Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng ủy quyền định đoạt quyền sử dụng đất, nhà ở, ô tô và thực tiễn áp dụng pháp luật trên địa bàn thành phố bắc giang, tỉnh bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.04 MB, 95 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HOÀNG HẢI LÂM

MỘT SỐ VẤN ĐỀ PHÁP LÝ VỀ HỢP ĐỒNG ỦY QUYỀN
ĐỊNH ĐOẠT QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT, NHÀ Ở, Ô TÔ VÀ
THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRÊN ĐỊA BÀN
THÀNH PHỐ BẮC GIANG, TỈNH BẮC GIANG

Chuyên ngành: Luật Dân sự
Mã số: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM VĂN TUYẾT

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tác giả luận văn Thạc sĩ Luật học với đề tài: “Một số vấn đề pháp lý về
hợp đồng ủy quyền định đoạt quyền sử dụng đất, nhà ở, ô tô và thực tiễn
áp dụng pháp luật trên địa bàn thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang”
xin cam đoan:
- Đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tác giả.
- Luận văn này được thực hiện độc lập dưới sự hướng dẫn của Tiến sĩ
Phạm Văn Tuyết.


- Những thơng tin, số liệu được trích dẫn trong luận văn đảm bảo đầy đủ,
chính xác, trung thực và có nguồn gốc rõ ràng.
- Các kết luận khoa học trong luận văn chưa được công bố trong các luận
văn khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Hoàng Hải Lâm


MỤC LỤC
Nội dung

Trang

Lời cam đoan
Danh mục những từ viết tắt
Lời mở đầu

01

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

01

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

06

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài


07

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu đề tài

08

5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài

08

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài

10

7. Kết cấu của luận văn

10

Chƣơng 1: Hợp đồng ủy quyền - Quy định của pháp luật và một
số vấn đề lý luận

11

1.1 Khái niệm chung về ủy quyền và hợp đồng ủy quyền

11

1.1.1. Khái niệm về ủy quyền

11


1.1.2. Khái niệm về hợp đồng ủy quyền

12

1.2. Chủ thể của hợp đồng ủy quyền

14

1.2.1. Bên ủy quyền

14

1.2.1. Bên được ủy quyền

15

1.3. Đối tượng của hợp đồng ủy quyền

17


1.3.1. Giao kết và thực hiện hợp đồng

17

1.3.2. Thực hiện nghĩa vụ dân sự

18


1.3.3. Thực hiện quyền yêu cầu

18

1.3.4. Quản lý tài sản

19

1.4. Các vấn đề cần xác định trong hợp đồng ủy quyền

20

1.4.1. Thông tin về chủ thể

20

1.4.2. Phạm vi ủy quyền

20

1.4.3. Ủy quyền lại

21

1.4.4. Thời hạn ủy quyền

22

1.4.5. Quyền và nghĩa vụ của các bên


22

1.4.6. Cam kết khác

26

1.5. Chấm dứt hợp đồng ủy quyền

27

Kết luận Chương 1

31

Chƣơng 2: Một số vấn đề về ủy quyền định đoạt quyền sử dụng
đất, nhà ở, ô tô và thực trạng việc ủy quyền định đoạt quyền sử
dụng đất, nhà ở, ô tô trên địa bàn thành phố Bắc Giang

32

2.1. Một số vấn đề về ủy quyền định đoạt tài sản là quyền sử dụng
đất, nhà ở, ô tô

32

2.1.1. Khái niệm định đoạt tài sản

32

2.1.2. Khái niệm về ủy quyền định đoạt tài sản


34

2.2. Mối liên quan giữa HĐUQ định đoạt quyền sử dụng đất, nhà ở, ô
tô và HĐCN quyền sử dụng đất, hợp đồng mua bán nhà ở, ô tô

35


2.2.1. HĐUQ là cơ sở để xác lập HĐMB, HĐCN

36

2.2.2. Tư cách pháp lý của chủ thể được ủy quyền trong HĐCN quyền
sử dụng đất, HĐMB nhà ở, ô tô

37

2.2.3. Phạm vi xác lập, thực hiện hợp đồng mua bán tài sản, chuyển
nhượng quyền sử dụng đất được xác định theo phạm vi ủy quyền

37

2.3. So sánh ủy quyền định đoạt tài sản với hợp đồng mua bán,
chuyển nhượng nhà, đất, ơ tơ

38

2.3.1. Về hình thức và điều kiện


38

2.3.2. Về chủ thể

39

2.3.3. Về đối tượng

40

2.3.4. Về hậu quả pháp lý

41

2.4. Thực trạng việc ủy quyền định đoạt những tài sản là quyền sử
dụng đất, nhà ở, ô tô trên địa bàn thành phố Bắc Giang

42

2.4.1. Tình hình chuyển nhượng QSD đất, QSH nhà ở, ô tô trên địa
bàn thành phố Bắc Giang

42

2.4.2. Các vụ tranh chấp dân sự phát sinh từ việc ủy quyền định đoạt
nhà, đất

46

2.5. Thực tiễn thi hành pháp luật trong lĩnh vực chuyển nhượng

những tài sản là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, ô tô trên địa
bàn thành phố Bắc Giang

49

2.5.1. Đối với tài sản là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở

49

2.5.2. Đối với tài sản là ô tô

52

2.6. Những rủi ro các bên có thể gặp khi chuyển nhượng tài sản là
nhà, đất, ô tô bằng hợp đồng uỷ quyền

55

Kết luận chương 2

59


Chƣơng 3: Một số bất cập trong các quy định của pháp luật về
hợp đồng ủy quyền và một số kiến nghị

