Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Căn cứ xác lập quyền sở hữu của cá nhân trong bộ luật dân sự năm 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (686.62 KB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LÊ VĨNH LONG

CĂN CỨ XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU CÁ NHÂN
TRONG BỘ LUẬT DÂN SỰ 2005

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60.38.01.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHÙNG TRUNG TẬP

Hà Nội – 2013


LỜI CẢM ƠN
Trước hết tôi xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc nhất tới
thầy giáo – PGS. TS Phùng Trung Tập, người đã tận tình hướng
dẫn và chỉ bảo tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn này.
Xin cùng bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy, cô giáo
Trường Đại học Luật Hà Nội, người đã đem lại cho tôi những kiến
thức vô cùng quý giá trong những năm học vừa qua.
Cũng xin gửi lời cám ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, Khoa
sau đại học, Khoa pháp luật Dân sự, Đại học Luật Hà Nội đã tạo
điều kiện cho tôi trong quá trình học tập.


Cuối cùng tôi xin gửi lời cám ơn đến gia đình, bạn bè, những
người đã luôn bên tôi, động viên và khuyến khích tôi trong quá
trình thực hiện đề tài nghiên cứu của mình.
Xin chân thành cảm ơn./.
Hà Nội, tháng 05 năm 2013
Học viên

Lê Vĩnh Long


MỤC LỤC

Chương 1. KHÁI NIỆM CHUNG VỀ QUYỀN SỞ HỮU CỦA CÁ NHÂN
VÀ CĂN CỨ XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU CỦA CÁ NHÂN........................ 4
1.1. Khái niệm quyền sở hữu của cá nhân .................................................... 4
1.2. Khái niệm căn cứ xác lập quyền sở hữu của cá nhân........................... 13
1.2.1. Khái niệm ........................................................................................ 13
1.2.2. Ý nghĩa của căn cứ xác lập quyền sở hữu của cá nhân ..................... 16
Chương 2. CÁC CĂN CỨ XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU CỦA CÁ NHÂN..18
2.1. Do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp ................. 18
2.2. Xác lập quyền sở hữu theo thỏa thuận................................................. 20
2.2.1. Hợp đồng mua bán tài sản ................................................................ 22
2.2.2. Hợp đồng trao đổi tài sản ................................................................. 27
2.2.3. Hợp đồng tặng cho tài sản ................................................................ 28
2.2.4. Hợp đồng vay tài sản ....................................................................... 31
2.3. Xác lập quyền sở hữu do được thừa kế ............................................... 32
2.4. Xác lập quyền sở hữu cá nhân theo thời hiệu ...................................... 39
2.4.1. Xác lập quyền sở hữu cá nhân đối với động sản, bất động sản do
chiếm hữu, được lợi không có căn cứ pháp luật nhưng ngay tình, liên tục,
công khai ................................................................................................... 39

2.4.2. Xác lập quyền sở hữu đối với vật vô chủ, vật không xác định được ai
là chủ sở hữu, vật bị chôn giấu, bị chìm đắm, vật do người khác đánh rơi, bỏ
quên........................................................................................................... 42
2.4.3. Xác lập quyền sở hữu đối với gia súc, gia cầm bị thất lạc ................ 46
2.4.4. Xác lập quyền sở hữu đối với vật nuôi dưới nước ............................ 49
2.5. Xác lập quyền sở hữu cá nhân theo bản án, quyết định của tòa án, theo
quyết định của cơ quan hành chính có thẩm quyền .................................... 51
2.6. Các trường hợp khác do luật định ....................................................... 52
2.6.1. Xác lập quyền sở hữu đối với hoa lợi, lợi tức ................................... 52


2.6.2. Xác lập quyền sở hữu trong trường hợp sáp nhập, trộn lẫn, chế biến 54
Chương 3. MỘT SỐ BẤT CẬP TRONG VIỆC ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ
CĂN CỨ XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU CỦA CÁ NHÂN VÀ HƯỚNG
HOÀN THIỆN NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CĂN CỨ XÁC
LẬP QUYỀN SỞ HỮU CỦA CÁ NHÂN ........................................................60
3.1. Thực trạng áp dụng pháp luật về căn cứ xác lập quyền sở hữu của cá
nhân........................................................................................................... 60
3.2. Hướng hoàn thiện những quy định của pháp luật về căn cứ xác lập
quyền sở hữu của cá nhân .......................................................................... 70
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

PHẦN MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Sở hữu của cá nhân là một hình thức sở hữu quan trọng được quy định
trong bộ luật hiện hành. Nhà nước ta luôn bảo vệ quyền sở hữu của cá nhân

trong tất cả các mức độ sở hữu cá thể, tiểu chủ và tư bản tư nhân. Do vậy, việc
xác định các căn cứ xác lập quyền sở hữu của cá nhân là một việc quan trọng
trong việc xác định quyền sở hữu của cá nhân. Hàng năm, có hàng nghìn vụ
tranh chấp về việc xác định căn cứ xác lập quyền sở hữu của cá nhân, từ các
quan hệ lao động, sản xuất, kinh doanh làm dịch vụ đến các quan hệ giao dịch
về chuyển giao quyền sở hữu tài sản như thông qua hợp đồng, thông qua thừa
kế. Khi xã hội càng phát triển giá trị tài sản cũng phát triển theo, tranh chấp về
các căn cứ xác lập quyền sở hữu cũng trở nên phức tạp hơn và không phải bao
giờ tòa án các cấp cũng xử lý thấu tình đạt lý. Do vậy, học viên lựa chọn vấn đề
"Căn cứ xác lập quyền sở hữu của cá nhân trong Bộ luật dân sự năm 2005" để
làm đề tài luận văn thạc sỹ luật học nhằm nghiên cứu sâu một vấn đề phức tạp
cả về mặt lý luận và thực tiễn để qua đó góp phần hoàn thiện chế định về quyền
sở hữu nói chung và căn cứ xác lập quyền sở hữu cá nhân nói riêng.
II. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tính đến thời điểm hiện nay ở nước ta đã có nhiều công trình nghiên cứu
về quyền sở hữu nói chung và căn cứ xác lập quyền sở hữu nói riêng. Tuy nhiên,
những công trình khoa học này được nghiên cứu dựa trên những quy định trong
Bộ luật dân sự năm 1995 về các căn cứ xác lập quyền sở hữu. Những công trình
tiêu biểu về vấn đề này phải kể đến như luận án tiến sỹ của nghiên cứu sinh
Hoàng Ngọc Thỉnh về “Quyền sở hữu của công dân và phương thức bảo vệ
quyền sở hữu của công dân”. Nội dung công trình nghiên cứu này tập trung
nghiên cứu về khái niệm nội dung quyền sở hữu của công dân và các phương
thức bảo vệ quyền sở hữu của công dân như kiện đòi chấm dứt hành vi xâm
phạm quyền sở hữu, kiện đòi lại tài sản và kiện đòi bồi thường thiệt hại về tài


