Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Chế độ bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (566.46 KB, 73 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN ĐỨC HOÀNG

CHẾ ĐỘ BẢO TRỢ XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT,
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Hữu Trí

HÀ NỘI - 2013


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
LĐTBXH

: Lao động, Thương binh và Xã hội

ILO

: Tổ chức lao động quốc tế

UNDP



: Chương trình hỗ trợ phát triển của Liên
hiệp quốc

WB

: Ngân hàng thế giới

IMF

: Quỹ tiền tệ quốc tế

UBND

: Ủy ban nhân dân

BTXH

: Bảo trợ xã hội


MỤC LỤC
1. Tính cấp thiết của đề tài ....................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu ............................................................................. 1
3. Phạm vi nghiên cứu............................................................................... 2
4. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................... 2
5. Tình hình nghiên cứu ............................................................................ 2
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn ...................................... 3
7. Kết cấu của Luận văn ........................................................................... 4
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT VÀ PHÁP

LUẬT BẢO TRỢ XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT ................ 5
1.1 Người khuyết tật và vai trò người khuyết tật đối với xã hội ............. 5
1.1.1 Khái niệm người khuyết tật ........................................................... 5
1.1.2 Đặc điểm người khuyết tật ........................................................... 10
1.1.2.1 Đặc điểm của người khuyết tật dưới góc độ dạng tật. ............. 11
1.1.2.2 Đặc điểm của người khuyết tật dưới góc độ kinh tế- xã hội. .. 13
1.1.3 Vai trò của người khuyết tật đối với xã hội ................................. 14
1.1.4. Các quyền cơ bản của người khuyết tật...................................... 15
1.2 Pháp luật bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật........................... 17
1.2.1 Khái niệm bảo trợ xã hội ............................................................. 17
1.2.2 Khái niệm pháp luật bảo trợ xã hội cho người khuyết tật. .......... 22
1.2.3 Nội dung pháp luật bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật........ 24
1.2.3.1 Các nguyên tắc cơ bản của bảo trợ xã hội đối với người khuyết
tật ....................................................................................................... 24
1.2.3.2 Chủ thể được bảo trợ xã hội và chủ thể thực hiện chế độ bảo trợ
xã hội ................................................................................................. 27
1.2.3.3 Trình tự, thủ tục hưởng bảo trợ xã hội. ................................... 29
1.2.3.4 Mức hưởng bảo trợ xã hội. ..................................................... 29
1.2.3.5 Nguồn tài chính thực hiện bảo trợ xã hội. ............................... 30


CHƯƠNG 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ BẢO TRỢ XÃ HỘI ĐỐI
VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN ............... 32
2.1 Đối tượng được bảo trợ xã hội.......................................................... 32
2.2 Trình tự thủ tục xin hưởng bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật. .
........................................................................................................... 36
2.3 Quyền lợi về bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật. ..................... 44
2.4 Tài chính và cơ quan tổ chức thực hiện ........................................... 55
Tiểu kết chương 2.................................................................................... 57
CHƯƠNG 3. HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO TRỢ XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI
KHUYẾT TẬT ........................................................................................... 58
3.1 Định hướng hoàn thiện pháp luật về bảo trợ xã hội đối với người
khuyết tật. ................................................................................................ 58
3.2 Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực
thi pháp luật về bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật....................... 59
3.2.1 Giải pháp hoàn thiện pháp luật bảo trợ xã hội đối với người
khuyết tật .............................................................................................. 59
3.2.2 Giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật bảo trợ xã hội
đối với người khuyết tật ........................................................................ 63
KẾT LUẬN ................................................................................................. 66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 67


1

1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự quan tâm của Nhà nước đối với mỗi thành viên trong xã hội không chỉ
đơn thuần là trách nhiệm của Nhà nước, mà thể hiện sự nhân đạo của Nhà
nước đó đối với công dân của mình. Đối với người khuyết tật- những người bị
khiếm khuyết bộ phận cơ thể, sự quan tâm, hỗ trợ đó càng có ý nghĩa quan
trọng. Sự bảo trợ, giúp đỡ của Nhà nước giúp người khuyết tật phần nào ổn
định cuộc sống, vượt qua mặc cảm tự ti để vươn lên trong xã hội và tự nhận
thức được vai trò của mình trong tiến trình chung của đất nước. Trong thời
gian qua các chính sách bảo trợ xã hội tuy đã mang lại nhiều hiệu quả trên
thực tế, góp phần hỗ trợ phần nào cuộc sống của bản thân người khuyết tật nói
riêng và gia đình họ nói chung nhưng một số chính sách chưa thực sự mang
lại kết quả như những nhà làm luật mong muốn. Nhiều đối tượng khuyết tật
còn bị bỏ sót, chưa được hưởng sự quan tâm của Nhà nước, một số đối tượng
tuy được hưởng sự quan tâm đó nhưng họ luôn tồn tại suy nghĩ đó là sự ban

ơn, chiếu cố của Nhà nước… Chính những thực trạng đó đã chứng tỏ rằng các
quy định của pháp luật về bảo trợ xã hội cho người khuyết tật còn chưa thực
sự khả thi trên thực tế và việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật về vấn đề này là
nhu cầu cấp thiết.
Xuất phát từ vai trò của bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật và thực
trạng áp dụng pháp luật bảo trợ xã hội trong thời gian vừa qua còn nhiều
vướng mắc, tác giả lựa chọn đề tài “ Chế độ bảo trợ xã hội đối với người
khuyết tật- những vấn đề lý luận và thực tiễn” làm đề tài nghiên cứu luận
văn thạc sỹ luật học của mình.
2. Mục đích nghiên cứu
Luận văn hướng tới mục đích phân tích và đánh giá các quy định của
pháp luật Việt Nam hiện hành về bảo trợ xã hội cho người khuyết tật cũng
như thực tiễn áp dụng pháp luật trên thực tế. Trên cơ sở phân tích, đánh giá


