Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Một số vấn đề pháp lý về cơ chế điều hành lãi suất của ngân hàng nhà nước việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (689.31 KB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN BẢO SƠN

MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ
VỀ CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT
CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƢỚC VIỆT NAM
Chuyên ngành

: Luật Kinh tế

Mã số

: 60.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Phạm Thị Giang Thu

HÀ NỘI - 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Những kết luận
khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác./.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN


Nguyễn Bảo Sơn


DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
ĐƢỢC SỬ DỤNG TRONG LUẬN VĂN
BLDS Bộ luật Dân sự của nước CHXHCN Việt Nam
CSTT Chính sách tiền tệ
GDP

Tổng sản phẩm nội địa

IMF

Quỹ tiền tệ quốc tế

LSCB Lãi suất cơ bản
NHNN Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
NHTW Ngân hàng Trung ương
Nxb

Nhà xuất bản

NHTM Ngân hàng thương mại
OMO

Nghiệp vụ thị trường mở

TCTD Tổ chức tín dụng
Tr


Trang

XHCN Xã hội chủ nghĩa
USD

Đô la Mỹ

VND

Đồng Việt Nam

WTO

Tổ chức thương mại thế giới


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

1

1.

Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

1

2.


Tình hình nghiên cứu đề tài

4

3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

5

4.

Phạm vi nghiên cứu

6

5.

Phương pháp nghiên cứu

6

6.

Kết cấu luận văn

6
Chƣơng 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

VỀ LÃI SUẤT VÀ XÁC ĐỊNH CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH
LÃI SUẤT CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƢỚC VIỆT NAM
1.1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LÃI SUẤT VÀ YÊU CẦU ĐIỀU
CHỈNH ĐỐI VỚI CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT

7
7

1.1.1

Khái niệm lãi suất

7

1.1.1.1

Lãi suất theo góc độ kinh tế học

7

1.1.1.2

Lãi suất theo góc độ luật học

10

1.1.2


Khái niệm cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng trung
ương và kinh nghiệm của một số nước có thể áp dụng với
Việt Nam

13

1.1.2.1

Khái niệm cơ chế điều hành lãi suất

13

1.1.2.2

Cơ chế điều hành lãi suất của một số nước trên thế giới

16

1.2

CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI
SUẤT

21

1.2.1

Nhân tố khách quan

21


1.2.2

Nhân tố chủ quan

23

1.3

KẾT CẤU PHÁP LUẬT XÁC ĐỊNH CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI
SUẤT

1.3.1

Yêu cầu điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động điều
hành lãi suất

25
25


1.3.2

Cấu trúc pháp luật xác định cơ chế điều hành lãi suất

26

1.3.3

Kết quả đạt được khi xác định cơ chế điều hành lãi suất


30

Chƣơng 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH
LÃI SUẤT CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƢỚC VIỆT NAM

33

2.1

CHỦ THỂ QUẢN LÝ NHÀ NƢỚC VỀ LÃI SUẤT

33

2.1.1

Vị trí pháp lý

33

2.1.2

Tính độc lập trong hoạt động của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam và hạn chế của nó trong việc xác định cơ chế điều hành

35

lãi suất
2.2


PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI
SUẤT CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƢỚC VIỆT NAM

2.2.1

Thực tiễn pháp luật việc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xác
định cơ chế điều hành lãi suất

2.2.2

37

37

Các công cụ chủ yếu trong điều hành lãi suất của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam

42

2.2.3

Lãi suất kinh doanh của tổ chức tín dụng đối với khách hàng

52

2.2.4

Lãi suất trong trường hợp thị trường tiền tệ, hoạt động ngân
hàng có diễn biến bất thường


56

Chƣơng 3
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ LÃI SUẤT CỦA NGÂN HÀNG NHÀ NƢỚC
VIỆT NAM

58

3.1

Kiến nghị về hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất

58

3.2

Các kiến nghị về thể chế quản lý

62

3.3

Các giải pháp khác

69

KẾT LUẬN


71

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Pháp luật là công cụ hữu hiệu để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Để phát huy
vai trò trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội, hệ thống pháp luật phải hoàn chỉnh
và đầy đủ cả về số lượng văn bản quy phạm pháp luật lẫn nội dung điều chỉnh của
văn bản quy phạm pháp luật đó. Một trong những yếu tố quan trọng để nâng cao hiệu
quả điều chỉnh của các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các nhóm quan hệ xã
hội có cùng “tính chất quy phạm điều chỉnh” là phải (i) xác định rõ ranh giới (phạm
vi) trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội này; và (ii) có sự kết hợp hài hòa và
thống nhất giữa các văn bản pháp luật với nhau.
Qua quá trình vận động, phát triển và hội nhập quốc tế, pháp luật về lĩnh vực
hoạt động ngân hàng cũng có sự thay đổi phù hợp với tình hình thực tế của Việt Nam
và các thông lệ, chuẩn mực quốc tế, việc ban hành Luật NHNN 2010 và Luật Các
TCTD năm 2010 là minh chứng cho điều đó. Luật NHNN và Luật Các TCTD 2010
với vai trò là “luật chung” điều chỉnh các hoạt động về lĩnh vực ngân hàng, tồn tại
bên cạnh các hệ thống luật chuyên ngành khác như Luật Doanh nghiệp, Luật Thương
mại, Luật Cạnh tranh, Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp… cũng như điều chỉnh cả
các quan hệ có liên quan đến vấn đề lãi suất.
Khoản 1, 2 Điều 12 Luật NHNN 2010 quy định NHNN công bố lãi suất tái
cấp vốn, LSCB và các loại lãi suất khác để điều hành CSTT, chống cho vay nặng lãi;
trong trường hợp thị trường tiền tệ có diễn biến bất thường, NHNN quy định cơ chế
điều hành lãi suất áp dụng trong quan hệ giữa các TCTD với nhau và với khách
hàng, các quan hệ tín dụng khác; Khoản 2, 3 Điều 91 Luật Các TCTD quy định
khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân
hàng của TCTD theo quy định của pháp luật; trong trường hợp hoạt động ngân hàng

có diễn biến bất thường, để đảm bảo an toàn hệ thống TCTD, NHNN có quyền quy
định cơ chế xác định phí, lãi suất trong hoạt động kinh doanh của TCTD. Theo quy
định này, thì mục đích quy định việc NHNN công bố các loại lãi suất để điều hành
CSTT, chống cho vay nặng lãi; trong khi đó, về nguyên tắc, thì quan hệ vay mượn
giữa TCTD và khách hàng thì lãi suất được thực hiện theo cơ chế thỏa thuận. Chính
các quy định mới về lãi suất này tại Luật NHNN và Luật Các TCTD có sự bất cập,
mang tính chồng chéo, mâu thuẫn và chưa rõ ràng với các luật chuyên ngành khác có
1


tham chiếu đến mức LSCB do NHNN công bố, gây khó khăn cho việc áp dụng và
xây dựng cơ chế chính sách lãi suất; đặc biệt là cơ chế chính sách điều chỉnh lãi suất
liên quan đến LSCB. Hiện nay, LSCB được quy định tại nhiều luật chuyên ngành
khác như áp dụng trong các quan hệ vay tay sản theo quy định của BLDS, các trường
hợp bồi thường, hoàn trả tiền lãi theo quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của
Nhà nước, Luật Bảo hiểm y tế, Luật Trưng mua, trưng dụng tài sản và Luật Thuế thu
nhập doanh nghiệp…
Trong nền kinh tế thị trường, CSTT là bộ phận chính sách kinh tế - tài chính
của Nhà nước, nó được đưa ra để đạt được mục tiêu của Nhà nước là nhằm ổn định
giá trị đồng tiền, kiềm chế lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và ổn định thị
trường tài chính. Lãi suất và chính sách lãi suất là công cụ hữu hiệu, bộ phận CSTT
tắc động đến cung - cầu vốn trên thị trường (nguồn vốn đầu tư, tiết kiệm, tiêu dùng)
và đảm bảo phân bổ có hiệu quả các nguồn vốn tài chính trong một nền kinh tế để đạt
được mục tiêu, cân đối kinh tế vĩ mô. Theo đó, về bản chất, lãi suất có liên quan chặt
chẽ đối với các hoạt động trong nền kinh tế và đóng vai trò như là “đòn bẩy” quan
trọng gắn liền với các mục tiêu điều hành.
Theo số liệu tổng hợp của Tổng cục thống kê, trong những năm qua, thành
công nổi bật của Việt Nam trong điều hành kinh tế vĩ mô là đã kiểm soát, duy trì
được lạm phát ở mức hợp lý dưới 2 con số (ngoại trừ năm 2011 là 18,58% do tác
động mạnh sau hơn một năm của lạm phát tăng cao và suy thoái kinh tế toàn cầu