2

sản. Nội dung luận án tiến sỹ này nghiên cứu về một vấn đề lớn, do vậy các căn
cứ xác lập quyền sở hữu của công dân chỉ là một nội dung nhỏ trong luận án, vì

vậy các căn cứ này chỉ được nghiên cứu ở mức độ cơ bản như một yếu tố cần
phải có trong công trình này. Thêm nữa, nghiên cứu về “Căn cứ xác lập quyền
sở hữu của công dân theo quy định của Bộ luật dân sự năm 1995” là khóa luận
tốt nghiệp đại học Luật của Phạm Mai Hương (khóa 16) tập trung nghiên cứu
những quy định về căn cứ xác lập quyền sở hữu của công dân nhưng ở mức độ
cử nhân.
Ngoài các công trình nói trên, có bài viết của PGS,TS Phùng Trung Tập
về: “Sở hữu tư nhân và các hình thức biểu hiện của nó”, đăng trong tạp chí luật
học số chuyên đề năm 1996. Công trình này chủ yếu nghiên cứu về hình thức sở
hữu, còn các căn cứ xác lập quyền sở hữu của công dân được viện dẫn như một
yếu tố cần phải có để làm cơ sở nghiên cứu vấn đề hình thức sở hữu của công
dân.
Về căn cứ xác lập quyền sở hữu của công dân không được nghiên cứu hệ
thống mà chỉ được nghiên cứu ở từng căn cứ như hợp đồng mua bán, hợp đồng
vay tài sản, hợp đồng tặng cho tài sản, thừa kế di sản ở trình độ thạc sỹ và cử
nhân Luật. Một số công trình về căn cứ xác lập phải kể đến như luận văn thạc sỹ
luật học của Bùi Kim Hiếu về hợp đồng vay tài sản, luận văn thạc sỹ luật học của
Nguyễn Văn Hiến về hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất...Ngoài ra còn có
một số khóa luận tốt nghiệp đại học Luật chỉ nghiên cứu một khía cạnh của căn
cứ xác lập quyền sở hữu thông qua hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu.
Ngoài ra còn có công trình nghiên cứu của PGS, TS Phùng Trung Tập về:
“Luận bàn về các hình thức sở hữu và sở hữu chung hợp nhất của vợ chồng”,
Nxb Chính trị hành chính năm 2011, nhưng chủ yếu phân tích sâu về các hình
thức sở hữu được quy định trong BLDS năm 2005 mà không nghiên cứu về căn
cứ xác lập quyền sở hữu của cá nhân. Khóa luận tốt nghiệp của Lê Thị Thanh về
“Căn cứ xác lập quyền sở hữu - một số vấn đề lý luận và thực tiễn” nghiên cứu
một cách chung nhất về các căn căn cứ xác lập quyền sở hữu nói chung; khóa


3


luận tốt nghiệp của Lê Đình Quyết về “Thời hiệu xác lập quyền sở hữu những
vấn đề lý luận và thực tiễn” chỉ đề cập đến một căn cứ xác lập quyền sở hữu đó
là xác lập quyền sở hữu theo thời hiệu.
Do vậy, học viên lựa chọn đề tài "Các căn cứ xác lập quyền sở hữu của
cá nhân trong Bộ luật dân sự năm 2005" để thực hiện luận văn cao học Luật
không có sự trùng lặp với bất kỳ công trình nào đã công bố.
III. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử, phân tích, so sánh để làm nổi bật tính đặc thù và hiện đại của những
quy định về căn cứ xác lập quyền sở hữu của cá nhân được quy định trong Bộ
luật dân sự.
IV. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Qua nghiên cứu đề tài làm nổi bật những điểm phù hợp và chưa phù hợp
những quy định của pháp luật về căn cứ xác lập quyền sở hữu để qua đó góp
phần vào việc sửa đổi, bổ sung những quy định về căn cứ xác lập quyền sở hữu
của công dân trong Bộ luật dân sự năm 2005.
V. Cơ cấu luận văn
Luận văn được cấu tạo bởi ba chương:
Chương 1: Lý luận chung về quyền sở hữu và căn cứ xác lập quyền sở
hữu của cá nhân
Chương 2: Những trường hợp xác lập quyền sở hữu của cá nhân
Chương 3: Thực trạng áp dụng pháp luật về căn cứ xác lập quyền sở hữu
của cá nhân và hướng hoàn thiện những quy định của pháp luật về căn cứ xác lập
quyền sở hữu của cá nhân


4

Chương 1

KHÁI NIỆM CHUNG VỀ QUYỀN SỞ HỮU CỦA CÁ NHÂN VÀ CĂN CỨ
XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU CỦA CÁ NHÂN
1.1. Khái niệm quyền sở hữu của cá nhân
Tài sản và quyền sở hữu là một trong những cơ sở vật chất quan trọng để
phát triển kinh tế, xã hội, đảm bảo cuộc sống của mỗi cá nhân và của cộng đồng.
Sở hữu phát sinh và tồn tại cùng sự ra đời và phát triển của xã hội loài người.
Ngay từ thời kỳ sơ khai của xã hội loài người, ý thức về xã hội, về cộng đồng
còn hạn chế nhưng người nguyên thủy đã biết chiếm giữ hoa quả tự nhiên, chim
thú săn bắt được, những công cụ lao động giản đơn để phục vụ cho nhu cầu của
mình. Tuy nhiên, quyền sở hữu của cá nhân chỉ xuất hiện khi nhà nước và pháp
luật ra đời, đó là khi chế độ tư hữu xuất hiện và xã hội đã phân chia thành giai
cấp. Để bảo vệ quyền lợi của mình, đặc biệt là lợi ích sở hữu đối với tư liệu sản
xuất, để thiết lập trật tự xã hội, giai cấp thống trị đặt ra pháp luật, tức là thể chế
hóa ý chí của mình thành ý chí của Nhà nước trong các văn bản pháp luật. Pháp
luật về sở hữu ghi nhận và củng cố địa vị, lợi ích của giai cấp thống trị đối với
việc chiếm giữ tư liệu sản xuất và các của cải vật chất trước các giai cấp khác
trong quá trình sản xuất. Trong bất kỳ một Nhà nước nào, pháp luật về sở hữu
nói riêng và hệ thống pháp luật nói chung đều được sử dụng là phương tiện hữu
hiệu để bảo vệ cơ sở kinh tế của giai cấp cầm quyền. Quyền sở hữu của cá nhân
phản ánh bản chất của mỗi chế độ xã hội bao gồm cả hai mặt kinh tế và pháp
luật. Theo học thuyết Mác-Lênin, bản chất của sở hữu không phải là quan hệ của
con người đối với vật mà là quan hệ giữa người với người trong việc chiếm hữu
tài sản. Vậy quyền sở hữu của cá nhân là gì?
Quyền sở hữu của cá nhân được hiểu theo hai giác độ.


