BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
NGUYỄN VĂN THÀNH
CÁC BIỆN PHÁP THU THẬP CHỨNG CỨ
CỦA TÒA ÁN TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
Chuyên ngành: Luật Dân sự
Mã số: 60380103
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN TRIỀU DƢƠNG
HÀ NỘI - 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu,
ví dụ và trích dẫn trong Luận văn là trung thực. Các kết luận khoa học trong Luận
văn chƣa từng đƣợc ai công bố trong các công trình khác.
Tác giả luận văn
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT
Từ viết tắt
Nội dung.
1
BLTTDS
Bộ luật tố tụng dân sự
2
LSĐBS
Luật sửa đổi bổ sung
3
TAND
Tòa án nhân dân
4
TANDTC
Tòa án nhân dân tối cao
5
TTDS
Tố tụng dân sự
6
PLTTGQVADS
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân
sự
7
PLTTDS
Pháp luật tố tụng dân sự
MỤC LỤC
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BIỆN PHÁP THU
THẬP CHỨNG CỨ .......................................................................................... 1
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của các biện pháp thu thập chứng cứ. ........ 1
1.1.1. Khái niệm biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án............................... 1
1.1.2. Đặc điểm của các biện pháp thu thập chứng cứ...................................... 3
1.1.3. Ý nghĩa của các biện pháp thu thập chứng cứ. ....................................... 4
1.2. Cơ sở quy định các biện pháp thu thập chứng cứ. ..................................... 5
1.2.1. Cơ sở về mô hình tố tụng ......................................................................... 5
1.2.2. Cơ sở về mặt lịch sử các quy định về các biện pháp thu thập chứng cứ
trong PL TTDS Việt Nam. ................................................................................. 8
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1................................................................................ 15
CHƢƠNG 2:NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
DÂN SỰ HIỆN HÀNH VỀ CÁC BIỆN PHÁP THU THẬP CHỨNG CỨ .. 16
2.1. Điều kiện để Tòa án tiến hành các biện pháp thu thập chứng cứ. ........... 16
2.2. Các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án .......................................... 22
2.2.1. Lấy lời khai của đƣơng sự. .................................................................... 22
2.2.2. Lấy lời khai của ngƣời làm chứng. ....................................................... 25
2.2.3. Đối chất. ................................................................................................ 27
2.2.4. Xem xét thẩm định tại chỗ. ................................................................... 28
2.2.5. Trƣng cầu giám đinh. ............................................................................ 30
2.2.6. Định giá tài sản, thẩm định giá tài sản. ................................................. 33
2.2.7. Ủy thác thu thập chứng cứ .................................................................... 39
2.2.7.1. Ủy thác tƣ pháp trong nƣớc................................................................ 39
2.2.7.2. Ủy thác tƣ pháp quốc tế. ................................................................... 40
2.2.8. Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ. ....................... 43
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2................................................................................ 46
CHƢƠNG 3: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CÁC BIỆN PHÁP THU THẬP
CHỨNG CỨ CỦA TÒA ÁN VÀ CÁC KIẾN NGHỊ .................................... 47
3.1. Thực trạng thực hiện các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án. ....... 47
3.1.1. Những kết quả đạt đƣợc. ....................................................................... 47
3.1.2. Những tồn tại......................................................................................... 48
3.2. Nguyên nhân. ........................................................................................... 50
3.2.1. Nguyên nhân khách quan. ..................................................................... 50
3.2.2. Nguyên nhân chủ quan. ......................................................................... 55
3.3. Kiến nghị .................................................................................................. 59
3.3.1. Kiến nghị về việc hoàn thiện pháp luật. ................................................ 59
3.3.2. Kiến nghị những biện pháp nâng cao hiệu quả áp dụng trên thực tế.... 64
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3................................................................................ 65
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 67
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài.
Thu thập chứng cứ là hoạt động đặc biệt quan trọng của TTDS, việc thu thập
chứng cứ đầy đủ sẽ là cơ sở để có kết luận khách quan và toàn diện về các tình tiết,
sự kiện khách quan của vụ việc dân sự, từ đó Tòa án có thể ra những bản án, quyết
định đúng đắn, phù hợp với hiện thực khách quan của vụ việc dân sự đã xảy ra trên
thực tế. Qua đó quyền, lợi ích hợp pháp của các đƣơng sự đƣợc bảo đảm. Do vậy,
PLTTDS đã có những quy định về chứng cứ và chứng minh nói chung và những
quy định về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án nói riêng khá đầy đủ và ngày
càng hoàn thiện.
PLTTGQVADS 1989 ra đời điều chỉnh các quan hệ trong việc giải quyết các vụ
án dân sự, chấm dứt thời kỳ điều chỉnh quan hệ TTDS bằng các sắc lệnh và các nghị
định, là mốc đánh dấu bƣớc phát triển mới của công tác lập pháp cũng nhƣ
PLTTDS. Kế thừa các quy định của PLTTDS trong giai đoạn trƣớc đó khi quy định
về hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án, PLTTGQVADS năm 1989 khẳng định
vai trò của Tòa án trong hoạt động thu thập chứng cứ trong toàn bộ quá trình giải
quyết vụ án dân sự thì Tòa án có nhiệm vụ thu thập chứng cứ, “xem xét mọi tình tiết
của vụ án và khi cần thiết có thể thu thập thêm chứng cứ để bảo đảm cho việc giải
quyết vụ án được chính xác”, quy định này của PLTTGQVADS đã đáp ứng đƣợc
yêu cầu của hoạt động thực tiễn của Tòa án trong giải quyết các vụ án dân sự trong
điều kiện trình độ dân trí còn chƣa cao, các hoạt động trợ giúp pháp lý còn chƣa
phát triển. Quy định của PLTTGQVADS là phù hợp với điều kiện thực tế và đã hỗ
trợ đƣợc các đƣơng sự trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Tuy
nhiên, Tòa án phải tiến hành việc xác minh, thu thập chứng cứ, xây dựng và củng cố
hồ sơ vụ án. Nhƣng việc xác minh, thu thập chứng cứ là “làm thay” đƣơng sự trong
việc chứng minh để bảo vệ quyền lợi của chính đƣơng sự lại là nguyên nhân chính
dẫn đến sự quá tải các công việc của Tòa án trong khi cán bộ ngành Tòa án vừa
thiếu hụt về số lƣợng lại đôi khi vừa “yếu” về chuyên môn, nghiệp vụ là nguyên
nhân chính gây ra sự tồn đọng trong việc giải quyết vụ việc dân sự. Ngoài ra, việc
Tòa án “làm thay” đƣơng sự tạo ra tâm lý ỉ lại của ngƣời dân khi tham gia vào quan
hệ TTDS, cứ việc nộp đơn đến Tòa án và Tòa án sẽ làm tất cả các công việc còn lại.
Đây cũng là “mảnh đất màu mỡ” dễ nảy sinh các tiêu cực trong hoạt động giải
quyết các vụ việc dân sự của Tòa án.
