Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (581.76 KB, 70 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HỨA THU HẰNG

YẾU TỐ LỖI TRONG TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG
THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. PHẠM VĂN TUYẾT

HÀ NỘI - 2014

Yếu tố lỗi trong TN BTTHNHĐ

Hứa Thu Hằng - CH20033


i
LỜI CẢM ƠN
Trước hết tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới TS. Phạm Văn Tuyết người đã
tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong suốt thời gian tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới ban giám hiệu, các thầy cô
giáo khoa sau đại học - Trường đại học Luật Hà Nội đã nhiệt tình giảng dạy


chúng tôi trong suốt thời gian qua.
Đồng thời tôi cũng xin được cảm ơn tới các bạn học viên đã luôn ở bên,
động viên, tạo điều kiện cho tôi trong suốt quá trình học tập cũng như nghiên cứu.
Mặc dù đã cố gắng nghiên cứu hoàn thành luận văn này nhưng luận văn
vẫn không tránh khỏi những thiếu sót. Do vậy, tôi rất mong nhận được sự chỉ
bảo, góp ý của các thầy cô giáo để Luận văn được hoàn thiện hơn.
Hà Nội, ngày 15 tháng 5 năm 2014
Học viên

Hứa Thu Hằng

Yếu tố lỗi trong TN BTTHNHĐ

Hứa Thu Hằng - CH20033


ii
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
trong Luận văn là trung thực. Các kết luận khoa học trong Luận văn chưa từng
được ai công bố trong các công trình khác.
Tác giả luận văn

Hứa Thu Hằng

Yếu tố lỗi trong TN BTTHNHĐ

Hứa Thu Hằng - CH20033



iii
MỤC LỤC
A. LỜI NÓI ĐẦU.................................................................................................... 1
1. Tính cấp thiết của đề tài ....................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ................................................................................. 1
3. Giới hạn của việc nghiên cứu............................................................................... 2
4. Cơ sở nghiên cứu đề tài ....................................................................................... 3
5. Phương pháp nghiên cứu ..................................................................................... 3
6. Điểm mới của luận văn ........................................................................................ 3
7. Kết cấu của luận văn............................................................................................ 3
B. NỘI DUNG ........................................................................................................ 4
CHƯƠNG 1:
LÝ LUẬN VỀ LỖI TRONG TN BTTHNHĐ.......................................................... 4
1.1 Khái quát chung về lỗi trong TN BTTHNHĐ .................................................... 4
1.1.1 Khái niệm lỗi .................................................................................................. 4
1.1.2 Hình thức lỗi................................................................................................... 10
1.2. Ý nghĩa của yêú tố lỗi trong việc xác định TN BTTHNHĐ .............................. 11
1.3 Mối liên hệ giữa lỗi và các yếu tố khác trong TN BTTHNHĐ ........................... 18
1.3.1 Mối liên hệ giữa lỗi và thiệt hại xảy ra ............................................................ 18
1.3.2 Mối liên hệ giữa lỗi và hành vi trái pháp luật .................................................. 19
1.4 Phân biệt ý nghĩa của yếu tố lỗi trong việc xác định TN BTTHNHĐ và
trong TN pháp lý khác ............................................................................................. 21
1.4.1 Phân biệt ý nghĩa của yếu tố lỗi trong TN BTTHNHĐ và trong TN BTTH
do vi phạm hợp đồng ............................................................................................... 22
1.4.2 Phân biệt ý nghĩa của yếu tố lỗi trong TN BTTHNHĐ với lỗi trong
trách nhiệm HS ......................................................................................................................23
1.5 Khái quát chung về sự phát triển của pháp luật dân sự về lỗi trong
TN BTTHNHĐ ....................................................................................................... 27
CHƯƠNG 2:
NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA BLDS HIỆN HÀNH VỀ LỖI TRONG TN BTTHNHĐ

VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ LỖI ............ 30
Yếu tố lỗi trong TN BTTHNHĐ

Hứa Thu Hằng - CH20033


iv
2.1 Lỗi với việc xác định TN BTTHNHĐ ............................................................... 30
2.1.1 Lỗi với việc xác định mức độ TN BTTHNHĐ ................................................ 30
2.1.2 Lỗi với việc xác định loại BTTH .................................................................... 32
2.1.3 Lỗi với việc xác định chủ thể BTTH ............................................................... 39
2.2 Một số bất cập trong quy định của pháp luật liên quan đến lỗi trong TN
BTTHNHĐ ............................................................................................................. 54
2.3 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về lỗi trong
TN BTTHNHĐ. ...................................................................................................... 60
C. KẾT LUẬN ........................................................................................................ 64

Yếu tố lỗi trong TN BTTHNHĐ

Hứa Thu Hằng - CH20033


v
DANH MỤC CHỨ VIẾT TẮT
BLDS

: Bộ luật dân sự

BLHS


: Bộ luật hình sự

BTTH

: Bồi thường thiệt hại

BTTHNHĐ

: Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng

TN

: Trách nhiệm

TNDS

: Trách nhiệm dân sự

TNHS

: Trách nhiệm hình sự

Yếu tố lỗi trong TN BTTHNHĐ

Hứa Thu Hằng - CH20033


1
A. LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Xây dựng một nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mang đậm tính nhân dân là
đề cao các nguyên tắc tôn trọng và bảo vệ quyền con người, đề cao nguyên tắc
bình đẳng, công bằng. Đây là lý tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và cũng là tư
tưởng chỉ đạo xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta. Trong một nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, khi mà các giá trị quyền con người được tôn vinh và là đích đến
của toàn xã hội thì việc giải quyết kịp thời các vấn đề bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng cũng được coi là một đại lượng để đánh giá uy tín và chất lượng của
nền dân chủ đó.
Về nguyên tắc, TN BTTHNHĐ chỉ được đặt ra khi có đủ bốn điều kiện:
có thiệt hại xảy ra, hành vi gây thiệt hại trái pháp luật, lỗi, mối quan hệ nhân quả
giữa hành vi gây thiệt hại trái pháp luật và thiệt hại xảy ra. Trong đó điều kiện
lỗi có ý nghĩa quan trọng với việc chứng minh vấn đề trách nhiệm, xác định chủ
thể phải bồi thường và mức bồi thường. Tuy nhiên, việc nhận thức được yếu tố
lỗi trong thực tế không hề đơn giản.
Việc nghiên cứu một cách có hệ thống về yếu tố lỗi nói riêng và trách
nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng nói chung có liên hệ mật thiết
với việc xây dựng thành công một nên dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam nói chung. Vì đây là vấn đề gắn liền
với các quyền tự nhiên của con người, tới vấn đề công lý và công bằng xã hội.
Xuất phát từ tính cấp thiết, từ ý nghĩa cũng như tầm quan trọng của việc
nghiên cứu vấn đề lỗi trong TN BTTHNHĐ, tôi đã chọn đề tài "Yếu tố lỗi trong
trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng" làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Cùng với việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, một số đề tài
khoa học cấp Bộ về trách nhiệm dân sự BTTHNHĐ, lỗi trong TN BTTHNHĐ đã
được đưa ra nghiên cứu và hoàn thiện. Ngoài ra có khá nhiều các công trình
nghiên cứu liên quan đến TN BTTHNHĐ do hành vi trái pháp luật gây ra như:
Luận văn thạc sỹ Luật học của Lê Mai Anh "Những vấn đề cơ bản về bồi thường
Yếu tố lỗi trong TN BTTHNHĐ