5

Thứ nhất: Hiểu theo nghĩa khách quan, quyền sở hữu của cá nhân là
tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định về trình tự chiếm hữu, sử dụng, định

đoạt và phương thức bảo vệ quyền sở hữu của cá nhân về mặt dân sự.
Trước đây, khi chưa có Bộ luật dân sự, quyền sở hữu của cá nhân được
quy định trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác như Luật đất đai, Luật
công ty, Luật doanh nghiệp tư nhân, pháp lệnh hợp đồng dân sự ...Quyền sở hữu
của cá nhân được coi như một nguyên tắc hiến định. Việc điều chỉnh các quan hệ
sở hữu luôn là một nội dung không thể thiếu được đối với Hiến pháp của nhà
nước ta.
Từ Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp đầu tiên của nhà nước Việt Nam dân
chủ công hòa, sở hữu cá nhân đã được thừa nhận và bảo vệ. Điều 12 Hiến pháp
năm 1946 quy định: “Quyền tư hữu tài sản của công dân Việt Nam được bảo
đảm”. Ngày 19/12/1979, Chính phủ ban hành Sắc lệnh 197 cho công bố và thi
hành trên quy mô rộng Luật cải cách ruộng đất. Theo đó người được chia ruộng
đất có quyền sở hữu ruộng đất, có quyền bán, cầm cố ruộng đất được chia.
Ruộng đất thuộc sở hữu của cá nhân. Ngoài ra, Nhà nước còn ban hành một số
sắc lệnh bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp của công dân như Sắc lệnh 97/SL ngày
22/5/1950 sửa đổi một số quy lệ và chế định trong Dân luật; Sắc lệnh 85/SL
ngày 20/2/1952 ban hành thể lệ trước bạ về mua bán, cho và đổi chác nhà cửa,
ruộng đất ...Theo quy định của pháp luật thời kỳ này, chủ sở hữu chỉ được hưởng
dụng và sử dụng các vật thuộc quyền sở hữu của mình một cách hợp pháp và
không làm thiệt hại đến quyền lợi của nhân dân.
Đến năm 1959, cách mạng Việt Nam chuyển sang một hình thế mới.
Miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, nhưng miền Nam còn bị đế quốc và phong
kiến thống trị, nhà nước tạm thời còn bị chia làm hai miền. Trong giai đoạn mới
của cách mạng, Quốc hội ta đã sửa đổi bản Hiến pháp năm 1946 cho phù hợp với
tình hình, nhiệm vụ mới, và bản Hiến pháp mới, Hiến pháp năm 1959 ra đời.
Quan điểm của Nhà nước ta trong thời kỳ này về chế độ tư hữu được thể hiện
một cách khá rõ trong Hiến pháp. Nhà nước bảo hộ quyền quyền sở hữu về


6


ruộng đất và các tư liệu sản xuất khác của nông dân (Điều 14); tư liệu sản xuất
của những người làm nghề thủ công và những người lao động riêng lẻ (Điều 15);
quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải khác của nhà tư sản dân tộc (Điều
16). Bên cạnh việc bảo hộ đó, Hiến pháp năm 1959 cũng nghiêm cấm việc “lợi
dụng tài sản tư hữu để làm rối loạn sinh hoạt kinh tế của xã hội, phá hoại kế
hoạch kinh tế Nhà nước” (Điều 17). Đồng thời, Hiến pháp khẳng định sự cần
thiết phải cải tạo các thành phần kinh tế từng bước chuyển chúng thành thành
phần kinh tế của nhà nước hoặc tập thể.
Từ các quy định mang tính nguyên tắc trong Hiến pháp, trong hệ thống
pháp luật của nước ta đã có xuất hiện một số chế định, một số quy phạm pháp
luật về quyền sở hữu của cá nhân mặc dù chưa phải là hoàn chỉnh và đầy đủ.
Các văn bản pháp luật có liên quan đến sở hữu cá nhân đáng chú ý trong giai
đoạn này là Thông tư số 48-TTg ngày 3/6/1963 về sở hữu đối với trâu bò; Thông
tư số 228-TTg ngày 22/8/1975 về tiền gửi của chủ hợp doanh ở Ngân hàng nhà
nước; Quyết định số 55-CP ngày 23/2/1980 về sở hữu ô tô con của tư nhân;
Quyết định số 38-CP ngày 9/2/1979 về quản lý vàng bạc, đá quý. Những văn bản
này về cơ bản được ban hành phù hợp với quan điểm chính thống về sở hữu tư
nhân trong giai đoạn này. Khách thể của các quan hệ sở hữu cá nhân là những tài
sản đáp ứng những nhu cầu tiêu dùng và sinh hoạt hàng ngày của công dân như
nhà cửa, cây cối, tiền và ngoại tệ có nguồn gốc hợp pháp. Phần lớn các văn bản
này đều có quy định ràng buộc chủ sở hữu không được sử dụng tài sản này để
kinh doanh và buôn bán trái phép, làm những việc có ảnh hưởng đến an ninh, trật
tự xã hội.
Hiến pháp năm 1980, Bản Hiến pháp của nước Việt Nam trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước, chế độ sở hữu tư nhân trở
nên mờ nhạt. Nhà nước chủ trương sẽ thực hiện một nền kinh tế quốc dân chủ
yếu có hai thành phần kinh tế là kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Nhà nước
chỉ bảo hộ quyền sở hữu của cá nhân về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà
ở, tư liệu sinh hoạt còn quyền sở hữu tư liệu sản xuất chỉ được bảo hộ trong một