Nhằm khắc phục những hạn chế của các quy định trong PLTTGQVADS và để
đáp ứng yêu cầu của hoạt động thực tiễn khi các vụ việc dân sự Tòa án phải giải
quyết ngày càng gia tăng về số lƣợng và phức tạp về nội dung, BLTTDS 2004 đã
đƣợc Quốc Hội khóa XI thông qua tại kỳ họp thứ V ngày 15/6/2004. BLTTDS 2004
đã có những thay đổi quan trọng khi quy định hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa
án, nghĩa vụ chứng minh thuộc về các đƣơng sự. Tòa án chỉ tiến hành thu thập
chứng cứ trong trƣờng hợp đƣơng sự không tự mình tiến hành thu thập chứng cứ
đƣợc và có đơn yêu cầu Tòa án. Điều này đã giảm tải cho Tòa án các công việc phải
tiến hành khi giải quyết các vụ việc dân sự, trả lại đúng bản chất dân sự và bảo đảm
quyền tự định đoạt cho đƣơng sự khi quy định nghĩa vụ chứng minh thuộc về đƣơng
sự. Tuy nhiên, trong quá trình áp dụng thực tiễn các quy định của BLTTDS 2004 về
hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án đã bộc lộ những thiếu sót cần đƣợc sửa đổi,
bổ sung nhằm tạo ra sự chủ động hơn của Thẩm phán phụ trách giải quyết vụ việc
dân sự (điều kiện để Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ) và các biện pháp Tòa án
tiến hành thu thập chứng cứ hiệu quả hơn trên thực tế, sửa đổi, bổ sung thêm các
biện pháp thu thập chứng cứ
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS 2011(BLTTDS 2011) đã có
những sửa đổi, bổ sung quan trọng khi quy định về các biện pháp thu thập chứng cứ
của Tòa án, về điều kiện Tòa án tiến hành thu thập chứng cứ và kịp thời bổ sung
thêm những biện pháp thu thập chứng cứ mới… điều này đã đem lại những hiệu
quả nhất định của hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án, hỗ trợ các đƣơng sự
trong TTDS. Tuy nhiên, với những đòi hỏi trong hoạt động thực tiễn thì những sửa
đổi, bổ sung của về biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án trong BLTTDS 2011
vẫn còn tồn tại những điểm hạn chế trong các quy định về hoạt động thu thập chứng
cứ của Tòa án, khiến cho các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án không đạt
đƣợc hiệu quả nhƣ mong muốn.
Ngoài ra, trong thực tiễn vẫn còn diễn ra khá phổ biến những việc vi phạm các
quy định của BLTTDS khi tiến hành các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án,
các Tòa án lúng túng và gặp nhiều khó khăn trong việc tiến hành thu thập chứng cứ
để giải quyết vụ việc dân sự vì quy định của BLTTDS chƣa đầy đủ và chặt chẽ. Đây
là một nguyên nhân phổ biến dẫn đến việc Tòa án cấp trên hủy bản án của các Tòa
án cấp dƣới, nên không ít vụ án phải xét xử đi xét xử lại nhiều lần, kéo dài nhiều
năm chƣa chấm dứt, gây bức xúc cho các đƣơng sự.
Từ những thực trạng đó, việc nghiên cứu đề tài: “Các biện pháp thu thập chứng
cứ của Tòa án” có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Qua việc tìm hiểu các quy
định của PLTTDS về các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án và đồng thời với
đó là thực tiễn áp dụng và những vƣớng mắc của Tòa án trong việc áp dụng các
biện pháp này, những khó khăn của đƣơng sự khi yêu cầu Tòa án tiến hành thu thập
chứng cứ trong trƣờng hợp đƣơng sự không thể tự mình thu thập đƣợc. Từ đó đƣa
ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật TTDS sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của
hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án, đồng thời hỗ trợ đƣơng sự trong quá trình
thu thập chứng cứ nhằm bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án là một trong những nội dung quan
trọng của PLTTDS. Hoạt động thu thập chứng cứ có vai trò quan trọng trong việc
đáp ứng những yêu cầu của chiến lƣợc cải cách tƣ pháp về việc xây dựng nhà nƣớc
pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, đây là một đề tài luôn giành đƣợc sự quan tâm
nghiên cứu của nhiều tác giả về vấn đề này ở nhiều khía cạnh, góc độ tiếp cận khác
nhau, có thể kể đến nhƣ:
Luận án tiến sĩ luật học của tác giả Nguyễn Minh Hằng với đề tài: “Chế định
chứng minh trong TTDS Việt Nam” năm 2007; Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả
Nguyễn Minh Hằng với đề tài: “Hoạt động cung cấp, thu thập chứng cứ trong
TTDS Việt Nam” năm 2002; Luận văn thạc sĩ luật học của tác giả Vũ Văn Đồng với
đề tài: “Chứng cứ và vấn đề chứng minh trong BLTTDS” năm 2006; Luận văn thạc
sĩ luật học của tác giả Tăng Hoàng My với đề tài: “Nguyên tắc cung cấp chứng cứ
và chứng minh trong tố tụng dân sự” năm 2012.
Đặc biêt, các học giả trong và ngoài nƣớc cũng đã có những nghiên cứu nhƣ :
“Tố tụng tranh tụng và tố tụng xét hỏi” của bà Elisabeth Pelsez Thẩm phán Tòa
phúc thẩm Rouen và ông Chritian Rayseguier, Viện Trƣởng Viện công tố tại Tòa
phúc thẩm Rouen tại hội thảo ngày 18/01/2002 do Viện khoa học xét xử và Nhà
pháp luật Việt – Pháp phối hợp tổ chức; “Việc thu thập chứng cứ theo quy định của
Bộ Luật tố tụng dân sự” của Nguyễn Thị Bích Nga, Chánh án Tòa án Huyện Gia
Lâm (Hội thảo khoa học cấp trƣờng về việc thi hành bộ luật tố tụng dân sự, ngày
30/12/2005, Trƣờng Đại học Luật Hà Nội
Ngoài ra, các công trình nghiên cứu đăng trên các tạp chí chuyên ngành luật của
nhiều tác giả phải kể đến nhƣ: “Thu thập chứng cứ và chứng minh theo quy định
của luật sửa đổi, bổ sung một số điều của bộ luật tố tụng dân sự” – Tƣởng Duy
Lƣợng (tạp chí kiểm sát số 12, tháng 6/2011); “Thu thập chứng cứ và trách nhiệm
chứng minh trong tố tụng dân sự- một số vấn đề lý luận và thực tiễn” – Tƣởng Duy
Lƣợng( Tạp chí Kiểm Sát số 24, tháng 1/2010) …
3. Đối tƣợng và mục đích nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu chủ yếu của đề tài là một số vấn đề lý luận cơ bản về các
biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án đƣợc nghiên cứu theo cả tiến trình phát
triển của các quy định của PLTTDS nƣớc ta nói chung và các quy định về các biện
pháp thu thập chứng cứ nói riêng; nghiên cứu về các quy định của PLTTDS về các
biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án, đồng thời liên hệ giữa lý luận với các quy
định của pháp luật thực định và thực tiễn áp dụng việc nghiên cứu sẽ phân tích và
đánh giá những quy định của pháp luật hiện hành về thực tiễn áp dụng các biện
pháp thu thập chứng cứ của Tòa án trên thực tế. Ngoài ra, việc nghiên cứu cũng có
sự đối chiếu, so sánh với pháp luật một số nƣớc khi quy định về các biện pháp thu
thập chứng cứ.
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài, xuất phát từ việc nghiên cứu quy định của
PLTTDS về các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án trên cơ sở đó chỉ ra những
điểm hạn chế và đề xuất kiến nghị hoàn thiện các quy định của PLTTDS quy định
về các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án. Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài còn
phân tích đánh giá đƣợc thực tiễn trong hoạt động áp dụng các quy định BLTTDS
về các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án, qua đó đóng góp những kiến nghị
bảo đảm cho Tòa án thực hiện các biện pháp thu thập chứng cứ có hiệu quả trong
hoạt động thực tiễn.
4. Phạm vi nghiên cứu.
Với phạm vi của một đề tài luận văn thạc sĩ luật học, luận văn không nghiên cứu
toàn bộ các vấn đề về chứng minh và chứng cứ trong pháp luật tố tụng dân sự, mà
chỉ nghiên cứu về các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án trong pháp luật tố
tụng và trên cơ sở áp dụng quy định này trong thực tiễn giải quyết các vụ việc dân
sự.
Luận văn cũng có đề cập đến một số quy định liên quan về chứng minh và thu
thập chứng cứ trong quy định của pháp luật tố tụng của Cộng hòa liên bang Đức,
của Hoa Kỳ; hay tố tụng dân sự của Anh, Trung Quốc, Cộng hòa liên bang Nga.
Nhƣng chỉ có tính chất đối chiếu, so sánh và mang tính tham khảo mà không đi sâu
nghiên cứu về lĩnh vực này.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Luận văn đƣợc nghiên cứu dựa trên nền tảng cơ sở lý luận của chủ nghĩa MácLê Nin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng về xây dựng nhà nƣớc
pháp quyền Xã hội chủ nghĩa.