60

3.1. Một số bất cập trong các quy định của pháp luật về hợp đồng ủy
quyền


60

3.2. Một số kiến nghị nhằm góp phần hồn thiện các quy định của
pháp luật về hợp đồng ủy quyền

61

Kết luận

69

Tài liệu tham khảo
Phụ lục


DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BLDS

: Bộ luật Dân sự

HĐUQ

: Hợp đồng uỷ quyền

HĐCN

: Hợp đồng chuyển nhượng

HĐMB


: Hợp đồng mua bán

GCN

: Giấy chứng nhận

GCN QSDĐ : Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
QSD đất

: Quyền sử dụng đất

QSH nhà ở

: Quyền sở hữu nhà ở


1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hợp đồng ủy quyền (HĐUQ) là phương tiện pháp lý quan trọng giúp các
chủ thể có thể thơng qua hành vi của người khác để xác lập và thực hiện hợp
đồng dân sự khi chủ thể đó khơng thể trực tiếp xác lập và thực hiện những hợp
đồng này nhằm đáp ứng những nhu cầu nhất định vì quyền và lợi ích hợp pháp
của mình.
Thơng qua HĐUQ, một người có thể ủy quyền cho người khác nhân danh
mình thực hiện một hoặc một số công việc như thực hiện quyền đòi nợ, thực
hiện nghĩa vụ trả tiền, giao kết và thực hiện các hợp đồng dân sự kể cả các hợp
đồng định đoạt tài sản. Tuy nhiên, các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005

(BLDS 2005) về HĐUQ cịn khá chung chung, dẫn đến có nhiều cách hiểu
khác nhau về các quy định này. Thậm chí, HĐUQ còn bị các chủ thể lạm dụng
để che giấu một hợp đồng mua bán có thực khác nhằm trốn tránh nghĩa vụ nộp
thuế đối với nhà nước. Một trong những hành vi bị lạm dụng nhiều nhất hiện
nay là sử dụng HĐUQ giả tạo để che giấu hợp đồng chuyển nhượng (HĐCN)
nhà, đất, ơ tơ. Tình trạng này gây mất an toàn trong các giao dịch dân sự, dễ
gây phát sinh tranh chấp, làm mất ổn định tình hình xã hội.
Hiện nay, trên địa bàn thành phố Bắc Giang có nhiều trường hợp các bên
khi thực hiện việc mua bán chuyển quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, xe
ô tô cho nhau nhưng không lập hợp đồng mua bán theo quy định mà cùng
nhau thỏa thuận xác lập HĐUQ, theo đó bên bán ủy quyền cho bên mua có
tồn quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản mà các bên đã chuyển
giao cho nhau trong thực tế.
Tình trạng trên có thể do nhiều lý do khác nhau như nhà đem bán, quyền
sử dụng đất được chuyển nhượng chưa có đủ các giấy tờ theo quy định của
pháp luật hoặc ơ tơ đó đã mua bán qua nhiều đời chủ... nên hợp đồng mua bán,


2

chuyển nhượng không thể công chứng, chứng thực theo quy định được.
Nhưng còn một lý do khá phổ biến hiện nay đó là nếu bên nhận chuyển
nhượng là người kinh doanh nhà, đất, ơ tơ thì thường là thay vì phải lập
HĐCN, bên mua và bên bán lại thỏa thuận với nhau lập HĐUQ nhằm mục
đích trốn thuế và tránh việc phải làm thủ tục sang tên. Do những người này
khơng có nhu cầu sử dụng tài sản mà chỉ là đầu tư kinh doanh, đợi khi tìm
được người mua thì những người này sẽ làm thủ tục chuyển nhượng thẳng cho
người có nhu cầu sử dụng. Nếu thực hiện đầy đủ các thủ tục như: lập hợp
đồng mua bán hoặc HĐCN, đăng ký tài sản theo quy định, sau khi tìm được
khách hàng, các bên lại một lần nữa phải thực hiện các thủ tục này thì họ sẽ

mất rất nhiều thời gian và phải nộp nhiều lần thuế khác nhau. Vì vậy, việc mua
bán, chuyển nhượng lần đầu thường được biến tướng thành ủy quyền định
đoạt tài sản và suy cho cùng thì mục đích của hành vi này là nhằm trốn thuế.
Hiện tượng này còn gây ra tình trạng mất cơng bằng xã hội, bởi thực tế cho
thấy các đối tượng biết cách lách luật trốn thuế chủ yếu là nhóm những người
làm dịch vụ bn bán ô tô, nhà, đất (những người có thu nhập cao) chứ những
người dân lao động lương thiện (những người có thu nhập thấp) thì lại khơng
trốn được thuế bởi họ là những người có nhu cầu sử dụng tài sản thực sự vì thế
họ muốn tài sản phải đăng ký tên của họ.
Theo quy định tại khoản 2 điều 689 BLDS 2005, khi chuyển nhượng
những tài sản là nhà, đất thì phải lập thành văn bản và phải được cơng chứng,
chứng thực theo quy định của pháp luật; Thông tư số 75/2011/TT-BCA ngày
17-11-2011 của Bộ Công an (về sửa đổi, bổ sung Thông tư số 36/2010/TTBCA ngày 12-10-2010 Quy định về đăng ký xe) quy định: Giấy bán, cho, tặng
xe của cá nhân phải có chứng thực hoặc cơng chứng theo quy định của pháp
luật. Bên bán nhà, bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất (sau đây gọi chung
là bên bán) phải nộp thuế thu nhập từ chuyển quyền sở hữu nhà, quyền sử