2

các quy định pháp luật và thực tiễn thi hành, tác giả chỉ ra những bất cập từ
các quy định pháp luật và trong quá trình thực thi pháp luật bảo trợ xã hội đối
với người khuyết tật. Từ những bất cập đã được phân tích, tác giả đưa ra các
giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng như các biện pháp nâng cao hiệu quả áp
dụng pháp luật về bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật.
3. Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi bài nghiên cứu luật học ở trình độ thạc sỹ, tác giả tập
trung phân tích đánh giá các quy định pháp luật hiện hành về bảo trợ xã hội
đối với người khuyết tật. Luận văn sẽ tập trung vào các vấn đề chủ yếu sau
đây: một số vấn đề lý luận về bảo trợ xã hội và bảo trợ xã hội đối với người
khuyết tật; những quy định pháp luật hiện hành về bảo trợ xã hội đối với
người khuyết tật và thực tiễn áp dụng; một số giải pháp hoàn thiện pháp luật
và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật bảo trợ xã hội đối với người khuyết

tật.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong phạm vi bài nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác- Lênin, cụ thể phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử. Ngoài ra tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm pháp luật, đường lối,
chủ trương của Đảng và Nhà nước Việt Nam về bảo trợ xã hội cho người
khuyết tật cũng là cơ sở lý luận cho việc phân tích và nghiên cứu đề tài.
Để nghiên cứu vấn đề bảo trợ xã hội được nêu tại bài viết này, tác giải
sử dụng kết hợp các phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, phương pháp
logic, lịch sử…
5. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề về người khuyết tật là vấn đề khá mới mẻ trong giới nghiên
cứu, tiếp cận vấn đề với người khuyết tật dưới nhưng ở dưới những phương
diện khác nhau, có thể nêu ra 1 số công trình tiêu biểu như sau:


3

Trước năm 2010, Ths. Nguyễn Thị Báo đã bảo vệ thành công Luận án Tiến sĩ
với đề tài: “ Hoàn thiện pháp luật về quyền của người khuyết tật ở Việt nam
hiện nay”. Đề tài đề cập đến sự hình thành, phát triển và thực trạng pháp luật
về quyền của người khuyết tật ở Việt Nam vào thời điểm đó; khẳng định yêu
cầu bức thiết của việc ban hành Luật Người khuyết tật Việt Nam. Sau đó, năm
2010, Phó Vụ trưởng Vụ pháp chế, Bộ LĐTBXH – Hà Đình Bốn đã biên soạn
“ Đặc san Tuyền truyền pháp luật, chủ đề Người khuyết tật”. Đặc san đã phân
tích được nhiều khía cạnh của pháp luật Việt Nam về Người khuyết tật nói
chung và quyền của người khuyết tật nói riêng; đồng thời chỉ ra những hạn
chế sau hơn mười năm thực hiện Pháp lệnh về người tàn tật năm 1998. Còn
trình độ thạc sỹ có duy nhất công trình Pháp luật về việc làm cho người
khuyết tật của tác giả Hồ Thị Trâm năm 2013. Về công trình luận án tiến sỹ

nghiên cứu về pháp luật bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật thì tại Việt
Nam tính đến thời điểm tháng 5/ 2013 chưa có công trình nào. Như vậy có thể
nói việc nghiên cứu pháp luật bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật vẫn là
mang tính mới của một công trình khoa học.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Với tính chất là một công trình nghiên cứu khoa học, bài viết đã đáp
ứng được một số tính mới trong nghiên cứu khoa học như sau:
Một là, luận văn là một công trình khoa học trình bày một cách toàn
diện và tương đối đầy đủ những vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp luật bảo
trợ xã hội đối với người khuyết tật.
Hai là, luận văn đã đánh giá một cách tương đối toàn diện thực trạng
quy định pháp luật và áp dụng pháp luật bảo trợ xã hội đối với người khuyết
tật. Trên cơ sở đó, tác giả cũng đã chỉ ra những điểm bất cập trong bản thân
các các quy định hiện hành về bảo trợ xã hội cho người khuyết tật ở Việt Nam
hiện nay.


4

Ba là, trên cơ sở những phân tích, đánh giá về quy định pháp luật cũng
như thực tiễn áp dụng tác giả đã đưa ra những đề xuất, biện pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về bảo trợ xã hội cho
người khuyết tật.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục đính kèm và danh mục tài liệu
tham khảo, luận văn được triển khai với ba nội dung chính được kết cấu thành
ba chương như sau:
Chương 1 với tiêu đề “Một số vấn đề về người khuyết tật và pháp luật bảo trợ
xã hội đối với người khuyết tật” sẽ đưa đến những khái niệm cơ bản liên quan
đến người khuyết tật, bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật và pháp luật về

bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật. Trong chương này, tác giả đề cập đến
vấn đề lý luận trên cơ sở những phân tích, đối chiếu với các khái niệm trong
quy định pháp luật về bảo trợ xã hội của một số quốc gia trên thế giới và một
số Công ước quốc tế có điều chỉnh vấn đề này.
Chương 2 với tên gọi “Quy định pháp luật về bảo trợ xã hội đối với người
khuyết tật và thực tiễn thực hiện”, tác giả tập trung phân tích các quy định của
pháp luật hiện hành về bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật. Song song với
việc phân tích các quy định pháp luật, tác giả cũng chỉ ra những bất cập của
các quy định đó (nếu có) và thực tiễn áp dụng các quy định trên thực tế với sự
đánh giá trên cơ sở khoa học.
Chương 3 với nội dung “Hoàn thiện pháp luật về bảo trợ xã hội đối với người
khuyết tật” sẽ tập trung phân tích các giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo
trợ xã hội đối với người khuyết tật nhằm có thể nâng cao tính khả thi của các
quy định pháp luật.


5

CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ NGƯỜI KHUYẾT TẬT VÀ PHÁP
LUẬT BẢO TRỢ XÃ HỘI ĐỐI VỚI NGƯỜI KHUYẾT TẬT

1.1 Người khuyết tật và vai trò người khuyết tật đối với xã hội
1.1.1 Khái niệm người khuyết tật
Cách nhìn nhận về người khuyết tật có những sự thay đổi nhất định qua
từng thời kỳ. Nếu như những năm 1950 người khuyết tật được nhìn nhận theo
mô hình “chăm sóc y tế”, theo đó vấn đề người khuyết tật là vấn đề phúc lợi
xã hội và họ là đối tượng cần được hỗ trợ, chăm sóc, được hưởng phúc lợi xã
hội chứ không phải là chủ thể có quyền như công dân bình thường thì những
năm 1970 cách nhìn nhận người khuyết tật đã có sự thay đổi, theo đó những
người khuyết tật là những người có khả năng, có quyền sống và lao động như

những người bình thường chứ phải là một đối tượng cần nhận sự “chiếu cố”
của xã hội. Quá trình chuyển nhận thức về người khuyết tật như vấn đề xã hội
sang nhận thức coi vấn đề người khuyết tạt là vấn đề bình thường trong xã hội
và coi trọng khả năng, năng lực của người khuyết tật là kết quả của sự đấu
tranh bằng nhiều hình thức khác nhau của bản thân người khuyết tật và các
hiệp hội của họ xuất phát ở Hoa Kỳ vào những năm 70 của thế kỷ trước. Tuy
nhiên, hiện nay vẫn chưa có cách hiểu thống nhất về người khuyết tật. Trên
thế giới có hai quan điểm chính về người khuyết tật song song cùng tồn tại đó
là quan điểm khuyết tật cá nhân và quan điểm khuyết tật xã hội.
Quan điểm khuyết tật cá nhân hay quan điểm khuyết tật dưới góc độ y
tế (y học) cho rằng khuyết tật là hạn chế cá nhân, là ở chính con người đó, mà
hầu như không chú ý tới các yếu tố xã hội. Dưới góc độ tiếp cận này, thì bản
thân người khuyết tật là vấn đề và họ cần được chữa trị để trở thành bình
thường. Những phương pháp khoa học như thuốc điều trị và các công nghệ
cải thiện chức năng được chú trọng. Liên quan đến quan điểm này, theo phân