Ngoài ra, luận văn còn đƣợc nghiên cứu trên cơ sở sử dụng một số phƣơng pháp
nghiên cứu nhƣ: phân tích, tổng hợp, logic, phƣơng pháp lịch sử, quy nạp, so
sánh… để làm sáng tỏ vấn đề trong phạm vi nghiên cứu.
6. Cơ cấu của Luận văn.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bản về các biện pháp thu thập chứng cứ của
Tòa án.
Chương 2: Nội dung các quy định của pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam hiện
hành về các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án.
Chương 3: Thực trạng thực hiện các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án và
các kiến nghị.
1
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ BIỆN PHÁP
THU THẬP CHỨNG CỨ CỦA TÒA ÁN.
1.1.
Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa của các biện pháp thu thập chứng cứ
của Tòa án.
Các đƣơng sự trong TTDS có quyền và nghĩa vụ chứng minh, đƣợc quy định tại
Điều 6 BLTTDS tại phần những nguyên tắc cơ bản của BLTTDS “Các đƣơng sự có
quyền và nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho Tòa án và chứng minh cho yêu cầu của
mình là có căn cứ và hợp pháp…”. Ngày từ khi có đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án
giải quyết vụ việc dân sƣ, đƣơng sự (nguyên đơn hoặc ngƣời có đơn yêu cầu) phải
nộp kèm theo tài liệu chứng minh cho yêu cầu có là có căn cứ để Tòa án thụ lý giải
quyết, trong toàn bộ quá trình TTDS, các đƣơng sự (nguyên đơn, bị đơn, ngƣời có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; ngƣời yêu cầu, ngƣời liên quan) có nghĩa vụ chứng
minh. Tuy nhiên, khi nguyên đơn gửi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu ra Tòa án làm
phát sinh trách nhiệm thụ lí và giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án, trong TTDS thì
Tòa án không có nghĩa vụ chứng minh, Tòa án chỉ xem xét và đƣa ra phán quyết
của mình trên cơ sở những chứng cứ mà các bên đƣa ra. Để quyết định, bản án về
việc giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án có sức thuyết phục và có căn cứ thực tê và
căn cứ pháp lý.
Tòa án mặc dù không có nghĩa vụ chứng minh trong TTDS vẫn phải làm rõ
những cơ sở của quyết định, bản án của mình, tức là phải chứng minh những tình
tiết, sự kiện làm cơ sở cho các kết luận của Tòa án thông qua các hoạt động thu
thập chứng cứ, củng cố hồ sơ vụ việc dân sự. Vì vậy, sự tích cực chứng minh của
Tòa án nhằm bảo đảm tìm ra chân lý, có thể là giảm được những hậu quả bất lợi
cho đương sự trong trường hợp đương sự không thực hiện được, không thực hiện
tốt nghĩa vụ chứng minh của mình[5, tr 144].
BLTTDS quy định về các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án xuất phát từ
chức năng vai trò của Tòa án trong TTDS trong việc giải quyết các vụ việc dân sự,
ngoài ra trong điều kiện thực tế của nƣớc ta thì việc quy định Tòa án trong những
điều kiện, những trƣờng hợp cụ thể nhất định tiến hành các biện pháp thu thập
chứng cứ có ý nghĩa hỗ trợ các đƣơng sự và ý nghĩa xã hội sâu sắc. Vậy các biện
pháp thu thập chứng cứ của Tòa án là gì ?
1.1.1. Khái niệm biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án.
2
Tìm hiểu khái niệm “biện pháp thu thập chứng cứ” trƣớc hết nghiên cứu dƣới
góc độ ngôn ngữ học thì khái niệm này đƣợc ghép bởi ba từ “biện pháp”; “thu thập”
và “chứng cứ”, việc lý giải dƣới góc độ ngôn ngữ học và dƣới góc độ là một thuật
ngữ khoa học pháp lý sẽ cho chúng ta cái nhìn tổng quát hơn về khái niệm “biện
pháp thu thập chứng cứ”.
Theo giải nghĩa của từ điển Tiếng Việt thì: “Biện pháp” là một danh từ dùng để
chỉ: cách làm, cách thức tiến hành, cách giải quyết một vấn đề cụ thể.[10, tr 161]
“Thu thập” đƣợc hiểu là hoạt động: nhặt nhạnh, thu góp lại”[10, tr 1593]; “chứng
cứ” đƣợc hiểu: là những cái cụ thể nhƣ lời nói, việc làm, vật chứng, tài liệu tỏ rõ
điều gì đó có thật[17, tr 186]
Nhƣ vậy, nếu lắp ghép một cách cơ học dƣới góc độ ngôn ngữ học thuần túy, ta
có thể hiểu biện pháp thu thập chứng cứ là: “ tổng thể các cách thức tiến hành các
hoạt động nhặt nhạnh, thu gom các tình tiết, sự kiện, sự việc có liên quan tới một vụ
việc dân sự do Tòa án áp dụng đối với vụ việc dân sự đang được Tòa án xem xét
giải quyết, nhằm khôi phục, phục dựng lại (tái hiện lại) sự thật khách quan của vụ
việc đó”
Trong khoa học pháp lý đã có nhiều tác giả, đƣa ra những khái niệm khác nhau
về “biện pháp thu thập chứng cứ”, có thể kể đến nhƣ: Theo giáo trình Luật Tố tụng
Dân sự của Trƣờng Đại học Luật hà Nội thì “Thu thập chứng cứ là việc phát hiện
tìm ra các chứng cứ, tập hợp đưa vào hồ sơ vụ việc dân sự để nghiên cứu, đánh giá
và sử dụng giải quyết vụ việc dân sự”[5, tr 164]. Khái niệm này đã đề cập đến đƣợc
bản chất của của biện pháp thu thập chứng cứ và bản chất của việc thu thập cũng
nhƣ mục đích của hoạt động thu thập chứng cứ nhằm đề “nghiên cứu”, “Đánh giá
và sử dụng” trong hoạt động giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án. Tuy nhiên khái
niệm trên chƣa làm nổi bật lên đƣợc vấn đề chủ thể tiến hành thu thập chứng cứ
trong trƣờng hợp này là Tòa án và tiến hành thu thập chứng cứ qua việc áp dụng
một số biện pháp thu thập chứng cứ trong những trƣờng hợp và điều kiện do
PLTTDS quy định, và thông qua việc áp dụng thủ tục, trình tự cũng nhƣ điều kiện
chặt chẽ do pháp luật quy định nhƣ vậy thì các chứng cứ mà Tòa án thu thập đƣợc
mới có giá trị pháp lý và đƣợc sử dụng vào việc giải quyết vụ việc dân sự.
Ngoài ra, tại chuyên đề 4 về “các hoạt động chứng minh trong Tố tụng dân sự”
trích trong “Tổng thuật đề tài chứng minh” của Trƣờng Đại học Luật Hà Nội có đƣa
3
ra khái niệm về biện pháp thu thập chứng cứ nhƣ sau: “Thu thập chứng cứ là hoạt
động tố tụng do Tòa án tiến hành nhằm tìm, phát hiện, thu giữ, ghi nhận, thêm
những bằng chứng cần thiết khác dùng làm căn cứ cho việc giải quyết vụ việc dân
sự”[4, tr 94]. khái niệm này đã đề cập và tiếp cận ở một góc độ khác về biện pháp
thu thập chứng cứ, đã làm nổi bật lên đƣợc ở góc độ pháp lý, Tòa án khi tiến hành
các biện pháp thu thập chứng cứ, không phải là Tòa án thu thập từ đầu mà chỉ là thu
thập thêm những chứng cứ để củng cố hồ sơ cũng nhƣ có cái nhìn toàn diện hơn về
vụ việc dân sự đang phải giải quyết, cũng nhƣ đã thể hiện trong nội hàm khái niệm
tƣơng đối rõ về mục đích của các biện pháp thu thập chứng cứ đó là “nhằm tìm,
phát hiện, thu giữ… những bằng chứng…”. Tuy nhiên, khái niệm trên không thể
hiện đƣợc nội dung là trong trƣờng hợp nào thì Tòa án tiến hành áp dụng một hoặc
một số biện pháp thu thập chứng cứ? hoặc Tòa án có thể linh hoạt áp dụng biện
pháp thu thập chứng cứ nào không và trong điều kiện nào, cũng nhƣ trình tự, thủ tục
áp dụng các biện pháp đó để đảm bảo tính pháp lý của chứng cứ thu thập đƣợc.
