, mà một trong những nội dung cốt lõi chính là sự quản lý nhà
nước và xã hội bằng pháp luật, sự tuân theo pháp luật triệt để của các cơ quan nhà
nước, các tổ chức và công dân phải đặt mình trong khuôn khổ của pháp luật. Nội
dung này đặt ra nhiều yêu cầu nặng nề, mà một trong những nhiệm vụ đó là phải
xây dựng một cơ chế bảo đảm sự tuân thủ pháp luật và xử lý nghiêm minh những vi
phạm pháp luật, bảo vệ quyền dân chủ của nhân dân, bảo đảm sự an toàn và môi
trường pháp lý đáng tin cậy trong mọi hoạt động của đời sống xã hội. Trong các cơ
chế để bảo đảm thực hiện yêu cầu nêu trên, thì cơ chế kiểm tra, giám sát, kiểm soát
thực hiện quyền lực nhà nước đóng một vai trò rất quan trọng. Chính vì vậy, Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH của Đảng ta (bổ sung, phát
triển năm 2011) và Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X
trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI nêu rõ: Nhà nước ta là Nhà nước pháp
quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước
thuộc về nhân dân Quyền lực nhà nước là thống nhất; có sự phân công, phối hợp
và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp. Nhà nước ban hành pháp luật; tổ chức, quản lý xã hội bằng pháp luật và
không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, tăng cường các cơ chế giám sát
[20, tr 85, 251]. Qua sơ kết 03 năm thực hiện Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày
02/6/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Bộ chính
trị đã chỉ rõ: Một trong những nguyên nhân làm cho chất lượng xét xử các vụ án
dân sự thời gian qua còn thấp là do chưa có cơ chế giám sát, kiểm sát hiệu quả việc
giải quyết các vụ án này [5]. Kết luận số 79-KL/TW ngày 28/7/2010 của Bộ Chính
trị về Đề án đổi mới tổ chức và hoạt động Tòa án, VKS, Cơ quan điều tra khẳng
định: “VKSND có chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư
pháp như hiện nay ”. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng Khóa
X trình Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI yêu cầu: “bảo đảm tốt hơn các điều kiện
17
để VKSND thực hiện hiệu quả chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các
hoạt động tư pháp”. [5]. Kết luận số 20-KL/TW Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành
Trung ương Đảng (khóa XI) về tổng kết thi hành Hiến pháp 1992 và một số vấn đề
cơ bản về sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 đã xác định: VKSND là cơ quan thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Vì vậy, việc ghi nhận
nguyên tắc KSVTTPL trong TTDS chính là sự cụ thể hóa quan điểm, chủ trương,
đường đối của Đảng về cải cách tư pháp.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn của việc ghi nhận nguyên tắc kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong trong tố tụng dân sự
Ngoài cơ sở lý luận trên đây, việc quy định nguyên tắc KSVTTPL trong tố
tụng dân sự còn xuất phát từ những cơ sở thực tiễn sau:
Thứ nhất, xuất phát từ điều kiện kinh tế-xã hội cụ thể của nước ta.
Nếu như ở các nước đã có trình độ phát triển cao và truyền thống pháp luật
đã có quá trình lâu dài, người dân có sự hiểu biết về pháp luật đầy đủ, thu nhập cao,
dịch vụ pháp lý phát triển nên họ có khả năng (tự mình hoặc thuê Luật sư riêng) để
bảo vệ quyền và lợi ích của họ khi có tranh chấp; thì ở nước ta đại đa số người dân
chưa có được điều kiện đó.
Nền kinh tế nước ta có xuất phát điểm chủ yếu là nền kinh tế nông nghiệp lạc
hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến, vừa thoát ra khỏi tình trạng nước kém phát triển, đời
sống của nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, sự hiểu biết về pháp luật của người dân
còn thấp, đặc biệt là nhân dân ở khu vực nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa.
Khi trình độ dân trí còn hạn chế thì người dân còn gặp nhiều khó khăn trong việc tự
chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trước Tòa án và với thu
nhập của đa số người dân còn thấp nên họ không có điều kiện mời Luật sư bảo vệ
quyền lợi cho mình khi có tranh chấp. Trong khi đó, hệ thống bổ trợ tư pháp chưa
phát triển, chưa trở thành công cụ hỗ trợ cho người dân khi phát sinh và giải quyết
tranh chấp (số lượng Luật sư ở nước ta hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu tham
gia tất cả các phiên tòa, so với nhu cầu về dịch vụ pháp lý hiện nay và xu thế gia
tăng nhanh của nhu cầu này trong những năm tới, thì số lượng Luật sư ở nước ta
18
còn chưa tương xứng) [69]. Theo số liệu báo cáo của Liên đoàn Luật sư Việt Nam,
thì tổng số Luật sư trong cả nước đến cuối năm 2011 là 6824 trên tổng số 86 triệu
dân [29]. Như vậy, tỷ lệ Luật sư nước ta trung bình là 1 luật sư/13.264 người dân.
