Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

NHỮNG BIỆN PHÁP LÀM TĂNG THU NHẬP QUÔC DÂN , VẬN DỤNG VÀO VIỆT NAM NGÀY NAY.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (226.88 KB, 35 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Dân tộc Việt Nam được thế giới đánh giá là một trong những dân tộc
có truyền thống yêu nước sâu sắc. Nhân loại đã biết đến chúng ta với những
kỳ tích chặn đứng vó ngựa trường chinh bách chiến bách thắng của quân
Mông Cổ, với chiến công Điện Biên Phủ với chiến dịch Hồ Chí Minh. Đó là
những trang sử hào hùng của dân tộc ta trong lịch sử hàng nghìn năm xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Còn hiện nay - trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI - Việt
Nam là một đất nước thuộc nhóm nghèo nhất thế giới thu nhập bình quân
đầu người chưa đầy 300 USD chúng ta đang đứng trước nguy cơ tụt hậu. Sự
thật đó để lại trong lịng mỗi chúng ta những cảm xúc sâu sắc. Tại sao vậy?
Đó là vì kinh tế có những yêu cầu và quy luật riêng của nó. Những chiến
thắng trên mặt trận khơng thể làm ra được những chiến công về kinh tế, sách
lược chiến trường không thể là chiến lược về kinh tế. Một thời gian chúng ta
đã ngộ nhận xem lợi nhuận là cái gì xấu xa, là phạm trù khơng có ở CHXH.
Sản xuất là chỉ để phục vụ chứ khơng vì mục tiêu lợi nhuận. Ngày nay, trong
thời kỳ quá độ lên CHXH, chúng ta đang vận hành đất nước theo cơ chế thị
trường trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự điều tiết vĩ mơ của
Nhà nước thì lợi nhuận chính là quan tồ cơng minh nhất là để phán xét sự
tồn tại phát triển của mọi doanh nghiệp làm ăn thua lỗ thì thị trường sẽ loại
doanh nghiệp đó ra khỏi sân khấu kinh tế, và nếu ngược lại thì doanh nghiệp
được tiếp tục phát triển, lợi nhuận phải thực sự từ năng suất chất lượng hiệu quả trong sản xuất - kinh doanh chân chính từ tài năng quản lý sản xuất
kinh doanh hiện đại mà tạo ra giá trị lợi nhuận cả về kinh tế văn hoá - một
truyền thống và cốt cách người Việt Nam. Hơn bao giờ hết, lợi nhuận là sự
sống còn của doanh nghiệp, là động lực phát triển, bởi thế em chọn đề tài :
"NGUỒN GỐC CỦA LỢI NHUẬN VÀ VAI TRỊ CỦA NĨ ĐỐI VỚI
SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA VIỆT NAM"

1


Đây là một tiểu luận nhỏ song đó cũng là một bài viết có tính khoa


học và logic cao. Tuy nhiên với kiến thức ít ỏi của mình em khơng thể tránh
khỏi những khiếm khuyết trong tiểu luận nên em mong nhận được sự bổ
sung, phê phán của thầy. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo đã cung cấp
phần lớn kiến thức và phương pháp luận để em hoàn thành tiểu luận này.

2


PHẦN I
NGUỒN GỐC CỦA LỢI NHUẬN
I. CÁC QUAN ĐIỂM TRƯỚC MÁC VỀ LỢI NHUẬN:

1. Quan điểm của trường phái trọng thương:
Trường phái này ra đời từ giữa thế kỷ 15 đến giữa thế kỷ 17 trong
điều kiện chế độ phong kiến bị tan rã và chủ nghĩa tư bản thực hiện tích luỹ
nguyên thuỷ của tư bản. Họ là những nhà kinh tế học đầu tiên đi tìm nguồn
gốc, đi tìm lợi nhuận trong lưu thơng. Họ đã sống trong thời đại tư bản tư
nhân và ngoài tư bản tư nhân ra, họ khơng biết một hình thái tư bản nào
khác, họ cũng khơng biết một hình thức lợi nhuận nào khác ngồi lợi nhuận
thương nghiệp. Vì tư bản thương nghiệp chỉ hoạt động trong lưu thông nên
không thấy làm lạ gì họ chỉ chú ý đến lưu thơng. Theo họ lợi nhuận thương
nghiệp là kết quả do lưu thông, mua bán trao đổi sinh ra, là do kết quả của
việc mua rẻ bán đắt mà có.
2. Quan điểm của trường phái trọng nông:
Trường phái trọng nông đã chuyển việc nghiên cứu các hiện tượng
kinh tế từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất. Đây là một bước tiến bộ
so với trọng thương. Trong phái trọng nông là các nhà kinh tế học Pháp thế
kỷ 18 nhưng họ vẫn nêu ra được một lý luận đúng đán về lợi nhuận. Tư
tưởng của họ là: sản phẩm thặng dư, do đó cả lợi nhuận nữa cũng được tạo
ra trong nơng nghiệp. Vì vậy, họ chỉ coi lao động trong nơng nghiệp là lao

động sản xuất, cịn mọi lao động khác - không những trong thương nghiệp
mà cả trong nông nghiệp đều bị họ coi là lao động không sinh lợi.
3. Quan điểm của trường phái cổ điển Anh:
Các nhà kinh tế chính trị cổ điển anh như: Adam Smith và David
Ricardo đều phân tích lý luận về lao động. Trene thực tế họ coi lợi nhuận là
kết quả của lao động thặng dư. Nhưng họ khơng trình bày ngun lý đó một
cách rõ ràng, chưa nêu ra được một lý luận hoàn chỉnh về lợi nhuận.
3


+ Theo Adam Smith, lợi nhuận tham gia vào việc hình thành giá trị
với tư cách một nhân tố hình thành giá cả nhưng chưa nêu được nguồn gốc
của lợi nhuận.
+ Ricardo đã đi xa hơn Smith. Theo ông, lợi nhuận và tiền công là 2
bộ phận của giá trị lao động tạo nên. Ông đã đưa ra một số kết quả quan
trọng là: lợi nhuận và tiền công đối lập nhau. Sự tăng hay giảm của một
trong hai yếu tố đó đều sẽ gây ra sự giảm hay tăng của yếu tố kia. Từ đó,
Ricardo cũng khẳng định việc tăng hay giảm lợi nhuận hoặc tiền cơng khơng
có ảnh hưởng gì đến giá cả mà chỉ ảnh hưởng đến sự phân phối giá trị giữa
công nhân với các nhà tư bản. Vậy, Ricardo đã quy lợi nhuận thành giá trị
thặng dư. Tuy nhiên, Ricardo vẫn không nêu ra được khái niệm giá trị thặng
dư. Khi nói đến năng suất lao động, ơng khơng coi đó là ngun nhân quyết
định của lượng giá trị thặng dư mà thôi. Như vậy, Ricardo đã bỏ qua giá trị
thặng dư và chỉ quan tâm đến hình thái học của nó: lợi nhuận, lợi tức, lợi tô,
những cái mà ông đã quy về nguồn gốc của chúng, về lao động không được
trả công. Sai lầm của Ricardo ở chỗ coi chủ nghĩa tư bản là một hình thức tư
bản của nền sản xuất xã hội nên ơng đã có nhiều luận điểm sai lầm và mâu
thuẫn. 1 - Mức tăng của lợi nhuận phụ thuộc vào mức tăng của năng suất
lao động, nhưng Ricardo lại hồn tồn khơng hiểu rõ thực chất của lợi
nhuận ở chỗ: Một mặt lợi nhuận là hình thái biến tướng của giá trị thặng

dư, mặt khác nó là hình thái đặc biệt của giá trị thặng dư. 2 - Lợi nhuận
và tiền công là hai bộ phận của cùng một giá trị do lao động quyết định.
Nhìn chung, các nhà kinh tế cổ điển đã chuyển việc nghiên cứu các
hiện tượng kinh tế từ lĩnh vực lưu thông sang lĩnh vực sản xuất nên họ đã
xây dựng khoa kinh tế chính trị học với tư cách là một mơn khoa học. Do
không hiểu được đặc điểm của nền sản xuất tư bản chủ nhgiã nên họ không
thể giải quyết cả vấn đề tư bản lẫn vấn đề lợi nhuận. Chỉ có Mác, sau khi
nghiên cứu nền sản xuất tư bản chủ nghĩa như là sự thống nhất giữa hai giai
đoạn sản xuất tư bản chủ nghĩa và gia đoạn lưu thông tư bản chủ nghĩa mới
4


quy được lợi nhuận thành giá trị thặng dư tức là nghiên cứu lợi nhuận dưới
hình thái chung nhất của nó.
II. HỌC THUYẾT GIÁ TRỊ THẶNG DƯ VÀ LÝ LUẬN LỢI NHUẬN CỦA
C.MÁC