2008-2010) [26]; ngoài ra, tại Báo cáo triển vọng Kinh tế Việt Nam giai đoạn 20122015 của Ủy Ban Giám sát tài chính Quốc gia đã nêu trong giai đoạn này là nền kinh
tế có mức tăng trưởng khá, trung bình giai đoạn 2000-2005 là 7,38%, 2006 – 2010 là
7,02%/năm, năm 2011 là 5,89% [22]. Năm 2012 tăng trưởng kinh tế tăng 5,02%,
thấp hơn năm 2011; tuy nhiên Tổng cục Thống kê cho rằng, trong bối cảnh kinh tế
thế giới gặp khó khăn, cả nước tập trung thực hiện mục tiêu ưu tiên kiềm chế lạm
phát, ổn định kinh tế vĩ mô thì mức tăng như vậy là hợp lý) [26]. Phải khẳng định,
đây là thành công lớn của Nhà nước trong công tác điều hành, quản lý Nhà nước trên
mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội. Trong đó, góp phần quan trọng trong sự thành
công không thể không đề cập đến việc sử dụng hiệu quả CSTT quốc gia của Chính
phủ; đặc biệt là công tác chỉ đạo, điều hành của NHNN với vai trò là thành viên
Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và
2


ngoại hối với mục tiêu, nhiệm vụ quan trọng là ổn định giá trị đồng tiền, bảo đảm an
toàn hoạt động ngân hàng và hệ thống các TCTD, bảo đảm sự an toàn, hiệu quả của
hệ thống thanh toán quốc gia, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện nhiệm vụ và đạt được các mục tiêu nêu trên, NHNN cần thiết
phải sử dụng đồng bộ các công cụ điều hành, thực hiện CSTT quốc gia, trong đó
chính sách lãi suất tín dụng là một công cụ hết sức quan trọng và được coi là nhạy
cảm nhất trong các công cụ của CSTT. Trong điều hành, cơ chế điều hành lãi suất
của NHNN có tác động rất lớn tới việc điều tiết các hoạt động ngân hàng như cung
ứng tiền cho nền kinh tế, phát tín hiệu thắt chặt hay nới lỏng CSTT, mở rộng hoặc
thu hẹp khu vực đầu tư, khuyến khích hoặc hạn chế việc huy động vốn, tác động trực
tiếp tới tình hình cung - cầu vốn của nền kinh tế, từ đó tác động tới tăng trưởng kinh
tế, giá trị đồng nội tệ (VND), hạn chế tình trạng đô la, vàng hóa nền kinh tế, tạo
thuận lợi hay khó khăn cho hoạt động tín dụng ngân hàng. Trong điều kiện nền kinh
tế vận hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước, thì vai trò của việc
điều hành lãi suất càng trở nên quan trọng, đặc biệt trong giai đoạn khẩn trương tiến

hành công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X đã xác định mục tiêu “Thực
hiện chính sách lãi suất thỏa thuận theo nguyên tắc thị trường và đi tới loại bỏ quy
định hành chính đối với lãi suất ngoại tệ” [37]. Theo đó, tự do hóa lãi suất là mục tiêu
để bảo đảm sự vận hành cơ chế thị trường; về cơ bản, tuân theo quy luật cung – cầu,
phân bổ nguồn vốn hợp lý. Tuy nhiên, với thực trạng nền kinh tế nước đang phải đối
mặt với nhiều khó khăn, thách thức cùng với những bất cập trong các diễn biến của
thị trường tiền tệ, thì việc áp dụng cơ chế hành chính trong chính sách điều hành lãi
suất của NHNN trong thời gian qua là cần thiết, việc thực hiện cơ chế chính sách tự
do hóa lãi suất theo mục tiêu cần phải có lộ trình và từng bước tạo dựng những điều
kiện cần thiết để thực hiện.
Đại hội Đảng lần thứ XI đã tổng kết thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế xã hội năm 2001-2010 và quyết định xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hôi
năm 2011-2020 là: “Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển
nhanh, bền vững; phát huy sức mạnh toàn dân tộc, xây dựng nước ta cơ bản trở thành
nước công nghiệp theo định hướng xã hội chủ nghĩa.”. Theo đó, Đảng ta xác định
3


mục tiêu tổng quát là: “Phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công
nghiệp hóa hiện đại; chính trị - xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập chủ quyền
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc
tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vứng chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn
sau” [38]. Với các chỉ tiêu chủ yếu tập trung trong giai đoạn 2011-2015 là: “Tốc độ
tăng trưởng kinh tế bình quân 5 năm từ 7 - 7,5%; năm 2015, GDP bình quân đầu
người khoảng 2000 USD, cơ cấu GDP: nông nghiệp 17-18%, công nghiệp và xây
dựng 41-42%, dịch vụ 41-42%; sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công
nghệ cao đạt 35% tổng GDP; tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 55%. Vốn đầu tư toàn xã
hội bình quân 5 năm đạt 40% GDP; kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân
12%/năm...” [38]. Do đó, các chỉ tiêu nêu trên có sự tác động trực tiếp đến các thức

điều hành kinh tế vĩ mô của nhà nước, đặc biệt là chính sách tài khóa và CSTT, trong
đó có sự tác động gián tiếp tới chính sách pháp luật điều hành lãi suất của NHNN.
Vì vậy, việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá hệ thống, cách thức điều hành các
loại lãi suất của Việt Nam là mối quan tâm của nhiều chuyên gia, nhà quản lý kinh tế
trong nước, ngoài nước và các tầng lớp dân cư. Xuất phát từ những lý do trên đây, tác
giả đã lựa chọn đề tài “Một số vấn đề pháp lý về cơ chế điều hành lãi suất của
Ngân hàng Nhà nƣớc Việt Nam” cho luận văn cao học chuyên ngành Luật Kinh tế
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay, đã có một vài nghiên cứu về việc điều hành lãi suất của NHNN,
nhưng chỉ dừng lại ở góc độ phân tích, đánh giá những mặt được, chưa được của việc
điều hành lãi suất của NHNN trong từng giai đoạn, hoặc hoàn cảnh cụ thể nào đó để
từ đó có đề xuất bài học kinh nghiệm cho Việt Nam hoặc các nghiên cứu lĩnh vực
kinh tế học liên quan đến lĩnh vực tài chính - ngân hàng, phân tích theo hướng sử
dụng công cụ lãi suất để phục vụ cho việc điều hành của cơ quan quản lý, tác động
tới việc vận hành các lý thuyết kinh tế, trong hoạt động kinh doanh của các TCTD,
đặc biệt là quá trình đòi hỏi của việc tự do hóa lãi suất, cụ thể như:
(1) Luận án tiến sĩ Chính sách lãi suất trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
của TS. Nguyễn Ngọc Bảo - Vụ trưởng Vụ CSTT, NHNN; hiện là Chủ tịch Hội đồng

4


thành viên Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Năm 2004)
[2].
(2) Luận văn thạc sĩ kinh tế Trường Đại học kinh tế quốc dân “Hoàn thiện cơ
chế điều hành lãi suất của NHNN” của Ths. Lê Thị Trang (năm 2011)[25].
(3) Bàn về cơ chế điều hành lãi suất của NHNN của TS. Trần Văn Hùng đăng
trên báo Giáo dục và thời đại [51].
(4) Chuyên đề “Bàn về điều hành lãi suất của NHNN” của Giảng viên Phan