Hứa Thu Hằng - CH20033


2
thiệt hại ngoài hợp đồng", Luận văn thạc sỹ luật học của Lê Thị Bích Lan "Một
số vấn đề về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm và uy tín", Luận văn thạc sỹ của Nguyễn Minh Châu "Bồi
thường thiệt hại trong trường hợp tính mạng, sức khỏe bị xâm phạm, một số vấn
đề lý luận và thực tiễn"... và sách chuyên khảo của tác giả, TS. Phùng Trung Tập
"Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do tài sản, sức khỏe, tính mạng bị xâm
phạm" do NXB Hà Nội xuất bản năm 2009... những luận văn và sách chuyên
khảo này đều có đề cập đến yếu tố lỗi trong TN BTTHNHĐ.
Bàn riêng về yếu tố lỗi có Luận văn thạc sỹ luật học của Bùi Thị Thủy
Chung "Lỗi trong trách nhiệm dân sự bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng", và
các bài viết đăng trên các tạp chí khoa học như "Bàn về yếu tố lỗi trong trách
nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng" của TS. Phùng Trung Tập - Trường
đại học Luật Hà Nội (Tạp chí Luật học số 10/2004); hay "Yếu tố lỗi trong trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra" của Hoàng Đạo,
Vũ Thị Lan Hương (Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 13/2013)...
Tuy nhiên, hầu hết các công trình, tài liệu nghiên cứu mới chỉ tập trung
vào một số khía cạnh của yếu tố lỗi. Do vậy, việc nghiên cứu yếu tố lỗi trong TN
BTTHNHĐ là hết sức cần thiết.
3. Giới hạn của việc nghiên cứu
Bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng có thể nảy sinh trong bất kì một quan
hệ nào: Dân sự, lao động, hành chính, hình sự,... Trong phạm vi đề tài này, tôi
chỉ tập trung khai thác các quy định của BLDS về vấn đề này. Cụ thể hơn đó
chính là các quy định của BLDS về "lỗi" tại Điều 308 và trong chế định trách
nhiệm BTTHNHĐ tại Chương XXI - Phần thứ ba BLDS 2005.
Nghiên cứu đề tài "Yếu tố lỗi trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng" nhằm đưa ra một bức tranh toàn cảnh về lỗi với tư cách là một trong

bốn yếu tố làm phát sinh TN BTTHNHĐ, nhận thức về vấn đề này trong xã hội
nói chung vả của những người nghiên cứu, áp dụng pháp luật nói riêng; đánh giá
những gì đã đạt được và những bất cập, hạn chế còn tồn tại; trên cơ sở đó, Luận
văn đưa ra ý kiến đề xuất hướng hoàn thiện.
Yếu tố lỗi trong TN BTTHNHĐ

Hứa Thu Hằng - CH20033


3
4. Cơ sở nghiên cứu đề tài:
- Cơ sở khoa học của đề tài: Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở chủ
trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về công cuộc cải cách tư
pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội Chủ nghĩa. Trong đó, có việc hoàn
thiện hơn nữa các quy định của Pháp luật về lỗi trong TN BTTHNHĐ.
- Cơ sở thực tiễn của đề tài: Đánh giá thực trạng về lỗi thông qua các
trường hợp cụ thể và thông qua thực tiễn nhận thức về lỗi trong TN BTTHNHĐ,
về lỗi trong TN BTTHNHĐ qua một số bài viết, bài nghiên cứu đăng trên các
báo, tạp chí...
5. Phương pháp nghiên cứu
Về phương pháp nghiên cứu, trong luận văn, tôi đã sử dụng các phương
pháp như phân tích, logic, lịch sử, so sánh giữa những quy định cùng loại, đánh
giá, tổng hợp một số tài liệu, số liệu, thông tin trong các báo cáo, tạp chí, bài
báo, sách tham khảo, đề tài nghiên cứu khoa học, các văn bản pháp luật có liên
quan cùng các gợi ý của giáo viên hướng dẫn để hoàn thành luận văn này.
6. Điểm mới của luận văn
Luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích về yếu tố lỗi trong TN
BTTHNHĐ. Trong đó, các quan điểm về lỗi hiện nay được Luận văn tổng hợp
và phân tích. Từ đó, tác giả cũng mạnh dạn đưa ra quan điểm cá nhân về khái
niệm lỗi, so sánh yếu tố lỗi trong TN BTTHNHĐ với yếu tố lỗi trong các trách

nhiệm pháp lý khác. Đồng thời, luận văn phân tích chi tiết ý nghĩa của yếu tố lỗi
trong việc xác định TN BTTHNHĐ và đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện
pháp luật.
7. Kết cấu của luận văn
Về kết cấu của luận văn, ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo, nội dung của luận văn bao gồm 2 chương
Chương I: Lý luận về lỗi trong TN BTTHNHĐ
Chương II: Những quy định của BLDS hiện hành về lỗi trong TN
BTTHNHĐ và kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về lỗi.

Yếu tố lỗi trong TN BTTHNHĐ

Hứa Thu Hằng - CH20033


4
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN VỀ LỖI TRONG TN BTTHNHĐ
1.1 Khái quát chung về lỗi trong TN BTTHNHĐ
1.1.1 Khái niệm lỗi
Trong khoa học pháp lý, yếu tố lỗi là một trong những cơ sở phát sinh
TNDS. Xét riêng TN BTTHNHĐ, Điều 604 BLDS 2005 quy định:
"1. Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ,
danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân,
xâm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt
hại thì phải bồi thường.
2. Trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi
thường cả trong trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy định đó".
Mặc dù yếu tố lỗi có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định trách nhiệm

dân sự nhưng hiện nay chưa có một định nghĩa nhất quán về lỗi. Điều này đã gây
ra một số khó khăn, bất cập trong việc xác định trách nhiệm khi có hành vi vi
phạm pháp luật dân sự, đặc biệt là trong trách nhiệm dân sự liên đới.
BLDS Việt Nam 2005 không đưa ra khái niệm lỗi trong trách nhiệm dân sự
nói chung và lỗi trong TN BTTHNHĐ nói riêng mà chỉ ghi nhận có yếu tố lỗi
trong loại trách nhiệm này tại Điều 308 và Điều 604. Đồng thời, nghị quyết số
03/2006/NQ- HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về
BTTHNHĐ cũng không định nghĩa "lỗi" là gì mà chỉ đưa ra định nghĩa về "lỗi cố
ý" và "lỗi vô ý". Nhìn chung, quan điểm hiện nay của các luật gia đều thừa nhận
lỗi được hiểu là "trạng thái tâm lý" của người có hành vi gây thiệt hại. Trạng thái
tâm lý ở đây bao gồm hai yếu tố, đó là lý trí và ý chí. Yếu tố ý chí thể hiện ở nhận
thức thực tại khách quan (nhận thức được hoặc không nhận thức được mặc dù đủ
điều kiện để nhận thức khả năng gây thiệt hại của hành vi). Yếu tố lý trí thể hiện
năng lực điều khiển hành vi (khả năng kiềm chế hành vi gây thiệt hại hoặc có khả
năng thực hiện hành vi khác phù hợp với pháp luật). Như vậy, người gây thiệt hại
bị coi là có lỗi khi người đó nhận thức được hoặc không nhận thức được nhưng có
Yếu tố lỗi trong TN BTTHNHĐ