1. Sự tạo ra giá trị thặng dư:
Trong nền sản xuất hàng hoá sựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản
xuất, giá trị sử dụng không phải là mục đích. Giá trị sử dụng được sản xuất
chỉ vì nó là vật mang giá trị trao đổi. Nhà tư bản muốn sản xuất ra một giá trị
sử dụng có một giá trị trao đổi, nghĩa là một hàng hoá. Hơn nữa, nhà tư bản
muốn sản xuất ra một hàng hố có giá trị lớn hơn tổng giá trị những tư liệu
sản xuất và giá trị sức lao động mà nhà tư bản đã bỏ ra để mua, nghĩa là
muốn sản xuất ra giá trị thặng dư. Để hiểu rõ quá trình sản xuất ra giá trị
thặng dư, người ta nghiên cứu bài tốn sau đây:
Chi phí TBCH để sản xuất, gồm có chi phí về tư bản bất biến và tư
bản khả biến, tức là những chi phí về tư liệu sản xuất và tiền lương cơng
nghiệp. Đối với tư bản hàng hoá đáng giá bao nhiêu là tính theo tư bản đã
chi phí, đối với xã hội hàng hố đáng giá bao nhiêu là tính theo lao động đã

hao phí. Bởi vậy, những chi phí TBCN để sản xuất ra hàng hoá, thấp hơn giá
trị của hàng hoá ấy, tức là thấp hơn những chi phs sản xuất thực tế. Chỗ
chênh lệch giã giá trị hay chi phí sản xuất thực tế và chi phí sản xuất TBCN,
là giá trị thặng dư mà nhà tư bản chiếm khơng. Để hiểu rõ hơn q trình này,
ta nghiên cứu bài tốn sau:
Giả định để sản xuất 10kg bơng, giá trị 10.000đ. Để biến số bơng đó
thành sợi, một công nhân phải làm việc trong 6 giờ và hao mịn máy móc là
2.000đ. Giá trị sức lao động trong một ngày của công nhân là 6.000đ, trong
một giờ lao động công nhân tạo ra một giá trị là 1.000đ, cuối cùng ta giả
định rằng: "Trong quá trình sản xuất tồn bộ bơng biến thành sợi". Vậy nếu
người cơng nhân làm việc trong 6 giờ thì khơng tạo ra giá trị thặng dư. Tuy
nhiên, sức lao động mà nhà tư bản phải trả khi mua và giá trị mà sức lao
5


động có thể tạo ra cho nhà tư bản là hai đại lượng khác nhau mà nhà tư bản
đã tính đến trước khi mua sức lao động trong ngày. Việc sử dụng sức lao
động trong ngày đó thuộc về nhà tư bản. Trên thực tế, nhà tư bản bắt công
nhân làm việc hơn 6 giờ, giả sử là 12 giờ trong 1 ngày.
Chi phí sản xuất TBCN
- Tiền mua bơng là 2.000đ

Giá trị của sản phẩm mới (20 kg sợi)
- Giá trị của bơng được chuyển vào sợi

- Hao mịn máy móc 4.000đ

- Giá trị máy móc được chuyển vào sợi

- Tiền mua sức LĐ trong 1 ngày


4.000đ
- Giá trị LĐ của CN tạo ra trong 12 giờ
LĐ:

1 ngày 6.000đ

1.000đ x 12 = 12.000d

30.000đ
36.000đ
Như vậy, tồn bộ chi phí của nhà tư bản để mua tư liệu sản xuất và
sức lao động là 30.000đ. Trong 12h lao động, công nhân tạo ra một sản
phẩm mới (20 kg sợi) có giá trị bằng 36.000đ, lớn hơn giá trị ứng trước của
nhà tư bản.
36.000đ - 30.000đ = 6.000đ. Vậy 30.000đ ứng trước chuyển hoá thành
36.000đ, được một giá trị thặng dư là 6.000đ. Vậy tiền đã biến thành tư bản.
Phần giá trị mới dôi ra so với giá trị sức lao động gọi là giá trị thặng dư.
Thông qua việc nghiên cứu quá trình sản xuất giá trị thặng dư trên, ta
thấy rằng giá trị sản phẩm mới được sản xuất ra có 2 phần:
+ Giá trị cũ: Giá trị những tư liệu sản xuất nhờ lao động cụ thể của
người công nhân mà được bảo tồn và duy chuyển vào giá trị của sản phẩm
mới (24.000đ).
+ Giá trị mới: Giá trị do lao động trừu tượng của công nhân tạo ra
trong quá trình lao động (6.000đ).
Như vậy, giá trị thặng dư là giá trị mới dơi ra ngồi giá trị sức lao
động do công nhân tạo ra và bị nhà tư bản chiếm không.
Nhận xét về học thuyết giá trị thặng dư của C.Mac: Lênin đã từng
đánh giá học thuyết giá trị thặng dư là "Hịn đá tảng" của tồn bộ học thuyết
6



kinh tế của Mác, ở trong học thuyết giá trị thặng dư , Mác đã vạch rõ bản
chất bóc lột của nhà tư bản, đã chứng minh công thức của nhà và giá trị
thặng dư là do công nhân sáng tạo ra bị nhà tư bản chiếm không. Nếu xét
trên góc độ kinh tế, giá trị thuộc về nhà tư bản nhưng giá trị sử dụng lại
thuộc về xã hội. Do đó, cơng nhân càng tạo ra nhiều giá trị thặng dư thì xã
hội càng nhiều của cải. Nếu cơng nhân không tạo ra giá trị thặng dư người tư
bản khơng được gì, sản phẩm xã hội khơng tăng lên, kinh tế khơng phát
triển. Chính vì thế, giai cấp tư bản tim thấy lao động thặng dư là một phát
minh vĩ đại để tạo ra bước tăng trưởng kinh tế và chính lịng khao khat lao
động thặng dư bằng mọi cách đã làm cho nền kinh tế phát triển nhảy vọt từ
khi họ lên nắm địa vị thống trị. Ở bề ngồi xã hội thì khơng có giá trị thặng
dư mà chỉ có lợi nhuận thơi.
2. Lợi nhuận.
Giá trị của hàng hoá sản xuất tong xã hội TBCN, ba gồm ba bộ phận:
1- Giá trị của tư bản bất biến (c) (một phần giá trị máy móc, nhà xưởng, giá
trị của nhiên liệu,...). 2- Giá trị khả biến(v). 3- Giá trị thặng dư (m): Lượng
giá trị của hàng hoá là do số người lao động xã hội cần thiết đẻ sản xuất ra
hàng hoá quyết định. Nhưng nhà tư bản khơng hao phí lao động vào sản xuất
hàng hố, mà chỉ bỏ tư bản vào đó thơi.
Chi phí tư bản chủ nghĩa đẻ sản xuất hàng hố, gồm có những chi phí
về đầu tư bản bất biến và tư bản khả biến (c+v), tức là những chi phí về tư
liệu sản xuất và tiền lương công nhân. Đối với nhà tư bản, hàng hố đánh giá
bao nhiêu là tính theo tư bản đã chi phí, đối với xã hội, hàng hố đánh giá
bao nhiêu là tính theo lao động đã hao phí. Bởi vậy những chi phí tư bản chủ
nghĩa đẻ sản xuất hàng hoá, thấp hơn giá trị sản xuất thực tế (c+v+m). Chỗ
chênh lệch giữa giá trị hay chi phí sản xuất thực tế và chi phí sản xuất tư bản
chủ nghĩa, là giá trị thặng dư (m) mà nhà tư bản chiếm không.
Khi nhà tư bản hàng hố do xí nghiệp của mình sản xuất ra, thì giá trị