Thị Thu Hà, Trường Đại học Kinh tế quốc dân đăng trên website của NHNN [7].
(5) Chuyên đề “Chính sách lãi suất, cơ sở lý luận và thực tiễn” của TS.
Nguyễn Thị Kim Thanh – Viện trưởng Viện Chiến lược ngân hàng, NHNN Việt Nam
đăng trên website của Hiệp hội ngân hàng Việt Nam (Năm 2010) [32].
(6) Chuyên đề “Đôi điều suy ngẫm về cơ chế điều hành lãi suất Việt Nam hiện
nay” của Ths Nguyễn Thị Thu Hiếu đăng trên [8].
Có thể khẳng định rằng cho đến thời điểm hiện tại, chưa có công trình nào
nghiên cứu các cơ chế chính sách lãi suất của Việt Nam theo góc độ luật học, để từ
đó có những phân tích, đánh giá cụ thể cơ sở ban hành, xây dựng các cơ chế, chính
sách lãi suất của NHNN; từ đó, có một hình ảnh tổng quan về quá trình xây dựng
pháp luật liên quan đến cơ chế điều hành công cụ lãi suất của NHNN và việc ảnh
hưởng của nó tới công tác xây dựng cơ chế, chính sách.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có mục đích tiếp cận về mặt pháp luật tới cơ chế điều hành lãi suất
và phân tích tổng hợp thực trạng các quy định của pháp luật về lãi suất qua từng giai
đoạn cụ thể của Việt Nam trong việc xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách lãi suất
của NHNN để điều chỉnh các quan hệ pháp luật về dân sự, kinh tế và các quan hệ
khác.
Để đạt được mục đích trên đây, luận văn có nhiệm vụ hệ thống hóa các nội
dung quy định của pháp luật trong hoạt động xây dựng, ban hành và thực hiện các
quy định của pháp luật liên quan đến lãi suất của NHNN. Ngoài ra, luận văn cũng
làm rõ việc ảnh hưởng và những mâu thuẫn của các quy định của pháp luật, mục tiêu
của nền kinh tế tác động đến công tác điều hành công cụ lãi suất…, từ đó, có những
kiến nghị, đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật để việc xây dựng, ban
hành cơ chế điều hành lãi suất của NHNN phù hợp với tình hình thực tế, diễn biến
5


kinh tế vĩ mô, nâng cao được hiệu quả hoạt động ngân hàng Việt Nam và đạt được
mục tiêu của nền kinh tế trong từng giai đoạn và các quan hệ pháp luật cụ thể trong

xã hội.
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các loại lãi suất được quy định tại Luật NHNN, Luật Các
TCTD năm 2010 và có đề cập đến các quy định của một số pháp luật chuyên ngành
đặc trưng như pháp luật dân sự, hình sự và kinh tế.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử của chủ
nghĩa Mác –Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các kết quả nghiên cứu tài liệu trong
nước và ngoài nước được tiến hành theo phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp
từ đó đưa ra các ý kiến nhận định mang tính cá nhân.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn gồm có 3 Chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về lãi suất và pháp luật xác định cơ chế điều
hành lãi suất của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam;
Chương 2: Thực trạng pháp luật về cơ chế điều hành lãi suất của Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam;
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về lãi suất của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam.

6


CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LÃI SUẤT VÀ
PHÁP LUẬT XÁC ĐỊNH CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT CỦA
NGÂN HÀNG NHÀ NƢỚC VIỆT NAM
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LÃI SUẤT VÀ YÊU CẦU ĐIỀU CHỈNH ĐỐI
VỚI CƠ CHẾ ĐIỀU HÀNH LÃI SUẤT


1.1.1. Khái niệm lãi suất
1.1.1.1. Lãi suất theo góc độ kinh tế học:
Trên góc độ nghiên cứu kinh tế, lãi suất là giá cả của vốn tiền tệ, có liên quan
chặt chẽ và đóng vai trò “đòn bẩy” quan trọng trong hoạt động của nền kinh tế. Lãi
suất là công cụ điều hành kinh tế vĩ mô, góp phần giữ vững các cân đối kinh tế chủ
yếu; một chính sách lãi suất hợp lý có tác dụng khuyến khích tiết kiệm và hướng
luồng vốn đầu tư vào các lĩnh vực có hiệu quả cao, điều tiết khối lượng tiền tệ, thúc
đẩy cho thị trường tài chính - tiền tệ phát triển có chiều sâu và bền vững.
Trong nền kinh tế thị trường, lãi suất là một trong những biến số được theo dõi
một cách chặt chẽ nhất bởi nó quan hệ mật thiết đối với lợi ích kinh tế của từng người
trong xã hội. Lãi suất tác động đến quyết định của mỗi cá nhân: chi tiêu hay tiết kiệm
đề đầu tư. Sự thay đổi lãi suất có thể dẫn tới sự thay đổi quyết định của mỗi doanh
nghiệp: vay vốn để mở rộng sản xuất hay cho vay tiền để hưởng lãi suất, hoặc đầu tư
vào đâu thì có lợi nhất. Thông qua những quyết định của các cá nhân, doanh nghiệp
lãi suất ảnh hưởng đến mức độ phát triển cũng như cơ cấu của nền kinh tế đất nước.
Lãi suất là một trong những biến số được theo dõi một các chặt chẽ nhất trong nền
kinh tế thị trường, là một phạm trù kinh tế gắn liền với sản xuất hàng hóa phức tạp.
* Qua quá trình nghiên cứu bản chất của chủ nghĩa tư bản, Mác (Karl Heinrich
Marx) đã vạch ra rằng quy luật giá trị thặng dư tức giá trị lao động của công nhân
làm thuê tạo ra là quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản và nguồn gốc của mọi
lãi suất đều xuất phát từ giá trị thặng dư. Theo Mác, khi xã hội phát triển thì tư bản
tài sản tách rời tư bản chức năng, tức là quyền sở hữu tư bản tách rời quyền sử dụng
tư bản nhưng mục đích của tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư thì không thay
đổi [24, Tr.176]. Vì vậy, trong xã hội phát sinh quan hệ cho vay và đi vay, đã là tư
bản thì sau một thời gian giao cho nhà tư bản đi vay sử dụng, tư bản cho vay được
7


hoàn trả lại cho chủ sở hữu nó kèm theo một giá trị tăng thêm gọi là lợi tức (lãi suất).
Về thực chất, lợi tức chỉ là một bộ phận của giá trị thặng dư mà nhà tư bản đi vay