Hứa Thu Hằng - CH20033


5
đủ điều kiện thực tế để nhận thức được tính chất gây thiệt hại của hành vi và có đủ
điều kiện để điều khiển một hành vi khác không gây thiệt hại. Việc hiểu lỗi là
nhận thức của chủ thể thực ra đã tồn tại khá lâu trong khoa học pháp lý Việt Nam.
Theo thông tư số 173/UBTP ngày 23/3/1972 hướng dẫn xét xử về BTTHNHĐ thì
điều kiện phát sinh TN BTTHNHĐ là "phải có lỗi của người gây thiệt hại", nghĩa
là "người gây thiệt hại phải nhận thức hoặc có thể nhận thức được rằng hành vi
của mình là trái pháp luật và có thể gây thiệt hại cho người khác". Đó cũng là
quan điểm của tác giả Ngô Văn Thâu, trong cuốn "Các thuật ngữ cơ bản trong luật

dân sự Việt Nam" xuất bản năm 1996.
Tuy nhiên, có quan điểm lại cho rằng "Lỗi trong pháp luật dân sự không
thể coi là trạng thái tâm lý, là nhận thức của chủ thể đối với hành vi và hậu quả
do hành vi đó gây ra". Đây là quan điểm của tác giả Phạm Kim Anh trong bài
viết "Khái niệm lỗi trong trách nhiệm dân sự" đăng trên Tạp chí Khoa học Pháp
lý số 3/2003. Bà cho rằng định nghĩa lỗi được quy định tại Khoản 2 Điều 308
BLDS 2005 cũng như tiểu mục 1.4 Mục 1 Phần I Nghị quyết số 03/2006/NQHĐTP đã được các nhà làm luật lấy toàn bộ ý tưởng dùng để xây dựng yếu tố lỗi
trong cấu thành tội phạm được quy định trong Bộ luật Hình sự vào việc xây
dựng khái niệm lỗi trong dân sự. Tuy nhiên, cách xác định và đánh giá lỗi để áp
dụng trách nhiệm dân sự hoàn toàn khác với các xác định và đánh giá lỗi để truy
cứu trách nhiệm hình sự. Trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự là hai chế
định khác nhau và được xây dựng dựa trên những nguyên tắc hoàn toàn khác
nhau. Vì vậy, không thể xây dựng định nghĩa lỗi trong trách nhiệm dân sự dựa
trên cơ sở định nghĩa lỗi trong trách nhiệm hình sự, mà cần thiết phải có một
định nghĩa, một cách xác định đúng đắn về lỗi trong pháp luật dân sự. Lỗi trong
pháp luật dân sự không thể coi là trạng thái tâm lý, là nhận thức của chủ thể đối
với hành vi và hậu quả do hành vi đó gây ra. Tác giả Phạm Kim Anh đưa ra ví
dụ: Khoản 2 Điều 621 BLDS 2005 quy định: "người mất năng lực hành vi dân
sự gây thiệt hại cho người khác trong thời gian bệnh viện, các tổ chức khác trực
tiếp quản lý thì bệnh viện, các tổ chức khác phải bồi thường thiệt hại xảy ra".
Theo quy định trên, việc xác định lỗi của bệnh viện hay các tổ chức khác không
Yếu tố lỗi trong TN BTTHNHĐ

Hứa Thu Hằng - CH20033


6
thể dựa trên cơ sở trạng thái tâm lý hay sự nhận thức của các tổ chức đó đối với
hành vi của người mất năng lực hành vi dân sự và hậu quả do hành vi đó gây ra,
mà lỗi của các tổ chức đó biểu hiện khi thực hiện nghĩa vụ quản lý người mất

năng lực hành vi dân sự. Vì thế, theo tác giả Phạm Kim Anh, việc xây dựng khái
niệm lỗi phải dựa trên sự quan tâm, chu đáo của chủ thể đối với việc thực hiện
nghĩa vụ của mình. Một cá nhân hay pháp nhân, được coi là không có lỗi nếu khi
áp dụng mọi biện pháp để thực hiện đúng nghĩa vụ đã biểu hiện sự quan tâm chu
đáo mà tính chất của nghĩa vụ và điều kiện lưu thông dân sự yêu cầu đối với họ.
Như vậy, hiện nay tồn tại nhiều quan điểm về khái niệm lỗi, trong đó chú
ý đến hai quan điểm:
1) Lỗi là trạng thái tâm lý, nhận thức của chủ thể đối với hành vi và hậu
quả do hành vi đó gây ra;
2) Khái niệm lỗi dựa trên sự quan tâm, chu đáo của chủ thể đối với việc
thực hiện nghĩa vụ của mình, theo đó, một cá nhân hay pháp nhân được coi là
không có lỗi nếu áp dụng tất cả mọi biện pháp để thực hiện đúng nghĩa vụ đã
biểu hiện sự quan tâm chu đáo mà tính chất của nghĩa vụ và điều kiện lưu thông
dân sự yêu cầu đối với họ.
Những người cùng quan điểm thứ hai cho rằng: Trong Luật dân sự không
thể coi lỗi là trạng thái tâm lý, là nhận thức của chủ thể đối với hành vi và hậu
quả do hành vi đó gây ra. Ví dụ: A biết rõ B không có bằng lái xe nhưng vẫn cho
B mượn xe, và B điều khiển xe máy gây tai nạn. Đương nhiên theo luật thì người
cho mượn xe này phải chịu trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại cùng người
mượn xe. Khi xem xét lỗi của từng người: Lỗi của người cho mượn xe là đã
không quan tâm đến việc người mượn xe có bằng lái hay không.
Tuy nhiên, theo quan điểm của cá nhân tôi thì trong trường hợp này lỗi
của người cho mượn xe vẫn là trạng thái tâm lý. Nếu A biết rõ B không có bằng
lái mà vẫn cho B mượn xe tức là A nhận thức được rằng hành vi của mình có
khả năng gây thiệt hại nhưng tin rằng thiệt hại sẽ không xảy ra. Hoặc giả sử A
không hỏi B có bằng lái hay không mà đã cho mượn xe tức là A không thấy
trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại mặc dù phải biết hoặc có thể
Yếu tố lỗi trong TN BTTHNHĐ