thặng dư biểu hiện bằng số thừa ngoài chi phí sản xuất tư bản chủ nghĩa. Khi
7


xác định mức thu nhập của xí nghiệp, nhà tư bản so sánh số thừa đó với số
tư bản ứng trước tức là tổng tư bản đã bỏ vào sản xuất. Giá trị thặng dư, khi
so sánh với tổng tư bản, thì biểu hiện thành hình thức lợi nhuận. Vì giá trị
thặng dư bị đem so sánh không phải với tư bản khả biến mà với toàn bộ tư
bản cho nên chỗ khác nhau giữa tư bản bất biến dùng vào việc mua tư liệu
sản xuất và tư bản khả biến dùng vào mua sức lao đọng bị xoá mờ đi. Do đó
mà sinh ra cái bề ngồi giả dối khiến cho người ta tưởng lầm rằng: lợi nhuận
là do tư bản đẻ ra. Nhưng sự thật thì nguồn gốc của lợi nhuận là giá trị thặng
dư, và giá trị thặng dư chỉ là do lao động của công nhân sáng tạo ra trong
quá trình sử dụng lao động, mà giá trị của nó thể hiện ở tư bản khả biến. Lợi
nhuận là giá trị thặng dư so sánh với số tư bản đã bỏ vào sản xuất; nhìn bề
ngồi giá trị thặng dư có vẻ là kết quả của số tư bản ấy. Vì vậy Mác gọi lợi
nhuận là hình thức biến tướng của giá trị thặng dư. Và như vậy, hình thức lợi
nhuận đã che dấu quan hệ bóc lột bằng cách tạo ra quan niệm sai lầm rằng:
lợi nhuận là do chính bản thân tư bản đẻ ra. Chính các hình thức quan hệ sản
xuất tư bản chủ nghĩa đã lam lu mờ và che giấu thực chất bóc lột của nó.
Nếu gọi lợi nhuận là p, thì cơng thức GT = c + v + m = k + m sẽ
chuyển hoá thành GT = k + p hay giá trị hàng hố = chi phí sản xuất + lợi
nhuận vậy, lúc thoạt nhìn ta thấy rằng p và m cùng là một. Tuy nhiên giữa
lợi nhuận và giá trị thặng dư khơng phải là hồn tồn thống nhất mà giữa
chúng cũng có sự khác nhau.
Về mặt chất: giá trị thặng dư phản ánh nguồn gốc sinh ra từ tư bản lưu
động, là biểu hiện của lao động thặng dư; còn lợi nhuận được xem là toàn bộ
tư bản ứng trước đề ra. Giá trị thặng dư là biểu hiện của quan hệ giai cấp;
còn lợi nhuận biểu hiện mối quan hệ giữa vật với vật.
Về mặt lượng: nếu hàng hoá bán đúng giá trị của nó thì người ta đã

thực hiện được một lợi nhuận rồi. Lợi nhuận đó bằng giá trị thừa ra ngồi chi
phí sản xuất hàng hố, tức là bằng tồn bộ giá trị thặng dư chứa đựng trong
giá trị của hàng hố (m = p). Nhưng nhà tư bản có thể bán hàng hoá dưới giá
8


trị của nó mà vẫn có lợi nhuận. Bởi vì chừng nào có giá bán của hàng hố
cịn cao hơn chi phí sản xuất của nó, dù giá bán thấp hơn giá trị của nó thì
bao giờ cũng vẫn thực hiện được một bộ phận giá trị thặng dư chứa đựng
trong đó. Như vậy, lợi nhuận là một phạm trù trong lưu thông. Nhà tư bản
thu được lợi nhuận nhiều hay ít phụ thuộc vào giá trị hàng hố. Lợi nhuận
xoay quanh giá trị thặng dư cũng như giá cả dao động quanh giá trị nhưng
tổng giá trị thặng dư bằng tổng lợi nhuận cũng như tổng giá trị bằng tổng giá
cả.
Tóm lại, sự khác nhau giữa lợi nhuận giá trị thặng dư cũng giống như
sự khác nhau giữa giá trị và giá trị trao đổi. Lợi nhuận là sự thể hiện, tức là
"hình thái biến tướng" của giá trị thặng dư. Và cũng như khi nghiên cứu giá
trị, thoạt tiên Mác gạt bỏ hình thái giá trị của nó, tức giá trị trao đổi. Chỉ sau
khi lần mò vết tích của giá trị, Mác mới trở lại giá trị trao đổi. Ở đây cũng
thế, thoạt tiên Mác nghiên cứu giá trị thặng dư mà khơng đả động gì đến các
hình thái của nó, Mác chỉ giải thích thực chất của giá trị thặng dư, xét xem
nó được sản xuất như thế nào và ai sản xuất nó. Chỉ sau khi nghiên cứu như
thế, Mác mới chuyển sang nghiên cứu hình thái của nó tức là nghiên cứu lợi
nhuận. Nhưng lúc này phạm vi sản xuất sang một bên và chuyển sang phạm
vi lưu thơng, vì giá trị thặng dư chỉ chuyển hố thành lợi nhuận trong lưu
thơng. Như vậy, Mác đã chỉ ra rằng: giá trị thặng dư biểu hiện thực chất của
phương thức sản xuất TBCN. Còn lợi nhuận là một trong những "hình thái
cụ thể" mà dưới hình thái đó tư bản hiện ra ở bề mặt của xã hội.
3. Tỷ suất lợi nhuận:
Đối với người chủ xí nghiệp thì mức lãi của xí nghiệp TBCN cao hay

thấp là do tỷ suất lợi nhuận quyết định. Tỷ suất lợi nhuận là biểu hiện tỷ số
giữa giá trị thặng dư và tổng tư bản (P' = m/k.100%). Ví dụ: nếu tư bản ứng
trước là 20.000$, nếu lợi nhuận hàng năm là 40.000$ thì tỷ suất lợi nhuận là
40.000/20.000 x 100% = 20%,

9


Sự chuyển hoá giá trị thặng dư thành lợi nhuận được hồn thành ở sự
chuyển hố tỷ suất giá trị thặng dư thành tỷ suất lợi nhuận. Sự chuyển hoá
giá trị thặng dư thành lợi nhuận đã nằm trong việc chia giá trị của hàng hố
thành chi phí sản xuất kinh tế tăng thêm ngo chi phí sản xuất, nưhng sự
chuyển hố đó được biểu hiện một cách độc lập và đặc thù trong tỷ suất lợi
nhuận. Tỷ suất lợi nhuận biểu hiện tỷ số giữa số tăng thêm nói trên với tổng
tư bản. Do đó, nó củng cố ấn tượng cho rằng lợi nhuận là "con đẻ" của
TBCN.
Dưới chế độ TBCN, mức độ bóc lột lao động của người khác mang
hình thức tăng giá trị, biểu hiện ở tỷ suất giá trị thặng dư, như vậy sẽ không
tránh khỏi việc phải chuyển tỷ suất giá trị thặng dư thành tỷ suất lợi nhuận
bởi vì cả bản thân giá trị lẫn mức tăng giá trị đều chỉ có thể hiện trong lưu
thơng. Nhưng tỏng lưu thơng cịn có sự khác nhau giữa tư bản khả biến và tư
bản bất biến, giá trị của hàng hố chia ra thành chi phí sản xuất và số tăng
thêm ngồi chi phí sản xuất. Do đó trong biểu thức về mức độ, bóc lột tỷ số
giữa giá trị thặng dư với tư bản khả biến (m/v), đã chứa đựng sự chuyển hoá
tỷ số ấy thành tỷ số giữa giá trị thặng dư với tổng tư bản (m/(c/v)) hay
(m/không trên thực tế, các nhà tư bản khơng chỉ quan tâm đến lợi nhuận mà
cịn quan tâm nhiều hơn đến tỷ suất lợi nhuận. Bởi vì tỷ suất lợi nhuận cho
biết nhà tư bản đầu tư vào đâu thì có lợi. Đối với nhà tư bản nếu P' = 100%
thì đầu tư khắp nơi, nếu P' = 200% thì sẽ bất chấp cả pháp luật và cịn nếu P'
= 300% thì treo cổ nhà tư bản vẫn cứ làm.