3

dụng đất; bên mua nhà, ô tô, bên nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất (sau
đây gọi chung là bên mua) phải đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền làm thủ
tục đăng ký quyền sử dụng, quyền sở hữu và phải nộp lệ phí trước bạ.
Trong thực tế, nếu bên mua là người kinh doanh nhà, đất, ô tô thì đa số
nhóm người này sẽ khơng đăng ký tài sản tên mình để tiết kiệm thời gian làm
thủ tục đăng ký sang tên và trốn được một lần thuế. Thay vì phải lập HĐCN
theo quy định của pháp luật thì hai bên lại thoả thuận lập HĐUQ, theo đó bên
bán ủy quyền cho bên mua được toàn quyền thực hiện việc chiếm hữu, quản
lý, sử dụng và định đoạt bao gồm cả việc cho thuê, cho mượn, chuyển nhượng,
tặng cho, thế chấp vay vốn... Khi bên mua tìm được khách hàng thì sẽ căn cứ

vào HĐUQ này để xác lập với bên thứ ba một hợp đồng mua bán hoặc chuyển
nhượng. Trong một số trường hợp bên ủy quyền (thực chất là bên bán) còn
cho phép bên được ủy quyền (thực chất là bên mua) được tiếp tục ủy quyền
cho người thứ ba, bên mua vì thế lại có thể tiếp tục chuyển nhượng cho một
bên kinh doanh khác nữa và người này cũng không phải làm thủ tục đăng ký
và nộp thuế theo quy định. Hiện tượng này gây ra tình trạng thất thu thuế cho
nhà nước, làm cho quá trình dịch chuyển tài sản từ chủ thể này sang chủ thể
khác hết sức phức tạp và có thể làm phát sinh những tranh chấp khơng đáng
có. Chuyển nhượng tài sản nhưng che đậy bằng HĐUQ để trốn thuế là một
giao dịch dân sự chứa đựng rất nhiều rủi ro mà phần thiệt hại có thể rơi cả vào
bên mua và bên bán.
Bản chất của HĐUQ theo quy định của BLDS là tiến bộ, đáp ứng được
nhu cầu, nguyện vọng giao dịch dân sự chính đáng của các bên. Tuy nhiên,
nếu HĐUQ bị lạm dụng nhằm mục đích tư lợi cá nhân thì những hậu quả đáng
tiếc rất có thể sẽ xảy ra.
Để ngăn chặn tình trạng lạm dụng HĐUQ, ngăn chặc việc các bên sử
dụng HĐUQ giả tạo để che giấu hành vi chuyển nhượng tài sản nhằm mục


4

đích trốn thuế, Tổng cục Thuế đã ban hành các công văn hướng dẫn Cục Thuế
một số tỉnh, thành phố như thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đà
Nẵng, Hải Phòng… với nội dung xác định những HĐUQ dạng này thực chất
là hoạt động mua bán, do đó người ủy quyền vẫn phải có nghĩa vụ kê khai và
nộp thuế thu nhập cá nhân theo quy định.
Tuy nhiên, chỉ đơn vị nào có cơng văn hỏi thì Tổng cục Thuế mới có văn
bản trả lời, một số đơn vị khơng hỏi thì họ vẫn có thể thực hiện theo cách hiểu
của họ. Việc này dẫn đến việc thực thi pháp luật khơng thống nhất trong phạm
vi tồn quốc, cùng một sự việc giống nhau nhưng mỗi tỉnh lại có biện pháp xử

lý khác nhau. Vi phạm nguyên tắc điều chỉnh mối quan hệ giữa các cơ quan
hành chính nhà nước ở trung ương với các cơ quan hành chính nhà nước ở địa
phương, đó là: “Trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước phải đảm bảo
tính thống nhất của pháp luật quốc gia khi triển khai ở từng địa phương”1.
Hơn nữa, do các công văn trên chỉ là văn bản cá biệt không phải văn bản
quy phạm pháp luật, tính đúng đắn của nội dung cơng văn vẫn cịn nhiều tranh
cãi, chưa có tính thuyết phục, cơ sở pháp lý không vững chắc nên một số đơn
vị không nhận được văn bản hướng dẫn cho rằng họ khơng có trách nhiệm
phải thực hiện. Chi cục Thuế thành phố Bắc Giang là một trong những đơn vị
không thu thuế thu nhập cá nhân của những giao dịch chuyển nhượng bất
động sản thơng qua HĐUQ vì cho rằng giao dịch thông qua HĐUQ không làm
thay đổi chủ sở hữu, chủ sử dụng bất động sản, khơng có hành vi chuyển
nhượng tài sản vì thế khơng làm phát sinh thu nhập từ việc chuyển nhượng tài
sản nên bên được uỷ quyền không phải nộp thuế thu nhập cá nhân.
Đất nước ta đang trong tiến trình đổi mới, cải cách mở cửa, hội nhập thế
giới, với nền kinh tế thị trường năng động, đời sống của nhân dân ngày càng
được cải thiện và nâng cao vì thế thị trường bất động sản cũng rất phát triển,
1

Khoa học Hành chính, Nxb. Chính trị - Hành chính, Hà Nội, 2010. tr.35.


5

các giao dịch mua bán tài sản là ô tô, nhà ở, quyền sử dụng đất ngày càng diễn
ra thường xun, phổ biến và sơi động. Do đó Nhà nước cần ban hành những
văn bản pháp luật để kịp thời đáp ứng nhu cầu phát triển của xã hội nhằm điều
chỉnh, giải quyết các vấn đề phát sinh trong lĩnh vực này, hướng cho những
giao dịch này đi vào khuôn khổ, đảm bảo chặt chẽ, an toàn, đúng luật, bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của tất cả các bên.

Nắm bắt nhu cầu phát triển của xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn
chú trọng chỉ đạo công tác xây dựng Nhà nước pháp quyền, cải cách thủ tục
hành chính. Trong Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ XI của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã thể hiện nội dung này tại Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm
2011), nhấn mạnh một trong tám phương hướng cơ bản cần quán triệt và thực
hiện tốt đó là “xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân”1.
Trong phần Mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm 2011 - 2015
của Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt
Nam cũng xác định một trong bảy nhiệm vụ trọng tâm cần lãnh đạo, chỉ đạo
trong nhiệm kỳ Đại hội XI nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, phát triển đất
nước trong tình hình mới đó là “chú trọng đẩy mạnh cơng tác Cải cách thủ tục
hành chính”2.
Xuất phát từ thực tiễn trên, tác giả đã đi sâu nghiên cứu nhằm tìm ra
những điểm chưa phù hợp, chưa chặt chẽ trong các quy định của pháp luật liên
quan đến lĩnh vực ủy quyền chuyển nhượng tài sản là nhà, đất, ơ tơ từ đó kiến
nghị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đưa ra những giải pháp nhằm góp
phần xây dựng một hành lang pháp lý an toàn, thống nhất và chặt chẽ, đảm
1

Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội, 2011. tr.72.
2
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự
thật, Hà Nội, 2011. tr.324.