Hứa Thu Hằng - CH20033



7
biết trước. Trong trường hợp nào, yếu tố lỗi đều là hoạt động của tâm lý và nhận
thức bên trong của con người cụ thể. Còn việc người cho mượn xe có quan tâm
hay không, quan tâm như thế nào lại là vấn đề khác.
Theo T.S Phạm Kim Anh, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh: "khác
với nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự trong nhiều
trường hợp được áp dụng do hành vi của người khác gây ra. Điều 621 BLDS quy
định rằng: Trường học, bệnh viện, các tổ chức khác nếu có lỗi trong việc quản lý
thì phải bồi thường thiệt hại do người chưa đủ 15 tuổi hoặc mất năng lực hành vi
dân sự gây ra cho người khác trong thời gian trường học, bệnh viện, các tổ chức
khác quản lý những người đó, nếu trường học, bệnh viện, các tổ chức khác
không có lỗi thì cha mẹ, người giám hộ phải bồi thường. Theo điều luật này, việc
xác định lỗi của trường học, bệnh viện hay các tổ chức khác không thể dựa trên
cơ sở trạng thái tâm lý hay sự nhận thức của các tổ chức đó đối với hành vi của
người dưới 15 tuổi hoặc người mất năng lực hành vi dân sự và hậu quả do hành
vi đó gây ra, mà lỗi của các tổ chức nói trên phải được xác định dựa trên cơ sở
mức độ quan tâm mà các tổ chức đó biểu hiện khi thực hiện nghĩa vụ quản lý
người dưới 15 tuổi hoặc người mất năng lực hành vi dân sự”1.
Theo tôi, khi xác định lỗi là sự quan tâm của người gây thiệt hại thì sẽ đặt
ra một số câu hỏi như: Quan tâm được hiểu như thế nào đối với từng công việc,
từng hành vi cụ thể? Nếu quan tâm thì mức độ quan tâm ra sao để xác định mức
độ lỗi? Thiết nghĩ, về mặt lý luận cũng như Điều luật thực định đều đưa đến một
cách hiểu về yếu tố lỗi đó là trạng thái tâm lý và sự nhận thức của một con người
cụ thể. Chẳng hạn đối với trường hợp người chưa thành niên, người mất năng lực
hành vi dân sự gây thiệt hại. Tại sao pháp luật không buộc những chủ thể đặc biệt
này có TN BTTH? Lý do là người chưa thành niên chưa có đầy đủ năng lực nhận
thức và khả năng lựa chọn hành vi xử sự; còn người mất năng lực hành vi dân sự
không có năng lực nhận thức cũng như khả năng điều khiển hành vi của mình. Vì

vậy, yếu tố lỗi không bao giờ đặt ra đối với những chủ thể này. Pháp luật quy định
cha mẹ, người giám hộ, trường học, bệnh viện,... có lỗi trong việc quản lý con
1

Phạm Kim Anh,”Khái niệm lỗi trong trách nhiệm dân sự”, Tạp chí KHPL số 3/2003

Yếu tố lỗi trong TN BTTHNHĐ

Hứa Thu Hằng - CH20033


8
chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự phải BTTH. Bởi đây là những
chủ thể có trách nhiệm quản lý người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi
dân sự.
Trong thời gian trường học, bệnh viện, tổ chức khác trực tiếp quản lý
người dưới 15 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự mà những người này gây
thiệt hại thì trường học, bệnh viện, tổ chức khác có TN BTTH. Lỗi trong trường
hợp này là của người được giao nhiệm vụ trực tiếp quản lý người dưới 15 tuổi,
người mất năng lực hành vi dân sự. Người được giao quản lý có khả năng nhận
thức, khả năng điều khiển hành vi nhưng bất cẩn trong việc quản lý (lỗi vô ý)
dẫn đến xảy ra thiệt hại. Tuy nhiên, pháp luật quy định trường học, bệnh viện, tổ
chức khác có TNBTTH bởi người được giao quản lý trực tiếp nhân danh trường
học, bệnh viện thực hiện nhiệm vụ. Còn lỗi của người trực tiếp quản lý đến đâu
thì nó liên quan đến trách nhiệm bồi hoàn giữa người đó với trường học, bệnh
viện, tổ chức khác.
Đồng thời, đối với TN BTTHNHĐ của pháp nhân thì theo quan điểm của
một số luật gia: Không thể coi lỗi của các nhân viên riêng biệt là lỗi của pháp
nhân, mà lỗi của pháp nhân là lỗi của cả tập thể như là một thể thống nhất. Một
số khác lại cho rằng lỗi của pháp nhân chỉ có thể được biểu hiện qua hành vi có

lỗi của các thành viên pháp nhân khi thực hiện nghĩa vụ lao động nghề nghiệp
của mình. Ví dụ: lỗi của công ty kinh doanh trong việc chậm giao hàng do thiếu
nhân công hay máy móc bị hỏng được thể hiện trong hành vi có lỗi của người
lãnh đạo, người này đã không áp dụng kịp thời những biện pháp để khắc phục
những thiếu sót sai lầm trong hoạt động của công ty mình. Lỗi của pháp nhân
cũng có thể được thể hiện trong hành vi có lỗi của công nhân khi gia công những
sản phẩm không phù hợp.
Khi phân tích các quan điểm trên, ta thấy rằng chúng đều có một điểm
chung đó là lỗi của pháp nhân được xây dựng trên cơ sở trạng thái tâm lý, sự
nhận thức hoặc là của một cá nhân riêng biệt hoặc là của tập thể thống nhất, đối
với hành vi của mình và hậu quả của nó. Theo quan điểm của tôi, lỗi là trạng thái
tâm lý, sự nhận thức của một cá nhân riêng biệt, không tồn tại lỗi của một pháp
Yếu tố lỗi trong TN BTTHNHĐ

Hứa Thu Hằng - CH20033


9
nhân, cơ quan hay tổ chức. Đơn cử đối với trường hợp người của pháp nhân gây
ra thiệt hại. Ta thấy, pháp nhân có TN BTTH trong ba trường hợp sau: (1) Người
đại diện theo pháp luật của pháp nhân (nhân danh pháp nhân thực hiện những
công việc vì lợi ích của pháp nhân, trong phạm vi quyền và nghĩa vụ của người
đại diện theo pháp luật) gây ra thiệt hại; (2) người của pháp nhân nhân danh
pháp nhân thực hiện nhiệm vụ gây ra thiệt hại; (3) người được ủy quyền thực
hiện nhiệm vụ trong phạm vi ủy quyền gây ra thiệt hại. Đó là ba trường hợp phát
sinh TN BTTH của pháp nhân. Pháp luật buộc pháp nhân có TN BTTH không
phải vì pháp nhân có lỗi trong việc quản lý cán bộ, nhân viên dẫn đến xảy ra
thiệt hại mà bởi việc thực hiện nhiệm vụ là nhân danh pháp nhân, vì lợi ích của
pháp nhân. Đồng thời, buộc pháp nhân có TN BTTH vi thiệt hại xảy ra cần phải
được bồi thường kịp thời đúng với nguyên tắc bồi thường thiệt hại được quy

định trong BLDS 2005 và Nghị Quyết số 03/2006/NQ-HĐTP hướng dẫn áp
dụng một số quy định của BLDS 2005 về BTTHNHĐ. Còn đối với người nhân
danh pháp nhân thực hiện nhiệm vụ mà có lỗi trong việc gây thiệt hại thì sẽ phát
sinh trách nhiệm bồi hoàn của cá nhân đó với pháp nhân. Trường hợp thiệt hại
xảy ra do cán bộ, công chức nhà nước gây thiệt hại cũng tương tự như vậy. TN
BTTH thuộc về cơ quan nhà nước (bồi thường nhà nước) nhưng nói đến yếu tố
lỗi là phải gắn với một cá nhân, con người cụ thể.
Trong khoa học pháp lý của Việt Nam, số đông quan điểm về lỗi được
xây dựng trên cơ sở trạng thái tâm lý, nhận thức. Đây vốn là tư tưởng của các
luật gia của Liên Xô cũ.Trên cơ sở phân tích các quan điểm khác nhau bản thân
tôi cho rằng nên xây dựng khái niệm lỗi dựa trên trạng thái tâm lý, sự nhận thức,
khả năng điều khiển hành vi của một con người cụ thể. Còn quan điểm xây dựng
khái niệm lỗi dựa trên sự quan tâm chu đáo của các chủ thể đối với một công
việc nào đó theo tôi quan điểm này chưa rõ ràng và còn nhiều lỗ hổng. Chẳng
hạn đối với thiệt hại xảy ra do người mất năng lực hành vi dân sự, pháp luật
không đặt ra TN BTTH đối với họ vì họ không có khả năng nhận thức và điều
khiển hành vi chứ không phải họ không có khả năng quan tâm đến công việc nào
đó. Thêm vào đó, nói đến sự quan tâm chu đáo đến một công việc, thực hiện mọi
Yếu tố lỗi trong TN BTTHNHĐ