Do đó, tỷ suất lợi nhuận khơng chỉ là mục tiêu theo đuổi mà cịn là
động lực chính, là yếu tố để cạnh tranh, là sự thèm khát vơ hạn. Trên thực tế
thì tỷ suất lợi nhuận cao hay thấp tuỳ thuộc vào nhiều nhana tố khách quan
như tỷ suất giá trị thặng dư, tiết kiệm tư bản bất biến, cấu tạo hữu cơ, tốc độ
chu chuyển,... Bởi thế, các nhà tư bản đầu tư vào Việt Nam đang tập trung
vào những ngành có tỷ suất lợi nhuận cao, thu lợi nhuận nhanh như chủ
nghĩa khai thác, du lịch.
10


3. Sự hình thành tỷ suất lợi nhuận bình quân.
Trong cuộc đấu tranh giành chỗ đầu tư có lợi nhất, các nhà tư bảnh
cạnh tranh với nhau kịch liệt. Họ muốn đầu tư vào những ngành sản xuất có
triển vọng thu được nhiều lợi nhuận hơn trong khi theo đuổi lợi nhuận cao,
tư bản chuyển từ ngành này sang ngành khác, kết quả là hình thành nên tỷ
suất lợi nhuận bình quân và tiến hành phân phối lao động và tư bản sản xuất
giữa các ngành sản xuất TBCN.
Giả sử trong xã hội có ba ngành: Ngành da, ngành dệt và ngành chế
tạo máy móc, với số tư bản bằng nhau, nhưng cấu tạo hữu cơ thì khác nhau.
Tư bản ứng trước trong mỗi ngành ấy là 100 đơn vị (thí dụ là 100 triệu đồng
đơ la). Tư bản của ngành da gồm 70 đơn vị là tư bản bất biến và 30 đơn vị là
tư bản khả biến; tư bản của ngành dệt gồm có 80 đơn vị là tư bản bất biến và
20 đơn vị là tư bản khả biến; và tư bản của ngành chế tạo máy móc gồm có
90 đơn vị là tư bản bất biến và 10 đơn vị là tư bản khả biến. Giả sử tỷ suất
giá trị thặng dư trong cả ba ngành đều như nhau: 100%. Như thế thì giá trị
thặng dư tạo ra trong ngành da sẽ là 30 đơn vị, trong ngành dệt là 20 và tỏng
ngành chế tạo máy móc là 10. Giá trị của hàng hố trong ngành thứ nhất sẽ
là 130, trong ngành thứ hai là 120, trong ngành thứ ba là 110, và trong toàn
bộ cả ba ngành là 360 đơn vị.
Nếu hàng hoá bán ra theo giá trị của nó, thì tỷ suất lợi nhuận trong

ngành da sẽ là 30% ((30/100).100), trong ngành dệt là 20% ((20/100).100),
trong ngành chế tạo máy móc là 10% ((10/100)/100). Phân phối lợi nhuận
như thế thì sẽ rất có lợi đối với các nhà tư bản thuộc ngành da, nhưng khơng
có lợi đối với các nhà tư bản thuộc ngành chế tạo máy móc. Khi ấy thì các
chủ xí nghiệp ngành chế tạo máy móc sẽ đi tìm nơi đầu tư có lợi hơn. Và họ
sẽ thấy ngành da là nơi có lợi hơn cả. Thế là họ chuyển tư bản ở ngành chế
tạo máy móc sang ngành da. Kết quả là số lượng hàng hoá sản xuất ra trong
ngành da sẽ tăng lên, sự cạnh tranh tất nhiên sẽ sâu sắc thêm và sẽ bắt buộc
các chủ xí nghiệp của ngành này phải giảm giá hàng hoá của họ xuống, điều
11


đó sẽ đi đến chỗ hạ thấp tỷ suất lợi nhuận. Trái lại, trong ngành chế tạo máy
móc, số lượng hàng hố sản xuất ra sẽ ít đi, và sự thay đổi tương quan giữa
cung và cầu sẽ giúp cho các chủ xí nghiệp nâng cao được giá hàng cuả họ
lên và do đó tỷ suất lợi nhuận cũng tăng lên.
Tình trạng sụt giá trong ngành da và lên giá trong ngành chế tạo máy
móc, sẽ tiếp diễn cho đến khi nào tỷ suất lợi nhuận trong cả ba ngành xấp xỉ
bằng nhau mới thơi. Điều đó sẽ xảy ra khi mà hàng hoá của cả ba ngành đều
bán theo giá 120 đơn vị (130 + 120 + 110)/3).
Lợi nhuận bình quân của mỗi ngành, trong những điều kiện ấy, sẽ là
20 đơn vị. Lợi nhuận bình quân là một lợi nhuận bằng nhau của những số tư
bản bằng nhau bỏ vào các ngành sản xuất khác nhau.
Việc bình quân hoá tỷ suất lợi nhuận và việc biến giá trị thành giá cả
sản xuất càng che dấu thêm quan hệ bóc lột, càng che dấu thêm nguồn gốc
làm già thực sự của bọn tư bản. thực ra thì sự hình thành tỷ suất lợi nhuận
bình qn có nghĩa là phân phối lại giá trị thặng dư giữa các nhà tư bản trong
các ngành sản xuất khác nhau. Nhà tư bản thuộc ngành có cấu tạo hữu cơ tư
bản cao, chiếm đoạt được một phần giá trị thặng dư do các ngành có cấu tạo
hữu cơ tư bản thấp sáng tạo ra. Bởi vậy, công nhân không những bị nhà tư

bản th mình bóc lột, mà cịn bị tồn bộ giai cấp các nhà tư bản bóc lột.
Tồn bộ giai cấp các nhà tư bản đều quan tâm đến việc nâng cao mức độ bóc
lột cơng nhân, vì điều đó làm tăng thêm tỷ suất lợi nhuận bình quân. Như
Mác đã vạch rõ, tỷ suất lợi nhuận bình quân thay đổi tuỳ theo mức độ bóc lột
của tồn bộ tư bản đối với toàn bộ lao động.
III. QUAN ĐIỂM CỦA CÁC NHÀ KINH TẾ TƯ SẢN HIỆN ĐẠI VỀ LỢI
NHUẬN:

1. Quan điểm của các nhà kinh tế tư sản hiện đại về lợi nhuận:
Các nhà kinh tế học hiện đại cho rằng: Lợi nhuận là lượng dôi ra của
doanh thu so với chi phí. Trong đó, doanh thu của một hãng là số tiền mà nó
kiếm được qua việc bán hàng hoá hoặc dịch vụ trong một giai đoạn nhất
12


định, vì dụ như một nặm. Chi phí của hãng là những phí tổn phải chịu khi
sản xuất ra hàng hố hoặc dịch vụ trong thời kỳ đó.
Lợi nhuận là mục tiêu cao nhất, là điều kiện tồn tại và phát triển của
doanh nghiệp. Để cung cấp hàng hoá cho thị trường, các nhà sản xuất phải
bỏ tiền vốn trong quá trình sản xuất và kinh doanh. Họ mong muốn chi phí
cho các đầu vào thấp nhất và bán hàng hoá với giá cao nhất để sau khi trừ đi
các chi phí cịn số dư dơi ra khơng chỉ sản xuất giản đơn mà cịn tái sản xuất
mở rộng, khơng ngừng tích luỹ phát triển sản xuất, củng cố và tăng cường vị
trí của mình trên thị trường.
+ Ngày nay, để thu được nhiều lợi nhuận, nhà tư bản sẽ không đầu tư
nhiều vốn để thuê lao động mà đầu tư vào máy móc hiện đại, tự động khi mà
lợi nhuận thu được phải tưong xứng với lợi nhuận bình quân xã hội, mặc dù
giá trị được tạo ra trong đó có giá trị thặng dư nhỏ hơn nhiều so với giá trị
của hàng hố. Vì vậy lợi nhuận nhà tư bản thu được trong điều kiện tiến bộ
kỹ thuật, tự động hoá là do sự chuyển hoá giá trị thặng dư được tạo ra trong