6


bảo cho những giao dịch này diễn ra ổn định, cơng bằng, minh bạch; tránh tình
trạng cùng một hành vi pháp lý nhưng mỗi địa phương, mỗi ngành lại hiểu, áp
dụng và thực hiện một cách khác nhau, gây bất bình đẳng, dễ phát sinh tiêu
cực, làm rối loạn trật tự xã hội.
Với vị trí cơng tác là người trực tiếp tham gia giải quyết các tranh chấp
phát sinh từ việc các bên chuyển nhượng tài sản cho nhau bằng HĐUQ giả
tạo, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng ủy
quyền định đoạt quyền sử dụng đất, nhà ở, ô tô và thực tiễn áp dụng pháp
luật trên địa bàn thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang” cho luận văn tốt
nghiệp cao học chuyên ngành Luật Dân sự của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện đã có một số cơng trình khoa học nghiên cứu về HĐUQ, hợp đồng
mua bán tài sản, hợp đồng mua bán nhà ở, HĐCN quyền sử dụng đất nhưng
các cơng trình này chỉ nghiên cứu riêng, độc lập về từng loại hợp đồng mà
chưa có cơng trình khoa học nào nghiên cứu chuyên sâu về mối liên quan giữa
ủy quyền định đoạt tài sản với hợp đồng mua bán, chuyển nhượng tài sản,
cũng chưa có đề tài nào nghiên cứu trên giác độ hẹp về HĐUQ định đoạt
quyền sử dụng đất, nhà ở, ô tô.
Trong quá trình tìm hiểu, tơi nhận thấy mới chỉ có một số ít bài viết đăng
trên các báo và mạng Internet phản ánh tình trạng các đối tượng kinh doanh
nhà, đất, ô tô khi chuyển nhượng các tài sản là nhà, đất, ô tô đã thông đồng với
nhau lập HĐUQ giả tạo để che giấu hành vi chuyển nhượng tài sản nhằm mục
đích trốn thuế. Các bài viết này chưa nghiên cứu, phân tích, đánh giá một cách
sâu sắc và tồn diện trên cả phương diện lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật
đối với lĩnh vực chuyển nhượng các tài sản là nhà, đất, ô tô. Tác giả các bài
viết chưa đưa ra được các kiến nghị, giải pháp nhằm ngăn chặn hạn chế những
giao dịch có nhiều rủi ro này.


7


Đề tài “Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng ủy quyền định đoạt quyền sử
dụng đất, nhà ở, ô tô và thực tiễn áp dụng pháp luật trên địa bàn thành phố
Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang” mà tôi chọn làm luận văn thạc sĩ là một đề tài
độc lập nhằm nghiên cứu chuyên sâu về ủy quyền định đoạt tài sản và thực tế
áp dụng pháp luật trong lĩnh vực này trên địa bàn thành phố Bắc Giang, tỉnh
Bắc Giang.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật thực định về
HĐUQ, bản chất của ủy quyền, quy định của pháp luật về hợp đồng mua bán
nhà ở, ô tô, chuyển nhượng quyền sử dụng đất và bản chất của các quan hệ
này, từ đó tìm ra sự liên quan giữa ủy quyền định đoạt tài sản với các hợp
đồng định đoạt tài sản như mua bán, chuyển nhượng nhà, đất, ô tô.
Đề tài cũng tập trung đưa ra được những thông tin thực tế về tình hình
các bên chuyển nhượng cho nhau những tài sản là nhà, đất, ô tô trên địa bàn
thành phố Bắc Giang, phát hiện ra những điểm còn chưa hợp lý, những bất cập
trong các quy định và những kẽ hở của pháp luật, từ đó đưa ra một số kiến
nghị nhằm góp phần hồn thiện hệ thống pháp luật, đảm bảo an toàn cho
những giao dịch dân sự trong lĩnh vực chuyển nhượng những tài sản là nhà,
đất, ô tô.
Do khái niệm tài sản quy định trong Bộ Luật Dân sự rất rộng nên luận
văn không dám xem xét, đề cập hết được các loại tài sản mà chỉ đi sâu nghiên
cứu những tài sản là nhà, đất, ô tô với những giao dịch phát sinh trong khoảng
thời gian 04 năm, từ ngày 01 tháng 01 năm 2010 đến hết ngày 31 tháng 12
năm 2013. Đây cũng là khoảng thời gian thị trường bất động sản ở thành phố
Bắc Giang hoạt động rất sơi động, vì thế rất thuận lợi cho việc đánh giá những
ưu điểm và khuyết điểm của hoạt động này.