Hứa Thu Hằng - CH20033


10
biện pháp để ngăn chặn thiệt hại xảy ra thì phải chỉ ra được như thế nào là quan
tâm chu đáo, và quan tâm chu đáo đến công việc gì? Trong khi thiệt hại xảy ra
giữa các bên không có thỏa thuận hợp đồng về nghĩa vụ phải thực hiện không
thể xác định được công việc phải làm để bày tỏ sự quan tâm.
Theo tôi, "lỗi" có thể được hiểu như sau: "Lỗi là trạng thái tâm lý của con
người có thể nhận thức được hành vi của mình và hậu quả của hành vi đó".Thiết

nghĩ, các nhà làm luật cần nghiên cứu và đưa ra một định nghĩa thống nhất về
yếu tố lỗi trong TNDS nói chung để tránh những hiểu lầm và tranh cãi trong thực
tế áp dụng pháp luật cũng như trong nghiên cứu khoa học.
1.1.2 Hình thức lỗi
Từ xưa đến nay có nhiều học giả, trong đó có các luật gia đã quan tâm
nhận xét và đưa ra rất nhiều những quan điểm khác nhau trong việc xác định yếu
tố lỗi trong trách nhiệm dân sự nói chung và TN BTTHNHĐ nói riêng. Có nhiều
quan điểm trong nhận thức về yếu tố lỗi nhưng nhìn chung các học giả đều thừa
nhận lỗi được biểu hiện dưới hai hình thức cố ý và vô ý.
- Lỗi cố ý:
Khoản 2 Điều 308 BLDS 2005 quy định “Cố ý gây thiệt hại là trường hợp
một người nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà
vẫn thực hiện và mong muốn hoặc tuy không mong muốn nhưng để mặc cho thiệt
hại xảy ra”.
Về mặt khách quan, quy định trên đã dự liệu trường hợp người gây thiệt
hại nhận thức rõ hành vi của mình sẽ gây thiệt hại cho người khác mà vẫn thực
hiện, cho dù người đó mong muốn hoặc không mong muốn nhưng đã có thái độ
để mặc cho thiệt hại xảy ra thì người đó phải chịu trách nhiệm dân sự về hành vi
có lỗi cố ý.
Về mặt chủ quan, người gây thiệt hại khi thực hiện hành vi luôn nhằm
mục đích thiệt hại xảy ra cho người khác.
Ví dụ: Vụ việc Công ty Vedan đổ chất thải ra sông Thị Vải ở Đồng Nai
gây xôn xao dư luận năm 2009. Công ty Vedan nhận thức rõ hậu quả của việc đổ
chất thải sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường cũng như cuộc sống của
Yếu tố lỗi trong TN BTTHNHĐ

Hứa Thu Hằng - CH20033


11

con người như thế nào, bản thân công ty cũng không mong muốn hậu quả đó xảy
ra nhưng có thái độ để mặc cho hậu quả xảy ra. Đây là trường hợp cố ý gián tiếp.
- Lỗi vô ý
Khoản 2 Điều 308 BLDS 2005 quy định "Vô ý gây thiệt hại là trường hợp
một người không thấy trước hành vi của mình có khả năng gây thiệt hại, mặc dù
phải biết hoặc có thể biết trước thiệt hại sẽ xảy ra hoặc thấy trước hành vi của
mình có khả năng gây thiệt hại, nhưng cho rằng thiệt hại sẽ không xảy ra hoặc
có thể ngăn chặn được”.
Ta thấy lỗi và hình thức lỗi là kết hợp của sự nhận thức, động cơ, mục
đích, thái độ, sự quan tâm đến hậu quả của người thực hiện hành vi. Để xác định
chính xác một hành vi gây thiệt hại thực hiện với lỗi cố ý hay vô ý, cố ý trực tiếp
hay cố ý gián tiếp thì người tiến hành tố tụng phải xem xét hoàn cảnh, điều kiện
thực hiện hành vi, và xem xét mối liên hệ giữa hành vi gây thiệt hại và thiệt hại
thực tế xảy ra.
Hình thức lỗi trong TN BTTHNHĐ ảnh hưởng rất ít đến việc xác định
trách nhiệm. Thậm chí người gây thiệt hại khi không có lỗi vẫn phải bồi thường
theo quy định tại Khoản 2 Điều 604 BLDS năm 2005 "Trong trường hợp pháp
luật quy định người gây thiệt hại phải bồi thường cả trong trường hợp không có
lỗi thì áp dụng quy định đó". Ví dụ Điều 623, 624 BLDS năm 2005 quy định về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra và bồi
thường thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, có trường hợp người
gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại
quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của họ hoặc người gây thiệt
hại có lỗi vô ý (Khoản 2 Điều 605 BLDS 2005). Ngoài ra, trong các trường hợp
sau thì người gây thiệt hại cũng không phải bồi thường: có sự kiện bất khả
kháng; người bị thiệt hại hoàn toàn có lỗi; người gây thiệt hại do thực hiện theo
quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
1.2. Ý nghĩa của yêú tố lỗi trong việc xác định TN BTTHNHĐ
Trách nhiệm dân sự BTTHNHĐ là một loại trách nhiệm pháp lý. Về bản
chất, TN BTTHNHĐ là một dạng cụ thể của TNDS, được hiểu là nghĩa vụ phải

Yếu tố lỗi trong TN BTTHNHĐ

Hứa Thu Hằng - CH20033


12
gánh chịu những biện pháp cưỡng chế, áp dụng với người có hành vi vi phạm
pháp luật, xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài
sản, các quyền và lợi ích hợp pháp của người khác mà gây thiệt hại và phải chịu
trách nhiệm bồi thường cho người bị thiệt hại.
Cũng như các trách nhiệm pháp lý khác, TN BTTHNHĐ được áp dụng
với chủ thể có hành vi vi phạm, có năng lực trách nhiệm pháp lý và có lỗi.
Thứ nhất, lỗi là một trong bốn điều kiện phát sinh TN BTTH
Điều 604 BLDS 2005 quy định về cơ sở phát sinh TN BTTHNHĐ. Mặc
dù điều luật không nêu rõ ràng các điều kiện phát sinh là gì, nhưng tại Mục I
Nghị quyết số 03/2003/NQ-HĐTP thì bốn điều kiện làm căn cứ phát sinh
TNBTTHNHĐ bao gồm: (1) có thiệt hại xảy ra, (2) có hành vi trái pháp luật, (3)
có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại xảy ra, (4)
Người gây thiệt hại có lỗi cố ý hoặc vô ý. Pháp luật quy định lỗi là một trong
bốn điều kiện phát sinh TN BTTH bởi mỗi người sống trong xã hội cần phải làm
chủ và chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Một người có đầy đủ khả năng
nhận thức, có sự lựa chọn để không gây ra thiệt hại nhưng vô ý hoặc cố ý gây ra
thiệt hại, tổn thất về tính mạng, tài sản, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của người
khác thì phải chịu TN về hành vi của mình. Quy định về yếu tố lỗi là một trong
các điều kiện phát sinh TN BTTH buộc con người phải luôn ý thức, làm chủ và
quan tâm đến các hành vi, ứng xử của bản thân trong cuộc sống nói chung và
trong giao lưu dân sự nói riêng.
Về nguyên tắc, người gây thiệt hại có lỗi mới phát sinh TN BTTH. Tuy
nhiên, trong một số trường hợp ngoại lệ, người gây thiệt hại vẫn phải chịu TN
BTTH trong trường hợp không có lỗi. Đó là trường hợp thiệt hại do nguồn nguy