phải cho nhà tư bản vay. Trên thực tế nó là một bộ phận của lợi nhuận bình quân mà
các nhà tư bản công thương nghiệp đi vay phải chia cho các nhà tư bản cho vay. Do
đó nó là biểu hiện quan hệ bóc lột tư bản chủ nghĩa được mở rộng trong lĩnh vực
phân phối và giơí hạn tối đa của lợi tức là lnh bình quân, còn giới hạn tối thiểu thì
không có, nhưng luôn lớn hơn không. Vì vậy, sau khi phân tích công thức chung của
tư bản và hình thái vận động đầy đủ của tư bản Mác đã kết luận: “Lãi suất là phần
giá trị thặng dư được tạo ra do kết quả bóc lột lao động làm thuê bị nhà tư bản– chủ
ngân hàng chiếm đoạt” (Học thuyết về giá trị thặng dư, Quyển I Bộ tư bản) [24, tr.
178].
* Lý thuyết của Mác về nguồn gốc, bản chất của lãi suất trong nền kinh tế
XHCN: Các nhà kinh tế học Mác xít nhìn nhận trong nền kinh tế XHCN cùng với tín
dụng, sự tồn tại của lãi suất và tác động của nó do mục đích khác quyết định, đó là
mục đích thoả mãn đầy đủ nhất các nhu cầu của tất cả các thành viên trong xã hội.
Lãi suất không chỉ là động lực của tín dụng mà tác dụng của nó đối với nền kinh tế là
phải bám sát các mục tiêu kinh tế. Trong XHCN không còn phạm trù tư bản và chế
độ người bóc lột người song điều đó không có nghĩa là ta không thể xác định bản
chất của lãi suất. Bản chất của lãi suất trong xã hội chủ nghĩa là “giá cả của vốn cho
vay mà nhà nước sử dụng với tư cách là công cụ điều hoà hoạt động hạch toán kinh
tế ” [24, tr.188].
Qua những lý luận trên ta thấy các nhà kinh tế học Mác xít đã chỉ rõ nguồn
gốc và bản chất lãi suất. Tuy nhiên quan điểm của họ không thể hiện được vai trò của
lãi suất và các biến số kinh tế vĩ mô khác.
* Lý thuyết của J.M. KEYNES (1833-1946) nhà kinh tế học nổi tiếng người
Anh cho rằng, lãi suất không phải là số tiền trả công cho việc tiết kiệm hay nhịn chi
tiêu vì khi tích trữ tiền mặt người ta không nhận được một khoản trả công nào, ngay
cả khi trường hợp tích trữ rất nhiều tiền trong một khoảng thời gian nhất định nào đó.
Vì vậy, “Lãi suất chính là sự trả công cho số tiền vay, là phần thưởng cho sở thích
chi tiêu tư bản”; lãi suất do đó còn được gọi là sự trả công cho sự chia lìa với của cải,
tiền tệ. [24, tr.207].


8


Nhà kinh tế Marshall (1980) trong tác phẩm Principles of Economics cho
rằng, lãi suất là cái giá phải trả cho việc sử dụng vốn trên thị trường bất kỳ, lãi suất
vươn tới một mức cân bằng sao cho tổng cầu về vốn trên thị trường nào đó, với lãi
suất đó bằng tổng được cung ứng trên thị trường đó [24, tr.220].
Như vậy, cho dù lãi suất xuất hiện trong quan hệ vay vốn giữa các chủ thể với
mục đích dùng cho đầu tư, kinh doanh, tiêu dùng; hoặc trong quan hệ vay vốn lẫn
nhau giữa NHTM với NHTW (NHNN) với tư cách là công cụ điều tiết vĩ mô của
CSTT, thì khái niệm được thừa nhận có tính phổ biến phù hợp với đặc trưng của nó
là: Lãi suất là giá cả của vốn tiền tệ, được đo bằng tỷ lệ giữa số tiền lãi so với số
tiền gốc mà người đi vay (người mua, sử dụng vốn vay) phải trả cho người cho vay
(người bán, người ứng vốn) được sử dụng trong một thời hạn nhất định, mà thông
thường được tính theo tỷ lệ %/năm, %/tháng, %/ngày.
Tùy theo loại tiền tệ thực hiện trong giao dịch tín dụng, người ta phân biệt lãi
suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ:
- Lãi suất nội tệ là loại lãi suất được áp dụng trong khuôn khổ cho vay và đi vay
bằng đồng tiền trong nước trong hoạt động tín dụng của các ngân hàng của một quốc
gia. Lãi suất nội tệ được tính theo năm, tháng, tuần, và không kỳ hạn.
- Lãi suất ngoại tệ là loại lãi suất được tính khi thực hiện hoạt động vay hoặc
cho vay bằng những đồng tiền của nước ngoài, chủ yếu là các đồng tiền mạnh, tự do
chuyển đổi như USD, JPY, EURO, Frăng Thụy Sỹ, Đô la Singgapore… Lãi suất
ngoại tệ thường được tính theo năm.
- Ngoài ra, trong trường hợp các ngân hàng dư thừa vốn khả dụng so với nhu
cầu, thì có thể gửi qua đêm lại NHTW (NHNN) và được hưởng mức lãi suất tiền gửi
thấp hơn mức lãi suất mục tiêu hay còn gọi là lãi suất thị trường. Sau đó, NHTW sẽ
sử dụng loại cho vay qua đêm đối với các ngân hàng thiếu vốn khả dụng với mức lãi
suất ấn định cao hơn mức lãi suất mục tiêu. Với cơ chế này, NHTW sẽ kiểm soát
được lãi suất mục tiêu trong một biên độ cần thiết theo mục tiêu điều hành chính sách

trong từng thời kỳ.
Như vậy, thông thường trước khi quyết định đi vay hoặc cho vay bằng nội tệ
hay ngoại tệ, người đi vay hoặc cho vay phải so sánh lãi suất nội tệ với lãi suất ngoại
tệ chênh lệch như thế nào? Sự so sánh này thông qua hai nhân tố mức lãi suất và tỷ
giá hối đoái và sự ổn định của từng loại đồng tiền. Mặt khác, theo dõi sát diễn biến
9


lãi suất cho vay qua đêm cũng có thể dự báo được mục tiêu điều hành CSTT của Nhà
nước, để từ đó có những phương án hoạt động kinh doanh hiệu quả hơn.
1.1.1.2. Lãi suất theo góc độ luật học
Theo quy định tại Điều 10 Luật NHNN, thì Thống đốc NHNN quyết định việc
sử dụng công cụ thực hiện CSTT quốc gia, bao gồm tái cấp vốn, lãi suất, tỉ giá hối
đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở và các công cụ, biện pháp khác theo
quy định của Chính phủ. Điều 12 Luật NHNN quy định “1. NHNN công bố lãi suất
tái cấp vốn, LSCB và các loại lãi suất khác để điều hành CSTT, chống cho vay nặng
lãi; 2. Trong trường hợp thị trường tiền tệ có diễn biến bất thường, NHNN quy định
cơ chế điều hành lãi suất áp dụng trong quan hệ giữa các TCTD với nhau và với
khách hàng, các quan hệ tín dụng khác” [11]. Như vậy, việc điều hành, sử dụng công
cụ lãi suất có tầm quan trọng lớn trong công tác điều hành CSTT quốc gia của Chính
phủ và NHNN; ngoài ra, để đạt được mục tiêu điều hành CSTT “nới lỏng – thắt
chặt”, nó có tính chất gián tiếp quyết định tới các công cụ điều hành khác như tái cấp
vốn, tái chiết khấu (có lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu), dự trữ bắt buộc
(tiền lãi đối với tiền dự trữ bắt buộc), nghiệp vụ thị trường mở (lãi suất nghiệp vụ thị
trường mở “OMO”), LSCB…
Nhìn từ góc độ pháp lý, thì chính sách về lãi suất thay đổi theo thời gian và rất
khác nhau từ xã hội này sang xã hội khác. Vào triều đại nhà Lê, Bộ luật Hồng Đức
được coi là bộ luật quan trọng nhất. Thời kỳ này, các khế ước vay nợ đã trở nên rất
phổ biến; tại các Điều 587, 588 quy định “Cho vay nợ hay cầm đồ vật mỗi tháng
được lấy tiền lãi mỗi quan là 15 đồng kẽm, dù lâu bao nhiêu năm cũng không được

tính quá một giá, một lãi, trái luật thì xử biếm một tư, mà mất tiền lãi. Nếu tính gồm
lãi vào làm gốc rồi bắt làm văn tự khác thì xử tội nặng hơn một bậc; trường hợp quá
hạn mà khong trả thì bị tội trượng. Nếu cố tình không chịu trả nợ thì xử tội biếm hai
tư và bồi thường gấp đôi” [4]. Đến triều đại nhà Nguyễn (1802-1858), tại Bộ luật Gia
Long Điều 134 quy định “lãi là 3% một tháng, chủ nợ chỉ có thể đòi tiền vốn và một
số tiền lãi ngáng với tiền vốn” [18].
Trong quá khứ, quan điểm của một số nước – nhất là những nước tôn giáo nghiêm cấm vay có lãi. Quan điểm truyền thống của Luật Tôn giáo phản đối mọi sự
tự do và hiện đại hóa tại các nước theo đạo hồi như nghiêm cấm cho và nhận lãi suất
vay hay đầu tư [57]. Như vậy, để tuân theo luật Hồi giáo, các ngân hàng không thể
10