6

loại của Tổ chức y tế thế giới, có ba mức độ suy giảm là : khiếm khuyết,
khuyết tật và tàn tật. Trong đó, khiếm khuyết chỉ đến sự mất mất hoặc không
bình thường của cấu trúc cơ thể liên quan đến tâm lý hoặc sinh lý. Khuyết tật
chỉ đến sự giảm thiểu chức năng hoạt động, là hậu quả của sự khiếm khuyết.
Còn tàn tật đề cập tình thế bất lợi hoặc thiệt thòi của người mang khiếm
khuyết do tác động của môi trường xung quanh lên tình trạng khuyết tật của
họ.
Ngược lại, quan điểm khuyết tật theo mô hình xã hội, những người
khuyết tật được nhìn nhận là hệ quả bị xã hội loại trừ và phân biệt. Chính xã
hội không tốt nên người khuyết tật phải đối mặt với một số sự phân biệt đối
xử của cộng đồng xung quanh. Quan điểm này khẳng định rằng vấn đề nằm ở

xã hội chứ không phải bản thân người khuyết tật. Chính xã hội và chính sách
cần phải cải tổ chứ không phải người khuyết tật.
Như vậy, hai quan điểm có cách tiếp cận ngược nhau về người khuyết
tật. Nếu như quan điểm khuyết tật cá nhân cho rằng vấn đề nằm ở bản thân
người khuyết tật thì quan điểm khuyết tật xã hội lại cho rằng vấn đề không
nằm ở bản thân người khuyết tật mà nằm ở chính xã hội. Cá nhân tác giả cho
rằng, mỗi quan điểm có cách lập luận của mình tuy nhiên, không có một quan
điểm nào là hoàn hảo. Quan điểm khuyết tật cá nhân không nhận thấy ảnh
hưởng của xã hội đối với tình trạng khiếm khuyết của người khuyết tật nên
không chú trọng các biện pháp xã hội như cải tổ chính sách, xóa bỏ các rào
cản xã hội. Ngược lại, quan điểm khuyết tật xã hội lại cho rằng vấn đề nằm ở
xã hội chứ không phải bản thân người khuyết tật nên tập trung vào các biện
pháp cải tổ chính sách xã hội, xóa bỏ các yếu tố rào cản đối với người khuyết
tật chứ không nhấn mạnh tới các biện pháp phục hồi chức năng, vật lí trị liệu
đối với bản thân người khuyết tật.


7

Từ những cách nhìn nhận khác nhau về người khuyết tật cùng với điều
kiện kinh tế- xã hội, lịch sử phát triển cũng như kỹ thuật lập pháp từng quốc
gia mà các quốc gia khác nhau có định nghĩa khác nhau về người khuyết tật.
Theo quan điểm khuyết tật cá nhân, Đạo Luật số 7277 của Philipines
năm 1991 với tên gọi là Đạo luật tạo nên sự phục hồi chức năng, tự phát triển
và tự tin cho người khuyết tật và hòa nhập người khuyết tật vào xã hội và các
mục đích khác định nghĩa “Người khuyết tật- là người có sự khác biệt về khả
năng và hạn chế do khiếm khuyết về giác quan, vận động, và tâm thần để thực
hiện một hoạt động được coi là bình thường”
Điều 2 Luật của nước Công hòa nhân dân Trung Hoa về bảo vệ người
khuyết tật năm 1990 ghi nhận: “Người khuyết tật là một trong những người bị

bất thường, mất mát của một cơ quan nhất định hoặc chức năng, tâm lý hay
sinh lý, hoặc trong cấu trúc giải phẫu và những người đã mất toàn bộ hoặc
một phần khả năng tham gia vào các hoạt động một cách bình thường.
“Người khuyết tật” là những người có thính giác, thị giác, lời nói hoặc
khuyết tật về thể chất, chậm phát triển tâm thần, rối loạn tâm thần, khuyết tật
nhiều và/hoặc khuyết tật khác”
Hay Luật về người khuyết tật của Ấn Độ năm 1995 định nghĩa khuyết
tật bao gồm những tình trạng bị mù, nghe kém, lành bệnh phong; thị lực kém;
suy giảm khả năng vận động; chậm phát triển trí óc và mắc bệnh về tâm thần.
Nhưng định nghĩa về người khuyết tật lại được nêu “một người bị bât kì một
khuyết tật nào không dưới 40% theo xác nhận của cơ quan y tế có thẩm
quyền”
Trái với quan điểm y tế về người khuyết tật- tập trung vào sự khiếm
khuyết về thể trạng, tinh thần, thính giác, thị giác và sức khỏe tâm thần…,
định nghĩa người khuyết tật theo quan điểm xã hội là sự kết hợp giữa sự