hiểm cao độ gây ra và do làm ô nhiễm môi trường. Đây là trường hợp ngoại lệ
không có lỗi vẫn phải BTTH. Pháp luật quy định như vậy với mục đích bảo vệ
triệt để quyền của người có lợi ích bị xâm phạm, bảo vệ lợi ích chung của toàn
xã hội. Chủ sở hữu, người chiếm hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ dù
không có lỗi vẫn phải bồi thường (Điều 623 BLDS 2005); cá nhân, pháp nhân,

Yếu tố lỗi trong TN BTTHNHĐ

Hứa Thu Hằng - CH20033


13
chủ thể khác làm ô nhiễm môi trường dù không có lỗi vẫn phải BTTH (Điều 624
BLDS 2005).
Ngoài ra, các trường hợp BTTH do xâm phạm thi thể (Điều 628 BLDS
2005), mồ mả (Điều 629 BLDS 2005), BTTH do xâm phạm quyền lợi của người
tiêu dùng (Điều 630 BLDS 2005) không đề cập đến yếu tố lỗi. Đây không phải là
trường hợp không có lỗi nhưng vẫn phát sinh TN BTTH theo quy định của pháp
luật mà là không xét yếu tố lỗi trong TN BTTH. Tại sao lại nói như vậy? Bởi thi
thể, mồ mả của người đã khuất và lợi ích của người tiêu dùng là những khách thể
được bảo vệ tuyệt đối trong quan hệ pháp luật dân sự. Điều này phù hợp với
truyền thống đạo đức, phong tục tập quán của người Việt Nam và điều kiện kinh
tế thị trường hiện nay. Khi có hành vi xâm phạm đến các khách thể này thì TN
BTTH sẽ được đặt ra, bất kể có lỗi hay không có lỗi, lỗi cố ý hay vô ý.
Thứ hai, lỗi là căn cứ xác định chủ thể có TN BTTHNHHĐ
Về nguyên tắc, khi có sự xâm phạm đến tính mạng, tài sản, sức khỏe,
danh dự, uy tín, nhân phẩm của người khác, thì TN BTTHNHĐ sẽ đặt ra với chủ
thể có lỗi. Tuy nhiên, để hiểu một cách cụ thể và chính xác yếu tố lỗi có ảnh
hưởng như thế nào đến việc xác định chủ thể chịu TN BTTHNHĐ thì ta xét các
trường hợp sau:

Trường hợp 1: Thiệt hại do con người gây ra
- Nếu người gây thiệt hại có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, người đó có
đầy đủ khả năng nhận thức, làm chủ, điều khiển hành vi nhưng đã lựa chọn cách
xử sự không phù hợp gây thiệt hại thì người đó có lỗi và phải chịu trách nhiệm
về hành vi của mình.
- Nếu người gây thiệt hại do bị người khác cố ý dùng chất kích thích làm
cho lâm vào tình trạng mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình
thì người gây thiệt hại không có lỗi, lỗi thuộc về người đã cố ý dùng chất kích
thích đối với người gây thiệt hại và phải có trách nhiệm bồi thường cho người bị
thiệt hại (Khoản 2 Điều 615 BLDS 2005).
- Nếu thiệt hại do người dưới 15 tuổi, người mất năng lực hành vi dân sự
gây ra trong thời gian trường học, bệnh viện, tổ chức khác trực tiếp quản lý thì
Yếu tố lỗi trong TN BTTHNHĐ

Hứa Thu Hằng - CH20033


14
lỗi ở đây thuộc về trường học, bệnh viện, tổ chức trực tiếp quản lý do không thực
hiện đúng, đầy đủ nhiệm vụ của mình, khiến người dưới 15 tuổi, người mất năng
lực hành vi dân sự gây thiệt hại. Do đó, nếu có thiệt hại xảy ra thì các đơn vị, tổ
chức này có TN bồi thường trừ trường hợp trường học, bệnh viện,... chứng minh
được mình không có lỗi trong việc quản lý. Trong trường hợp trường học, bệnh
viện, tổ chức khác không có lỗi trong việc quản lý thì cha mẹ, người giám hộ có
TN bồi thường (Điều 621 BLDS 2005).
- Nếu thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng,
người của pháp nhân, cán bộ, công chức của cơ quan nhà nước gây ra thì các Cơ
quan nhà nước và pháp nhân này có TN BTTH do người của cơ quan, pháp nhân
mình gây ra. Bởi như đã phân tích ở mục 1.1.1, pháp luật buộc cơ quan nhà
nước, pháp nhân bồi thường những thiệt hại do người của cơ quan mình gây ra

bời hành vi gây thiệt hại là nhân danh cơ quan, pháp nhân. Hơn thế nữa, thiệt hại
phải được bồi thường kịp thời, do đó khi có quyết định của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ thì TN
BTTH của cơ quan nhà nước, pháp nhân được đặt ra. Yếu tố lỗi như đã phân tích
là trạng thái tâm lý của con người nhận thức được hành vi và hậu quả của hành
vi. Lỗi gắn với con người cụ thể và trong trường hợp này là cán bộ, công chức
của cơ quan nhà nước, người của pháp nhân. Trong quá trình thi hành công vụ,
người của cơ quan nhà nước, pháp nhân cố ý hoặc vô ý vi phạm quy tắc nghề
nghiệp gây ra thiệt hại thì phải có trách nhiệm bồi hoàn lại cho cơ quan nhà
nước, pháp nhân. Tương tư như vậy đối với trường hợp thiệt hại do người làm
công, người học nghề gây ra.
- Nếu thiệt hại xảy ra trong tình thế cấp thiết thì theo quy định tại Điều
614 người gây ra tình thế cấp thiết phải BTTH cho người bị thiệt hại. Còn người
gây ra thiệt hại chỉ phải bồi thường phần thiệt hại vượt quá yêu cầu của tình thế.
Việc buộc người gây ra tình thế cấp thiết phải BTTH căn cứ vào lỗi của người đó
khi gây ra tình thế cấp thiết, đưa người khác vào tình huống buộc phải gây ra
một thiệt hại nào đó để làm giảm bớt một nguy cơ thiệt hại lớn hơn có thể xảy ra.
Trường hợp 2: Thiệt hại do tài sản gây ra
Yếu tố lỗi trong TN BTTHNHĐ