Qua tham khảo những khái niệm trên về “biện pháp thu thập chứng cứ” trong
TTDS, ta có thể xây dựng khái niệm về biện pháp thu thập chứng cứ dƣới góc độ
khoa học pháp lý nhƣ sau:
“Biện pháp thu thập chứng cứ trong TTDS là tổng thể các cách thức, phương
pháp do luật TTDS quy định đối với việc Tòa án trong những điều kiện nhất định
được sử dụng những cách thức do BLTTDS quy định, nhằm thu thập thêm những
tình tiết, sự kiện, thông tin dùng làm căn cứ để giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự”
1.1.2. Đặc điểm của các biện pháp thu thập chứng cứ
Thứ nhất: về chủ thể có quyền thực hiện các biện pháp thu thập chứng cứ ở đây
là Tòa án. Hoạt động thu thập chứng cứ nói chung bao gồm rất rộng và đó là quyền,
nghĩa vụ của các chủ thể chứng minh trong TTDS, trong đó đƣơng sự, ngƣời đại
diện của đƣơng sự, ngƣời bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự là chủ thể có
nghĩa vụ phải thu thập chứng cứ để cung cấp cho Tòa án, Viện kiểm sát cũng thu
thập chứng cứ để kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án. Tuy nhiên, việc áp
dụng các biện pháp thu thập chứng cứ theo quy định của BLTTDS thuộc về thẩm
quyền của Tòa án, chỉ có Tòa án trong những điều kiện nhất định thỏa mãn quy
định tại Điều 85 BLTTDS mới có quyền ra các quyết định áp dụng các biện pháp
thu thập chứng cứ này theo những trình tự thủ tục nhất định.
4
Thứ hai: Đặc trƣng về điều kiện áp dụng và thủ tục áp dụng tuân theo các quy
định của pháp luật TTDS. Tòa án có thẩm quyền áp dụng các biện pháp thu thập
chứng cứ này khi giải quyết các vụ việc dân sự, tuy nhiên không phải là việc có thể
tùy tiện áp dụng mà phải thỏa mãn những điều kiện do pháp luật TTDS quy định và
đối với từng biện pháp thu thập chứng cứ phải tuân thủ về trình tự thủ tục và các bƣớc
tiến hành nhất định. Việc quy định chặt chẽ về thủ tục áp dụng biện pháp thu thập
chứng cứ sẽ tạo căn cứ pháp lý và giá trị pháp lý khi chứng cứ đƣợc thu thập theo
đúng quy định của pháp luật. Qua đó việc giải quyết vụ việc dân sự của Tòa án có
đƣợc những cơ sở pháp lý vững chắc, tạo tâm lý chủ động cho đƣơng sự tránh việc ỉ
lại vào Tòa án, giảm tải cho hoạt động của Tòa án.
Thứ ba: đặc điểm về thời hạn, việc áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ của
Tòa án ngoài việc đảm bảo các quy định của BLTTDS về trình tự thủ tục và điều
kiện, thì còn phải đƣợc tiến hành một cách nhanh chóng, kịp thời và có trọng tâm,
bám sát vào những vấn đề cần phải chứng minh trong vụ việc dân sự. Điều này xuất
phát từ bản thân tiến trình TTDS đƣợc diễn ra trong khoảng thời gian pháp luật quy
định. Việc thu thập chứng cứ và rất nhiều thủ tục khác đƣợc diễn ra trong thời gian
chuẩn bị xét xử của Tòa án tuân theo thời hạn tố tụng do pháp luật TTDS quy định.
1.1.3. Ý nghĩa của các biện pháp thu thập chứng cứ.
Đối với việc giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa án: trong thực tiễn việc
giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa án thì tỉ lệ số vụ việc dân sự đƣợc giải quyết
dựa vào chứng cứ và việc tự chứng minh của các đƣơng sự là rất ít, hầu hết các vụ
việc dân sự đƣợc giải quyết đều do Tòa án chủ động, tích cực xác minh, thu thập
chứng cứ, việc pháp luật TTDS quy định cho Tòa án (Thẩm phán phụ trách giải
quyết vụ việc dân sự) có quyền áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ trong giai
đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm khi thỏa mãn những điều kiện nhất định sẽ có các
dụng to lớn trong việc xây dựng hồ sơ vụ việc, củng cố các chứng cứ quan trọng
của vụ việc dân sự phải giải quyết, Tòa án sẽ có thêm cơ sở, căn cứ pháp lý để giải
quyết vụ việc, công tác xét xử của Tòa án thông qua đó đƣợc khách quan, chính xác
và triệt để hơn.
Đƣơng sự khi tham gia vào TTDS xuất phát từ quyền, lợi ích của mình vì
thế chứng cứ mà các bên đƣơng sự cung cấp sẽ thiên lệch về phía mình hơn, xuất
phát từ vị trí của Tòa án là ngƣời phải đứng ra phân xử vụ việc, vì thế cần phải có
5
cái nhìn khách quan và toàn diện về vụ việc cần phải giải quyết, ngoài ra đối với
những vụ việc đặc thù nhƣ chia tài sản là đất đai, nếu Tòa án chỉ căn cứ vào lời khai
của đƣơng sự và các giấy tờ cũng nhƣ sơ đồ mà các đƣơng sự cung cấp để chia thì
bản án, quyết định của Tòa án có thể không phù hợp với thực địa và sẽ không thể
thi hành án đƣợc (diện tích trong giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu có thể lớn hơn
hoặc nhỏ hơn diện tích trên thực tế; trên đất có cây lâu năm và tài sản khác mà sơ
đồ không thể hiện đƣợc…).
Vì vậy, việc Tòa án áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ trong những
trƣờng hợp cần thiết để thu thập chứng cứ, củng cố hồ sơ vụ việc sẽ giúp Tòa án có
đƣợc những chứng cứ sát đáng làm căn cứ pháp lý để giải quyết vụ việc dân sự
đúng đắn, khách quan và toàn diện.
Đối với việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự: thì việc
đƣơng sự có quyền yêu cầu Tòa án hỗ trợ đƣơng sự trong hoạt động thu thập chứng
cứ khi đƣơng sự “tự mình không thể thực hiện được” là cứu cánh đối với đƣơng sự
trong quá trình chứng minh, bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình. Hiện nay
BLTTDS quy định nghĩa vụ chứng minh thuộc về đƣơng sự là một nguyên tắc trong
TTDS, tuy nhiên việc chƣa tạo ra đƣợc cơ chế để các bên đƣơng sự có thể làm tốt
nghĩa vụ chứng minh của mình, đặc biệt là những khó khăn mà đƣơng sự gặp phải
trong quá trình thu thập chứng cứ. Điều này ảnh hƣớng trực tiếp đến việc bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của đƣơng sự, vì vậy sự hỗ trợ của Tòa án đối với đƣơng sự
trong một số trƣờng hợp nhất định Tòa án áp dụng một hoặc một số biện pháp thu
thập chứng cứ sẽ có tác dụng hỗ trợ các đƣơng sự trong quá trình TTDS chứng
minh và bảo vệ cho quyền, lợi ích hợp pháp của mình.
Đối với xã hội: Tòa án là một cơ quan trung tâm trong hệ thống các cơ quan
Tƣ pháp có chức năng, vai trò bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo đảm pháp
luật đƣợc thực thi, góp phần giữ gìn trật tự, an toàn xã hội và tạo ra một môi trƣờng
pháp lý lành mạnh cho các quan hệ pháp luật nội dung phát triển. Việc Tòa án trợ
giúp đƣơng sự trong hoạt động thu thập chứng cứ thể hiện chức năng xã hội của nhà
nƣớc nhằm duy trì sự ổn định xã hội, thiết lập nên những thiết chế để xã hội đƣợc
vận hành một cách có trật tự.