7

số trường hợp lao động riêng lẻ và không được khuyến khích. Đồng thời nhà
nước kiên quyết xóa bỏ những cơ sở kinh tế của địa chủ phong kiến và tư sản
mại bản bằng cách quốc hữu hóa không bồi thường.
Khác với Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959, theo Hiến pháp
năm 1980, đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất quản lý. Lý giải
cho sự khác biệt đó là xuất phát từ mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội của Đảng
và nhà nước ta: Xây dựng chế độ làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền
văn hóa mới, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ chế độ người
bóc lột người, xóa bỏ nghèo nàn và lạc hậu.
Tại thời kỳ này tồn tại hai khái niệm đó là khái niệm sở hữu của công
dân và sở hữu tư nhân. Quan điểm của Đảng ta cho rằng để có chủ nghĩa xã hội
chỉ cần xây dựng một chế độ sở hữu mà trong đó chế độ sở hữu toàn dân và sở
hữu tập thể xác lập một cách tuyệt đối đối với tư liệu sản xuất còn sở hữu tư
nhân từng bước bị xóa bỏ. Sở hữu công dân chỉ hạn chế trong phạm vi sở hữu
về tư liệu tiêu dùng, thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở và những tư liệu
sản xuất nhỏ phục vụ kinh tế gia đình. Sở hữu tư nhân là sở hữu của cá nhân đối
với tư liệu sản xuất. Đây chính là sở hữu của nông dân cá thể, thợ thủ công và
những người lao động riêng lẻ. Nó được coi là “mầm mống của chế độ người
bóc lột người”, Nhà nước khuyến khích, hướng dẫn và giúp đỡ các thành phần
kinh tế như nông dân cá thể, thợ thủ công... tiến lên con đường làm ăn tập thể.
Hiến pháp năm 1992, sửa đổi Hiến pháp năm 1980, Nhà nước ta vẫn duy
trì quan điểm, đất đai thuộc sở hữu toàn dân, nhà nước giao cho hộ nông dân sử
dụng lâu dài mà không trao cho họ quyền sở hữu. Tuy nhiên, Nhà nước cho phép
các hộ nông dân được chuyển quyền sử dụng đất khi chuyển sang làm nghề khác
hoặc vì một lý do chính đáng. Quyền sử dụng đất đã được coi là một quyền tài
sản và có thể trở thành đối tượng trong giao dịch dân sự.

Hiến pháp 1992 khẳng định Nhà nước phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước với đa hình
thức sở hữu bao gồm: Sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân. Ngoài


8

việc tiếp tục khẳng định vai trò chủ đạo của sở hữu toàn dân, Nhà nước ta
khuyến khích, tạo điều kiện phát triển và bảo vệ mọi hình thức sở hữu hợp pháp
khác đặc biệt là sở hữu của cá nhân. Nhà nước tạo điều kiện để sở hữu tư nhân
phát huy sức mạnh, giải phóng mọi tiềm năng để sản xuất kinh doanh. Trong nền
kinh tế thị trường, sở hữu tư nhân ngày càng khẳng định vị trí, vai trò của mình.
Nó có ý nghĩa to lớn trong việc khuyến khích cá nhân khai thác tài sản để hưởng
lợi, xóa đói giảm nghèo, làm giàu chính đáng, góp phần vào công cuộc đổi mới
toàn diện của đất nước. Nhà nước tạo điều kiện để mọi người có thể làm chủ sở
hữu thực sự đối với tài sản của mình. Tài sản hợp pháp của cá nhân không bị
quốc hữu hóa.
Khác với Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 đã mở rộng quyền
sở hữu của cá nhân bao gồm: tư liệu sản xuất, tư liệu tiêu dùng, vốn và các tài
sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác. Điều 58 Hiến
pháp 1992 khẳng định: “Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của
cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong
doanh nghiệp hoặc trong các tổ chức kinh tế khác...Nhà nước bảo hộ quyền sở
hữu hợp pháp và quyền thừa kế của công dân”.
Sau khi ban hành Hiến pháp năm 1992, ngày 28/10/1995, Quốc hội nước
Cộng hòa XHCN Việt Nam thông qua Bộ luật dân sự. Bộ luật dân sự năm 1995
đánh dấu một bước tiến quan trọng của pháp luật Việt Nam trong quá trình thực
hiện chính sách đổi mới của Đảng cộng sản Việt Nam. Bộ luật dân sự năm 1995
đã cụ thể hóa nguyên tắc về sở hữu và một lần nữa khẳng định quyền sở hữu của
cá nhân được pháp luật công nhận và bảo vệ. Sau mười năm thi hành Bộ luật dân

sự năm 1995 đã bộc lộ một số hạn chế nhất định và trước đòi hỏi của tình hình
chính trị, kinh tế của đất nước Bộ luật dân sự năm 2005 đã được Quốc hội khóa
XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005 thay thế cho Bộ luật dân
sự năm 1995. Một lần nữa quyền sở hữu của cá nhân lại được pháp luật ghi nhận
và bảo vệ. Điều 169 Bộ luật dân sự năm 2005 quy định:


9

1. Quyền sở hữu của cá nhân, pháp nhân và chủ thể khác được
pháp luật công nhận và bảo vệ.
2. Không ai có thể bị hạn chế, bị tước đoạt trái pháp luật quyền
sở hữu đối với tài sản của mình.
Chủ sở hữu có quyền tự bảo vệ, ngăn cản bất kỳ người nào có
hành vi xâm phạm quyền sở hữu của mình, truy tìm, đòi lại tài sản bị
người khác chiếm hữu, sử dụng, định đoạt không có căn cứ pháp luật.
3. Trong trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh
và vì lợi ích quốc gia, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi
thường tài sản của cá nhân, pháp nhân hoặc của chủ thể khác theo quy
định của pháp luật.
Cùng với sự thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần theo cơ chế thị
trường, khách thể quyền sở hữu của công dân cũng được mở rộng cả về số lượng
và chủng loại. Bộ luật dân sự năm 2005 khẳng định: “Thu nhập hợp pháp, của
cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn, hoa lợi, lợi tức và các
tài sản hợp pháp khác của cá nhân là tài sản thuộc hình thức sở hữu tư nhân.
Tài sản hợp pháp thuộc hình thức sở hữu tư nhân không bị hạn chế về số lượng,
giá trị” (Điều 212 Bộ luật dân sự).
Hiện nay, đứng trước xu thế toàn cầu hóa kinh tế quốc tế, dự thảo Hiến
pháp sửa đổi đang được đưa ra lấy ý kiến toàn dân, theo đó quyền sở hữu của cá
nhân cũng có những thay đổi đáng kể. Thuật ngữ “công dân” được thay bằng

thuật ngữ “mọi người”. Điều 33 dự thảo Hiến pháp sửa đổi quy định “Mọi người
có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư liệu sinh hoạt,
tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong tổ chức kinh
tế khác”. “Mọi người” là bao gồm công dân và những người khác nữa. Theo quy
định của dự thảo Hiến pháp sửa đổi quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được
pháp luật bảo hộ.
Như vậy, theo nghĩa khách quan, quyền sở hữu của cá nhân là tổng hợp
các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội về chiếm hữu, sử dụng,