xã hội dưới hình thức giá trị thặng dư siêu ngạch được sau đi bù lại giữa các
nhà tư bản.
Việc áp dụng rộng rãi máy móc hiện đại, tự động trong điều kiện ngày
nay đã khiến khơng ít người đặt câu hỏi rằng: "Phải chăng trong các dây
chuyền sản xuất tự động đó khơng cịn bóc lột tư bản và chính máy móc đã
sáng tạo ra lợi nhuận?".
2. Lý luận về máy móc tạo ra lợi nhuận:
Trước hết, ta cần khảng định rằng, máy móc và hệ thống máy móc dù
có tinh vi, hiện đại đến đâu cũng chỉ là sản phẩm lao động của con người.
Con người không thể chế tạo được một động cơ vĩnh cửu. Trong dây chuyền
sản xuất tự động, giá trị thặng dư được tạo ra không chỉ là sản phẩm của lao
động quá khứ mà vẫn cần tới lao động hiện tại. Mác viết rằng: "Lao động
biểu hiện ra không phải chủ yếu với tư cách là lao động được nhập vào quá
trình sản xuất nữa, mà là chủ yếu với tư cách là một loại lao động trong đó
13


con người ngày càng đứng sang bên cạnh với chức năng giám sát, điều
khiển, sáng tạo mà máy móc khơng làm nổi".
Lợi nhuận siêu ngạch mà nhà tư bản thu được khi áp dụng máy móc
hiện đại hơn so với các nhà tư bản khác chẳng qua chỉ là sự phân phối lại giá
trị thặng dư sẵn có trên phạm vi tồn xã hội. Do áp dụng máy móc hiện đại
nên lao động ở đây có năng suất cao hơn thì giá thành sản phẩm sẽ thấp hơn.
Song trên thị trường giá bán hàng hoá cùng lại vẫn theo giá thị trường nên
nhà tư bản có máy móc hiện đại hơn sẽ thu được nhiều lợi nhuận siêu ngạch
hơn. Thực tế, trên quy mô thị trường thế giới, các nhà tư bản phát triển sản
xuất bằng máy móc hiện đại và đem bán hàng hoá tại các nước kinh tế chậm
phát triển đã thu được lợi nhuận khổng lồ khó có thể hình dung được. Lượng
lợi nhuận siêu ngạch mà một nhà tư bản thu được là do phần lợi nhuận của
các nhà tư bản khác mất đi mà thôi. Nếu mọi cơ sở sản xuất đều trang bị

máy móc hiện đại như nhau thì hiện tượng lợi nhuận siêu ngạch sẽ biến
mất và người tiêu dùng được lợi vì giá cả hàng hoá được hạ thấp.
Nhưng chỉ khi cần một nhà tư bản nào đó áp dụng máy móc hiện đại
hơn và thu được lợi nhuận siêu ngạch thì lập tức dẫn đến sự cạnh tranh
để rồi sớm hay muộn sẽ làm triệt tiêu lợi thế cá biệt, triệt tiêu lợi nhuận
siêu ngạch.
IV. CÁC HÌNH THỨC CỦA LỢI NHUẬN:

Như ta đã biết, giá trị thặng dư lợi nhuận không hồn tồn đồng nhất
nhưng chúng đều có chung nguồn gốc từ lao động thặng dư. Giá trị thặng dư
là phần giá trị mà nhà tư bản bóc lột khơng cơng của người cơng nhân cịn
lợi nhuận là số tiền thu được sau khi bán sản phẩm trên thị trường so với số
tiền bỏ vào sản xuất. Có thể nói, chính giá trị thặng dư biểu hiện sự bóc lột
sản xuất, chứng minh công thức, mâu thuẫn của tư bản một cách chính xác
và khoa học. Trước Mác, các nhà kinh tế học đã hình dung ra giá trị thặng
dư nhưng họ chưa có đủ lý luận để diễn đạt mà chỉ biểuhiện quan điểm của
mình trong vấn đề thu nhập, tiền lương. Chỉ đến Mác, ông mới chứng minh
14


xây dựng lý thuyết giá trị thặng dư là phát minh vĩ đại của Mác mà như
Lênin nói là "hịn đá tảng" trong học thuyết kinh tế. Tuy nhiên, chúng ta phải
hiểu rằng Mác không phải là người phát minh ra giá trị thặng dư, càng
không phải là người làm ra nó: chính người tìm ra giá trị thặng dư là nhà tư
bản và người lao động thặng dư là cơng nhân giá trị thặng dư rất rõ ràng
nhưng nó được che dấu bởi lợi nhuận và nó tồn tại trong xã hội tư bản bởi
các hình thái sau:
1. Lợi nhuận công nghiệp:
Về bản chất là phần giá trị do công nhân tạo ra bị nhà tư bản chiếm
không và phần gtr này bán trên thị trường thu được một số tiền lời sau khi

trừ đi chi phí sản xuất. Ngày lao động của công nhân (giả sử là 8 giờ) được
chia ra làm hai phần: Một phần làm ra giá trị tương đương với số tiền lương
của anh ta và làm ra giá trị thặng dư. Vì thèm muốn lợi nhuận nên nhà tư bản
cơng nghiệp ln tìm cách tăng phần thời gian lao động thặng dư như tăng
giờ làm, tăng năng suất lao động (giảm thời gian lao động tất yếu). Thời gian
lao động thặng dư càng nhiều thì càng thuộc về nhà tư bản và sẽ thu được lợi
nhuận càng cao. Như vậy, lợi nhuận công nghiệp là hình thái gần nhất, dễ
thấy nhất với giá trị thặng dư và lợi nhuận công nghiệp là động lực mạnh mẽ
nhất để phát triển sản xuất.
2. Lợi nhuận thương nghiệp:
Trong lưu thông, trao đổi không tạo ra giá trị nhưng nhà tư bản
thương nghiệp làm nhiệm vụ lưu thông hàng hoá, làm cho hàng hoá được
bán đi nhanh hơn. Tư bản thương nghiệp thực hiện khâu tiêu thụ cho tư bản
cơng nghiệp. Vì thế, họ phải thu được một phần lợi nhuận mà nhà tư bản
thương nghiệp chiếm được. Về thực chất, lợi nhuận thương nghiệp là một
phần giá trị thặng dư được sáng tạo ra trong lĩnh vực sản xuất mà nhà tư bản
công nghiệp nhường cho nhà tư bản thương nghiệp. Sở dĩ nhà tư bản công
nghiệp thường cho nhà tư bản thương nghiệp một phần giá trị thặng dư trong
lúc họ luôn khao khát, thèm muốn nó là bởi vì: Nhà tư bản thương nghiệp rất
15


am hiểu thị trường, khách hàng do đó giúp cho hàng hoá bán đi nhanh hơn,
tốc độ chu chuyển nhanh hơn nên nhà tư bản công nghiệp rảnh tay để sản
xuất. Do đó vai trị quan trọng như vậy, nhà tư bản công nghiệp phải nhường
một phần giá trị thặng dư cho nhà tư bản thương nghiệp. Lợi nhuận thương
nghiệp là sự chênh lệch giữa giá bán và giá mua hàng hố. Điều đó khơng có
nghĩa là nhà tư bản thương nghiệp bán giá cao hơn giá trị mà là họ mua hàng
hoá thấp hơn giá trị và khi bán thì bán đúng giá trị.
3. Lợi tức cho vay:

Nhà tư bản muốn hoạt động nhưng bản thân họ không đủ vốn hoặc
khơng có vốn nên họ phải đi vay để làm vốn đem vào sản xuất. Một số nhà
tư bản có tiền nhưng chưa đến chu kỳ sử dụng hoặc chưa sử dụng nên họ
cho vay và nhận được một khoản tiền ứng với số tiền cho vay từ tay nhà tư
bản đi vay, gọi là lợi tức. Lợi tức cho vay là một phần lợi nhuận bình quân
mà nhà tư bản đi vay phải trả cho nhà tư bản cho vay ứng với mons tiền mà
nhà tư bản cho vay đã đưa cho nhà tư bản đi vay, lợi tức cao hay thấp còn
tuỳ thuộc vào nhiều yếu tố như sự cấp thiết, hoàn cảnh lịch sử, sự thảo thuận
giữa các nhà tư bản... đối với tư bản thì tiền khơng thể chết trong két sắt mà
nó đẻ ra liên tục.
4. Lợi nhuận ngân hàng:
Ngân hàng là cơ quan kinh doanh tiền tệ, làm môi giới giữa người đi
vay và người cho vay. Tuy nhiên, tư bản ngân hàng khác tư bản cho vay ở
chỗ: tư bản ngân hàng là tư bản hoạt động, ngoài nguồn vốn nhàn rỗi cịn có
các chứng khốn... Ngân hàng tham gia vào sản xuất với tư bản và cả hai
bên chi phí liên quan đến nhau cùng chia lợi nhuận. Lợi nhuận ngân hàng
là phần lợi nhuận thu được ứng với số tiền mà ngân hàng chung vốn với
nhà tư bản tham gia sản xuất. Ngân hàng có vai trị đặc biệt quan trọng
đối với nhà sản xuất. Một đất nước có phát triển thì hệ thống ngân hàng
phải phát triển bởi vì vai trò của ngân hàng trong cơ chế thị trường là yếu
tố đặc biệt quan trọng.
16


5. Địa tơ:
Tư bản khơng chỉ hình thành và thống trị trong lĩnh vực cơng nghiệp
mà cịn mở rộng cả trong nơng nghiệp. Địa chủ có nhiều ruộgn đất cịn nhà
tư bản cần ruộng để kinh doanh. Nhà tư bản kinh doanh ruộgn đất phải thu
thêm một phần giá trị thặng dư dơi ra ngồi lợi nhuận bình qn, tức là lợi
nhuận siêu ngạch. Lợi nhuận siêu ngạy này tương đối ổn định và lâu dài và

nhà tư bản phải trả cho chủ ruộng đất dưới hình thái địa tơ TBCN. Như vậy,
địa tô TBCN là một phần giá trị thặng dư còn lại sau khi đã khấu trừ đi một
phần lợi nhuận bình quân của nhà tư bản kinh doanh ruộng đất.

PHẦN II
VAI TRÒ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ
CỦA VIỆT NAM
I. VAI TRÒ CỦA LỢI NHUẬN ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ CỦA
VIỆT NAM :

1. Lợi nhuận là động lực đối với sự phát triển kinh tế của
Việt Nam:
Con người bao giờ cũng đứng ở vị trí trung tâm, là nhân tố hàng đầu
và quyết định đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Đã là con người thì
nhu cầu và hành động của họ trước hết là nhằm thoả mãn các nhu cầu
của mình. Vì vậy, động lực của sự phát triển là nhu cầu của mỗi thành
viên trong xã hội.
Xét về mặt kinh tế, động lực chính là nhu cầu vật chất, lợi ích vật chất
của con người, trong đó quyền sở hữu và quyền hưởng thụ là những khía
cạnh khác nhau của lợi ích.
Khi đã thừa nhận đặt con người vào vị trí trung tâm thì vấn đề cốt lõi
là phải đảm bảo lợi ích cá nhân, thoả mãn các nhu cầu chính đáng và ngày
càng tăng của mỗi cá nhân, coi đó là động lực trực tiếp thúc đẩy sự phát triển
của nền kinh tế nói chung.
17


Trong nền kinh tế thị trường, cái mà nhà sản xuất kinh doanh quan
tâm trước hết là lợi nhuận và hiệu quả sản xuất kinh doanh được thể hiện
chủ yếu ở lợi nhuận nhiều hay ít. Lợi nhuận là nhân tố chênh lệch giữa

doanh thu bán hàng với phí tổn sản xuất.
Trong lịch sử có nhiều nhà kinh tế quan niệm rằng lợi nhuận chính là
sự trả cơng cho những ai dám "mạo hiểm" vay vốn đầu tư vào sản xuất kinh
doanh và dám chấp nhận rủi ro, thậm chí phá sản. Để đạt được lợi nhuận tất
yếu các nhà sản xuất kinh doanh phải cạnh tranh mạnh mẽ với nhau, tìm mọi
cách giảm chi phí để thu lợi nhuận cao nhất. Như vậy, trong nền kinh tế thị
trường, lợi nhuận là động lực chi phối hoạt động của người sản xuất kinh
doanh.
a. Lợi nhuận phân bổ các nguồn lực của xã hội vào đúng nơi, đúng
lúc:
Doanh nghiệp là đơn vị kinh doanh hàng hoá, dịch vụ theo nhu cầu thị
trường và xã hội để đạt lợi nhuận tối đa, đạt hiệu quả kinh tế và xã hội cao
nhất. Trong cơ chế thị trường, doanh nghiệp luôn bị thị trường thẩm phán về
lợi nhuận. Nếu doanh nghiệp làm ăn có lãi thì một phần lợi nhuận thu được
sẽ đi vào tích luỹ để doanh nghiệp tiếp tục tái sản xuất mở rộng. Lợi nhuận
doanh nghiệp thu được trên thị trường sẽ trả lời câu hỏi: có nên tiếp tục sản
xuất hay khơng? Sản xuất cái gì? Đổi mới cái gì?... Khơng cịn nữa và sẽ
khơng cịn một doanh nghiệp kinh doanh vẫn tiếp tục sản xuất khi mặt hàng
đó khơng thu được lợi nhuận. Như vậy lợi nhuận sẽ điều hướng các yếu tố
sản xuất nhằm phân bổ sản xuất hàng ngàn mặt hàng khác nhau cho phù hợp
với nhu cầu. Không một bộ máy thứ hai nào, dù tài giỏi đến đâu có thể giải
quyết tốt đẹp vấn đề này. Cơ chế giá cả và lợi nhuận tự do sẽ tối đa hố sản
xuất và làm giảm tình hình khan hiếm nhanh chóng hơn bất cứ một cơ chế
nào.
b. Lợi nhuận là nhân tố quyết định sự phát triển của lực lượng
sản xuất:
18


Doanh nghiệp cũng như các nhà kinh tế phải cố gắng hết sức để đạt

được lợi nhuận tối đa. Họ phải làm gì? phải lựa chọn cái nào? sản xuất ra
sao?... đó là một vấn đề rất khó trả lời một cách cụ thể nhưng chắc chắn rằng
nếu sản xuất khơng có lãi doanh nghiệp sẽ bị loại khỏi thị trường. Trên
thương trường, các doanh nghiệp luôn luôn phải tiến lên nếu dừng lại đồng
nghĩa với nguy cơ phá sản đang tiến đến. Vì vậy, các ơng chủ làm mọi cách
để doanh nghiệp ngày càng mở rộng, phải làm cho lợi nhuận đẻ ra lợi nhuận
thì mới có điều kiện phát triển trong môi trường gay go quyết định lợi nhuận
địi hỏi các doanh nghiệp phải tìm ra phương pháp sản xuất tối ưu nhất, giảm
tối thiểu mức chi phí sản xuất, tăng năng suất lao động để giảm giá thành sản
phẩm, giành thắng lợi trong cạnh tranh, thu được nhiều lợi nhuận. Do vậy,
khoa học và công nghệ mới tiên tiến được ứng dụng ngày càng nhiều. Đây
chính là nhân tố quyết định sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội.
c. Lợi nhuận góp phần nâng cao mức sống cho nhân dân.
Trong nền kinh tế thị trường, các nhà sản xuất kinh doanh ngoài phần
thu nhập là tiền lương, cịn khoản thu nhập khác, đó là lợi nhuận và phần
ngày ngày càng tăng lên, chiếm ưu thế trong tổng thu nhập. Tổng thu nhập là
mỗi người lao động nói chung, mỗi nhà sản xuất kinh doanh nói riêng có
được vừa phản ánh kết quả lao động của mỗi người, vừa phản ánh kết quả
lao động của tập thể với tư cách là một chỉnh thể. Để thúc đẩy tăng trưởng
và phát triển kinh tế cần phải phát huy tối đa sức sáng tạo của các nhà sản
xuất kinh doanh giỏi và thạo với cơ chế thị trường. Muốn vậy, cần khơng
ngừng nâng cao thu nhập (trong đó có lợi nhuận) của họ.
Thực tế cho thấy đời sống của người công nhân ở các nước tư bản
phát triển đã được cải thiện nhiều hơn thời Mác sống. Ở những nước này,
lực lượng sản xuất rất được quan tâm, thúc đẩy góp phần tăng năng suất lao
động xã hội. Do đó, giá cả tư liệu sinh hoạt giảm xuống. Với đồng lương cố
định, người cơng nhân có thể mua được nhiều vật phẩm tiêu dùng hơn, do đó
đời sống của họ được cải thiện hơn. Ngoài ra do khối lượng thặng dư thu
19