1.2. Cơ sở quy định các biện pháp thu thập chứng cứ.
1.2.1. Cơ sở về mô hình tố tụng
6
Trên thế giới có tồn tại 2 mô hình tố tụng cơ bản để các quốc gia căn cứ vào
đó lựa chọn xây dựng mô hình tố tụng để áp dụng vào giải quyết các vụ việc tại
quốc gia mình. Trong lịch sử phát triển của xã hội, loại hình tố tụng đầu tiên xuất
hiện là tố tụng tranh tụng. Các nhà nghiên cứu lịch sử pháp luật đều thống nhất cho
rằng loại tố tụng này đƣợc áp dụng tại Hy Lạp cổ đại, sau đó đƣợc đƣa vào La Mã
với tên gọi “thủ tục hỏi đáp liên tục”[9] Tố tụng tranh tụng xuất hiện ở Pháp trong
giai đoạn từ khi bị quân Bác Ba xâm lƣợc cho đến trƣớc thời kỳ trung cổ[18]. Trong
khi đó, tố tụng xét hỏi xuất hiện lần đầu trong pháp luật La Mã và biến mất cùng với
sự sụp đổ của đế chế La Mã. Đến tận cuối thời kỳ trung cổ dƣới ảnh hƣởng của các
Tòa án thiên chúa giáo tố tụng xét hỏi mới đƣợc xuất hiện trở lại.
Các nƣớc theo truyền thống pháp luật án lệ nhƣ (Anh, Mỹ) thì áp dụng loại mô
hình tố tụng tranh tụng, theo đó, pháp luật tố tụng dân sự luôn đề cao vai trò của các
bên đƣơng sự trong việc chứng minh sự việc, Thẩm phán chỉ đóng vai trò của một
ngƣời trọng tài, Thẩm phán không có trách nhiệm tìm ra sự thật. Mọi chứng cứ hoàn
toàn do các bên đƣơng sự đƣa ra. Trong tố tụng tranh tụng không có giai đoạn điều tra.
Các chứng cứ này chỉ đƣợc đƣa ra tranh luận tại phiên xét xử, ngay cả các sự việc diễn
ra tại phiên tòa cũng có thể đƣợc các bên dùng làm chứng cứ chống lại nhau. Để đƣa ra
phán quyết, Thẩm phán chỉ dựa trên các chứng cứ đƣa ra tại phiên tòa và không có
quyền biết đến các chứng cứ đó trƣớc khi phiên tòa diễn ra. Trong suốt quá trình tố
tụng, các bên đƣơng sự bình đẳng với nhau và liên tục trao đổi với nhau những chứng
cứ, lý lẽ, căn cứ pháp lý để chứng minh, biện luận cho quyền, lợi ích hợp pháp của
mình trƣớc Tòa án trên cơ sở các quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
Với mô hình tố tụng xét hỏi “Thẩm cứu” có nguyên gốc trong tiếng Pháp
xuất phát từ từ “Inquisitions” đƣợc sử dụng để chỉ việc thẩm tra, thẩm vấn của các
Tòa án thiên chúa giáo kể từ thế kỷ 13. Đặc trƣng của loại hình tố tụng này đó là đề
cao vai trò chủ động của Thẩm phán. Thẩm phán là ngƣời đƣa ra quyết định điều tra
khi xảy ra một vụ án nào đó. Thẩm phán là ngƣời có trách nhiệm tìm ra sự thật trên
cơ sở các sự việc, chứng cứ.
Cũng chính Thẩm phán là ngƣời chỉ đạo toàn bộ quá trình tố tụng, kể cả giai
đoạn điều tra. Ở các nƣớc theo truyền thống tố tụng này nhƣ Cộng hòa Pháp, Cộng
hòa liên bang Nga, theo đó, pháp luật tố tụng dân sự luôn ghi nhận và đều cao vai
trò chủ động của Thẩm phán trong việc chứng minh sự việc. Trƣớc khi mở phiên
tòa, tất cả các tình tiết, chứng cứ, tài liệu đều đƣợc điều tra thu thập đầy đủ và phản
7
ánh trong hồ sơ vụ án. Tại phiên tòa thẩm phán thẩm tra lại tính hợp pháp và tính có
căn cứ của các chứng cứ, tài liệu này và làm rõ thêm các tình tiết của vụ án bằng
việc xét hỏi, hƣớng dẫn cho các bên đƣơng sự tranh luận với nhau về đánh giá
chứng cứ, căn cứ pháp lý và đề xuất hƣớng giải quyết vụ án. Thẩm phán trong tố
tụng xét hỏi không phải là ngƣời trọng tài mà là ngƣời điều khiển phiên tòa, bảo
đảm phiên tòa đƣợc tiến hành theo trình tự và thủ tục do pháp luật quy định.
Hiện nay trên thế giới việc xây dựng mô hình tố tụng tranh tụng hay tố tụng
xét hỏi tại các nƣớc, thì dù mô hình tố tụng nào cũng có những mặt hạn chế của nó
và các mô hình tố tụng này cũng đƣợc cải biến đi nhiều cho phù hợp với thực tế của
các nƣớc và cũng để nhằm khắc phục những hạn chế của từng mô hình tố tụng. Đôi
khi hai loại hình mẫu tố tụng này đƣợc pha trộn vào nhau. Không khó để có thể lấy
dẫn chứng cho điều này: Ví dụ nhƣ trƣờng hợp của Italia đã chuyển từ mô hình tố
tụng xét hỏi sang tố tụng tranh tụng vào năm 1989, nhƣng từ đó đến nay, luật pháp
của Italia cũng nhƣ án lệ của Tòa phá án Italia thƣờng xuyên phải chấn chỉnh lại hệ
thống tố tụng của nƣớc này để xác lập lại thủ tục xét hỏi (vì thực tế trong các vụ án
liên quan đến các tổ chức mafia, khi đƣa ra xét xử theo thủ tục tranh tụng, lời khai
của nhân chứng tại Tòa thƣờng mâu thuẫn với lời khai của họ bằng văn bản bởi vì
họ sợ bị trả thù.)
Nhƣ nƣớc Pháp hiện vẫn áp dụng tố tụng xét hỏi, nhƣng đã đƣa vào đó một
số nội dung của tố tụng tranh tụng. Một đạo luật ra ngày 15/6/2000 mang tên “luật
về suy đoán vô tội và tăng quyền của nạn nhân” đã cho phép các bên có nhiều
quyền hơn trong quá trình tố tụng. Khi đạo luật này đƣợc thông qua và công bố, một
số ý kiến đã đánh giá đây là một đạo luật “ bán tranh tụng”[19].
Pháp luật TTDS của Việt Nam trƣớc đây cũng áp dụng mô hình tố tụng xét
hỏi nhƣ của Pháp và trong quá trình xây dựng BLTTDS 2004 chúng ta đã tiếp thu
và đƣa vào đó những nội dung của tố tụng tranh tụng, hƣớng tới việc mở rộng tranh
tụng và trả lại đúng bản chất dân sự trong quan hệ pháp luật tố tụng, đồng thời đảm
bảo nguyên tắc quyền tự định đoạt của đƣơng sự trong TTDS, việc quy định nghĩa
vụ chứng minh thuộc về đƣơng sự là một nguyên tắc trong BLTTDS, đồng thời quy
định việc Tòa án tiến hành hoạt động thu thập chứng cứ trong những trƣờng hợp
nhất định và theo trình tự thủ tục chặt chẽ.