10

định đoạt tài sản và phương thức bảo vệ quyền sở hữu của cá nhân. Trong Hiến
pháp quyền sở hữu của cá nhân là sự ghi nhận và phản ánh bản chất kinh tế - xã
hội và chính trị của xã hội Việt Nam trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Chế
định quyền sở hữu của cá nhân trong Bộ luật dân sự là một phương thức thể
hiện, cụ thể hóa chế độ sở hữu của cá nhân được ghi nhận trong Hiến pháp
Thứ hai, hiểu theo nghĩa chủ quan, quyền sở hữu của cá nhân được hiểu
là mức độ xử sự mà pháp luật cho phép một chủ thể được thực hiện các quyền
năng chiếm hữu, sử dụng và định đoạt trong những điều kiện nhất định. Đó là
quyền dân sự cụ thể của cá nhân, với tư cách là chủ sở sở hữu thì cá nhân có
quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản cùng quyền khởi
kiện để bảo vệ quyền sở hữu. Khi quyền sở hữu của mình bị xâm phạm, cá nhân
với tư cách là chủ sở hữu tài sản có quyền tự bảo vệ, ngăn chặn, yêu cầu khởi
kiện và được bồi thường thiệt hại.
Ở nước ta đã có thời kỳ xóa bỏ sở hữu tư nhân, nhà nước chỉ chú trọng
phát triển hai thành phần kinh tế đó là thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở
hữu toàn dân và thành phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu của nhân dân lao
động. Chúng ta đã mắc phải sai lầm, vi phạm quy luật khách quan. Nhà nước
muốn xóa bỏ các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa trong một thời gian

ngắn, nhanh chóng thực hiện quốc doanh hóa, tập thể hóa trong khi đó trình độ
của lực lượng sản xuất về cơ bản vẫn ở tình trạng thủ công. Đại hội đại biểu
Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ V đã thừa nhận sự non nớt, yếu kém đó. Đại
hội VI Đảng cộng sản Việt Nam ghi nhận sự đổi mới tư duy lý luận và nhận thức
thực tiễn của Đảng ta. Theo các Nghị quyết Trung ương Đảng thứ VI đến nay
Đảng và nhà nước ta chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều
hình thức sở hữu, trong đó:
Kinh tế cá thể và tiểu chủ ở nông thôn và thành thị được nhà
nước tạo điều kiện để phát triển.
Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển không hạn
chế về quy mô trong những ngành, nghề, lĩnh vực và địa bàn mà phát


11

luật không cấm; khuyến khích hợp tác, liên doanh với nhau và với
doanh nghiệp nhà nước, chuyển thành doanh nghiệp cổ phần và bán cổ
phần cho người lao động.
Kinh tế tư bản nhà nước dưới các hình thức liên doanh, liên kết
giữa kinh tế nhà nước với kinh tế tư nhân trong và ngoài nước ngày
càng phát triển đa dạng1.
Nhà nước khuyến khích cá nhân được sản xuất, kinh doanh, được đầu tư
vốn và tài sản của mình trong đó có tư liệu sản xuất vào các thành phần kinh tế
khác và không bị hạn chế về vốn và quy mô sản xuất kinh doanh. Hiến pháp năm
1992 quy định: Kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân được chọn hình thức tổ
chức sản xuất kinh doanh, được thành lập doanh nghiệp không bị hạn chế về quy
mô hoạt động trong những ngành nghề có lợi cho quốc kế dân sinh. Kinh tế gia
đình được khuyến khích phát triển. Nhà nước khuyến khích các cá nhân nước
ngoài đầu tư vốn, công nghệ vào Việt Nam phù hợp với pháp luật Việt Nam và
thông lệ quốc tế; bảo đảm quyền sở hữu hợp pháp đối với vốn, tài sản và các

quyền lợi khác của cá nhân nước ngoài. Nhà nước tạo điều kiện cho người Việt
Nam định cư ở nước ngoài đầu tư về nước. Tài sản hợp pháp của cá nhân không
bị quốc hữu hóa.
Bộ luật dân sự đã cụ thể hóa các vấn đề liên quan đến quyền sở hữu của
cá nhân đã được thể chế hóa trong Hiến pháp 1992. Điều 15 Bộ luật dân sự quy
định cá nhân có quyền sở hữu, quyền thừa kế và các quyền khác đối với tài sản.
Bộ luật dân sự có nhiệm vụ bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức,
lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng. Cá nhân có quyền lao động. Mọi người
đều có quyền làm việc, tự lựa chọn việc làm, nghề nghiệp, không bị phân biệt
đối xử về dân tộc, giới tính, thành phần xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo (Điều 49 Bộ
luật dân sự). Quyền tự do kinh doanh của cá nhân được tôn trọng và được pháp
luật bảo vệ. Cá nhân có quyền lựa chọn hình thức, lĩnh vực, ngành nghề kinh
1

Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị

quốc gia, Hà Nội.


12

doanh, lập doanh nghiệp, tự do giao kết hợp đồng, thuê lao động và các quyền
khác phù hợp với quy định của pháp luật (Điều 50 Bộ luật dân sự).
Với tư cách là chủ sở hữu tài sản cá nhân có quyền chiếm hữu, sử dụng
và định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của mình. Điều 164 Bộ luật dân sự quy
định: “Quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định
đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật”.
Quyền chiếm hữu là quyền nắm giữ, quản lý tài sản (Điều 182 Bộ luật
dân sự). Đó là việc chủ sở hữu được thực hiện mọi hành vi theo ý chí của mình
để nắm giữ, quản lý tài sản. Việc chiếm hữu của chủ sở hữu không bị hạn chế

gián đoạn về thời gian.
Quyền sử dụng là quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi tức từ
tài sản (Điều 192 Bộ luật dân sự). Đây là một quyền năng quan trọng và có ý
nghĩa thực tế. Chủ sở hữu có toàn quyền khai thác công dụng, hưởng hoa lợi, lợi
tức từ tài sản tùy theo ý chí của mình miễn là không gây thiệt hại hoặc làm ảnh
hưởng đến lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng, quyền, lợi ích hợp pháp của
người khác.
Quyền định đoạt là quyền năng của chủ sở hữu trong việc quyết định số
phận của tài sản thuộc quyền sở hữu của mình thông qua các hành vi như bán,
trao đổi, tặng cho, cho vay, để thừa kế, từ bỏ hoặc thực hiện các hình thức định
đoạt khác phù hợp với quy định của pháp luật đối với tài sản. Quyền định đoạt
chỉ bị hạn chế trong trường hợp do pháp luật quy định. Quyền định đoạt là quyền
có ý nghĩa quan trọng nhất trong việc quyết định số phận của tài sản. Thông qua
quyền định đoạt tài sản có thể làm chấm dứt quyền sở hữu của chủ sở hữu này và
phát sinh quyền sở hữu của chủ sở hữu khác đối với tài sản.
Chỉ có chủ sở hữu thực sự mới có đủ ba quyền năng: chiếm hữu, sử dụng
và định đoạt. Chỉ khi là chủ hữu mới có quyền thực hiện ba quyền năng này một
cách độc lập, không phục thuộc vào ý chí của bất kỳ người nào khác.
Mặt khác, trong giao lưu dân sự, các bên được quyền tự do cam kết, thỏa
thuận, các bên hoàn toàn tự nguyện không bên nào được áp đặt, cấm đoán,