8

khiếm khuyết và các yếu tố môi trường và tiếp cận dưới góc độ quyền của
người khuyết tật.
Khoản 1 Điều 1 Công ước số 159 của ILO về phục hồi chức năng lao
động và việc làm của người khuyết tật năm 1983 quy định: “Người khuyết tật
dùng để chỉ một cá nhân mà khả năng có một việc làm phù hợp, trụ lâu dài
với công việc đó và thăng tiến với nó bị giảm sút đáng kể do hậu quả của một
khiếm khuyết về thể chất và tâm thần được thừa nhận”.
Điều 1, Công ước về quyền của người khuyết tật của Liên hợp quốc
năm 2006, quy định: “Người khuyết tật bao gồm những người bị suy giảm về
thể chất, thần kinh, trí tuệ hay giác quan trọng một thời gian dài, có ảnh
hưởng qua lại với hàng loạt những rào cản có thể cản trở sự tham gia đầy đủ

với hiệu quả của người khuyết tật vào xã hội trên cơ sở bình đẳng với những
người khác”
Bộ luật xã hội Đức định nghĩa “Người khuyết tật là người có các chức
năng về thể lực, trí lực hoặc tâm lý tiến triển không bình thường so với người
có cùng độ tuổi trong thời gian trên 6 tháng và sự không bình thường này là
nguyên nhân dẫn đến việc họ bị hạn chế tham gia vào cuộc sống xã hội”
Đạo luật về Người khuyết tật của Hoa Kỳ năm 1990 định nghĩa “
Người khuyết tật là người có sự suy yếu về thể chất hay tinh thần gây ảnh
hưởng đáng kể đến một hay nhiều hoạt động quan trọng của cuộc sống”
Ở Việt Nam, người khuyết tật được Đảng, Nhà nước quan tâm từ rất
sớm. Tuy vậy thuật ngữ người khuyết tật mới được sử dụng gần đây với sự ra
đời của Luật người khuyết tật 2010. Trước đây đối tượng bị khiếm khuyết
một hay một số bộ phận cơ thể thuộc đối tượng điều chỉnh của Pháp lệnh về
người tàn tật 1998. Tại Điều 1 pháp lệnh người tàn tật ghi nhận “Người tàn tật
theo quy định của pháp lệnh này không phân biệt nguồn gốc gây ra tàn tật là
người bị khiếm khuyết một hay nhiều bộ phận cơ thể hoặc chức năng biểu


9

hiện dưới những dạng tật khác nhau, làm suy giảm khả năng hoạt động, khiến
cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp nhiều khó khăn”. Tại khoản 1 Điều 2,
Luật Người khuyết tật 2010 chính thức sử dụng thuật ngữ người khuyết tật
thay thế người tàn tật trước đây, theo đó người khuyết tật được hiểu là “Người
bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng
được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó
khăn”. Việc thay đổi tên gọi từ người tàn tật sang người khuyết tật thể hiện sự
thay đổi cách nhìn nhận của xã hội đối với những người không may mắn khi
mang trên mình những dạng tật. Người khuyết tật chỉ rõ họ là những người
tuy có dạng tật khó khăn trong lao động, sinh hoạt nhưng họ vẫn là người có

ích, có thể làm việc, giáo dục, đào tạo, vẫn có thể đóng góp vào sự phát triển
chung của đất nước. Người khuyết tật thể hiện tính nhân văn, đề cao tinh thần
“tàn những không phế” của những đối tượng này và đồng thời phù hợp với
thuật ngữ được sử dụng trên thế giới (disability). Như vậy, theo định nghĩa về
người khuyết tật thì đối tượng xác định là người khuyết tật dựa vào việc bộ
phận cơ thể bị suy giảm chức năng biểu hiện dưới dạng tật (khiếm thính,
khiếm thị, tật nguyền…) và gây khó khăn cho việc lao động, học tập, sinh
hoạt, bao gồm cả những người bị khuyết tật bẩm sinh, người bị khiếm khuyết
do bệnh tật, tai nạn, thương binh, bệnh binh…

Như vậy, tùy thuộc vào

việc ủng hộ quan điểm khuyết tật cá nhân hay khuyết tật vận động mà mỗi
quốc gia có nhìn nhận không giống nhau về người khuyết tật. Tuy vậy, dù có
xu hướng ủng hộ quan điểm nào đi chăng nữa thì khi định nghĩa về người
khuyết tật cũng phải phản ánh thực tế là người khuyết tật có thể gặp các rào
cản do yếu tố xã hội, môi trường hoặc con người khi họ tham gia vào mọi
hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội. Họ phải được đảm bảo rằng họ có quyền
và trách nhiệm tham gia vào mọi hoạt động của đời sống như bất cứ công dân
nào với tư cách là các quyền của con người. Với lập luận đó, tác giả hoàn toàn


10

đồng tình với quan điểm về người khuyết tật được nêu tại Giáo trình Luật
người khuyết tật Việt Nam của tập thể tác giả Trường Đại học Luật Hà Nội:
“Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể
hoặc bị suy giảm chức năng dẫn đến những hạn chế đáng kể và lâu dài trong
việc tham gia của người khuyết tật vào hoạt động xã hội trên cơ sở bình đẳng
với những chủ thể khác”[14, trang 21].

1.1.2 Đặc điểm người khuyết tật
Việc xác định và làm rõ đặc điểm của người khuyết tật không chỉ có ý
nghĩa trong việc xác định đúng đối tượng nào là người khuyết tật mà còn có ý
nghĩa trong việc xây dựng những quy định pháp luật mang tính khả thi cao về
người khuyết tật, điều chỉnh đúng phạm vi đối tượng là người khuyết tật.
Người khuyết tật trước hết là những con người, là những thành viên của
xã hội. Người khuyết tật cũng có những quyền cơ bản của con người, quyền
công dân của nước mà họ mang quốc tịch, mang những nét đặc trưng của nền
văn hóa nơi họ sinh ra và lớn lên, có những đặc điểm tâm sinh lý như mọi
người khác trong xã hội. Vì là thành viên xã hội, là con người nên người
khuyết tật phải được đối xử bình đẳng với những người bình thường khác
trong xã hội, với đối tượng là người khuyết tật khác. Nhà nước với tư cách là
chủ thể quản lý xã hội phải có những biện pháp để bảo đảm quyền cơ bản của
người khuyết tật, đảm bảo sự bình đẳng giữa người khuyết tật với các thành
viên khác trong xã hội trong mọi hoạt động của đời sống.
Tuy nhiên, người khuyết tật không phải là những người bình thường
mà họ là những kém may mắn khi bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận
cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng dẫn đến những hạn chế đáng kể và lâu dài
trong việc tham gia vào hoạt động xã hội. Sự khiếm khuyết một hoặc nhiều
bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng hình thành nên các dạng người
khuyết tật và mức độ khuyết tật, còn việc dẫn đến những hạn chế trong khi


11

tham gia vào hoạt động xã hội thể hiện những khó khăn của người khuyết tật
dưới góc độ xã hội. Từ cơ sở đó, đặc điểm của người khuyết tật được tác giả
tìm hiểu dưới hai góc độ đó là dưới góc độ xã hội và dưới góc độ dạng tật và
mức độ khuyết tật
1.1.2.1 Đặc điểm của người khuyết tật dưới góc độ dạng tật.

Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ
thể hoặc bị suy giảm chức năng…”. Như vậy, đặc điểm đầu tiên để xác định
người khuyết tật đó là việc bị khiếm khuyết bộ phận cơ thể. Có nhiều bộ phận
cơ thể có thể bị khiếm khuyết như tai, mắt, miệng, tay chân…do vậy khiếm
khuyết các bộ phận cơ thể khác nhau sẽ tạo nên một loại dạng tật với những
đặc điểm đặc thù. Nhìn chung có các dạng khuyết tật phổ biến như sau:
khuyết tật vận động; khuyết tật nghe, nói; khuyết tật nhìn; khuyết tật thần
kinh, tâm thần; khuyết tật trí tuệ; khuyết tật khác. Mỗi dạng tật có những đặc
điểm riêng, chung về tâm, sinh lí, về khả năng qua đó tác động đến các nhu
cầu của bản thân và có ảnh hưởng qua lại, tác động đáng kể tới môi trường
xung quanh làm xuất hiện những hệ quả pháp lí trong quá trình hòa nhập cộng
đồng. Đa phần những người khuyết tật đều có bộ não phát triển bình thường.
Nếu được quan tâm, đào tạo, rèn luyện từ sớm và thường xuyên thì họ vẫn
tiếp thu được chương trình học tập, làm việc, tham gia các hoạt động kinh tếxã hội, trở thành những người có ích trong xã hội. Tuy nhiên, do khiếm
khuyết của bộ phận cơ thể nên họ sẽ gặp một/một vài khó khăn khi tham gia
các hoạt động cộng đồng.
Khuyết tật vận động là những người có cơ quan vận động bị tổn
thương, biểu hiện là khó khăn trong khi di chuyển (nằm, ngồi, cầm, nắm…).
Do đó, người khuyết tật vận động gặp rất nhiều khó khăn trong sinh hoạt cá
nhân, vui chơi, học tập và lao động. Người khuyết tật vận động cần được hỗ


12

trợ về phương tiên đi lại (xe lăn, gậy chống…) và đặc biệt là không gian
thuận tiện để di chuyển.
Khuyết tật nghe, nói là người có khó khăn đáng kể về nói, nghe, dẫn
đến hạn chế về đọc, viết, từ đó dẫn đến những khó khăn trong sinh hoạt, làm
việc, học tập, hòa nhập cộng đồng. Để giảm bớt khó khăn cho những đối
tượng này cần có sự hỗ trợ của phương tiện trợ giúp (máy trợ thính), ngôn

ngữ ký hiệu dùng trong giao tiếp tổng hợp.
Khuyết tật nhìn (khuyết tật thị giác, khiếm thị) là những người có tật về
mắt làm cho họ không nhìn thấy hoặc nhìn không rõ ràng. Công cụ hỗ trợ đối
với đối tượng này là chiếc gậy trắng, chữ nổi Braille, các dụng cụ hỗ trợ thông
minh, lối đi thuận tiện và dễ nhận biết…
Khuyết tật thần kinh, tâm thần là tình trạng rối loạn tri giác, trí nhớ,
cảm xúc, kiểm soát hành vi, suy nghĩ và có biểu hiện với những lời nói, hành
động bất thường.
Khuyết tật trí tuệ là tình trạng giảm hoặc mất khả năng nhận thức, tư
duy biểu hiện bằng việc chậm hoặc không thể suy nghĩ, phân tích về sự vật,
hiện tượng, giải quyết sự việc.
Theo Điều 3, Luật người khuyết tật Việt Nam 2010 thì ở nước ta phân
loại người khuyết tật theo tiêu chuẩn dạng tật gồm khuyết tật vận động,
khuyết tật nghe, nói; khuyết tật nhìn; khuyết tật thần kinh, tâm thần; khuyết
tật trí tuệ và khuyết tật khác. Về cơ bản, tiêu chí phân loại người khuyết tật ở
Việt Nam khá tương đồng với tiêu chí của các nước trên thế giới. Theo số liệu
khảo sát thống kê, cả nước có khoảng 5,3 triệu người khuyết tật (chiếm
khoảng 6,34% dân số), thì có 29,41% khuyết tật vận động, 16,83% thần kinh,
13,84% thị giác, 9,32% thính giác, 7,08% ngôn ngữ, 6,52% trí tuệ và 17% các
dạng tật khác. Nguyên nhân gây nên khuyết tật có tới 35,8% do bẩm sinh,


13

32,34% do bệnh tật, 25,56% do hậu quả chiến tranh, 3,49% do tai nạn lao
động và 2,81% do các nguyên nhân khác [20]
1.1.2.2 Đặc điểm của người khuyết tật dưới góc độ kinh tế- xã hội.
“Người khuyết tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ
thể hoặc bị suy giảm chức năng dẫn đến những hạn chế đáng kể và lâu dài
trong việc tham gia của người khuyết tật vào hoạt động xã hội trên cơ sở bình

đẳng với những chủ thể khác”. Nếu đơn thuần chỉ bị khiếm khuyết cơ thể thì
vẫn chưa xác định đó là người khuyết tật, chỉ một khi những khiếm khuyết đó
dẫn đến những hạn chế đáng kể và lâu dài trong việc tham gia của người
khuyết tật vào hoạt động xã hội thì mới đủ tiêu chí để xác định đó là người
khuyết tật. Sự khó khăn trong việc tham gia các hoạt động xã hội chính là đặc
điểm của người khuyết tật dưới góc độ kinh tế- xã hội.
Bản thân người khuyết tật với những khiếm khuyết cơ thể họ chịu
nhiều thiệt thòi trong cuộc sống. Có thể nói, khuyết tật là nguyên nhân chính
gây ra nhiều khó khăn cho người khuyết tật từ các công việc sinh hoạt hàng
ngày như đi lại, giao tiếp đến các công việc sinh hoạt cộng đồng như tham gia
học tập, giáo dục, tham gia hoạt động xã hội, việc làm, tiếp cận các dịch vụ y
tế… Để khắc phục những khó khăn này, đa số và chủ yếu là dựa vào gia đình
họ.
Về gia đình người khuyết tật, một thực tế kém may mắn rằng gia đình
những người khuyết tật thường là những gia đình có hoàn cảnh: có quá nhiều
người sống phụ thuộc, kinh tế khó khăn, nguồn tài chính không ổn định, đa số
sống ở nông thôn. Chính vì vậy điều kiện sống và sinh hoạt, phúc lợi của các
thành viên trong gia đình trong đó có người khuyết tật không được đảm bảo.
Ngoài ra, người khuyết tật thường khó khăn trong vấn đề xin việc làm, nên
gia đình đã khó khăn càng khó khăn thêm.