8
Những sự thay đổi của BLTTDS 2004 đã quá đột ngột, ghi nhận cho đƣơng
sự quyền và nghĩa vụ chứng minh trong TTDS mà đƣơng sự không biết phải làm
cách nào để thực hiện quyền và nghĩa vụ đó, BLTTDS cũng không quy định cho
đƣơng sự công cụ nào hoặc phƣơng tiện, cách thức nhƣ thế nào để đƣơng sự có thể
thực hiện nghĩa vụ chứng minh của mình, trên thực tế đƣơng sự trong TTDS đã
không thực hiện đƣợc nghĩa vụ chứng minh của mình. Trong khi Tòa án trong
TTDS để giải quyết vụ việc dân sự thì bắt buộc phải có đƣợc một lƣợng chứng cứ
cần thiết để căn cứ vào đó bản án, quyết định đƣợc ban hành ra, khi đƣơng sự không
thực hiện tốt nghĩa vụ chứng minh đã ảnh hƣởng trực tiếp đến hoạt động TTDS của
Tòa án, đến hiệu quả giải quyết các vụ việc dân sự phát sinh, đến tính có căn cứ và
hợp pháp của bản án, quyết định Tòa án tuyên, đến chất lƣợng của hoạt động xét xử
của Tòa án…, còn BLTTDS 2004 để đảm bảo nguyên tắc đƣơng sự có quyền và
nghĩa vụ cung cấp chứng cứ và chứng minh (Điều 6 BLTTDS) đã thu hẹp sự tham
gia của Tòa án vào hoạt động thu thập chứng cứ, và Tòa án chỉ có thể tiến hành một
số biện pháp thu thập chứng cứ khi mà đƣơng sự “Không thể tự mình thu thập được
chứng cứ” và “có đơn yêu cầu”. Thực tế này gây rất nhiều khó khăn cho hoạt động
giải quyết các vụ việc dân sự của Tòa án và việc thu thập chứng cứ để chứng minh
bảo vệ cho quyền, lợi ích hợp pháp của các đƣơng sự.
Chính vì vậy việc BLTTDS đã đƣợc sửa đổi, bổ sung 2011 đã có những quy định
về điều kiện mà Tòa án có thể tiến hành các biện pháp thu thập chứng cứ theo
hƣớng mở sẽ đem lại sự tích cực chủ động hơn cho Tòa án trong hoạt động TTDS
hƣớng đến việc giải quyết các vụ việc dân sự chính xác và đạt hiệu quả cao, đối với
các đƣơng sự thì sẽ có đƣợc sự trợ giúp cần thiết của Tòa án trong quá trình thu thập
chứng cứ bảo vệ quyền lợi của mình.
1.2.2. Cơ sở về mặt lịch sử các quy định về các biện pháp thu thập chứng cứ
trong PL TTDS Việt Nam.
1.2.2.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến 1989
Năm 1945, nƣớc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, nhà nƣớc dân chủ nhân dân đầu
tiên ở khu vực Đông Nam Á đƣợc thành lập. Đánh dấu những sự thay đổi sâu sắc và
toàn diện trong đời sống xã hội và pháp lý. Vị thế của nhân dân ta từ ngƣời nô lệ
mất nƣớc trở thành ngƣời làm chủ đất nƣớc, làm chủ vận mệnh dân tộc và tự mỗi
ngƣời làm chủ chính bản thân mình, điều này đƣợc ghi nhận trong bản hiến pháp
9
đầu tiên của nƣớc Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa năm 1946 khi ghi nhận về quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Tuy nhiên, do hoàn cảnh đất nƣớc còn đang trong hoàn cảnh chiến tranh nên
công tác lập pháp còn gặp nhiều khó khăn. Ngày 10/10/1945 nhà nƣớc ta đã ban
hành sắc lệnh số 47/SL cho tạm thời giữ các luật lệ hiện hành của chế độ cũ mà
không trái với bản chất của nhà nƣớc cách mạng. Tuy nhiên, sắc lệnh trên chỉ đề
cập đến việc phép áp dụng các quy phạm pháp luật nội dung của chế độ cũ mà
không đề cập đến việc có cho áp dụng các quy định về tố tụng hay không.
Hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án đƣợc quy định trong pháp luật Việt
Nam giai đoạn từ 1945 đến 1989 thể hiện rõ nét hay đó là trọng tâm của pháp luật tố
tụng dân sự giai đoạn này. Gắn liền với sự hình thành của chế định điều tra trong
TTDS. Theo đó, điều tra vụ án dân sự đƣợc hiểu là tổng hợp những hành vi tố tụng
dân sự mà Tòa án và Viện kiểm sát tiến hành theo quy định của pháp luật nhằm thu
thập nghiên cứu và bƣớc đầu đánh giá chứng cứ để giúp Tòa án có những quyết
định đúng đắn về vụ án trong giai đoạn xét xử.
Ngày 05/12/1957 Bộ Tƣ Pháp ban hành Thông tƣ số 141/HCTP quy định về tổ
chức và phân công trong nội bộ Tòa án mới có quy định: “Đối với những vụ án dân
sự, ông Chánh án có nhiệm vụ điều tra lập hồ sơ vụ án…”. Nhƣ vậy, việc thu thập
chứng cứ trong giai đoạn đầu tiên hình thành chế định điều tra vụ án dân sự đƣợc
xác định, nghĩa vụ thu thập chứng cứ lập hồ sơ vụ án hoàn toàn thuộc về Tòa án mà
đại diện là Chánh án, ngƣời đứng đầu Tòa án.
Tại công văn 96/NCLP ngày 08/02/1997 của TANDTC hƣớng dẫn về trình
tự xét xử sơ thẩm có nêu: “Khi đƣơng sự khởi tố, TAND phải tích cực chủ động
việc điều tra, thu thập chứng cứ, chứ không nên cho rằng đƣơng sự đề xuất chứng
cứ đến chừng mực nào thì TAND chỉ căn cứ vào những chứng cứ đó để xét xử”
Theo hƣớng dẫn của công văn 96/NCLP càng củng cố thêm trách nhiệm thu
thập chứng cứ làm căn cứ để giải quyết vụ án thuộc trách nhiệm của Tòa án. Điều
này đặt trong bối cảnh ngành Tòa án chƣa có sự phát triển đủ về số lƣợng cũng nhƣ
chất lƣợng, nó là nguyên nhân tạo ra sự chậm trễ trong việc giải quyết các vụ việc
dân sự, và các vụ kiện dân sự bị hủy án, sửa án do Tòa án không tiến hành đầy đủ
biện pháp thu thập chứng cứ.
10
Để nhằm giảm bớt sự quá tải của các Tòa án địa phƣơng, TANDTC đã có
những hƣớng dẫn cụ thể về việc xác định chứng cứ tùy vào những vụ việc cụ thể.
Trong báo cáo tổng kết nghành Tòa án 1965 có hƣớng dẫn cụ thể về chứng cứ trong
việc tranh chấp về quan hệ cha con; Thông tƣ số 15/TANDTC ngày 27/9/1974 của
TANDTC nhắc lại đƣờng lối xử lý một vài loại tranh chấp về dân sự và hôn nhân
gia đình; Công văn số 06/NCLP ngày 29/6/1966 của TANDTC về thủ tục xét xử bắt
ngƣời đàn ông thông gian chịu phí tổn nuôi con ngoại tình; Công văn số 86/DS
ngày 18/2/1970 của Tòa dân sự TANDTC tổng hợp nhận xét thỉnh thị trong năm
1969; Chứng cứ về hôn nhân thực tế đƣợc hƣớng dẫn cụ thể tại thông tƣ số
112/NCLP ngày 19/8/1972 của TANDTC hƣớng dẫn việc xử lý về dân sự những
hôn nhân vi phạm điều kiện kết hôn do luật định….
Việc điều chỉnh hoạt động tố tụng dân sự nói chung đặc biệt là hoạt động
chứng minh của Tòa án bằng các công văn, thông tƣ liên tịch hƣớng dẫn hoạt động
xét xử. Điều này cho thấy sự thiếu hoàn chỉnh của pháp luật, việc cứ vƣớng mắc ở
đâu đó trong hoạt động thực tế thì lại có văn bản hƣớng dẫn điều này gây khó khăn
cho hoạt động xét xử của Tòa án và việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các
đƣơng sự. Tuy nhiên, điều này cũng dễ hiểu khi trong giai đoạn này đất nƣớc ta vẫn
đang tiến hành cuộc kháng chiến để thống nhất đất nƣớc.