thực hiện việc cho vay lấy lãi như thông lệ mà phải thu lợi nhuận bằng cách tính lệ
phí hành chính hoặc mức lợi nhuận hợp lý dự án tài chính mà họ đầu tư cấp vốn;
nhiều ngân hàng phương tây như CitiBank, JP Morgan, Deutsche Bank có các chi
nhánh ở các nước hồi giáo phải tuân thủ Luật Shariah. Theo đó, các quốc gia hồi giáo
đã ban hành trái phiếu Hồi giáo cho hưởng lợi tức từ tài sản thay vì trả lãi suất [57,
tr.88].
Ngày nay, hầu như các nước đều chấp nhận vay có lãi và thuật ngữ “lãi suất”
không xa lạ trong pháp luật cũng như khoa học pháp lý Việt Nam. Tuy nhiên, theo
các quy định của pháp luật hiện hành, không có một định nghĩa hoặc khái niệm chính
xác như thế nào là lãi suất. Xét trên góc độ khoa học pháp lý, các quy định về lãi suất
xuất hiện tản mạn ở các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội
khác nhau như dân sự, kinh tế, hình sự, hành chính…Theo một cách hiểu chung nhất,
tại Bách khoa toàn thư mở Wikipedia đưa ra một khái niệm: Lãi suất hiểu theo một
nghĩa chung nhất là giá cả của tín dụng, vì nó là giá của quyền được sử dụng vốn
vay trong một khoảng thời gian nhất định, mà người sử dụng phải trả cho người cho
vay; là tỷ lệ của tổng số tiền phải trả so với tổng số tiền vay trong một khoảng thời
gian nhất định. Lãi suất là giá mà người vay phải trả để được sử dụng tiền không
thuộc sở hữu của họ và là lợi tức người cho vay có được đối với việc trì hoãn chi

tiêu. [1]
Ngoài ra, có một cách hiểu ngắn gọn hơn theo nội dung giải thích tại Từ điển
Tiếng Việt năm 1996, thì lãi suất là tỷ lệ % giữa lãi so với vốn/ hoặc là khoản tiền
người vay trả nợ phải trả thêm cho người chủ nợ ngoài số tiền đã vay [27, Tr.517)].
Như đã nêu ở trên, tại Điều 10 và 12 Luật NHNN, lãi suất được đề cập đến
nhưng không được định nghĩa thế nào là lãi suất. Tương tự như vậy, lãi suất được
quy định tại các điều, khoản cụ thể của BLDS, nhưng cũng không được BLDS định
nghĩa cụ thể về lãi suất. Tuy nhiên, khi người cho vay chuyển số tiền thuộc quyền sở
hữu của mình cho người khác sử dụng có nghĩa là người cho vay đã hy sinh quyền sở
hữu về tài sản là tiền (Điều 163 BLDS 2005) của mình để chuyển giao cho người
khác sở hữu trong một thời gian nhất định với hy vọng có được giá trị tăng thêm của
tài sản là lãi suất; từ đó, làm phát sinh nghĩa vụ dân sự của người đi vay là việc trả
tiền khi đến hạn bao gồm cả tiền gốc và lãi khi thời hạn thỏa thuận đã hết. Theo quy
định tại khoản 2 Điều 290 BLDS thì nghĩa vụ trả tiền bao gồm cả tiền lãi trên nợ gốc,
11


trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Theo đó, có thể nhận thấy rằng lãi suất xuất hiện
chủ yếu trong các quan hệ pháp luật dân sự, kinh tế và thương mại… đặc biệt là cụm
từ “LSCB của NHNN”. Trong quá trình nghiên cứu, theo học viên rà soát; hiện nay,
ngoài Luật NHNN VN, Luật Các TCTD (với tư cách là Luật chuyên ngành) và
BLDS, thì các quy định của pháp luật có liên quan điều chỉnh các quan hệ xã hội có
áp dụng cho quy định của pháp luật khác có liên quan đến LSCB do NHNN công bố
như cho vay nặng lãi theo quy định của Bộ luật Hình sự; xử lý các trường hợp bồi
thường, hoàn trả tiền lãi theo quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước, Luật Bảo hiểm y tế, Luật Trưng mua, trưng dụng tài sản và Luật Thuế thu nhập
doanh nghiệp.
Theo quy định về Phương pháp tính và hạch toán thu, trả lãi của NHNN và
các TCTD ban hành theo Quyết định số 652/2001/QĐ-NHNN ngày 17/5/2001 của
Thống đốc NHNN thì “lãi được hiểu là khoản tiền bên vay, huy động vốn hoặc bên

thuê trả cho bên cho vay, đầu tư chứng khoán, gửi tiền hoặc bên cho thuê về việc sử
dụng vốn vay, vốn huy động hoặc tài sản cho thuê. Lãi được tính toán căn cứ vào số
vốn, thời gian sử dụng vốn và lãi suất”. Theo đó, số lãi mà bên vay phải trả phụ
thuộc vào các yếu tố: (i) Tiền gốc, số lãi sẽ có tỷ lệ thuận với số tiền cho vay; (ii) Lãi
suất do các bên thỏa thuận, nhưng không vượt quá 150% của LSCB do NHNN quy
định đối với loại cho vay tương ứng (Điều 476 BLDS 2005); (iii) Thời gian sử dụng
vốn vay, thời gian cũng tỷ lệ thuận với số vốn vay và mức lãi suất thỏa thuận.
Tại Từ điển Luật học - Trường Đại học Luật Hà Nội năm 1999 đề cập cách
giải thích lãi suất, thì lãi suất cho vay là giá cả của tiền vay thể hiện dưới hình thức tỷ
lệ % trên số tiền vay theo khoảng thời gian xác định (tháng, năm); lãi suất do TCTD
và bên vay thỏa thuận phù hợp với quy định của NHNN về lãi suất cho vay tại thời
điểm ký kết hợp đồng tín dụng [28, tr.253]. Theo nội dung Giáo trình Lý thuyết tiền
tệ, ngân hàng, thì lãi suất được hiểu là giá cả của quyền được sử dụng vốn vay trong
một thời gian nhất định mà người sử dụng vốn phải trả cho người sở hữu vốn. [30,
Tr.63]
Như vậy, đặc trưng cơ bản của lãi suất thể hiện nó là một công cụ để tính lợi
nhuận, nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất hoặc tinh thần của cả bên cho vay và bên đi
vay, thể hiện tập trung ở một số nội dung sau:

12


- Thứ nhất, thông thường lãi suất được phát sinh chủ yếu thông qua các hợp
đồng vay tài sản: Qua nghiên cứu, có thể thấy lãi suất có thể xuất hiện trong các hợp
đồng đầu tư, cho thuê tài chính hoặc các hợp đồng khác và là cơ sở để tính lãi phải
trả. Tuy nhiên, lãi suất chủ yếu vẫn được tồn tại trong các hợp đồng vay, bởi lẽ trong
hợp đồng vay, bên vay chỉ phải trả lại tài sản vay sau một thời hạn nhất định do đó
phải có một tỉ lệ xác định để tính lãi tương ứng với thời hạn vay. Hơn nữa, nếu trong
các hợp đồng khác như thuê tài chính, đầu tư thì cơ sở để tính lãi còn dựa trên nhiều
yếu tố khác như chi phí bỏ ra, công sức đóng góp… còn trong hợp đồng vay thì cơ sở