8


Để phạm vi nghiên cứu được chuyên sâu, đề tài tập trung nghiên cứu các
giao dịch liên quan đến lĩnh vực bất động sản và một số tài sản mà pháp luật
có quy định phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng phát sinh trên địa bàn
thành phố Bắc Giang. Đây cũng chính là địa bàn mà tác giả luận văn đang công
tác, là lĩnh vực được giao tham mưu giúp việc cho UBND thành phố Bắc Giang
trong quản lý chuyên ngành theo chức năng nhiệm vụ do pháp luật quy định.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam và
Nhà nước Việt Nam về pháp luật. Đặc biệt là quan điểm của Đảng và quy định
của Nhà nước trong các giao dịch dân sự về chuyển nhượng tài sản, ủy
quyền…
Để giải quyết yêu cầu của đề tài, luận văn đã sử dụng phương pháp luận
nghiên cứu khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin về duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu
khác như: thống kê, phân tích, chứng minh, tổng hợp, diễn giải… để hồn
thành luận văn này.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Việc thực hiện đề tài: “Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng ủy quyền
định đoạt quyền sử dụng đất, nhà ở, ô tô và thực tiễn áp dụng pháp luật trên
địa bàn thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang” nhằm hướng tới một số mục
đích cụ thể sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận về các quy định của pháp luật thực định
trong lĩnh vực chuyển nhượng những tài sản là quyền sử dụng đất, nhà ở, ơ tơ.
- Tìm hiểu, đánh giá thực trạng hành vi chuyển nhượng những tài sản là
nhà, đất, ô tô trên địa bàn thành phố Bắc Giang; cảnh báo một thực trạng trong
xã hội là có một số tổ chức, cá nhân hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh nhà,



9

đất, ô tô… sử dụng HĐUQ giả tạo để che giấu hành vi chuyển nhượng tài sản
nhằm mục đích trốn thuế.
- Đưa ra quan điểm, giải pháp của cá nhân nhằm kiến nghị với các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền có biện pháp ngăn chặn, hạn chế những hành vi
này; đồng thời cảnh báo cho người dân biết những rủi ro mà các bên có thể
gặp khi chuyển nhượng những tài sản là nhà, đất, ô tô cho nhau bằng HĐUQ;
từ đó góp phần giữ vững ổn định chính trị xã hội, tăng cường tính nghiêm
minh của pháp luật xã hội chủ nghĩa và chống thất thu thuế cho Nhà nước.
Để đạt được những mục đích đã đề ra, luận văn có những nhiệm vụ cần
phải nghiên cứu và giải quyết, cụ thể như sau:
- Nghiên cứu bản chất và phân tích cơ sở lý luận những quy định của
pháp luật trong lĩnh vực chuyển nhượng và ủy quyền định đoạt những tài sản
là quyền sử dụng đất, nhà ở, ô tô.
- Thống kê số liệu, nghiên cứu nội dung cụ thể các hồ sơ chuyển nhượng
những tài sản là nhà, đất, ô tô đang lưu trữ tại Văn phòng Đăng ký quyền sử
dụng đất thành phố Bắc Giang, Chi cục Thuế thành phố Bắc Giang và một số
đơn vị liên quan như: các tổ chức hành nghề công chứng trên địa bàn, Sở Tư
pháp tỉnh Bắc Giang, Phòng Cảnh sát giao thơng tỉnh Bắc Giang. Từ đó rút ra
nhận xét, đánh giá thực trạng tình hình chuyển nhượng những tài sản là nhà,
đất, ô tô trên địa bàn thành phố Bắc Giang.
- Đưa ra các quan điểm và luận chứng khoa học, đề xuất các giải pháp
nhằm góp phần ngăn chặn, hạn chế hiện tượng chuyển nhượng tài sản núp
dưới hình thức HĐUQ; cảnh báo cho nhân dân những rủi ro mà các bên có thể
gặp phải khi chuyển nhượng cho nhau những tài sản là nhà, đất, ô tô bằng
HĐUQ.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài



10

- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ những hạn chế, bất
cập của các quy định pháp luật trong lĩnh vực chuyển nhượng những tài sản là
quyền sử dụng đất, nhà ở, ô tô và thực trạng các giao dịch này được tiến hành
thông qua các HĐUQ trên địa bàn thành phố Bắc Giang. Luận văn cũng đưa ra
những đề xuất góp phần hồn thiện pháp luật để ngăn chặn những hành vi chuyển
nhượng tài sản là nhà, đất, ơ tơ bằng HĐUQ nhằm mục đích trốn thuế, góp
phần giữ vững ổn định, an tồn cho các giao dịch dân sự trong lĩnh vực này.
- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc học tập, nghiên
cứu bộ môn Luật Dân sự trong các trường đại học và cho những người đang
trực tiếp làm công tác quản lý, giải quyết các vụ tranh chấp phát sinh trong
lĩnh vực chuyển nhượng những tài sản là nhà, đất, ô tô.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn thạc sĩ luật học về đề tài “Một số vấn đề pháp lý về hợp đồng
ủy quyền định đoạt quyền sử dụng đất, nhà ở, ô tô và thực tiễn áp dụng
pháp luật trên địa bàn thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang” ngoài phần
mở đầu và phần kết luận, có ba chương chính, gồm:
Chƣơng 1: Hợp đồng ủy quyền - Quy định của pháp luật và một số vấn
đề lý luận.
Chƣơng 2: Một số vấn đề về ủy quyền định đoạt quyền sử dụng đất, nhà
ở, ô tô và thực trạng việc ủy quyền định đoạt quyền sử dụng đất, nhà ở, ô tô
trên địa bàn thành phố Bắc Giang.
Chƣơng 3: Một số bất cập trong các quy định của pháp luật về hợp đồng
ủy quyền và một số kiến nghị.