Pháp luật tố tụng dân sự giai đoạn này cũng đã có những quy định tƣơng đối
hoàn chỉnh về các nguyên tắc và thủ tục thu thập chứng cứ của Tòa án, các biện
pháp điều tra trong giai đoạn này đã đem đến những hiệu quả nhất định trong thực
tiễn và khi xây dựng BLTTDS sau này về các biện pháp thu thập chứng cứ đã có sự
kế thừa và phát triển các quy định đƣợc bắt nguồn từ các hƣớng dẫn của TANDTC
trong các báo cáo tổng kết nghành Tòa án trong giai đoạn từ năm 1959 đến 1980.
Ngày 25/2/1974 TANDTC ban hành Thông tƣ 06/TATC hƣớng dẫn việc
điều tra trong tố tụng dân sự. Sự ra đời của Thông tƣ 06 đánh dấu bƣớc phát triển
đối với các quy định về hoạt động thu thập chứng cứ dƣới góc độ nghiệp vụ xét xử
của nghành Tòa án. Thông tƣ 06 đã quy định một cách tƣơng đối đầy đủ về nhiệm
vụ điều tra, phƣơng pháp điều tra, nội dung, thời hạn điều tra… của Tòa án. Mục I
Thông tƣ này khẳng định “… Trong tố tụng dân sự, việc điều tra thu thập chứng cứ
11
lập hồ sơ khi có đơn kiện là nhiệm vụ của TAND…”. Tại mục II “ Những vấn đề cần
xác định trong việc điều tra”. Thông tƣ 06/TT quy định:
“ Để đảm bảo việc giải quyết vụ kiện được chính xác, đầy đủ, nhanh chóng
trong khi điều tra TAND cần xác định rõ vấn đề như là:
Xác định những quan hệ pháp luật giữa đương sự, ví dụ như quan hệ hôn
nhân và gia đình, quan hệ về quyền sở hữu, quan hệ thừa kế…
Xác định đầy đủ những ai là đương sự trong vụ kiện để đảm bảo cho họ có
những quyền trong tố tụng dân sự như: đề xuất chứng cứ, yêu cầu…
Xác định rõ những vấn đề cần phải chứng minh để hướng cuộc điều tra vào
những điểm mấu chốt không mất thời giờ về những vấn đề chỉ có tính chất
thứ yếu hoặc không có quan hệ với vụ kiện…
Về phƣơng pháp điều tra tại mục III của Thông tƣ 06 có quy định: “ Muốn cho
việc điều tra được chính xác cần phải kết hợp việc TAND trực tiếp lấy lời khai của
đương sự, nhân chứng, xem xét vật chứng… với việc điều tra trong quần chúng.
Mặt khác, phải kết hợp việc xác minh, thu thập chứng cứ của TAND với việc TAND
giáo dục các đương sự về mặt pháp luật, chính sách để các đương sự hiểu rõ quyền
lợi và nghĩa vụ của họ mà khai báo chính xác.”
Các biện pháp điều tra cũng đƣợc quy định và theo quy định của Thông tƣ 06 thì
có 7 biện pháp điều tra có thể đƣợc áp dụng là: “- Lấy lời khai các đương sự, nhân
chứng; Nghiên cứu tài liệu, đồ vật và tài sản bị tranh chấp; Trưng cầu giám định;
Cử Hội đồng định giá tài sản, đồ vật; Giữ lại đồ vật, tài sản bị tranh chấp khi thấy
cần thiết; Điều tra trong quần chúng; Ủy thác điều tra”
Nhƣ vậy, điểm qua một loạt các văn bản pháp luật điều chỉnh về tố tụng dân sự
trong giai đoạn này ta có thể nhận thấy rõ trách nhiệm thu thập chứng cứ, điều tra
lập hồ sơ vụ việc dân sự khi có đơn kiện là nhiệm vụ của TAND. Thông tƣ
06/TATC ngày 25/2/1974 TATD là một văn bản hƣớng dẫn có giá trị thực tiễn rất
cao của TANDTC cho các TAND hiện nay trong pháp luật TTDS hiện hành có
nhiều quy định mang tính kế thừa về các biện pháp thu thập chứng cứ của TA còn
phản ánh rõ nét dấu ấn sự kế thừa này.
Việc điều chỉnh pháp luật tố tụng bằng các thông tƣ, nghị định, thông tƣ liên tịch
trong giai đoạn này cho thấy những hạn chế của nó, thiếu tính khái quát cao và giá
trị pháp lý. Trong khi thực tế tố tụng dân sự còn nhiều vụ việc nhiều trƣờng hợp mà
12
các Thông tƣ này không thể bao quát hết đƣợc. Đối với những quan hệ pháp luật
tranh chấp mà không đƣợc hƣớng dẫn, khi xét xử các Thẩm phán sẽ gặp khó khăn
thiếu cơ sở để viện dận và đánh giá vụ việc.
Tuy nhiên, những quy định về tố tụng dân sự trong giai đoạn này đặc biệt về các
biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án, việc xác định chứng cứ trong từng quan hệ
pháp luật cụ thể, cũng nhƣ cách phân loại chứng cứ, đánh giá chứng cứ đối với một
số loại vụ việc dân sự đã tạo nên nền tảng cơ bản trong việc hình thành những quy
định sau này trong PLTTGQVADS và BLTTDS.
1.2.2.2. Giai đoạn từ năm 1990 đến BLTTDS 2004.
Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự đƣợc ban hành ngày 29/11/1989 là
một dấu mốc đánh dấu sự phát triển của pháp luật tố tụng dân sự nƣớc ta. Đề cập
đến góc độ nghĩa vụ chứng minh, thu thập chứng cứ trong tố tụng dân sự thì đã có
những chuyển biến nhất định.
Vai trò của Tòa án vẫn đƣợc khẳng định, tại Điều 3 PLTTGQVADS đã xác định
trách nhiệm của Tòa án: “Tòa án phải xem xét mọi tình tiết của vụ án và khi cần
thiết có thể thu thập thêm chứng cứ để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án được
chính xác.”
PLTTGQVADS khẳng định điều tra vụ án dân sự là nhiệm vụ bắt buộc của Tòa
án, quy định này đƣợc kế thừa trong các quy định của pháp luật tố tụng dân sự trong
giai đoạn trƣớc đó, đặc biệt là Thông tƣ 06/TATC ngày 25/2/1974 của TANDTC.
Việc quy định trách nhiệm điều tra vụ án dân sự và thu thập chứng cứ của vụ án
thuộc trách nhiệm của Tòa án điều này đã không đảm bảo đúng bản chất của các
quan hệ pháp luật dân sự trong quan hệ pháp luật nội dung, bởi vì các chủ thể của
quan hệ pháp luật dân sự xuất phát từ vị trí bình đẳng độc lập với nhau, khi tham gia
vào quan hệ pháp luật dân sự họ hƣớng đến những lợi ích trên cơ sở bình đẳng tự do
thỏa thuận, tự nguyện. Với các quy định tại Điều 2 PLTTGQVADS có quy định
quyền tự định đoạt của đương sự: “Người khởi kiện vụ án dân sự có quyền rút đơn
khởi kiện, thay đổi nội dung khởi kiện. Các đương sự có quyền tự hoà giải với
nhau.” và quy định tại Điều 3 của PLTTGQVADS thì các đương sự (nguyên đơn,
bị đơn, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan) có yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của mình hoặc có yêu cầu cơ quan tiến hành TTDS ra một quyết định
13
trong quá trình tiến hành tố tụng dân sự phải cung cấp chứng cứ chứng minh cho
yêu cầu đó.
Ngoài ra, nghĩa vụ cung cấp chứng cứ còn đƣợc quy định cho các chủ thể khác:
Người đại điện theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền của đương sự (
các Điều 8; 38;40;50 PLTTGQVADS).
Nhƣ vậy, PLTTGQVADS là một bƣớc tiến dài đối với các quy định về tố tụng
dân sự, điều này đƣợc thể hiện ở chỗ đã tập hợp và hệ thống hóa các quy định của
pháp luật về tố tụng dân sự trƣớc kia chỉ điều chỉnh thông qua các Thông tƣ liên
tịch, các Thông tƣ hƣớng dẫn của TANDTC thì bây giờ đƣợc hệ thống hóa và tổng
hợp lại điều chỉnh chung tại một Pháp lệnh thống nhất. Ngoài ra, khi quy định về
hoạt động thu thập chứng cứ của Tòa án, chế định điều tra đã trở thành trung tâm
của PLTTGQVADS trong giai đoạn này.