để tính lãi chủ yếu vẫn là lãi suất do các bên thoả thuận hoặc do pháp luật quy định.
- Thứ hai, lãi suất không được phát sinh một cách độc lập, mà nó chỉ phát
sinh khi có sự thỏa thuận của các bên sau khi đã thoả thuận được số tiền vay gốc;
khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho vay tiền gốc và tiền lãi nếu có thỏa
thuận hoặc pháp luật có quy định khác về việc trả lãi. Theo đó, bản chất của lãi suất
là một tỷ lệ nhất định mà bên vay phải trả cho bên cho vay dựa vào số tiền vay gốc
trong một thời hạn nhất định. Sẽ không thể có tỉ lệ đó nếu như không tồn tại số tiền
gốc mà các bên thoả thuận được trong hợp đồng vay tài sản.
- Thứ ba, lãi suất đƣợc tính dựa trên số vốn vay gốc và thời hạn vay. Như
đã đề cập ở phần trên, lãi suất tỉ lệ thuận với số vốn gốc và thời hạn vay. Theo đó,
tương ứng với số nợ gốc nhiều hay ít, thời hạn vay dài hay ngắn mà các bên có thể
thoả thuận mức lãi suất cho phù hợp.
Từ những lập luận phân tích, đánh giá trên đây, để có khái niệm chung nhất về
lãi suất, tại luận văn này, học viên mạnh dạn đưa ra một định nghĩa như sau: Lãi suất
là giá cả vốn tín dụng, khi sử dụng bất kỳ một khoản tín dụng nào, người sử dụng vốn
không thuộc sở hữu của mình có nghĩa vụ phải trả thêm vào số tiền đã vay một khoản
tiền nhất định theo thỏa thuận (nếu có) được tính theo tỷ lệ %, số tiền tăng thêm
được xác định theo khoảng thời gian trên số vốn gốc đã vay.
1.1.2 Khái niệm cơ chế điều hành lãi suất của NHTW và kinh nghiệm của một số
nƣớc có thể áp dụng với Việt Nam
1.1.2.1 Khái niệm cơ chế điều hành lãi suất
Để điều hành lãi suất, NHTW các quốc gia thường điều hành thông qua việc
xác định nội dung chính sách lãi suất. Dưới góc độ kinh tế, chính sách lãi suất là tổng
hợp các chủ trương, quy định và kế hoạch thực hiện nhằm đạt được các mục tiêu
13


trong quản lý nhà nước về tiền tệ và phát triển kinh tế - xã hội.... Chính sách lãi suất
là một phần trong tổng thể hệ thống chính sách quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước
nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ nhất định. Ở mỗi giai

đoạn phát triển của nền kinh tế, từng chính sách quản lý kinh tế vĩ mô đều phải có
mục tiêu cụ thể của mình.
Mục tiêu chung và cuối cùng của chính sách lãi suất là đạt được các mức lãi
suất hợp lý trong nền kinh tế, tạo cơ sở pháp lý cho các quan hệ pháp luật để nền kinh
tế chung phát triển hài hòa và vững chắc. Mục tiêu cụ thể của chính sách lãi suất
không cố định, mà thay đổi cùng sự biến đổi các điều kiện kinh tế - xã hội.
Dưới góc độ pháp lý, để thực hiện chính sách lãi suất, cơ quan điều hành lãi
suất sẽ cần thiết phải đề ra lộ trình và các biện pháp thực hiện cụ thể cho từng loại lãi
suất bằng các quy định của pháp luật; từ đó, xác định một cơ chế phù hợp trong việc
hoạch định và điều hành lãi suất. Những biện pháp này tạo nên cơ chế điều hành lãi
suất trong nền kinh tế theo mục tiêu của chính sách lãi suất, đồng thời chúng thể hiện
mối quan hệ tương tác giữa các chủ thể, khách thể trong điều hành thực thi lãi suất đó là cơ chế điều hành lãi suất. Hay nói một cách đầy đủ và chung nhất, đó là cơ chế
điều hành lãi suất thể hiện bằng việc cơ quan quản lý nhà nước ban hành các văn bản
quy phạm pháp luật điều chỉnh các hành vi của các đối tượng trong quan hệ vay
mượn lẫn nhau trong xã hội theo một quy chuẩn mà chủ thể quản lý nhà nước đã xác
định trước.
Vì vậy, mỗi quốc gia khác nhau, phụ thuộc vào từng diễn biến khác nhau của
nền kinh tế trong từng thời kỳ và mô hình quản lý nhà nước của NHTW đối với quốc
gia đó, sẽ dẫn tới những khả năng quyết định việc điều chỉnh áp dụng thay đổi hoặc
giữ nguyên mức lãi suất điều hành cũng như các công cụ điều hành CSTT khác để
phù hợp với các mục tiêu vĩ mô nhằm phục vụ cho mục tiêu phát triển của quốc gia
đó.
Theo tài liệu của IMF và nghiên cứu cơ chế điều hành lãi suất của một số
nước phát triển và đang phát triển (các Website của NHTW các nước Trung Quốc,
Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia…) cho thấy: (i) Từ những năm 70s của thế kỷ XX,
NHTW các nước thực hiện việc chuyển đổi cơ chế điều hành lãi suất từ kiểm soát
trực tiếp bằng biện pháp hành chính sang kiểm soát gián tiếp bằng việc công bố các
lãi suất chủ đạo (prime interest rate); (ii) Cơ chế điều hành lãi suất của NHTW các
14



nước có sự khác nhau tuỳ thuộc vào mức độ phát triển và cơ cấu của nền kinh tế, hệ
thống tài chính nhưng mục đích đều nhằm đảm bảo mối quan hệ chặt chẽ giữa lãi
suất chủ đạo của NHTW với lãi suất thị trường. Mặt khác, cơ chế điều hành lãi suất
trong trường hợp nào cũng luôn có mối liên hệ chặt chẽ, không tách rời với cơ chế lãi
suất thị trường trong từng thời kỳ nhằm đạt được các mục tiêu, cụ thể là: (i) khuyến
khích việc tiết kiệm và sự phát triển của các trung gian tài chính và phát triển chiều
sâu thị trường tài chính; (ii) hướng các nguồn lực tài chính vào các hoạt động thị
trường có tỷ suất lợi nhuận cao, tức là các lĩnh vực có hiệu quả kinh tế cao nhất; (iii)
mang lại mức chênh lệch đủ để các định chế tài chính trang trải các chi phí hoạt
động, chi phí vốn, chi phí chấp nhận rủi ro và lợi nhuận trên vốn tự có.
Từ điển Luật học - Trường Đại học Luật Hà Nội năm 1999 giải thích lãi suất:
“Giới hạn lãi suất cho vay tối đa và lãi suất huy động vốn tối thiểu do NHNN quy
định áp dụng đối với hoạt động tín dụng của TCTD; lãi suất cho vay tối đa gọi là lãi
suất trần, lãi suất huy động vốn tối thiểu gọi là lãi suất sàn; quy định khung lãi suất
là biện pháp thực hiện CSTT theo phương thức hành chính, xu hướng chung của các
nước là thay thế phương thức hành chính bằng phương thức khác trong thực hiện
CSTT quốc gia.” [28, Tr.252].
Theo đó, có thể hiểu rằng cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng thể các
chủ trương, chính sách và các giải pháp cụ thể của NHNN VN, bằng việc ban hành
các văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ pháp luật thông qua việc
kiểm soát và điều tiết trực tiếp hoặc gián tiếp các loại lãi suất trên thị trường tiền tệ,
tín dụng ngân hàng trong từng thời kỳ hoặc giai đoạn nhất định.
Như vậy, cơ chế điều hành lãi suất không cố định mà có thể thay đổi theo từng
thời kỳ. Ở nền kinh tế chậm phát triển thì cơ chế điều hành lãi suất mang nặng ý chí
chủ quan của Nhà nước, và nhiều khi không tuân theo quy luật và xu hướng vận động
của nền kinh tế. Trong bối cảnh đó, các cơ quan quản lý Nhà nước thường phải đưa
ra các biện pháp mang tính mệnh lệnh hành chính trực tiếp như quy định về các mức
lãi suất cụ thể đối với từng loại đối tượng áp dụng và được phân biệt không chỉ về
thời gian sử dụng vốn, mà còn theo loại hình sở hữu, ngành nghề kinh tế và nhiều