11

Chƣơng 1

HỢP ĐỒNG ỦY QUYỀN - QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
1.1. Khái niệm chung về ủy quyền và hợp đồng ủy quyền
1.1.1. Khái niệm về ủy quyền
Theo từ điển tiếng Việt thì ủy quyền là việc một người giao cho người
khác sử dụng một số quyền1 mà mình có. Chẳng hạn, Bộ trưởng ủy quyền cho
Thứ trưởng; Giám đốc ủy quyền cho Phó Giám đốc; A ủy quyền cho B đòi nợ
C v.v. Theo nghĩa này thì nội dung ủy quyền chỉ là giao cho người khác sử
dụng một số quyền mà không bao hàm giao việc thực hiện nghĩa vụ.
Tuy nhiên, vấn đề ủy quyền mà luận văn này xem xét được đặt dưới góc
độ là ủy quyền nhằm xác lập đại diện trong giao dịch dân sự nên ngoài việc giao
sử dụng quyền thì nội dung của ủy quyền cịn bao hàm cả việc giao thực hiện
nghĩa vụ.
Ủy quyền có thể được thực hiện theo thủ tục hành chính hoặc theo thủ tục
dân sự. Nếu ủy quyền theo thủ tục hành chính thì sự ủy quyền của bên ủy
quyền như là một mệnh lệnh của cấp trên đối với cấp dưới và theo đó, người
được ủy quyền phải phục tùng mệnh lệnh đó để thực hiện các cơng việc được
giao. Ủy quyền hành chính đa số được thể hiện thơng qua quy chế, văn bản
phân công nhiệm vụ của cơ quan, tổ chức. Vì vậy, phạm vi thẩm quyền đại
diện của người được ủy quyền trong trường hợp này được xác định thông qua
văn bản ủy quyền thường xuyên, căn cứ vào quy định của pháp luật, quy chế
hoạt động của cơ quan, tổ chức hoặc lĩnh vực chuyên môn mà thủ trưởng giao
cho cấp phó của mình phụ trách. Ví dụ: Chủ tịch UBND huyện ủy quyền cho
Phó Chủ tịch UBND huyện ký quyết định xử phạt vi phạm hành chính trong
1

Từ điển tiếng Việt, Nxb. Thanh Hóa, 1998. tr.1311.


12


lĩnh vực đất đai; Giám đốc công ty ủy quyền cho Phó Giám đốc ký hợp đồng
lao động với người lao động v.v.
Nếu ủy quyền theo thủ tục dân sự thì sự ủy quyền của bên ủy quyền mới
chỉ là ý chí đơn phương của bên ủy quyền vì thế quan hệ ủy quyền chỉ hình
thành khi có sự đồng ý của bên được ủy quyền. Nói cách khác, ủy quyền dân
sự phải là sự thỏa thuận giữa bên ủy quyền và bên được ủy quyền về việc một
bên giao cho bên kia thay mình thực hiện một cơng việc nhất định. Ở góc độ
này thì ủy quyền chính là nội dung của một hợp đồng dân sự. Ví dụ: A ủy
quyền cho B và B đồng ý nhận ủy quyền để đến UBND huyện X nhận Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất (GCN QSD đất) của A.
Như vậy, ủy quyền là việc một bên cho người khác quyền được thay mặt
mình để thực hiện thay mình một số quyền và nghĩa vụ mà pháp luật cho phép.
1.1.2. Khái niệm về hợp đồng ủy quyền
Thông thường, để đáp ứng một số nhu cầu phục vụ cho hoạt động của con
người trong đời sống xã hội, các chủ thể sẽ trực tiếp thực hiện các hành vi nhất
định để tham gia vào các quan hệ pháp luật và thực hiện các quyền và nghĩa
vụ phát sinh từ những quan hệ đó. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, do
những lý do nhất định, chủ thể không thể trực tiếp tham gia và thực hiện các
quan hệ pháp luật, mà phải thông qua hành vi của một cá nhân khác thực hiện
các giao dịch vì quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trong các trường hợp
này, người ta nghĩ đến việc xác lập một quan hệ pháp luật với một người khác
để từ quan hệ này, người khác được quyền nhân danh họ xác lập và thực hiện
các giao dịch nói trên. Các quan hệ này được gọi là quan hệ ủy quyền, quan hệ
ủy quyền được xác lập, thực hiện thông qua giao dịch dân sự và những giao
dịch dân sự dạng này gọi là HĐUQ.
Nhằm tạo cơ sở pháp lý cho các chủ thể có thể thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của mình khi khơng có điều kiện trực tiếp tham gia các quan hệ pháp



13

luật, Bộ luật Dân sự Việt Nam đã quy định cho phép các chủ thể thông qua
HĐUQ để ủy quyền cho người khác nhân danh mình tiến hành một số hành vi
nhất định trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.
Điều 581 BLDS 2005 quy định:
“HĐUQ là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên được uỷ quyền có
nghĩa vụ thực hiện cơng việc nhân danh bên uỷ quyền, còn bên uỷ quyền chỉ
phải trả thù lao, nếu có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định”.
Theo quy định trên, các bên được quyền thỏa thuận để giao kết với nhau
một hợp đồng dân sự, theo đó một bên ủy quyền cho bên kia nhân danh mình
để thực hiện các cơng việc vì quyền và lợi ích của mình. Kể từ thời điểm hợp
đồng có hiệu lực pháp luật thì bên được ủy quyền có trách nhiệm tiến hành các
công việc theo nội dung đã được ủy quyền. Bên được ủy quyền chỉ thực hiện
công việc với tư cách nhân danh bên ủy quyền nên các quyền và nghĩa vụ hình
thành do việc thực hiện cơng việc trong phạm vi ủy quyền luôn thuộc về bên
ủy quyền. Người được ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc và được
nhận thù lao do đã thực hiện cơng việc đó (nếu có thỏa thuận về thù lao hoặc
pháp luật có quy định).
HĐUQ cịn là cơ sở để người được ủy quyền xác lập với người thứ ba
một giao dịch dân sự. Chẳng hạn, A có một căn nhà muốn cho thuê nhưng A
đang công tác ở nước ngồi nên khơng trực tiếp ký hợp đồng cho th nhà
được, trong trường hợp này A có thể ủy quyền cho B được tự tìm kiếm người
thuê nhà và giao kết hợp đồng thuê nhà với bên thuê nhà theo những điều kiện
mà A đặt ra và được thể hiện trong nội dung của HĐUQ, căn cứ vào HĐUQ
này B được phép nhân danh A để ký kết với người thứ ba hợp đồng thuê nhà.
HĐUQ cũng có thể là cơ sở để bên được ủy quyền thực hiện một cơng
việc, hoặc một số cơng việc có liên quan đến người thứ ba. Chẳng hạn, nhân
danh người ủy quyền để đòi nợ, đại diện cho người ủy quyền để tham gia tố