14

Từ phía xã hội, đâu đó vẫn còn tồn tại nhiều định kiến, kỳ thị, phân biệt
đối xử đối với người khuyết tật. Trong cộng đồng nhiều dân cư coi người
khuyết tật là “đáng thương”, không có cuộc sống bình thường, là gánh nặng
của xã hội. ..Về phương diện pháp luật, nhiều người còn không hề biết quy
định của pháp luật về người khuyết tật. Từ đó dẫn đến sự kỳ thị, phân biệt đối
xử đối với người khuyết tật trên nhiều lĩnh vực như gia đình, nơi làm việc,

giáo dục, hôn nhân gia đình, tham gia hoạt động xã hội và nghiêm trọng hơn
sự kỳ thị đôi khi lại xuất phát từ chính bản thân người khuyết tật (người
khuyết tật tự cho rằng mình kém cỏi, mặc cảm, khó hòa nhập cộng đồng).
Như vậy có thể nói sự khiếm khuyết bộ phận cơ thể là phần nào nguyên
nhân dẫn đến những khó khăn mà người khuyết tật gặp phải trong quá trình
tham gia các hoạt động xã hội, hòa nhập cộng đồng.
1.1.3 Vai trò của người khuyết tật đối với xã hội
Như đã phân tích ở trên, người khuyết tật là thành viên của xã hội, là bộ
phận không thể thiếu của xã hội nên ở một mức đô nào đó họ sẽ có những sự
đóng góp nhất định vào sự phát triển chung của xã hội. Do mặc cảm về khiếm
khuyết của cơ thể nên họ có tâm lý tự ti, bỏ mặc không hòa nhập cộng đồng.
Tuy nhiên, nếu họ vượt lên những hoàn cảnh khó khăn đó thì họ có thể sống,
hoạt động đóng góp cho xã hội như những người bình thường khác. Tấm
gương về thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký đã thôi thúc không chỉ những người
khuyết tật mà còn cả những người bình thường vươn lên trong cuộc sống, trở
thành người có ích cho xã hội. Hình ảnh cậu bé Nobuyuki Tsujii bị mù bẩm
sinh nhưng với tài năng của mình, cậu bé đã đưa vinh quang về cho đất nước
mọc trời mọc khi liên tiếp giành được các giải thưởng trong các cuộc thi
piano quốc tế. Nobuyuki Tsuji được báo chí Nhật Bản ví là “hiện thân của
phép mầu thượng đế”. Những người khuyết tật vẫn tham gia hoạt động kinh
tế- xã hội và họ đã có những đóng góp đáng kể vào quá trình phát triển của


15

nhân loại điển hình như nhạc sĩ thiên tài như Beethoven bị khiếm thính nhưng
vẫn để lại cho đời những tác phẩm âm nhạc tuyệt vời. Giáo sư Stephen
Hawking bị khuyết tật mắc bệnh thần kinh khiến ông gần như mất hết khả
năng cử động. Sau đó, ông phẫu thuật cắt khí quản và không thể nói chuyện
bình thường. Ông phải ngồi xe lăn, chỉ có thể nói được qua một thiết bị tổng

hợp tiếng gắn với một máy tính mà ông gõ chữ vào đó. Hawing hiện là Giáo
sư Lucasian, chức danh giành cho Giáo sư Toán học trường đại học
Cambrigde [19].
1.1.4. Các quyền cơ bản của người khuyết tật
Công ước Quốc tế về quyền của người khuyết tật năm 2006 đã ghi nhận
các quyền cơ bản của người khuyết tật như quyền được sống, quyền được
thừa nhận bình đẳng, quyền tự do và an toàn cá nhân, quyền sống độc lập và
hòa nhập cộng đồng, quyền được tôn trọng gia đình và tổ ấm, quyền tự do đi
lại, tự do cư trú và tự do quốc tịch, quyền tự do biểu đạt chính kiến và tiếp cận
thông tin, quyền được bảo vệ không bị tra tấn, bị đối xử, áp dụng các hình
phạt tàn nhẫn, quyền không bị bóc lột, bạo hành và lạm dụng, quyền được
tham gia đời sống chính trị và cộng đồng, quyền tham gia các hoạt động văn
hóa, nghỉ ngơi, giải trí và thể thao, quyền hưởng các dịch vụ y tế, quyền được
hỗ trợ chức năng và phục hồi chức năng, quyền có mức sống thích đáng và
bảo trợ xã hội đầy đủ, quyền được tiếp cận giáo dục, quyền có cơ hội công
việc và việc làm. Do vậy, quyền được hưởng bảo trợ xã hội đầy đủ là một
trong những quyền cơ bản của người khuyết tật. Trách nhiệm của các quốc
gia là thành viên Công ước là phải thể chế hóa, nội luật hóa các quy định của
Công ước vào pháp luật quốc gia và thực thi nghiêm chỉnh các quy định đó.
Việt Nam là thành viên công ước về bảo vệ quyền lợi người khuyết tật do vậy
cũng có trách nhiệm nội luật hóa các quy định về bảo vệ người khuyết tật nói


16

chung, bảo trợ xã hội người khuyết tật nói riêng trong các quy định pháp luật
hiện hành.
Tại điều 4, Luật người khuyết tật 2010 nội luật hóa các quy định của
Công ước về quyền của người khuyết tật trong văn bản pháp luật Việt Nam.
Theo đó, người khuyết tật được bảo đảm thực hiện các quyền như tham gia

bình đẳng vào các hoạt động xã hội; quyền sống độc lập, hòa nhập cộng đồng;
quyền được miễn hoặc giảm một số khoản đóng góp cho các hoạt động xã
hội; quyền được chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng, học văn hóa, học
nghề, việc làm, trợ giúp pháp lý, tiếp cận công trình công cộng, phương tiện
giao thông, công nghệ thông tin, dịch vụ văn hóa, thể thao, du lịch và dịch vụ
khác phù hợp với dạng tật và mức độ khuyết tật và các quyền khác theo quy
định của pháp luật.
Các quyền cơ bản của người khuyết tật có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, hỗ trợ, bổ sung cho nhau. Chẳng hạn quyền được bảo trợ xã hội là sự
thể hiện một cách chi tiết quyền được sống, quyền được bình đẳng của người
khuyết tật. Con người sinh ra chịu tác động của hai yếu tố đó là yếu tố tự
nhiên và yếu tố xã hội. Bị khuyết tật là điều không ai mong muốn, có những
người bị khuyết tật từ lúc sinh ra, có người do trong quá trình sống, lao động
bị tai nạn, chiến tranh khiến cơ thể gặp phải những khiếm khuyết không mong
muốn. Mặc dù bị khuyết tật nhưng các các cơ bản của con người thì không
được xâm phạm với lý do đơn giản họ cũng là những con người, cũng là
thành viên của xã hội, của cộng đồng.
Như vậy có thể thấy quyền được hưởng bảo trợ xã hội đầy đủ của
người khuyết tật khởi nguồn từ quyền tự nhất là quyền con người. Vì người
khuyết tật là những con người nên có quyền được hưởng cuộc sống ấm no,
quyền xây dựng cuộc sống của mình trong cộng đồng xã hội. Chính trợ giúp
của xã hội qua các chế độ bảo trợ, sự hỗ trợ Nhà nước là cầu nối đưa họ hòa