Tuy nhiên, để điều chỉnh các quan hệ phát sinh trong quá trình tố tụng dân sự
bằng một pháp lệnh chỉ có vài chục điều luật thì không bao giờ là đủ cả, trong quá
trình thực tiễn các Thẩm phán nói riêng và hệ thống Tòa án nói chung đã gặp
không ít những khó khăn: mặc dù đã quy định trách nhiệm cung cấp chứng cứ của
đƣơng sự khi khởi kiện yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi cho mình, tuy nhiên trong
suốt một thời gian dài trách nhiệm này thuộc về Tòa án, đặc biệt trong hoàn cảnh
điều kiện nƣớc ta các hoạt động bổ trợ tƣ pháp, trợ giúp pháp lý còn chƣa đƣợc
triển khai một cách có hệ thống và chƣa phát triển để hỗ trợ ngƣời dân nên việc
chứng cứ do đƣơng sự xuất trình để chứng minh cho yêu cầu của mình là không
nhiều, nếu có thì cũng không đủ điều kiện về hìh thức pháp lý cũng nhƣ về mặt
nội dung. Trách nhiệm điều tra và chứng minh vẫn nằm trên vai của Tòa án. Hệ
thống Tòa án lúc này còn thiếu cả về số lƣợng nhân lực, cơ sở vật chất và cả chất
lƣợng nguồn nhân lực của Tòa, khi trách nhiệm điều tra, chứng minh thuộc về họ,
đã có những Tòa án khi giải quyết vụ việc dân sự đã tiến hành việc xác minh thu
thập chứng cứ không đầu đủ, xây dựng hồ sơ vụ án sơ sài, không vô tƣ khách quan
trong việc xem xét, đánh giá chứng cứ; Thẩm phán khi nghiên cứu, đánh giá lời
khai mang tính chủ quan, tin ngay vào lời khai của đƣơng sự hoặc của một bên
đƣơng sự để kết luận mà không kiểm tra, xác minh bằng những nguồn chứng cứ
khác; Thậm trí có trƣờng hợp xác định sai cả quan hệ pháp luật nội dung dẫn đến
việc điều tra và thu thập chứng cứ sai lệch, không bảo vệ đƣợc quyền và lợi ích
của đƣơng sự…
14
1.2.2.3. Giai đoạn từ 2004 đến nay
Năm 2004, BLTTDS đầu tiên của Việt Nam đã đƣợc Quốc Hội khóa XI thông
qua tại kỳ họp thứ V ngày 15/6/2004 và có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2005. Qua gần
10 năm thi hành trên thực tế, BLTTDS 2004 tạo ra cơ sở pháp lý điều chỉnh các
quan hệ trong tố tụng dân sự, qua đó các đƣơng sự có thể bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của mình, Tòa án có thể giải quyết vụ việc dân sự một cách thuận tiện, nhanh
chóng và đúng pháp luật giảm số lƣợng án bị tồn đọng, việc điều chỉnh quan hệ tố
tụng dân sự bằng BLTTDS 2004 thể hiện sự phát triển trong công tác lập pháp và
hội nhập quốc tế của nƣớc ta. Tuy nhiên, cũng bộc lộ một số điểm chƣa hoàn thiện
và cần đƣợc sửa đổi bổ sung trong đó có các quy định về chứng cứ, chứng minh và
cụ thể hơn khi quy định về các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án: sự thiếu
hợp tác của đƣơng sự trong việc giao nộp chứng cứ khi Tòa án yêu cầu hoặc “ém”
chứng cứ không giao nộp và chỉ chờ đến khi phiên tòa diễn ra mới giao nộp bổ sung
chứng cứ hoặc đến giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm mới giao nộp chứng cứ điều
là nguyên nhân chính tạo ra sự thiếu ổn định của các bản án, quyết định của Tòa án.
Sự thiếu hợp tác của các cơ quan chuyên môn trong việc định giá tài sản khi Tòa án
yêu cầu các cơ quan này trong Hội đồng định giá tài sản, sự thiếu hợp tác với Tòa
án của các cá nhân, cơ quan, tổ chức khi nắm giữ quản lý những tài liệu, chứng cứ
có liên quan đến vụ việc dân sự mà Tòa án đang giải quyết, khi đƣợc Tòa án yêu
cầu thì các cá nhân, cơ quan, tổ chức này không hợp tác… Tất cả những điều đó đều
thiếu một chế tài xử lý, và Tòa án cứ phải chạy theo các chủ thể này, thậm trí “loay
hoay” để thu thập chứng cứ làm căn cứ giải quyết vụ việc dân sự.
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLTTDS năm 2011 đã kịp thời bổ sung
thêm và sửa đổi một số quy định về chứng cứ, chứng minh và đặc biệt là các biện
pháp thu thập chứng cứ của Tòa án, điều này hứa hẹn sẽ tạo ra nhiều hơn những
công cụ để có thể giúp ngành Tòa án nói chung và các Thẩm phán nói riêng trong
việc giải quyết vụ việc dân sự đảm bảo đúng thời hạn tố tụng và chính xác về mặt
nội dung vụ việc. Qua hoạt động của Tòa án trong việc thu thập chứng cứ sẽ trợ
giúp đƣơng sự đƣợc nhiều hơn trong quá trình tố tụng bảo vệ quyền, lợi ích hợp
pháp của mình.
15
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Qua việc nghiên cứu một số vấn đề lý luận cơ bản về biện pháp thu thập chứng
cứ có thể rút ra một số kết luận sau:
1. Biện pháp thu thập chứng cứ trong TTDS là tổng thể các cách thức, phƣơng
pháp do luật TTDS quy định đối với việc Tòa án trong những điều kiện
nhất định sử dụng những cách thức do BLTTDS quy định, nhằm thu thập
thêm những tình tiết, sự kiện, thông tin dùng làm căn cứ để giải quyết
đúng đắn vụ việc dân sự
2. Các biện pháp thu thập chứng cứ trong TTDS có một số đặc điểm đặc trƣng
nhƣ sau: đặc trƣng về chủ thể có thẩm quyền áp dụng các biện pháp thu
thập chứng cứ trong quy định của BLTTDS đó là Tòa án (Thẩm phán
đƣợc phân công giải quyết vụ việc dân sự cụ thể); Về điều kiện để Tòa án
áp dụng các biện pháp thu thập chứng cứ; Về tính đảm bảo thời hạn tố
tụng trong TTDS việc áp dụng biện pháp thu thập chứng cứ phải nhanh
chóng, đúng pháp luật.
3. Việc quy định các biện pháp thu thập chứng cứ trong BLTTDS có ý nghĩa to
lớn đối với Tòa án trong việc có đƣợc những chứng cứ quan trọng trong
TTDS giải quyết vụ việc dân sự cụ thể đảm bảo cơ sở và căn cứ pháp lý
của bản án, quyết định của Tòa án; đối với đƣơng sự thì có đƣợc sự trợ
giúp quan trọng của Tòa án trong việc phát hiện và thu thập đƣợc những
chứng cứ phục vụ việc chứng minh bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của
mình. Đồng thời thể hiện chức năng xã hội của Tòa án.
4. Cơ sở của việc quy định các biện pháp thu thập chứng cứ của Tòa án xuất
phát từ đặc điểm mô hình tố tụng, đồng thời cũng xuất phát từ điều kiện
thực tế của nƣớc ta khi trình độ dân trí còn chƣa cao, đƣơng sự không thể
thực hiện tốt quyền nghĩa vụ chứng minh của mình thì việc quy định Tòa
án trong những trƣờng hợp nhất định tiến hành thu thập chứng cứ là một
quy định phù hợp với thực tế TTDS.
5. PLTTDS đã quy định về biện pháp thu thập chứng cứ trong suốt quá trình
phát triển từ 1945 đến BLTTDS 2004 và BLTTDS đƣợc sửa đổi bổ sung
2011 thì các quy định về biện pháp thu thập chứng cứ ngày càng đƣợc
hoàn thiện.