được quá lớn, với tốc độ nhanh để tránh sự phản ứng của người lao động và
quần chúng nhân dân, và để che đậy sự bóc lột tàn bạo ấy, các nhà tư bản
cũng phải bỏ ra một phần giá trị thặng dư thu được để lo cho đời sống dân
sinh xã hội.
Như vậy, lợi nhuận góp phần nâng cao mức sống cho người dân phải
hăng say lao động, nâng cao hiệu quả cơng việc hơn nữa hay nói cách khác
đây chính là điều kiện để tái sản xuất ra sức lao động trong điều kiện nền sản
xuất hiện đại.
d. Lợi nhuận tạo điều kiện tái sản xuất mở rộng cho xã hội:
Vì mục đích lợi nhuận các nhà tư bản không ngừng phát triển sản
xuất, nâng cao năng suất lao động, tạo ra sản phẩm ngày càng nhiều. Đồng
thời, phân công lao động ngày càng sâu, mối liên hệ giữa các xí nghiệp, các
ngành kinh tế càng chặt chẽ thì thị trường càng phát triển, các nhà tư bản
phải mua bán với nhau nhiều hơn. Bên cạnh đó, tầng lớp nhân dân cũng cần
nhiều tư liệu tiêu dùng hơn. Do đó, hàng hố sản xuất ra có thể tiêu thụ
được, lợi nhuận vì vậy cũng thu được nhiều hơn. Và một phần lợi nhuận đó
được các nhà tư bản mang vào tích luỹ để tái sản xuất mở rộng nằm lần sau
thu được lợi nhuận nhiều hơn lần trước. Do vậy, lợi nhuận tạo điều kiện để
mở rộng sản xuất là động lực thúc đẩy xã hội phát triển.
Như vậy, lợi nhuận kích thích các chủ thể kinh tế, kích thích họ tìm
tịi, cải tiến phương thức sản xuất, phát triển lực lượng sản xuất. Đồng thời
nền kinh tế thị trường phát triển cũng huy động được nguồn lực của xã hội
và phát triển kinh tế để thu được nhiều lợi nhuận. Do vậy, có thể nói lợi
nhuận chính là động lực của nền kinh tế thị trường.
2. Các nhân tố ảnh hưởng và quyết định đến lợi nhuận:
Trên đây ta đã thấy được tầm quan trọng của lợi nhuận như thế nào
rồi. Bây giờ ta xem xét các yếu tố nào ảnh hưởng đến lợi nhuận.
a. Quy mô sản xuất hàng hoá dịch vụ:


20


Một doanh nghiệp muốn thu được lợi nhuận thì phải giải quyết được
ba vấn đề kinh tế cơ bản: sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? sản xuất cho
ai?
+ Sản xuất cái gì tức là quyết định cái gì địi hỏi phải làm và nên sản
xuất hàng hố dịch vụ gì với số lượng bao nhiêu, bao giờ sản xuất. Trên cơ
sở nhu cầu thị trường các Chính phủ và các nhà kinh doanh tính tốn khả
năng sản xuất của nền kinh tế, của doanh nghiệp và các chi phí sản xuất
tương ứng để lựa chọn và quyết định cung ứng cái gì để đạt được lợi nhuận,
đạt được thu nhập quốc dân. Chính giá cả thị trường là bàn tay vơ hình để
điều chỉnh quan hệ cung cầu và giúp chúng ta lựa chọn, quyết định.
+ Sản xuất như thế nào nghĩa là do ai và những tài ngun nào với
hình thức cơng nghệ nào, phương pháp sản xuất nào. Sau khi đã lựa chọn
được cần sản xuất cái gì, các chính phủ, các nhà kinh doanh phải xem xét
việc làm thế nào để chi phí ít nhất, cạnh tranh thắng lợi trên thị trường để thu
được lợi nhuận cao nhất. Động cơ lợi nhuận đã khuyến khích các doanh
nghiệp tìm kiếm, lựa chọn các đầu vào để sản xuất ra đầu ra nhanh nhất, sản
xuất được nhiều nhất, chất lượng cao với chi phí thấp nhất.
+ Sản xuất cho ai tức là đòi hỏi phải xác định rõ ai sẽ là đối tượng để
sản xuất, đối tưỡng nào mà tiêu thụ được hàng hoá sản xuất ra để từ đó đạt
đến lợi nhuận. Tiếng gọi của lợi nhuận cao sẽ làm cho các nhà kinh tế có
mặt khắp mọi nhu cầu chứ khơng phải làm một mặt hàng nhất định.
Ba vấn đề đó phải được giải quyết trong mọi xã hội dù là một nước
XHCN hay là một nước công nghiệp TBCN, một công xã, một bộ tộc, một
địa phương, một ngành, một doanh nghiệp hay thậm chí cả một đàn ong
mật.
b. Tổ chức tiêu thụ hàng hoá dịch vụ:
Bán hàng hoá trên thị trường cũng là ảnh hưởng đến lợi nhuận cao hay

thấp, một nhà kinh tế là một ông chủ phải xem xét nhu cầu của thị trường
trong nước và thế giới để cân nhắc hàng hố của mình. Đó là nhu cầu có khả
21


năng thanh toán và khả năng đáp ứng của doanh nghiệp, nhu cầu đó càng lớn
thì tạo ra lợi nhuận càng cao. Cung và cầu trên thị trường luôn biến đổi đòi
hỏi người sản xuất phải xử lý kịp thời và điều chỉnh đúng đắn. Nếu cung <
cầu thì trước khi bán giá cao thì phải xem xét đến quy mơ doanh nghiệp, số
lượng hàng hố trên thị trường, phán đốn... Nếu cung > cầu thì nên ngừng
ngay sản xuất và di chuyển sang ngành khác.
c. Tổ chức quản lý các hoạt động kinh tế vĩ mô của doanh nghiệp:
Bây giờ là tài lãnh đạo và phán đoán của doanh nghiệp sẽ định hướng
cho các kế hoạch, phưong án sản xuất nhằm thu được lợi nhuận. Cái này còn
phụ thuộc từ từng cá nhân lãnh đạo nưhng vài trò của họ cực kỳ quan trọng
trong việc một doanh nghiệp nên lựa chọn sản xuất cái gì để thu được lợi
nhuận cũng như sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp.
Những yếu tố quyết định về lợi nhuận trong nền kinh tế thị trường.
- Lợi nhuận tức là lợi tức ẩn. Đối với các nhà kinh tế học, lợi nhuận
kinh doanh là tổng hợp của nhiều khoản khác nhau. Phần lớn giá trị lợi
nhuận kinh doanh được báo cáo chỉ là phần lợi tức của các chủ sở hữu công
ty có được do lao động của họ hay do vốn đầu tư của họ mang lại, có nghĩa
là tiền trả cho yếu tố sản xuất do họ cung cấp. Vì vậy, có một số giá trị tuy
thường gọi là lợi nhuận nhưng thực chất là tô, tiền thuê, tiền công lấp dưới
các tên gọi khác nhau.
- Lợi nhuận là phần thưởng cho việc gánh chịu rủi ro và cho sự đổi
mới. Nửa thế kỷ trước đây một nhà kinh tế học trường đại học Chicagô cho
rằng, tất cả lợi nhuận thực sự đều có liên quan tới tính khơng chắc chắn và
khơng hồn hảo của thơng tin, nói như vậy là ông ta ngụ ý cho rằng, nếu loại
bỏ tất cả lợi tức ẩn thì ta được lợi nhuận thuần tuý, và đó là phần thưởng cho