14

tụng... Chỉ khi bên được ủy quyền đưa ra được HĐUQ làm căn cứ chứng minh
mình là người được ủy quyền thì bên thứ ba (người trả nợ, cơ quan tiến hành
tố tụng) mới cho phép người được ủy quyền tham gia vào các quan hệ pháp
luật để thực hiện các quyền và nghĩa vụ thay cho người ủy quyền.
Với bản chất của HĐUQ như đã phân tích trên, về mặt học thuật, có thể
khái niệm về HĐUQ như sau:
HĐUQ là thỏa thuận dân sự giữa các bên, theo đó, một bên (gọi là bên
ủy quyền) ủy quyền cho bên kia (gọi là bên được ủy quyền) thực hiện một hoặc
một số công việc nhất định. Bên được ủy quyền nhân danh bên ủy quyền thực
hiện các quyền, nghĩa vụ của bên ủy quyền hoặc thực hiện các công việc khác
trong phạm vi ủy quyền, vì quyền và lợi ích hợp pháp của bên ủy quyền. Bên
được ủy quyền được nhận thù lao của bên ủy quyền do đã thực hiện cơng việc
ủy quyền nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có qui định.
1.2. Chủ thể của hợp đồng ủy quyền
HĐUQ được giao kết giữa một bên là người có nhu cầu thông qua người
khác để thực hiện một hoặc một số công việc nhất định với một bên là người
đồng ý thực hiện cơng việc đó. Vì vậy, chủ thể của HĐUQ bao gồm các bên
sau đây:
1.2.1. Bên ủy quyền
Bên ủy quyền là bên có nhu cầu thực hiện một hoặc một số công việc cụ
thể nhưng không thể tự mình thực hiện cơng việc đó hoặc thấy rằng nếu tự
thực hiện thì hiệu quả cơng việc khơng cao... nên uỷ quyền cho người phù hợp
thay mình thực hiện cơng việc này. Ví dụ: Một người đang sống và làm việc ở
nước ngoài muốn đề nghị UBND phường nơi trước đây mình cư trú cấp Giấy
xác nhận tình trạng hôn nhân, nếu chỉ để giải quyết việc này mà phải về nước
thì rất tốn kém tiền bạc và mất thời gian. Vì thế pháp luật cho phép người này
có thể làm văn bản ủy quyền cho một người ở trong nước nhân danh mình liên



15

hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để đề nghị cấp Giấy xác nhận tình
trạng hơn nhân cho mình. Hoặc một người phải tham gia tố tụng với tư cách là
đương sự trong một vụ án nhưng do khơng có kiến thức về pháp luật, xét thấy
nếu tự mình thực hiện sẽ khơng có lợi thì người này có thể ủy quyền cho Luật
sư nhân danh mình tham gia tố tụng tại Tòa án để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình v.v.
Do bên ủy quyền là một bên trong giao dịch dân sự nên bên ủy quyền
phải có năng lực chủ thể khi xác lập HĐUQ. Nếu bên ủy quyền là cá nhân thì
cá nhân đó phải có năng lực hành vi dân sự. Nếu bên ủy quyền là pháp nhân
hoặc các chủ thể khác (tổ hợp tác, hộ gia đình…) thì người trực tiếp giao kết
HĐUQ phải là người đại diện theo pháp luật của pháp nhân, chủ thể khác hoặc
là người được người đại diện theo pháp luật của pháp nhân, chủ thể khác ủy
quyền, đồng thời chỉ được ủy quyền các công việc thuộc phạm vi thẩm quyền
đại diện theo quy định của pháp luật.
Trên cơ sở HĐUQ được ký kết, giữa bên ủy quyền và bên được ủy quyền
phát sinh một quan hệ được gọi là đại diện theo ủy quyền. Trong quan hệ đại
diện này, bên ủy quyền (trong HĐUQ) là bên được đại diện.
1.2.2. Bên được ủy quyền
Bên được ủy quyền là bên được bên ủy quyền cho phép nhân danh họ để
thực hiện một hoặc một số công việc nhất định. Trong quan hệ đại diện phát
sinh từ HĐUQ thì bên được ủy quyền là bên đại diện. Vì vậy, bên được ủy
quyền chỉ được phép thực hiện các công việc trong phạm vi thẩm quyền đại
diện (được xác định thông qua nội dung của HĐUQ) và cũng chính vì thế, khi
thực hiện các cơng việc được ủy quyền có liên quan đến bên thứ ba thì bên
được ủy quyền phải xuất trình HĐUQ với bên thứ ba để bên thứ ba biết về
phạm vi đại diện.



16

Cũng là một bên chủ thể trong giao dịch dân sự nên bên được ủy quyền
phải có năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật. Nếu như pháp
luật khơng có quy định khác về năng lực hành vi của bên ủy quyền thì đối với
bên được ủy quyền (đại diện theo ủy quyền), pháp luật có quy định: “Người từ
đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể là người đại diện theo uỷ
quyền, trừ trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải do người từ
đủ mười tám tuổi trở lên xác lập, thực hiện”1. Quy định này của pháp luật cho
phép cá nhân dù chưa đủ 18 tuổi nhưng khi đã đủ 15 tuổi thì vẫn có quyền
giao kết HĐUQ với tư cách là bên được ủy quyền (trừ trường hợp pháp luật có
quy định khác). Chẳng hạn, A là người giám hộ của C, A không được phép ủy
quyền cho B (là người đã đủ 15 tuổi nhưng chưa đủ 18 tuổi) để đại diện cho C
trong các giao dịch dân sự vì điều kiện của cá nhân làm người giám hộ phải là
người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trong trường hợp này B chưa đủ 18
tuổi nên không được nhân danh A để đại diện cho C trong các giao dịch dân
sự. Tuy nhiên A có thể ủy quyền cho B đến đội thuế phường X để nộp thuế
Giá trị gia tăng và thuế Thu nhập cá nhân vì việc nộp tiền thuế khơng bắt buộc
phải do người có đầy đủ năng lực hành vi dân sự thực hiện.
Tất nhiên ngoài những điều kiện trên, cả bên ủy quyền và bên được ủy
quyền cịn phải có đầy đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật như:
khơng trong thời gian bị Tịa án cấm làm công việc liên quan đến công việc
được uỷ quyền, mục đích và nội dung của cơng việc uỷ quyền không vi phạm
điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội...