Nếu so sánh số lượng Luật sư trên số dân với một số nước trong khu vực và trên thế
giới thì thấy rõ tỉ lệ này ở nước ta còn quá thấp (tỷ lệ số Luật sư trên dân số ở Thái
Lan là 1/1.526, Singapore là 1/1.000, Nhật Bản là 1/4.546, Pháp là 1/1.000, Mỹ là
1/250 v.v…), thậm chí tỉnh Lai Châu chưa có đủ Luật sư để thành lập Đoàn Luật
sư; và chất lượng đội ngũ Luật sư còn có những vấn đề bàn luận, nếu không muốn
nói là còn nhiều hạn chế. Mặt khác, số lượng Luật sư ở nước ta phát triển quá chênh
lệch giữa khu vực thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, trung du,
hạn chế khả năng cung ứng dịch vụ pháp lý đáp ứng nhu cầu của nhân dân [22].
Trong điều kiện như vậy, cần phải có cơ chế kiểm tra, giám sát từ bên ngoài hệ
thống để bảo đảm cho việc giải quyết các vụ việc dân sự nhanh chóng, kịp thời,
đúng pháp luật, nhằm góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đặc
biệt là những người yếu thế, không thể tham gia tố tụng và hiểu biết về pháp luật
kém. Một trong những cơ chế hữu hiệu, đó chính là hoạt động KSVTTPL trong
TTDS của VKS.
Thứ hai, kế thừa và phát huy thành tựu đã đạt được của VKS qua hơn 50
năm xây dựng và trưởng thành.
Mục tiêu quán xuyến của hoạt động KSVTTPL trong TTDS là bảo vệ quyền
sở hữu hợp pháp về tài sản, bảo vệ lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng, quyền
và lợi ích hợp pháp của cá nhân và tổ chức trong các quan hệ dân sự, hôn nhân và
gia đình, kinh doanh thương mại, lao động. Dưới góc độ lịch sử và thực tiễn, nghiên
cứu cơ quan Công tố/VKS Việt Nam từ năm 1945 đến nay cho thấy, tuy mức độ có
khác nhau trong từng thời kỳ nhưng vai trò của cơ quan Công tố/VKS trong việc
giải quyết các vụ việc dân sự luôn được khẳng định, phát triển và phát huy hiệu quả
trong thực tiễn đời sống xã hội. Trong giai đoạn thực hiện mô hình Viện công tố
(mô hình cơ quan Công tố trực thuộc hệ thống Toà án từ 1945-1958 và mô hình
Viện công tố trực thuộc Chính phủ từ 1958-1959), pháp luật đã sớm quy định sự
19
tham gia của Công tố viện vào việc giải quyết các vụ án dân sự. Cơ quan Công tố đã
góp phần bảo đảm việc giải quyết vụ việc dân sự đúng đắn, bảo vệ lợi ích của nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân trong bối cảnh chính quyền cách
mạng mới được thành lập và đang tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực
dân pháp và âm mưu chia rẽ đất nước.
Từ khi hệ thống cơ quan VKSND được thành lập (năm 1960), hoạt động
kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự của VKS được pháp luật quy định đầy đủ
và cụ thể hơn trong Luật Tổ chức VKSND qua các thời kỳ (1960, 1981, 1992,
2002), đặc biệt Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (PLTTGQCVADS)
năm 1989, Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế (PLTTGQCVAKT) năm
1994 và Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các tranh chấp lao động (PLTTGQCTCLĐ)
năm 1996 đã ghi nhận KSVTTPL như là nguyên tắc của TTDS, tố tụng kinh tế và
tố tụng lao động. Sau đó, BLTTDS năm 2004 hạn chế phạm vi hoạt động kiểm sát,
song vẫn ghi nhận KSVTTPL trong TTDS là nguyên tắc cơ bản trong TTDS. Trên
cơ sở quy định của pháp luật, hoạt động kiểm sát của VKS đã phát hiện nhiều vi
phạm đặc trưng của các chủ thể trong quan hệ pháp luật dân sự và việc giải quyết án
dân sự của Toà án qua các thời kỳ. Thời kỳ trước khi có BLTTDS, hoạt động khởi
tố vụ án dân sự của VKS được phát huy. Hoạt động kiểm sát lập hồ sơ vụ án của
Tòa án cũng được tăng cường, qua đó kịp thời yêu cầu Tòa án điều tra bổ sung hoặc
tự mình xác minh, bổ sung chứng cứ; số vụ án dân sự Tòa án đưa ra xét xử có Kiểm
sát viên (KSV) tham gia phiên tòa ngày càng nhiều và chiếm tỷ lệ cao trong số vụ
án Tòa án đưa ra xét xử (trong 03 năm 2002 - 2004, tỷ lệ KSV tham gia phiên tòa
xét xử các vụ án dân sự đạt từ 90% trở lên); số bản án, quyết định của Tòa án bị
kháng nghị nhiều
Từ năm 2005 đến 2011, thực hiện BLTTDS năm 2004, hoạt động kiểm sát
tập trung kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án, chủ động nắm các khiếu nại của
đương sự đối với việc thu thập chứng cứ của Tòa án để yêu cầu xác minh; công tác
kháng nghi được chú trọng. Thông qua công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc
dân sự, Viện kiểm sát đã ban hành hàng nghìn bản kiến nghị yêu cầu Tòa án khắc
phục các vi phạm.