13

cưỡng ép, đe dọa ngăn cản bên nào. Pháp luật tôn trọng và bảo vệ tất cả các
quyền dân sự của cá nhân trong đó có quyền sở hữu. Khi quyền sở hữu bị xâm
phạm cá nhân có quyền tự bảo vệ, ngăn cản bất kỳ người nào có hành vi xâm
phạm quyền sở hữu của mình và được quyền khởi kiện yêu cầu bồi thường thiệt
hại nếu hành vi xâm phạm quyền sở hữu gây thiệt hại.
Tóm lại, quyền sở hữu của cá nhân là một chế định pháp luật, vừa mang

tính chủ quan vừa mang tính khách quan. Quyền sở hữu mang tính chủ quan bởi
vì đó là sự ghi nhận của Nhà nước nhưng Nhà nước không thể đặt ra quyền sở
hữu theo ý chí chủ quan của mình mà quyền sở hữu được quy định trước hết phụ
thuộc vào điều kiện kinh tế, chính trị của đất nước. Nhà nước quy định quyền sở
hữu, tức là thể chế hóa những quan hệ chiếm hữu, sử dụng, định đoạt những sản
phẩm do con người tạo ra.
Như vậy, quyền sở hữu của cá nhân là mức độ xử sự mà pháp luật cho
phép một chủ thể được thực hiện các quyền năng chiếm hữu, sử dụng và định
đoạt tài sản trong những điều kiện nhất định. Quyền sở hữu của cá nhân được
pháp luật thừa nhận và bảo hộ.
1.2. Khái niệm căn cứ xác lập quyền sở hữu của cá nhân
1.2.1. Khái niệm
Quyền sở hữu của cá nhân như đã nói ở trên là phạm trù pháp lý, do đó,
quyền sở hữu phát sinh phải dựa trên những căn cứ pháp lý nhất định. Không
phải mọi sự kiện xảy ra trong thực tế đều làm phát sinh quyền sở hữu mà chỉ
những sự kiện pháp lý do pháp luật quy định mới được coi là căn cứ phát sinh
quyền sở hữu đối với tài sản. Những sự kiện pháp lý này là cơ sở để xác lập
quyền sở hữu của một cá nhân đối với tài sản của mình. Pháp luật chỉ công nhận
và bảo vệ các quyền của chủ sở hữu nếu quyền đó được xác lập trên những căn
cứ do pháp luật quy định. Tất cả những tài sản của cá nhân có mà không dựa trên
những căn cứ hợp pháp do pháp luật quy định thì không thuộc quyền sở hữu của
cá nhân đó. Những căn cứ đó là những khả năng xảy ra trong thực tế cuộc sống
mà Bộ luật dân sự ghi nhận và nâng lên thành qui định chung, dựa vào đó chủ sở


14

hữu có được tài sản thuộc quyền sở hữu của mình. Ví dụ: A nhặt được một đồ
vật ai đó đánh rơi trên đường, A không thể nói A có quyền sở hữu đối với đồ vật
đó nếu không dựa trên những căn cứ pháp lý cụ thể làm phát sinh quyền sở hữu

do pháp luật quy định.
Quyền sở hữu là quyền tuyệt đối của mỗi cá nhân, pháp luật luôn bảo hộ
quyền sở hữu hợp pháp của mỗi cá nhân. Quyền sở hữu theo Điều 164 Bộ luật
dân sự năm 2005 bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt
tài sản. Những người khác có nghĩa vụ tôn trọng không một ai có quyền hạn chế,
xâm phạm, cản trở hoặc can thiệp vào việc thực hiện các quyền năng đó. Khi
quyền sở hữu của cá nhân bị xâm hại, pháp luật sẽ bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của chủ sở hữu. Tuy nhiên, để đảm bảo được tính công bằng và nghiêm
minh đòi hỏi pháp luật phải có các quy định rõ ràng, đúng đắn và phải có căn cứ
chứng minh quyền sở hữu hợp pháp của cá nhân đó chính là những căn cứ xác
lập quyền sở hữu. Căn cứ xác lập quyền sở hữu của cá nhân chính là cơ sở pháp
lý để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của chủ sở hữu.
Quyền sở hữu phản ánh bản chất của từng chế độ xã hội, nó gắn với điều
kiện kinh tế, xã hội của từng quốc gia nên pháp luật của mỗi chế độ xã hội, mỗi
quốc gia lại có các căn cứ xác lập quyền sở hữu riêng. Việc pháp luật quy định
mỗi chủ thể được sở hữu những loại tài sản nào, quyền năng cụ thể của chủ sở
hữu đối với tài sản của mình đến đâu đều phải phụ thuộc vào bản chất của chế độ
xã hội cũng như điều kiện lịch sử của xã hội đó.
Mặt khác, căn cứ xác lập quyền sở hữu còn phụ thuộc vào đặc điểm,
công dụng của tài sản là đối tượng của quyền sở hữu. Mỗi loại tài sản đều có
nguồn gốc, đặc điểm riêng, có công dụng và tính chất khác nhau do vậy khi quy
định căn cứ xác lập quyền sở hữu của cá nhân đối với tài sản phải xem xét đến
nguồn gốc của tài sản, tài sản đó thuộc về ai, ai là chủ sở hữu và mục đích sở
hữu, khai thác tài sản của chủ sở hữu đó như thế nào.
Trong lĩnh vực khoa học pháp lý căn cứ xác lập quyền sở hữu của cá
nhân gồm căn cứ nguyên sinh và căn cứ phái sinh.