1

Khoản 2, Điều 143, BLDS 2005



17

1.3. Đối tƣợng của hợp đồng ủy quyền
Đối tượng của HĐUQ là cơng việc mà bên ủy quyền có nhu cầu thực hiện
nhưng không tự thực hiện được hoặc xét thấy nếu tự mình thực hiện sẽ khơng
có lợi nên ủy quyền cho người khác thay mình thực hiện. Lý do chủ thể không
trực tiếp tham gia giao kết, thực hiện cơng việc có thể là do khơng có thời
gian, do bị ốm, đang bị tạm giữ, tạm giam, đang thi hành án phạt tù hoặc công
việc cần đến sự chun mơn hóa v.v. Pháp luật hiện hành khơng quy định
những loại cơng việc nào thì được ủy quyền cho người khác thực hiện mà chỉ
quy định một số trường hợp không được ủy quyền. Chẳng hạn như không
được phép ủy quyền cho người khác đăng ký kết hôn, đăng ký việc nuôi con
nuôi, đăng ký việc nhận cha, mẹ, con... Như vậy, có thể nói đối tượng của
HĐUQ là tất cả các công việc nhằm thực hiện các quyền, nghĩa vụ của bên ủy
quyền trừ các công việc mà pháp luật đã quy định không cho phép thực hiện
thông qua người đại diện. Nói một cách khác, ngoại trừ một số công việc bị
pháp luật cấm hoặc không cho phép ủy quyền cho người khác cịn lại bất cứ
cơng việc nào mà chủ thể khơng có điều kiện để trực tiếp thực hiện thì đều có
thể ủy quyền cho người khác nhân danh mình để thực hiện, như: Giao kết và
thực hiện hợp đồng, thực hiện nghĩa vụ dân sự, thực hiện quyền yêu cầu, tham
gia tố tụng, quản lý tài sản.
Tuy nhiên, như đã nói ở phần trên, đối tượng ủy quyền mà đề tài này
nghiên cứu chỉ ở góc độ là ủy quyền nhằm xác lập đại diện trong giao dịch dân
sự liên quan đến việc định đoạt các tài sản là quyền sử dụng đất, nhà ở, ô tô
nên tác giả luận văn chỉ xem xét một số đối tượng của HĐUQ như dưới đây:
1.3.1. Giao kết và thực hiện hợp đồng
Trong HĐUQ mà bên ủy quyền đã ủy quyền cho bên được ủy quyền nhân
danh mình để giao kết và thực hiện hợp đồng thì người được ủy quyền trong

quan hệ hợp đồng được xác lập giữa người được ủy quyền với người thứ ba sẽ


18

là người trực tiếp giao kết hợp đồng nhưng quyền và nghĩa vụ phát sinh từ
quan hệ hợp đồng này sẽ thuộc về bên ủy quyền. Vì vậy, người được ủy quyền
là người trực tiếp thực hiện hợp đồng nhưng người được hưởng lợi ích từ hợp
đồng là người ủy quyền. Chẳng hạn, A ủy quyền cho B được nhân danh A để
ký hợp đồng bán căn nhà của A cho C. Căn cứ vào HĐUQ, B được quyền giao
kết hợp đồng mua bán nhà với C. người ký và thực hiện hợp đồng sẽ là B, sau
khi B thực hiện xong hợp đồng thì phải bàn giao cho A số tiền thu được từ
việc bán nhà. Thuế thu nhập từ chuyển quyền sở hữu nhà sẽ đánh vào người
có thu nhập là A chứ không phải B.
1.3.2. Thực hiện nghĩa vụ dân sự
Nếu đối tượng của HĐUQ là việc thực hiện nghĩa vụ dân sự thì phạm vi
nghĩa vụ mà bên được ủy quyền phải thực hiện trước bên có quyền được xác
định thơng qua nội dung của HĐUQ. Bên có nghĩa vụ chỉ được ủy quyền cho
người khác thay mình thực hiện nghĩa vụ dân sự khi đã thơng báo trước cho
bên có quyền và được bên có quyền đồng ý. Bên được ủy quyền là người trực
tiếp thực hiện nghĩa vụ đó trước bên có quyền nhưng bên ủy quyền vẫn phải
chịu trách nhiệm trước bên có quyền nếu bên được ủy quyền không thực hiện
hoặc thực hiện khơng đúng, khơng đủ nghĩa vụ đó1. Ví dụ: A ủy quyền cho B
thực hiện nghĩa vụ trả nợ C. Nếu B không trả tiền cho C, trả không đủ hoặc trả
chậm so với thỏa thuận thì A vẫn phải chịu trách nhiệm đối với C về khoản
tiền chưa trả, trả thiếu hoặc khoản tiền phạt do trả chậm.
1.3.3. Thực hiện quyền yêu cầu
Nếu đối tượng của HĐUQ là thực hiện quyền yêu cầu thì trong HĐUQ
phải xác định rõ phạm vi quyền yêu cầu đã được ủy quyền. Bên có quyền yêu
cầu có thể ủy quyền cho người khác nhân danh mình thực hiện quyền yêu cầu

nhưng phải báo cho bên có nghĩa vụ biết bằng văn bản. Quyền yêu cầu chuyển
1

Điều 293, BLDS 2005


×