hình thức khác.
Theo yêu cầu phát triển của nền kinh tế, đồng thời với sự đổi mới trong nhận
thức, mục tiêu đặt ra trong pháp luật điều hành về cơ chế chính sách lãi suất dần phù
15


hợp hơn với các quy luật kinh tế. Sự điều tiết, quản lý của Nhà nước cũng cần được
điều chỉnh phù hợp; vì vậy, trong từng thời kỳ, NHTW có thể sử dụng các công cụ
quản lý gián tiếp trong điều hành lãi suất, các công cụ này gián tiếp tác động đến lãi
suất như việc thông qua việc làm thay đổi lượng tiền (tổng phương tiện thanh toán)
trong nền kinh tế bằng các nghiệp vụ cụ thể.
1.1.2.2 Cơ chế điều hành lãi suất của một số nƣớc trên thế giới
Qua tìm hiểu, nghiên cứu các quy định (khung quy định) của một số nước phát
triển và đang phát triển liên quan đến cơ chế điều hành lãi suất thông qua việc tổng
hợp, phân tích một số nội dung chính liên quan trên các website NHTW các nước có
thể thấy cơ chế điều hành lãi suất của một số quốc gia như sau:
(1) Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED) [40]
Thẩm quyền điều hành CSTT được quy định tại Luật Cục Dự trữ liên bang
năm 1913 [40], nó phụ thuộc rất nhiều vào chức năng, nhiệm vụ của FED “thực thi
những CSTT quốc gia để duy trì việc làm, giá cả ổn định và lãi suất hợp lý”. Theo
đó, với tư cách là NHTW , từ tháng 6/1970, Fed bắt đầu thực hiện lộ trình từ kiểm
soát trực tiếp lãi suất thị trường bằng các quy định hành chính chuyển sang kiểm soát
gián tiếp; đến tháng 3/1986, thực hiện tự do hoá lãi suất mà theo đó, các NHTM được
áp dụng cơ chế lãi suất thoả thuận trong kinh doanh. Quá trình này được bắt đầu là tự
do hoá lãi suất cho vay, sau đó đối với lãi suất tiền gửi có kỳ hạn, rồi đến tiền gửi
không kỳ hạn. Trong khoảng thời gian này, kinh tế vĩ mô ổn định, thị trường chứng
khoán và trái phiếu phát triển, hệ thống NHTM quản trị theo các thông lệ quốc tế. Từ
năm 1986 đến nay, Fed sử dụng kết hợp lãi suất định hướng liên ngân hàng (Fed
Funds Rate) với lãi suất chiết khấu (Discount Rate) để điều tiết lãi suất thị trường.
Đây là lãi suất mục tiêu được thay đổi tùy theo mục tiêu CSTT của FED trong ngắn

hạn. Lãi suất định hướng liên ngân hàng và lãi suất chiết khấu của Fed thấp hơn
khoảng 3 - 6%/năm so với lãi suất cho vay của các NHTM đối với doanh nghiệp.
(2) NHTW Châu Âu (ECB) [41]
Mục đích hàng đầu của hệ thống các NHTW Châu Âu (Eurosystem) trong đó
ECB là cơ quan trung ương cùng với các NHTW của các quốc gia tham gia khối
đồng tiền chung Châu Âu là ổn định giá cả, đựoc quy định tại Khoản 1 Điều 127
Hiệp ước về Chức năng của Liên minh Châu Âu (TFEU) CSTT của ECB được quyết
16


định dựa trên hệ thống quyết định tập thể (Điều 129 và Điều 132, TFEU) trong đó có
ECB có 2 cơ quan ra quyết định và điều hành CSTT (quy định tại Khoản 1 Điều 129
TFEU) là Hội đồng Quản trị (Governing Council) và Ban Điều hành (EXecutive
Board) [41].
Lãi suất điều hành của ECB là lãi suất tái cấp vốn trên thị trường mở. ECB
tham gia vào thị trường tiền tệ để khống chế thanh khoản của hệ thống NHTM thông
qua các công cụ như cho vay có bảo đảm, hợp đồng repo hoặc mua/bán hẳn; phát
hành chứng chỉ nợ, nhận tiền gửi có kỳ hạn, hoán đổi ngoại tệ.
(3) NHTW Anh (BOE) [42]
Luật NHTW Anh năm 1998 quy định BOE độc lập trong điều hành lãi suất và
chịu trách nhiệm trước Quốc hội và nhân dân. BOE điều hành CSTT theo cơ chế lạm
phát mục tiêu với mức lạm phát (đo bằng chỉ số CPI hàng năm) mục tiêu là 2%. Khi
lạm phát tăng trên 3% hoặc giảm xuống dưới 1%, BOE phải giải trình với Bộ Tài
chính và đề xuất biện pháp khắc phục; BOE sẽ điều hành các công cụ CSTT để đạt
được mục tiêu lạm phát này.
Luật này cũng quy định trong trường hợp đặc biệt vì quyền lợi quốc gia,
Chính phủ có quyền chỉ đạo BOE về lãi suất trong một giai đoạn nhất định. Theo đó,
luật quy định Ủy ban CSTT quốc gia do Thống đốc NHTW làm chủ tịch gồm 9
thành viên trong đó có 5 của NHTW Anh họp hàng tháng để đưa ra quyết định về lãi
suất điều hành theo cơ chế bỏ phiếu (mỗi thành viên 1 phiếu). Lãi suất điều hành của

BOE là lãi suất ấn định cho các NHTM và các tổ chức tài chính vay qua đêm có bảo
đảm bằng trái phiếu Chính phủ; lãi suất này có vai trò dẫn đắt các loại lãi suất thị
trường. Theo đó, BOE chọn lãi suất chính thức (Official bank rate) để điều hành lãi
suất thị trường. Đây chính là mức lãi suất BOE trả cho các khoản tiền dự trữ mà các
NHTM để tại BOE. Như vậy, về bản chất, lãi suất chính thức mà BOE công bố là lãi
suất mục tiêu chứ không phải là lãi suất mang tính ấn định cụ thể; và BOE sẽ bảo vệ
lãi suất chính thức công bố thông qua nghiệp vụ thị trường mở.
Bên cạnh lãi suất chính thức, BOE có cơ chế để duy trì sự ổn định của lãi suất thị
trường, đồng thời tạo điều kiện để các NHTM quản lý thanh khoản thông qua việc thiết
lập một hành lang gồm lãi suất cao nhất (trần) và lãi suất thấp nhất (sàn).
(4) NHTW Nhật Bản (BOJ) [43]

17


Theo Luật NHTW Nhật năm 1997, trách nhiệm duy nhất của BOJ là ổn định
giá cả. Lãi suất mục tiêu của BOJ là lãi suất cho vay qua đêm trên của các NHTM
cho vay lẫn nhau (không có bảo đảm) trên thị trường liên ngân hàng. LS mục tiêu này
được quyết định theo đa số tại các phiên họp CSTT của Ủy ban Chính sách gồm 9
thành viên.
Thực hiện chỉ đạo của Ủy ban Chính sách, BOJ tiến hành các hoạt động trên
thị trường tiền tệ để kiểm soát khối lượng tiền trên thị trường tiền tệ thông qua kênh
cho vay có bảo đảm hoặc phát hành và bán tín phiếu cho các NHTM để bơm hoặc
hút tiền trên thị trường tiền tệ qua đó đưa lãi suất liên ngân hàng về mức mục tiêu.
Việc điều hành CSTT của BOJ sẽ dẫn dắt các lãi suất trên thị trường.
Do suy thoái kinh tế và khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997, BOJ đã bắt
đầu thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ toàn diện và chưa từng có trong lịch sử
thông qua chính sách lãi suất 0% nhằm đảm bảo lãi suất thực dương (do lạm phát của
Nhật Bản âm) đồng thời lãi suất 0% nhằm mục đích phục hồi kinh tế. Từ năm 2000,
nhờ những dấu hiệu tích cực về tăng trưởng kinh tế, BOJ đã điều chỉnh lãi suất cho