17

nhập với cộng đồng, tránh mặc cảm tự ti. Chính sự quan tâm, giúp đỡ của Nhà
nước, của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đối với người khuyết
tật thông qua các chế độ bảo trợ, các nguồn tài trợ có ý nghĩa thiêng liêng đối
với đời sống của những người khuyết tật, giúp họ vươn lên hòa nhập cộng

đồng, thấy mình phải có trách nhiệm hơn đối với xã hội, với người xung
quanh.
1.2 Pháp luật bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật
1.2.1 Khái niệm bảo trợ xã hội
Trong xã hội, không phải ai cũng có cuộc sống đầy đủ, có thể tự mình
lo liệu mọi việc. Những người “yếu thế” ví dụ như người khuyết tật, người già
cô đơn hay thậm chí những người bất hạnh không may gặp hoàn cảnh khó
khăn… trong một số trường hợp nhất định không thể tự mình lo liệu cho cuộc
sống của bản thân. Những đối tượng này, cần sự trợ giúp, hỗ trợ của các tổ
chức, cá nhân, của cộng đồng, của Nhà nước. Trong đó sự hỗ trợ, giúp đỡ của
Nhà nước được đánh giá là mang tính ổn định và an toàn. Chính những biện
pháp bảo vệ, giúp đỡ đối tượng yếu thế có sự tham gia của nhà nước chính là
nội dung của bảo trợ xã hội.
Về khái niệm bảo trợ xã hội thì hiện nay có nhiều quan điểm, nhiều
định nghĩa tùy thuộc vào từng góc độ tiếp cận.
Tiếp cận từ góc độ kinh tế thì bảo trợ xã hội được hiểu như là biện
pháp, công cụ thực hiện mục đích bảo vệ cuộc sống của con người, đặc biệt là
những người khó khăn, yếu thế cần giúp đỡ. Ngân hàng thế giới (WB) đưa ra
khái niệm về “bảo trợ xã hội” là “những biện pháp công cộng nhằm giúp cho
các cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng đương đầu và kiềm chế được nguy cơ
tác động đến thu nhập nhằm giảm tính dễ bị tổn thương và những bấp bênh
về thu nhập”… Những biện pháp công cộng theo WB là những khoản trợ cấp


18

và cả cơ hội cho đối tượng vượt qua hoàn cảnh nhằm đạt được ba mục đích
phòng ngừa rủi ro, hạn chế rủi ro và khắc phục rủi ro của con người. Quỹ tiền
tệ quốc tế (IMF) cũng đưa ra khái niệm về bảo trợ xã hội là “sự bảo vệ con
người khi không còn khả năng tạo ra thu nhập”. Nội dung của bảo trợ xã hội

chỉ là những khoản trợ cấp từ Nhà nước nhằm chi trả cho những đối tượng
cần sự giúp đỡ để tồn tại, nòng cốt của bảo trợ xã hội tập trung vào các chế độ
bảo hiểm tuổi già, chế độ tiền tuất và các khoản phúc lợi xã hội cho đối tượng
khó khăn.
Tiếp cận từ góc độ đảm bảo quyền con người gắn với vấn đề đảm bảo
mức sống, theo Tổ chức lao động quốc tế (ILO), bảo trợ xã hội là “sự đảm
bảo thực hiện quyền con người được sống trong hòa bình, tự do làm ăn, cư
trú, được bảo vệ trước pháp luật, được làm việc và nghỉ ngơi, được chăm sóc
y tế và bảo vệ thu nhập”. Theo đó, nội dung của bảo trợ xã hội rất rộng lớn,
bao trùm lên các lĩnh vực của đời sống con người hướng tới việc đảm bảo
quyền con người. Ở phạm vi hẹp hơn, ILO tiếp cận khái niệm bảo trợ xã hội
như một trong những nội dung cơ bản của hệ thống an sinh xã hội thông qua
những khoản trợ cấp từ tài chính công, ILO đưa ra những đặc trưng cơ bản
của bảo trợ xã hội để nhận diện trong tương quan với các nội dung khác trong
hệ thống an sinh xã hội, theo đó:
- Đối tượng của bảo trợ xã hội bao gồm mọi người dân không có sự
phân biệt khi rơi vào hoàn cảnh khó khăn, rủi ro, bất hạnh cần có sự giúp đỡ
để tồn tại;
- Nghĩa vụ đóng góp tài chính không đặt ra như một điều kiện cho việc
thụ hưởng chế độ. Khoản tài chính này được đảm bảo từ nguồn tài chính công
và sự giúp đỡ, đóng góp tự nguyện của cộng đồng;
- Mức trợ cấp được xác định trên cơ sở nhu cầu thực sự thiết yếu của
đối tượng hưởng, có tính đến tình trạng kinh tế, thu nhập của họ.


19

- Mục đích trợ cấp bảo trợ xã hội nhằm duy trì cuộc sống cho đối tượng
mà không nhằm khôi phục lại mức sống trước khi gặp sự kiện rủi ro, bất
hạnh.