Hứa Thu Hằng - CH20033


15
Tài sản được nhắc tới ở đây có thể là súc vật, cây cối, nhà cửa, công trình,
vật xây dựng khác, nguồn nguy hiểm cao độ (phương tiện giao thông vận tải cơ
giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ,
chất cháy, thú dữ,...). Tùy từng trường hợp mà pháp luật có quy định riêng phù
hợp với thực tại khách quan, tuy nhiên về nguyên tắc, chủ sở hữu tài sản, người
được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng chịu TN BTTH khi thiệt hại do tài sản

gây ra, trừ trường hợp thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại,
hoàn toàn do lỗi của người thứ ba,... Quy định của pháp luật buộc chủ sở hữu,
người chiếm hữu, sử dụng tài sản phải có trách nhiệm đối với tài sản của mình,
do mình quản lý. Khi người khác bị thiệt hại do tài sản gây ra, yếu tố lỗi đặt ra
với chủ sở hữu, người chiếm hữu, sử dụng trong công tác bảo quản, trông giữ,
vận chuyển. Tuy nhiên, thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại thì
chủ sở hữu, người chiếm hữu sử dụng không phải chịu TN BTTH, hay thiệt hại
xảy ra hoàn toàn do lỗi của người thứ ba thì người thứ ba có TN bồi thường. Ta
thấy yếu tố lỗi ở đây có vai trò quan trọng trong việc xác định chủ thể chịu TN
BTTHNHĐ.
Thứ ba, lỗi là căn cứ xác định mức BTTHNHĐ
Cách xác định mức bồi thường thiệt hại dựa trên mức độ lỗi của các bên
chủ thể là hết sức hợp lý. Chẳng hạn như trong quy định về BTTH do nhiều
người cùng gây ra tại Điều 616 BLDS 2005: "Trong trường hợp nhiều người
cùng gây thiệt hại thì những người đó phải liên đới bồi thường cho người bị thiệt
hại. Trách nhiệm bồi thường của từng nười cùng gây thiệt hại được xác định
tương ứng với mức độ lỗi của mỗi người; nếu không xác định được mức độ lỗi
thì họ phải bồi thường thiệt hại theo từng phần bằng nhau". Hay quy định về
BTTH trong trường hợp người bị thiệt hại có lỗi tại Điều 617 BLDS 2005: "Khi
người bị thiệt hại cũng có lỗi trong việc gây thiệt hại thì người gây thiệt hại chỉ
phải bồi thường phần thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của mình, nếu thiệt hại
xảy ra hoàn toàn do lỗi của người bị thiệt hại thì người gây thiệt hại không phải
bồi thường"... Ta thấy chủ thể gây ra thiệt hại với mức độ lỗi như thế nào chính
là căn cứ để xác định mức bồi thường mà người đó phải gánh chịu.
Yếu tố lỗi trong TN BTTHNHĐ

Hứa Thu Hằng - CH20033


16

Đồng thời theo quy định tại Khoản 2 Điều 605 BLDS 2005" Người gây
thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây thiệt hại quá
lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình". Như vậy, khi xét xử
tại Tòa án, "lỗi vô ý" là một trong hai điều kiện để Tòa án xét giảm mức BTTH
cho người gây thiệt hại.
Thứ tư, lỗi là căn cứ xác định loại trách nhiệm mà các chủ thể gây thiệt
hại phải gánh chịu.
Loại trách nhiệm mà luận văn muốn nói đến ở đây là TNDS liên đới,
riêng rẽ, hỗn hợp, độc lập. Về các quy định của pháp luật liên quan đến lỗi và
loại trách nhiệm thì luận văn xin trình bày cụ thể tại chương II. Tuy nhiên, phải
khẳng định rằng trong TN BTTHNHĐ từ nhận thức đến trạng thái tâm lý đến
việc lựa chọn hành vi xử sự của con người quyết định loại trách nhiệm mà chủ
thể đó phải gánh chịu.
Qua những phân tích ở trên, ta có thể thấy yếu tố lỗi có một ý nghĩa đặc
biệt quan trọng trong TN BTTHNHĐ. Nó có vai trò lớn trong việc xác định chủ
thể phải chịu TH BTTH và mức BTTH. Do vậy việc nghiên cứu và phân tích để
hiều đúng và đầy đủ về yếu tố lỗi trong TN BTTHNHĐ là hết sức cần thiết.
Về yếu tố lỗi trong TNDS, có nhiều quan điểm khác nhau, có quan điểm
cho rằng lỗi trong TNDS ngoài hợp đồng phải do pháp luật quy định về hình thức
và mức độ. Nhưng cũng có quan điểm lại cho rằng lỗi trong TNDS ngoài hợp
đồng là lỗi suy đoán. Hai quan điểm khác nhau trong việc xác định lỗi vẫn tồn tại.
Quan điểm cho rằng "lỗi trong TN BTTHNHĐ là lỗi suy đoán" bởi hành
vi gây thiệt hại là trái pháp luật nên người thực hiện hành vi đó bị suy đoán là có
lỗi. Điều này thể hiện ở khoản 3 Điều 606 BLDS “nếu người giám hộ chứng
minh được mình không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của
mình để bồi thường” hoặc khoản 3 Điều 621 BLDS "nếu trường học, bệnh viện,
tổ chức khác chứng minh được mình không có lỗi trong quản lý thì cha, mẹ,
người giám hộ của người dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực hành vi dân
sự phải bồi thường". Như vậy, chủ thể gây thiệt hại muốn thoát khỏi TN BTTH
thì phải chứng minh rằng mình không có lỗi.

Yếu tố lỗi trong TN BTTHNHĐ

Hứa Thu Hằng - CH20033


17
Quan điểm còn lại cho rằng "lỗi trong trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng phải
do pháp luật quy định cả về hình thức và mức độ"2. Theo quan điểm này, cơ sở để
xác định lỗi, hình thức lỗi do pháp luật quy định trước, mà không thể do suy đoán.
Cá nhân tôi đồng ý với quan điểm thứ nhất "lỗi trong TN BTTHNHĐ là
lỗi suy đoán". Tại sao lại là suy đoán? Bởi khi có thiệt hại xảy ra sẽ phát sinh TN
BTTH đối với người gây thiệt hại. Lỗi suy đoán có ý nghĩa trong quá trình tố
tụng tại Tòa án. Người gây ra thiệt hại muốn thoát khỏi TN BTTH thì phải
chứng minh được mình không có lỗi trong việc gây ra thiệt hại (trừ trường hợp
pháp luật quy định không có lỗi vẫn phải bồi thường). Tòa án sẽ xem xét các
chứng cứ chứng minh để phán xét xem người đó có lỗi trong việc gây ra thiệt hại
hay không. Đây chính là điểm khác biệt giữa TNDS và TNHS. Đối với TNHS,
bất kì người nào cũng được suy đoán là không phạm tội cho đến khi lỗi của
người đó được xác định theo một trình tự do pháp luật quy định. Để có căn cứ
buộc tội một người thì cơ quan điều tra phải có đầy đủ chứng cứ chứng minh tội
phạm. Tòa án dựa trên bằng chứng của cơ quan điều tra kết hợp lời khai của
người phạm tội để xác định tội danh theo quy định của BLHS.
Còn đối với quan điểm "lỗi trong trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng phải
do pháp luật quy định cả về hình thức và mức độ" không phải là lỗi suy đoán.
Theo tôi, quan điểm này chưa rõ. BLDS có quy định về hai hình thức lỗi đó là "lỗi
cố ý" và "lỗi vô ý" còn về mức độ lỗi hay căn cứ xác định lỗi thì luật không quy
định. Đồng thời nói đến lỗi có tính suy đoán là nói về mặt tố tụng khi xác định TN
BTTH, tức là nếu người gây thiệt hại không chứng minh được mình không có lỗi
thì đương nhiên họ bị coi là có lỗi trong việc gây ra thiệt hại.
Bàn về lỗi - một điều kiện xác định trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng là

cần thiết. Vì đối với ngành Toà án khi giải quyết những tranh chấp liên quan đến
trách nhiệm dân sự ngoài hợp đồng, cần thiết phải hiểu rõ cơ sở lý luận về lỗi để
áp dụng chuẩn xác các quy phạm pháp luật về trách nhiệm dân sự ngoài hợp
đồng, qua đó đưa ra những nhận định và quyết định chuẩn xác, đúng pháp luật.