các hoạt động đầu tư có lợi tức bất định. Trong điều kiện cạnh tranh hồn
hảo và cơng nghệ khơng thay đổi sẽ khơng thu được chút lợi nhuận nào hết.
Trong điều kiện đó, các chủ sở hữu thu được khoản tiền do các yếu tố sở hữu
và sự rủi ro mang lại đúng bằng giá trị những dịch vụ này trong thị trường
22


cạnh tranh. Trong thực tế, một số người sẽ có ý kiến mới hay bằng cách đổi
mới, phát minh có thể thúc đẩy tạo ra các sản phẩm mới hoặc giảm chi phí
sản xuất đối với các sản phẩm đang sản xuất. Mỗi đổi mới thành công, tạo ra
một lĩnh vực độc quyền tạm thời. Trong thời hạn ngắn, họ thu được lợi
nhuận nhờ đổi mới. Lợi nhuận thu được này chỉ là tạm thời và sẽ giảm đi do
có nhiều người cạnh tranh và bắt chước làm theo. Nhưng một khi mức lợi
nhuận nhờ đổi mới này giảm đi thì lại có những phát minh khác xuất hiện.
Lợi nhuận nhờ đổi mới sẽ tiếp tục tồn tại cùng với các thay đổi tiếp tục về
công nghệ.
- Lợi nhuận lợi tức độc quyền: Khi trên thị trường khơng có cạnh
tranh hồn hảo, các cơng ty có thể thu về lợi nhuận siêu ngạch do tự tăng
giá. Nếu bạn là chủ sở hữu duy nhất bản quyền về một loại thuốc quý, hay
bạn là người duy nhất kiếm được giấy phép lắp đặt đường cáp vơ tuyến
trong thành phố, bạn có thể tăng giá cao hơn chi phí biên, hạn chế mức cung,
và thu được lợi nhuận độc quyền từ việcđầu tư của mình.
3. Các phương pháp tăng lợi nhuận:
Thực sự là thiếu sót nếu khơng đề cập đến cách tăng lợi nhuận. Làm
thế nào để tăng lợi nhuận? Đó là câu hỏi đặt ra đối với bất kỳ ai làm kinh tế
nhưng đê trả lời một cách cụ thể thì khó trả lời. Nhưng có những cái chung
nhất để trả lời câu hỏi đó:
- Phải ln ln nắm vững thị hiếu khách hàng, tâm lý người mua.
Ngành tiếp thị cho thấy rằng khách hàng luôn ưa chuộng những sản phẩm có
tính chất lượng - hình thức giá rẻ. Bởi thế muốn thắng trên cạnh tranh cần

phải thoả mãn ba yếu tố đó trong sản phẩm. Đầu tư vào khoa học kỹ thuật là
cách tốt nhất để làm được điều đó.
Các doanh nghiệp, các nhà kinh tế phải tránh tình trạng tồn kho, ứ
đọng, các nhà quản lý phải tính tốn sao cho vừa phải phù hợp để khỏi tiền
"chết" trong hàng hoá. Phải giải được bài toán "đầu vào - đầu ra" từ đó cung

23


ra thị trường số lượng hàng hoá hợp lý nhằm luôn luôn tạo ra cung cầu. Vấn
đề là họ phải hiểu, nắm bắt được tương đối cầu của khách hàng và thời thế.
Ngành marketing là đóng vai trị quan trọng trong việc bán sản phẩm,
nhất là những khi mà doanh nghiệp chưa có uy tín, chưa phổ biến. Tuy nhiên
quảng cáo phải có sức thuyết phục, phải có phần hợp lý tránh tình trạng
quảng cáo hiện thực. Ngày nay, khách hàng là những người hết sức nhạy
cảm, có nhiều thơng tin chính xác cho nên chất lượng mới là yếu tố quan
trọng để được chữ "tín". Bởi thế marketing phải luôn luôn đi sát thực tế sản
phẩm.
Một điều nữa - hết sức quan trọng - đó là tài cá nhân của người lãnh
đạo, các ơng chủ phải biết tính tốn nên đầu tư vào đâu, số lượng bao nhiêu,
làm như thế nào để khi bán sản phẩm họ thu được lợi nhuận. Vai trị ngoại
giao của ơng chủ phải làm tốt với các đối tác cũng như với công nhân.
những cái đó ảnh hưởng lớn đến việc lợi nhuận của doanh nghiệp có tăng lên
hay khơng?
Điều cuối cùng và cũng là điều quan trọng là đầu tư như thế nào? đầu
tư vào đâu? đầu tư bằng cách nào? Câu trả lời là muốn tăng lợi nhuận thì chỉ
có cách hiệu quả nhất là đầu tư vào khoa học kỹ thuật để giamr chi phí sản
xuất và đồng thời tăng được chất lượng sản phẩm. Sở dĩ Nhật Bản có hiện
tượng nhảy vọt thần kỳ như vậy là một phần họ đầu tư thậm chí là mua chất
xám nhằm tăng trình độ khoa học trong sản phẩm nên họ thắng trên thị

trường cạnh tranh.
4. Những mặt trái của lợi nhuận đối với sự phát triển kinh tế của
Việt Nam:
Bên cạnh những ưu điểm của mình: Thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển, tạo ra sự cân đối giữa các ngành sản phẩm trong nền kinh tế quốc dân,
phương thức sản phẩm ngày càng hiện đại hơn, lợi nhuận cũng không tránh
khỏi những mặt tiêu cực của nó.

24


Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì cấu tạo hữu cơ của tư bản càng
nâng cao. Mỗi xí nghiệp trong khi dùng máy móc thay thế cơng nhân, đều
muốn giảm bớt chi phí sản xuất, mở rộng đường tiêu thụ hàng hoá, và thu lợi
nhuận siêu ngạch. Nhưng khi mà những thành tự kỹ thuật của một số xí
nghiệp đã lan rộng ra, thì cấu tạo hữu cơ của tư bản trong phần lớn các xí
nghiệp được nâng cao lên, do đó mà tỷ suất lợi nhuận chung giảm xuống.
Đây là kết quả mà không một nhà tư bản nào mong muốn cả. Do vậy họ tìm
cách để kìm hãm sự giúp sức của tỷ suất lợi nhuận và vì vậy dẫn đến những
hậu quả sau - giai cấp cơng nhân bị áp bức bóc lột nặng nề. Nhà tư bản
khơng quan tâm đến sức khoẻ và tính mệnh của cơng nhân. Các chủ xí
nghiệp bắt cơng nhân làm việc trong những gian nhà chật hẹp, thiếu khí trời,
họ giảm bớt các thiết bị an tồn lao động. Tính keo bẩn của các nhà tư bản
đã đưa đến kết quả là sức khoẻ của cơng nhân bị mịn mỏi, bao nhiêu tai nạn
lao động xảy ra, tỷ số công nhân chết tăng lên.
- Việc áp dụng máy móc để tăng lợi nhuận làm tăng tỷ lệ thất nghiệp,
gây ra một áp lực lớn đối với thị trường lao động. Điều đó khiến bọn chủ xí
nghiệp giảm tiền lương xuống và định mức tiền lương thấp hơn giá trị của
sức lao động rất nhiều. Vì vậy, trong khi các nhà tư bản ngày càng giàu có
thì đời sống của người cơng nhân ngày càng bần cùng. Điều đó càng làm cho

mâu thuẫn giữa giai cấp tư bản và giai cấp vô sản càng sâu sắc.
- Ngày nay trong nền sản xuất hiện tại việc chạy theo lợi nhuận kéo theo
việc áp dụng nhiều máy móc - kỹ thuật hiện đại làm cho môi trường xung
quanh trở lên ô nhiễm, tài nguyên thiên nhiên bị khai thác đến cạn kiệt; gây
nên nhiều bệnh tật cho con người hiện nay, các nhà tư sản đổ xô vào các
nước đang phát triển để chia sẻ hết gánh nặng này. Họ xuất sang các nước
này những phương tiện kỹ thuật lạc hậu, gây ô nhiễm, tận dụng tài nguyên
và nguồn nhân lực phong phú của các nước này. Nhân dân ở các nước đang
phát triển do vậy bị bóc lột triệt để. Điều đó làm cho mâu thuẫn giữa các
nước tư bản phát triển và đang phát triển ngày càng thêm sâu sắc.
25


×