vay qua đêm lên 0,25-0,3%, chấm dứt chính sách lãi suất 0% sau 18 tháng thực hiện;
mục đích tăng lãi suất lần này để hỗ trợ quá trình phục hồi kinh tế. Từ đó, lãi suất
tăng còn buộc các công ty phải cơ cấu lại hoạt động kinh doanh, chống sự ỷ lại vào
nguồn vốn rẻ và các khoản chi kích thích kinh tế khổng lồ của Chính phủ.
(5) NHTW Malaysia [58]
Đây là quốc gia có nền kinh tế và hệ thống ngân hàng phát triển trong khối
ASEAN. NHTW Malaysia thực hiện chuyển dần dần từ cơ chế quản lý kiểm soát
trực tiếp lãi suất kinh doanh của NHTM sang cơ chế lãi suất thoả thuận (tự do hoá lãi
suất) trong khoảng 20 năm (1971 – 1991), bắt đầu là bỏ trần lãi suất tiền gửi có kỳ
hạn sau đó đến lãi suất cho vay.
Sở dĩ quá trình tự do hoá lãi suất kéo dài là do trong giai đoạn này, kinh tế vĩ
mô chưa ổn định, lạm phát khá cao (năm 1973 là 10%/năm), quản lý nhà nước về
ngân hàng còn nhiều hạn chế, tăng trưởng kinh tế ở mức thấp, hệ thống ngân hàng
trong thời kỳ phát triển và cơ cấu lại. Hiện nay, cơ chế điều hành và kiểm soát lãi
suất thị trường tiền tệ chủ yếu bằng lãi suất tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở.
(6) NHTW Thái Lan (BOT) [44]

18


Luật NHTW Thái Lan 1942 quy định NHTW được phép quy định lãi suất của
người cho vay cuối cùng, mua bán trái phiếu và ngoại hối để cung cấp tín dụng cho
các TCTD. Áp dụng khuôn khổ điều hành CSTT theo lạm phát mục tiêu, Lãi suất
điều hành của BOT là lãi suất 1 ngày cầm cố (repo) kỳ hạn 1 ngày. Ủy ban CSTT (7
người do Thống đốc làm chủ tịch) sẽ công bố lãi suất điều hành , sau đó BOT sẽ sử
dụng các công cụ CSTT để thực hiện quyết định về lãi suất của BOT. BOT thực hiện
cho vay cầm cố bằng trái phiếu đối với các NHTM sơ cấp (một nhóm NHTM do
BOT chỉ định) để bơm (qua repo) hoặc hút tiền (qua reverse repo) vào hệ thống. BOT
cố định lãi suất đối với cho vay cầm cố (bằng mức lãi suất điều hành đã công bố) kỳ
hạn 1 ngày) và đấu thầu lãi suất linh hoạt đối với các kỳ hạn dài hơn. Hiện nay, BOT

hoạch định và điều hành CSTT theo một mục tiêu chủ yếu là kiểm soát lạm phát,
BOT công bố các mức lãi suất tái cấp vốn, chiết khấu để điều tiết lãi suất thị trường
tiền tệ.
(8) NHTW Hàn Quốc (BOK) [59]
BOK bắt đầu thực hiện lộ trình tự do hoá lãi suất từ tháng 6/1981 bằng việc
cho phép các NHTM phát hành giấy tờ có giá theo lãi suất thoả thuận; từ tháng
01/1989, điều kiện kinh tế xấu đi nhanh chóng, lạm phát cao (trên 10%), xuất khẩu bị
đình đốn, các cuộc bãi công lan rộng, lãi suất thị trường tăng đột biến, BOK phải tạm
dừng kế hoạch tự do hoá lãi suất. Cho đến cuối năm 1991, BOK thực hiện trở lại kế
hoạch tự do hoá lãi suất, bắt đầu thực hiện tự do hoá đối với lãi suất cho vay và đầu
năm 1997, thực hiện tự do hoá lãi suất đối với lãi suất tiền gửi.
Hiện nay, BOK hoạch định và điều hành CSTT theo mục tiêu chủ yếu là kiểm
soát lạm phát, việc điều tiết lãi suất thị trường thông qua lãi suất tái cấp vốn, lãi suất
chiết khấu và các công cụ khác của CSTT. BOK xem chính sách lãi suất như là công
cụ chủ yếu để đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng kinh tế, BOK đã đạt được mục tiêu trong
việc ổn định lãi suất lâu dài. Điều này làm cho các NHTM cũng như các doanh
nghiệp có thể tự hoạch định cho mình một chiến lược kinh doanh ổn định và lâu dài
về lãi suất. BOK hiện nay, đang điều hành trần lãi suất cho vay tối đa mà các NHTM
cho khách hàng vay.
(9) Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBC) [45]
Mục tiêu của CSTT là ổn định giá trị đồng tiền để thúc đẩy tăng trưởng kinh
tế. Điều 12 Luật Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc 1995 quy định PBC thành lập Ủy
19


ban CSTT do Chính phủ và Quốc hội phê chuẩn để thực hiện điều hành CSTT. Công
cụ CSTT gồm dự trữ bắt buộc, LSCB, lãi suất tái chiết khấu, lãi suất cho vay của
NHTW, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở và các công cụ chính sách khác theo quy
định của Chính phủ.
PBC đang thực hiện quá trình tự do hoá lãi suất một cách thận trọng, theo

trình tự là tự do hoá lãi suất dài hạn và ngoại tệ trước, rồi đến lãi suất ngắn hạn và nội
tệ. Cho đến nay, PBC chưa cho phép các NHTM thực hiện cơ chế lãi suất thoả thuận,
tức là chưa tự do hoá lãi suất như các nước phát triển và nhiều nước đang phát triển
khác. Từ tháng 1/1987, PBC quy định lãi suất cho vay của NHTM không vượt quá
20% LSCB và quy định các mức trần lãi suất tiền gửi có kỳ hạn; tháng 5/1996, giảm
biên độ từ 20% xuống 10%; tháng 10/1999, tăng biên độ lên 30% so với LSCB đối
với lãi suất cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa, khu vực nông thôn. Tháng 10/2004,
PBC công bố LSCB và trần lãi suất tiền gửi, nhưng bỏ quy định trần lãi suất cho vay,
chuyển sang áp dụng sàn lãi suất cho vay và tiếp tục áp dụng trần lãi suất tiền gửi có
kỳ hạn để hạn chế sự cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường tiền tệ. Bên cạnh
đó, công bố các mức lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết khấu khi cho vay đối với các
NHTM để điều tiết lãi suất thị trường tiền tệ. Như thế, cho đến hiện nay, PBC điều
hành lãi suất bằng cả hai biện pháp kiểm soát trực tiếp và gián tiếp lãi suất thị trường
tiền tệ.
Đối với Trung Quốc, việc xây dựng hệ thống lãi suất NHTW, cải thiện cơ chế
hoạt động của chính sách lãi suất và tăng cường định hướng lãi suất thị trường của lãi
suất NHTW là điều kiện tiên quyết.
Qua nội dung các quy định của NHTW các nước, có thể thấy là NHTW mỗi
nước lựa chọn và sử dụng cơ chế điều hành lãi suất phù hợp với mục tiêu CSTT của
mình và điều kiện thị trường tiền tệ.
Thứ nhất, thông thường ở các nước phát triển, NHTW sử dụng lãi suất chính
thức là lãi suất cho vay qua đêm hoặc lãi suất định hướng liên ngân hàng được xác
lập chủ yếu trên OMO; còn các nước đang phát triển sử dụng lãi suất cho vay ngắn
hạn (tái cấp vốn) kết hợp lãi suất chiết khấu. Ngoài ra, xu hướng chung của NHTW
các nước là chuyển dần từ cơ chế kiểm soát trực tiếp sang kiểm soát gián tiếp lãi suất
thị trường hay nói cách khác là chuyển từ việc NHTW ấn định các lãi suất kinh
doanh sang cho phép các TCTD tự quyết định các mức lãi suất kinh doanh của mình.
20



×