15


Căn cứ nguyên sinh (hay còn gọi là căn cứ đầu tiên) là những căn cứ xác
lập quyền sở hữu lần đầu tiên đối với vật hoặc quyền sở hữu mới phát sinh
không phụ thuộc vào ý chí của chủ sở hữu trước đó.
Hiểu theo khái niệm này thì căn cứ xác lập quyền sở hữu của cá nhân
trong Bộ luật dân sự được coi là căn cứ nguyên sinh khi nó xác lập nên quyền sở
hữu của một cá nhân đối với tài sản mà tài sản đó chưa từng thuộc về sở hữu của
ai. Đó là căn cứ xác lập quyền sở hữu đối với tài sản có được do lao động, do
hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp, xác lập quyền sở hữu đối với hoa lợi,
lợi tức.
Ngoài ra cũng có thể coi một căn cứ xác lập quyền sở hữu là nguyên sinh
khi nó là xuất hiện một quyền sở hữu mới và việc tạo nên quyền sở hữu mới này
hoàn toàn không phụ thuộc vào ý chí của chủ sở hữu trước đó.Ví dụ như phát
sinh quyền sở hữu đối với vật vô chủ, vật không xác định được ai là chủ sở hữu,
vật bị chôn giấu, bị chìm đắm, vật bị người khác đánh rơi, bỏ quên, xác lập
quyền sở hữu do không tìm thấy chủ gia súc, gia cầm, do bản bản án, quyết định
của Tòa án hoặc quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền...
Căn cứ phái sinh (còn gọi là căn cứ kế tục): Căn cứ phái sinh là những
căn cứ làm phát sinh quyền sở hữu mới đối với vật dựa trên sự chuyển giao ý chí
của chủ sở hữu trước đó. Thực chất căn cứ phái sinh là việc một cá nhân thiết lập
quyền sở hữu mới đối với tài sản mà trước đây đã thuộc quyền sở hữu của một
hay nhiều người khác. Việc xác lập quyền sở hữu mới có thể được thực hiện
thông qua sự thỏa thuận ý chí giữa các chủ sở hữu. Ví dụ: xác lập quyền sở hữu
thông qua hợp đồng mua bán, tặng cho, trao đổi, cho vay, xác lập quyền sở hữu
do được thừa kế...
Tuy nhiên sự phân loại này chỉ có tính chất tương đối vì có những sự
kiện pháp lý là cơ sở xác lập quyền sở hữu chứa đựng cả những yếu tố phái sinh
và yếu tố nguyên sinh. Ví dụ trong trường hợp sáp nhập, chế biến tài sản, rõ ràng
quyền sở hữu được xác lập đối vật vừa mới được tạo thành nhưng trên cơ sở là
vật cũ và phụ thuộc vào ý chí của các chủ sở hữu trước đó.



16

Vậy căn cứ xác lập quyền sở hữu của cá nhân là những sự kiện pháp lý
do Bộ luật dân sự quy định thông qua đó làm phát sinh quyền sở hữu của cá nhân
đối với một tài sản nhất định.
1.2.2. Ý nghĩa của căn cứ xác lập quyền sở hữu của cá nhân
Căn cứ xác lập quyền sở hữu là sự kiện pháp lý làm phát sinh quyền sở
hữu của một chủ thể sở hữu đối với một tài sản nhất định do vậy, nó có ý nghĩa
vô cùng quan trọng cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn.
Thứ nhất: Đối với chủ sở hữu, căn cứ xác lập quyền sở hữu là cơ sở
pháp lý để một chủ thể khẳng định được quyền sở hữu của mình đối với một tài
sản nhất định. Dựa vào đó một chủ thể có thể biết trong trường hợp nào họ trở
thành chủ sở hữu, tự bản thân họ cũng xác định được loại tài sản nào họ được
quyền sở hữu và qua đó họ tự bảo vệ được quyền sở hữu hợp pháp của mình.
Thứ hai: Đối với cơ quan áp dụng pháp luật, căn cứ xác lập quyền sở
hữu là cơ sở pháp lý cần thiết để tòa án bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho
đương sự. Trên thực tế, các tranh chấp về quyền sở hữu rất đa dạng và phức tạp,
nếu không có các căn cứ xác lập quyền sở hữu rất khó đưa ra được phán quyết
một cách đúng đắn và công minh vì khi có tranh chấp các đương sự bao giờ cũng
đưa ra các lý lẽ thuyết phục để bảo vệ quyền lợi của mình.
Thứ ba: Đối với trật tự xã hội, việc quy định một cách đầy đủ, rõ ràng
các căn cứ xác lập quyền sở hữu tạo ra một mặt bằng pháp lý cho mọi chủ thể
thực hiện quyền sở hữu của mình, ở đây không có ngoại lệ cũng như ưu tiên cho
bất kỳ chủ sở hữu nào. Nó tạo tâm lý yên tâm, tin tưởng vào chính sách của
Đảng và pháp luật của Nhà nước của các chủ sở hữu khi tham gia vào quan hệ sở
hữu. Quyền sở hữu được xác lập từ những căn cứ do pháp luật quy định sẽ được
coi là hợp pháp và được pháp luật bảo vệ. Khi ý thức pháp luật của người dân
được nâng cao, mọi người sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật thì việc
xác định căn cứ xác lập quyền sở hữu góp phần giảm bớt các tranh chấp không

đáng có về quyền sở hữu trong đời sống xã hội.


17

Thứ tư: Đối với sự phát triển của nền kinh tế xã hội, căn cứ xác lập
quyền sở hữu là cơ sở pháp lý thúc đẩy giao lưu dân sự, khuyến khích người dân
tham gia vào quan hệ dân sự, tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.


18

Chương 2
CÁC CĂN CỨ XÁC LẬP QUYỀN SỞ HỮU CỦA CÁ NHÂN
2.1. Do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp
Theo Từ điển tiếng Việt thông dụng: “Lao động là hoạt động tạo ra sản
phẩm vật chất hay tinh thần”2. Phần lớn của cải của cá nhân có được đều thông
qua hoạt động lao động, sản xuất. Xác lập quyền sở hữu của cá nhân thông qua
hoạt động lao động, sản xuất, kinh doanh có thể được coi là căn cứ phổ biến
nhất.
Điều 233 Bộ luật dân sự quy định: "Người lao động, người tiến hành
hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp có quyền sở hữu đối với tài sản do lao
động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp, kể từ thời điểm có tài sản
đó”.
Theo quy định của luật, chủ thể được xác lập quyền sở hữu là người lao
động, người tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp. Người lao động
ở đây có thể là người lao động phổ thông hay lao động trí óc, họ có thể là công
nhân, thợ thủ công, giáo viên hay bác sỹ... tất cả những ai tham gia vào hoạt

động lao động trực tiếp hoặc gián tiếp tạo ra của cải vật chất đều có quyền xác
lập quyền sở hữu đối với của cải vật chất đó. Người tiến hành hoạt động sản
xuất, kinh doanh phải là hoạt động sản xuất kinh doanh hợp pháp mới có quyền
xác lập quyền sở hữu đối với tài sản do mình tạo ra.
Đối tượng để xác lập quyền sở hữu của cá nhân trong căn cứ này là tài
sản có được do lao động, do hoạt động sản xuất, kinh doanh hợp pháp, bao gồm:
vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản. Quyền tài sản là quyền trị giá được
bằng tiền và và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu trí
tuệ như quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây
trồng...
2

Nguyễn Như Ý (1998), Từ điển tiếng việt thông dụng, Nxb Giáo dục, Hà Nội.