Ở Việt Nam, bảo trợ xã hội cũng là nội dung khá mới mẻ, được đề cập
nhiều trong mấy năm trở lại đây. Khái niệm này được tiếp cận theo cả hai
phạm vi rộng và hẹp. Ở phạm vi rộng, nội dung của bảo trợ xã hội trùng với
khái niệm an sinh xã hội theo quan điểm của ILO. Ví dụ, Theo thuật ngữ lao
động- thương binh và xã hội “Bảo trợ xã hội là hệ thống các chính sách, chế
độ, hoạt động của chính quyền nhà nước các cấp và hoạt động của cộng đồng
xã hội dưới các hình thức và biện pháp khác nhau, nhằm mục tiêu giúp các
đối tượng thiệt thòi, yếu thế hoặc hẫng hụt trong cuộc sống có điều kiện tồn
tại và có cơ hội hòa nhập cuộc sống chung của cộng đồng, góp phần đảm bảo
ổn định và công bằng xã hội…”. Theo cuốn “Bảo trợ xã hội cho các nhóm
thiệt thòi ở Việt Nam”, các tác giả cho rằng “bảo trợ xã hội là sự hỗ trợ trực
tiếp cho các gia đình nghèo và dễ bị tổn thương, bảo hiểm xã hội và các hoạt
động khác nhằm giảm tính dễ bị tổn thương gây ra bới những nguy cơ như
thất nghiệp, tuổi già, khuyết tật”. Trên cơ sở đó, các tác giả xác định nội dung
bảo trợ xã hội với từng nhóm đối tượng khó khăn. Theo nghĩa rộng, bảo trợ
xã hội không chỉ dừng lại ở việc hỗ trợ tài chính mà còn hướng tới những biện
pháp đảm bảo cho đối tượng duy trì và thích nghi với điều kiện sống, tạo cơ
hội cho sự vươn lên hòa nhập cộng đồng như sự hỗ trợ về y tế, giáo dục…
Theo nghĩa hẹp là cách hiểu bảo trợ xã hội trong mối liên hệ với hệ
thống an sinh xã hội ở Việt Nam Theo đó, bảo trợ xã hội được xác định là một
nội dung cấu thành hệ thống an sinh xã hội quốc gia, có nội dung chủ yếu là
các khoản trợ cấp từ nguồn tài chính công cho các đối tượng khó khăn, bất
hạnh…vì nhiều nguyên nhân khác nhau cần sự giúp đỡ để tồn tại và phát
triển. Theo từ điển Bách khoa toàn thư Việt Nam bảo trợ xã hội là “sự giúp đỡ


20

bằng tiền hoặc các điều kiện sinh sống thích hợp để đối tượng được giúp đỡ
có thể phát huy khả năng tự lo liệu cuộc sống cho mình hoặc gia đình, sớm

hòa nhập cộng đồng”
Tóm lại, dựa trên quan điểm chung của ILO và riêng ở Việt Nam, có
thể hiểu bảo trợ xã hội là sự giúp đỡ của nhà nước, xã hội và cộng đồng bằng
những biện pháp và các hình thức khác nhau đối với các đối tượng gặp phải
rủi ro, bất hạnh, nghèo đói… vì nhiều nguyên nhân dẫn đến không đủ khả
năng tự lo liệu được cuộc sống tối thiểu của bản thân và gia đình nhằm giúp
họ tránh được mối đe dọa của cuộc sống thường nhật, giúp họ vượt qua khó
khăn, ổn định cuộc sống, hòa nhập cộng đồng. Theo khái niệm này đối tượng
bảo trợ xã hội chính là những người gặp khó khăn, rủi ro, biến cố, bất hạnh
trong cuộc sống vì nhiều nguyên nhân khác nhau cần có sự giúp đỡ. Những
đối tượng được kể đến đầu tiên trong hầu hết các quy định pháp luật bảo trợ
xã hội các quốc gia đều là nhóm người khuyết tật, người già cô đơn, trẻ em
mồ côi thiếu người nuôi dưỡng….
Người khuyết tật là một trong những đối tượng được hưởng bảo trợ xã
hội. Do vậy, có thể hiểu bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật là tổng hợp
các cơ chế, chính sách và các giải pháp của nhà nước và cộng đồng xã hội
nhằm trợ giúp và bảo vệ người khuyết tật, trước hết và chủ yếu là những
khoản trợ cấp, hỗ trợ và các chi phí khác nhằm giúp cho đối tượng ổn định
cuộc sống, hòa nhập cộng đồng.
Bảo trợ xã hội có ý nghĩa quan trọng đối với cuộc sống của người
khuyết tật nói riêng và còn có ý nghĩa đối với đánh giá sự phát triển của mỗi
quốc gia nói chung. Không đơn thuần dừng lại ở ý nghĩa về kinh tế như một
sự phân phối lại thu nhập xã hội một cách công bằng mà bảo trợ xã hội đối
với người khuyết tật còn có ý nghĩa về mặt xã hội, chính trị và pháp luật. Cụ
thể như sau:


21

Dưới góc độ kinh tế, bảo trợ xã hội có ý nghĩa thiết thực với cuộc sống

của bản thân người khuyết tật nói riêng và gia đình của họ thông qua khoản
hỗ trợ, trợ cấp, góp phần đảm bảo cho nhu cầu sinh sống tối thiểu của người
khuyết tật. Chính sự giúp đỡ, và hỗ trợ này từ phía Nhà nước đã giúp họ duy
trì được mức sống tối thiểu và “trụ được” trong cuộc sống. Sâu xa hơn nữa,
những sự giúp đỡ này là nguồn động viên, khích lệ những người khuyết tật có
thể vươn lên, kiến tạo và phát huy những khả năng có thể để vươn lên đảm
bảo cuộc sống và nâng cao đời sống. Cũng từ góc độ kinh tế cho thấy, các
khoản trợ cấp bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật còn có ý nghĩa là công
cụ phân phối lại tiền bạc, của cải và dịch vụ có lợi cho các thành viên yếu thế,
thu hẹp dần sự chênh lệch mức sống, giảm bớt bần cùng, nghèo đói. Việc
cung cấp các khoản trợ giúp xã hội từ nguồn tài chính công đó không vì mục
đích kinh doanh, lợi nhuận và mang ý nghĩa phân phối lại nhu nhập theo
hướng công bằng, đảm bảo lợi ích xã hội đối với người khuyết tật nói riêng và
toàn bộ dân chúng nói chung.
Dưới góc độ chính trị xã hội, bảo trợ xã hội đối với người khuyết tật
không chỉ thể hiện thái độ của Nhà nước đối với bộ phận dân chúng mà còn là
biện pháp hỗ trợ tích cực của xã hội đối với mỗi thành viên của mình khi gặp
rủi ro, hạn chế về sức khỏe. Được xây dựng trên sự tương trợ, hợp tác của
cộng đồng trước những rủi ro, mất mát của mỗi cá nhân do đó mà bảo trợ xã
hội đối với người khuyết tật nói riêng và bảo trợ xã hội nói chung mang tính
nhân văn sâu sắc. Theo đó những bất hạnh, rủi ro trong cuộc sống của những
người khuyết tật được cả cộng đồng gách vác thông qua nguồn chi trả từ tài
chính công, đối tượng không phải đóng góp tài chính đảm bảo cho việc hưởng
thụ. Chính sự giúp đỡ của cả cộng đồng, phần nào đó sẽ giúp người khuyết tật
thấy mình có giá trị, thấy mình cũng là thành viên của xã hội, chứ không phải
bị “bỏ rơi” vì những khiếm khuyết của sức khỏe.


×