2

TS Phùng Trung Tập, “Lỗi và trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”, Tạp chí Luật học số
10/2004

Yếu tố lỗi trong TN BTTHNHĐ

Hứa Thu Hằng - CH20033


18
1.3 Mối liên hệ giữa lỗi và các yếu tố khác trong TN BTTHNHĐ
Các điều kiện phát sinh TN BTTHNHĐ không tách biệt mà có mối liên hệ
thống nhất với nhau. Do đó, để đánh giá đúng, chính xác về lỗi của chủ thể, đồng
thời làm sáng tỏ được TN BTTHNHĐ thì luôn phải đặt lỗi trong mối liên hệ với
các căn cứ khác làm phát sinh TN. Trong đó, mỗi liên hệ giữa lỗi và thiệt hại xảy
ra, mối liên hệ giữa lỗi và hành vi trái pháp luật thể hiện rõ nét hơn cả.
1.3.1 Mối liên hệ giữa lỗi và thiệt hại xảy ra
Thiệt hại xảy ra là tiền đề, là điều kiện tiên quyết của TN BTTH bởi mục
đích của loại TN này là nhằm khắc phục thiệt hại do hành vi trái pháp luật gây
ra, khôi phục lại tình trạng như ban đầu cho chủ thể bị vi phạm. Thiệt hại là sự
suy giảm, sự mất mát, giảm sút (sự biến thiên theo chiều hướng xấu) của tài sản,
của các giá trị nhân thân được pháp luật bảo vệ. Tất cả các thiệt hại xảy ra hoặc
chắc chắn xảy ra được xem là thiệt hại thực tế. Theo Nghị quyết số
03/2006/HĐTP ngày 8/7/2006 về hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS

năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì thiệt hại bao gồm thiệt hại
về vật chất và thiệt hại về tinh thần. Thiệt hại về vật chất bao gồm: thiệt hại do
tài sản bị xâm phạm quy định tại Điều 608 BLDS 2005; thiệt hại do sức khoẻ bị
xâm phạm quy định tại khoản 1 Điều 609 BLDS 2005; thiệt hại do tính mạng bị
xâm phạm quy định tại khoản 1 Điều 610 BLDS 2005; thiệt hại do danh dự,
nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm quy định tại khoản 1 Điều 611 BLDS 2005.
Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của cá nhân được hiểu là do sức khoẻ, danh dự,
nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm mà người bị thiệt hại hoặc do tính mạng bị xâm
phạm mà người thân thích gần gũi nhất của nạn nhân phải chịu đau thương, buồn
phiền, mất mát về tình cảm, bị giảm sút hoặc mất uy tín, bị bạn bè xa lánh do bị
hiểu nhầm... và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà họ
phải chịu. Thiệt hại của pháp nhân và các chủ thể khác không phải là pháp nhân
(gọi chung là tổ chức) là thiệt hại về mặt tài sản và thiệt hại về uy tín bị xâm
phạm, bị giảm sút hoặc mất đi sự tín nhiệm, lòng tin... vì bị hiểu nhầm và cần
phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà tổ chức phải chịu.

Yếu tố lỗi trong TN BTTHNHĐ

Hứa Thu Hằng - CH20033


19
Yếu tố lỗi và thiệt hại thực tế xảy ra không tồn tại độc lập mà có mối liên
hệ với nhau. Lỗi là trạng thái tâm lý, nhận thức của chủ thể đối với hành vi và
hậu quả do hành vi đó gây ra. Còn thiệt hại thực tế chính là hậu quả của việc lựa
chọn hành vi xử sự dựa trên trạng thái tâm lý và nhận thức. Lỗi biểu hiện ra bên
ngoài bằng việc lựa chọn hành vi của con người trong từng hoàn cảnh cụ thể.
Một người có đầy đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, họ hoàn toàn có
thể lường trước được hậu quả có thể xảy ra khi không thực hiện, thực hiện không
đúng một công việc nào đó. Và khi người đó lựa chọn một cách xử sự thì họ phải

chịu trách nhiệm về những thiệt hại có thể xảy ra khi thực hiện hành vi của mình.
Đồng thời, về mặt lý luận, mức độ thiệt hại thực tế xảy ra cũng có khả
năng phản ánh mức độ lỗi. Trong thực tế, thông thường, thiệt hại càng lớn thì có
thể suy đoán mức độ lỗi là lớn. Chủ thể thực hiện hành vi có thể lường trước
được thiệt hại xảy ra nhưng vẫn xử sự gây thiệt hại. Tuy nhiên, nhiều trường hợp
thiệt hại thực tế xảy ra rất lớn nhưng người gây thiệt hại lại thực hiện hành vi với
lỗi vô ý do cẩu thả, khi thực hiện hành vi không lường trước được hậu quả xảy ra
mặc dù buộc phải nhận thức được điều đó. Ngược lại, trong nhiều trường hợp,
do yếu tố khách quan mà thiệt hại xảy ra không lớn không lớn tương đương với
mức độ lỗi. Nhưng dù với hình thức lỗi thế nào thì người gây thiệt hại vẫn phải
bồi thường cho thiệt hại thực tế xảy ra. Điều đó cho thấy hình thức lỗi không ảnh
hưởng lớn đến mức BTTH ngoài hợp đồng, mức BTTH chỉ phụ thuộc vào thiệt
hại thực tế xảy ra. Còn việc chứng minh có lỗi hay không, mức độ lỗi như thế
nào thuộc về người gây thiệt hại. Trong hoạt động xét xử, Tòa án căn cứ vào
chứng cứ, chứng minh của đương sự để xác định mức BTTH.
Tóm lại lỗi và thiệt hại thực tế xảy ra không tồn tại độc lập mà có mối liên
hệ với nhau. Nếu lỗi thuộc về ý thức thì thiệt hại xảy ra là kết quả của sự thể hiện
ý thức đó ra bên ngoài.
1.3.2 Mối liên hệ giữa lỗi và hành vi trái pháp luật
Trước tiên, ta cần hiểu thế nào là hành vi trái pháp luật để từ đó xác định
được mối liên hệ giữa yếu tố lỗi và hành vi trái pháp luật. Như ta đã biết, quyền
được bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, tài sản là quyền tuyệt đối của
Yếu tố lỗi trong TN BTTHNHĐ

Hứa Thu Hằng - CH20033


×