19

Thời điểm xác lập quyền sở hữu của cá nhân theo căn cứ này phụ thuộc
vào đặc điểm pháp lý của từng loại tài sản. Thời điểm xác lập quyền sở hữu có ý
nghĩa quan trọng trong việc xác định từ khi nào cá nhân trở thành sở hữu chủ của
của tài sản, thời điểm nào họ có đủ quyền năng chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài
sản. Từ đó có các phương thức bảo vệ quyền sở hữu của mình.
Đối với những tài sản là tư liệu tiêu dùng, những tài sản có được do quá
trình lao động, sản xuất, kinh doanh phục vụ cho nhu cầu thiết yếu hàng ngày
như khoản tiền lương, thưởng của người lao động làm công ăn lương, hay là sản
phẩm nông nghiệp như lúa, ngô, khoai sắn có được do lao động sản xuất của
người nông dân, khoản tiền lãi từ tiền gửi tiết kiệm... thì thời điểm phát sinh
quyền sở hữu của cá nhân là kể từ thời điểm họ có được những tài sản đó.
Đối với những tài sản có được do hoạt động lao động, sản xuất kinh
doanh nhưng phải đăng ký quyền sở hữu thì thời điểm xác lập quyền sở hữu của

cá nhân là thời điểm đăng ký quyền sở hữu đó. Ví dụ như: “Quyền sở hữu công
nghiệp đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích hợp
bán dẫn, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý, quyền đối với giống cây trồng được xác lập
trên cơ sở quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi thực hiện việc
đăng ký các đối tượng đó theo quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ” (Điều
752 Bộ luật dân sự).
“Quyền sở hữu của cá nhân đối với tài sản là quyền tác giả phát sinh kể
từ khi tác phẩm được sáng tạo ra và được thể hiện dưới một hình thức vật chất
nhất định” (Điều 739 Bộ luật dân sự). Trong trường hợp tác phẩm được sáng tạo
không phải trên cơ sở thực hiện nhiệm vụ hoặc hợp đồng giao việc thì quyền tài
sản thuộc về tác giả bao gồm: quyền sao chép tác phẩm; quyền cho phép tạo tác
phẩm phái sinh; quyền phân phối, nhập khẩu bản gốc và bản sao tác phẩm;
quyền truyền đạt tác phẩm đến công chúng và quyền cho thuê bản gốc hoặc bản
sao chương trình máy tính. Trong trường hợp tác phẩm được sáng tạo trên cơ sở
thực hiện nhiệm vụ hoặc hợp đồng giao việc thì quyền tài sản thuộc về cơ quan,
tổ chức giao nhiệm vụ, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Trong trường


20

hợp này làm phát sinh quyền sở hữu của tác giả đối với khoản tiền là thù lao,
nhuận bút do chủ sở hữu quyền tài sản chi trả. Thời điểm phát sinh quyền sở hữu
đối với khoản tiền này có thể trước hoặc sau khi phát sinh quyền tác giả, tùy
thuộc vào thỏa thuận của các bên.
Trong một số trường hợp thời điểm phát sinh quyền sở hữu của cá nhân
đối với khoản tiền có được do hoạt động lao động, sản xuất kinh doanh, làm dịch
vụ là thời điểm cá nhân thực hiện xong công việc của mình. Ví dụ trong trường
hợp thực hiện hợp đồng gia công, bên đặt gia công phải trả đủ tiền công vào thời
điểm nhận sản phẩm, nếu không có thỏa thuận khác (Điều 557 Bộ luật dân sự).
Hay trong trường hợp hứa thưởng, thi có giải. Cá nhân sẽ được sở hữu một

khoản tiền thưởng nếu họ hoàn thành một công việc được hứa thưởng hoặc đoạt
giải trong một cuộc thi có giải. Thời điểm phát sinh quyền sở hữu là tại thời
điểm tiền thưởng được trao cho cá nhân đó.
Mỗi cá nhân dù gián tiếp hay trực tiếp đều phải tham gia vào quá trình
lao động, sản xuất. Điều 55 Hiến pháp 1992 quy định: “Lao động là quyền và
nghĩa vụ của công dân”. Đây chính là căn cứ đầu tiên hay là căn cứ nguyên sinh
làm phát sinh quyền sở hữu của cá nhân, là động lực thúc đẩy mọi cá nhân tham
gia vào hoạt động lao động, sản xuất, kinh doanh nhằm mục đích tạo ra của cải
vật chất cho chính bản thân mình và cho xã hội. Nó chính là tiền đề thúc đẩy nền
kinh tế của quốc gia phát triển, dân có giàu thì nước mới mạnh.
2.2. Xác lập quyền sở hữu theo thỏa thuận
Một trong những căn cứ xác lập quyền sở hữu rất phổ biến trong xã hội
là hợp đồng chuyển giao quyền sở hữu tài sản. Hợp đồng chuyển giao quyền sở
hữu tài sản là hợp đồng mua bán, hợp đồng tặng cho tài sản, hợp đồng vay tài
sản, hợp đồng trao đổi tài sản.
Điều 234 Bộ luật dân sự quy định:
“Xác lập quyền sở hữu theo thỏa thuận.


21

Người được giao tài sản thông qua hợp đồng mua bán, tặng cho, trao
đổi, cho vay có quyền sở hữu tài sản đó, kể từ thời điểm chuyển giao tài sản, nếu
các bên không có thỏa thuận hoặc pháp luật không có quy định khác”.
Tự do cam kết, thỏa thuận là một trong những nguyên tắc của pháp luật
dân sự Việt Nam. Điều 4 Bộ luật dân sự quy định: “Quyền tự do cam kết, thỏa
thuận trong việc xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự được pháp luật bảo đảm, nếu
cam kết, thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo
đức xã hội”.
Để tồn tại và phát triển, mỗi cá nhân phải tham gia nhiều mối quan hệ xã

hội khác nhau. Trong đó, việc các bên thiết lập với nhau những quan hệ để qua
đó chuyển giao cho nhau các lợi ích vật chất nhằm đáp ứng các nhu cầu sinh
hoạt, tiêu dùng, đóng một vai trò quan trọng, là tất yếu đối với mọi đời sống xã
hội3. Quan hệ trao đổi vật chất đó chỉ được hình thành khi các bên tự nguyện
thỏa thuận, thống nhất ý chí với nhau. Đây chính là tiền đề đầu tiên để hình
thành nên hợp đồng dân sự. Theo điều 388 Bộ luật dân sự: “Hợp đồng dân sự là
sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa
vụ dân sự”. Theo Từ điển tiếng Việt thì thoả thuận là sự nhất trí, đồng ý với nhau
sau khi bàn bạc. Đối tượng của việc xác lập quyền sở hữu theo thỏa thuận là tài
sản thông qua các hợp đồng. Khi tài sản được chuyển giao thông qua các hợp
đồng dân sự thì nó làm chấm dứt quyền sở hữu đối tài sản của người này và làm
phát sinh quyền sở hữu tài sản của người kia. Theo quy định của pháp luật hợp
đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi
cụ thể. Tuy nhiên, giao kết hợp đồng phải tuân theo nguyên tắc “tự do giao kết
hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã hội” (Điều 389 Bộ luật
dân sự).

3
Trường Đại học Luật Hà Nội (2008), Giáo trình luật dân sự Việt Nam (tập 2), Nxb Công an nhân dân, Hà
Nội


×