Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Những nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (689.96 KB, 77 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ HIỂN

NHỮNG NGUYÊN TẮC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
BẰNG TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60380107
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: T.S VŨ THỊ LAN ANH

HÀ NỘI - 2013


LỜI CẢM ƠN
Hoàn thành đề tài nghiên cứu này, trước tiên em xin được gửi lời cảm ơn
chân thành nhất tới cô giáo, tiến sỹ Vũ Thị Lan Anh- người đã tận tình chỉ bảo
em trong suốt quá trình nghiên cứu đề tài. Em cũng xin phép được gửi lời cảm
ơn tới gia đình em, người luôn ủng hộ em trong con đường nghiên cứu, học tập
của mình. Sau nữa, em xin gửi lời cảm ơn tới thầy, cô giáo trường Đại học Luật
Hà Nội luôn tạo những điều kiện tốt nhất cho em có thể tiến hành việc nghiên
cứu, hoàn thành đúng hạn công trình nghiên cứu của mình. Em xin chân thành
cảm ơn.
Học viên


Nguyễn Thị Hiển


MỤC LỤC
1. Tính cấp thiết của đề tài ..................................................................................... 1
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................... 2
3. Phạm vi nghiên cứu. ........................................................................................... 2
4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................... 2
5. Tình hình nghiên cứu đề tài ............................................................................... 3
6. Những điểm mới của Luận văn .......................................................................... 4
7. Kết cấu luận văn ................................................................................................. 5
CHƢƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ NHỮNG NGUYÊN TẮC GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI .................................... 6
1.1. Khái niệm những nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương
mại ...................................................................................................................... 6
1.2. Đặc điểm những nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương
mại ...................................................................................................................... 8
1.3. Ý nghiã của những nguyên tắc giải quyết tranh chấp đối với hoạt động
của trọng tài thương mại. .................................................................................10
1.4. Sự hình thành và phát triển những nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài thương mại ở Việt Nam ......................................................................11
1.4.1. Thời kỳ từ 1960-1994 ..........................................................................12
1.4.2. Thời kỳ 1994-2003 ..............................................................................14
1.4.3. Giai đoạn 2003- nay ...........................................................................15
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ NHỮNG
NGUYÊN TẮC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI
THƢƠNG MẠI...................................................................................................17
2.1. Nguyên tắc liên quan đến các bên tranh chấp: Nguyên tắc các bên bình
đẳng về quyền và nghĩa vụ ...............................................................................17
2.2. Các nguyên tắc liên quan đến người giải quyết tranh chấp......................20



2.2.1. Nguyên tắc Trọng tài viên phải tôn trọng thoả thuận của các bên nếu
thỏa thuận đó không vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội. ...................20
2.2.2. Nguyên tắc Trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư và tuân
theo quy định của pháp luật. .........................................................................29
2.2.3. Nguyên tắc Hội đồng trọng tài có trách nhiệm tạo điều kiện để các
bên tranh chấp thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. .........................40
2.3. Các nguyên tắc liên quan đến thủ tục giải quyết tranh chấp ....................42
2.3.1. Nguyên tắc Trọng tài giải quyết tranh chấp không công khai ...........42
2.3.2. Nguyên tắc phán quyết trọng tài là chung thẩm .................................46
CHƢƠNG 3. HOÀN THIỆN QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ NHỮNG NGUYÊN TẮC GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI ...................55
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả
thực thi pháp luật về những nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
thương mại. .......................................................................................................55
3.2. Một số giải pháp hoàn thiện các quy định pháp luật về những nguyên tắc
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại ............................................57
3.2.1. Sửa đổi, bổ sung một số điều quy định tại Nghị định 63/2011/NĐ-CP
.......................................................................................................................57
3.2.2 Cần sớm ban hành Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao hướng dẫn thi hành Luật TTTM .................................................59
3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi các nguyên tắc giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài thương mại .............................................................62
KẾT LUẬN .........................................................................................................67


DANH MỤC CÁC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
Luật TTTM


Luật Trọng tài thương mại 2010

Luật Mẫu UNCITRAL

Luật Mẫu về trọng tài thương mại quốc tế của Ủy
ban Pháp luật Thương mại Quốc tế Liên Hợp Quốc

Quy tắc ICC

Quy tắc tố tụng Trọng tài của Phòng Thương mại
Quốc tế

Quy tắc ICDR

Quy tắc tố tụng Trọng tài quốc tế ICDR

Quy tắc ICSID

Trung tâm giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế.
Quy tắc tố tụng cho việc bắt đầu hòa giải và tố
tụng trọng tài

Quy tắc LIAC

Quy tắc tố tụng Trọng tài của Tòa án Trọng tài
quốc tế Luân Đôn

Quy tắc VIAC


Quy tắc tố tụng Trọng tài của Trung tâm trọng tài
quốc tế Việt Nam

Quy tắc UNCITRAL

Quy tăc tố tụng trọng tài của Ủy ban pháp luật
Thương mại Quốc tế Liên Hợp Quốc.


1

1. Tính cấp thiết của đề tài
Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài là phương thức giải quyết tranh chấp
gắn liền với nền kinh tế hàng hóa. Với ưu điểm giải quyết nhanh gọn, linh hoạt,
quá trình giải quyết tranh chấp không công khai, phán quyết trọng tài là chung
thẩm nên phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài được các nhà kinh
doanh ưa chuộng và ngày càng trở thành một phương thức giải quyết tranh chấp
phổ biến trên thế giới. Trải qua các bước phát triển của trọng tài theo chiều dài
lịch sử của đất nước, pháp luật về trọng tài của Việt Nam được hoàn thiện và
hiện nay, về cơ bản phù hợp với thông lệ quốc tế cũng như điều kiện kinh tế,xã
hội ở Việt Nam. Tuy vậy, thực tế giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương
mại ở Việt Nam còn khiêm tốn. Số lượng giải quyết tranh chấp bằng trọng tài chỉ
chiếm 1% số vụ tranh chấp kinh doanh thương mại trong đời sống kinh doanh;
nhiều phán quyết trọng tài còn bị hủy [49]. Nguyên nhân của thực trạng trên xuất
phát từ những vấn đề của tư tưởng chỉ đạo quá trình giải quyết tranh chấp
(nguyên tắc giải quyết tranh chấp) hay đơn thuần chỉ xuất phát từ chính các quy
định pháp luật chưa thể hiện đúng và đủ nội dung của nguyên tắc giải quyết
tranh chấp cũng như thực tiễn thi hành chưa tuân thủ những nguyên tắc giải
quyết tranh chấp này?
Nguyên tắc là những tư tưởng chỉ đạo, định hướng quá trình xây dựng,

hoàn thiện và thực thi pháp luật. Do vậy, việc tìm hiểu những nguyên tắc giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại để thấy rõ bản chất, ưu thế của
phương thức giải quyết tranh chấp này, phần nào lý giải được thực trạng giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại ở Việt Nam trong thời gian qua.
Xuất phát từ lợi ích của phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
thương mại đối với hoạt động kinh doanh của các bên; từ ý nghĩa vai trò của
nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại đối với hoạt động
của trọng tài thương mại, từ thực trạng thực hiện pháp luật về trọng tài thương
mại tại Việt Nam hiện nay mà tác giả chọn vấn đề “Những nguyên tắc giải


2

quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại” làm đề tài Luận văn thạc sỹ luật
học của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Tác giả nghiên cứu các nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
thương mại để làm rõ bản chất của phương thức giải quyết tranh chấp này, nội
dung của từng nguyên tắc, đánh giá sự thể hiện nguyên tắc trong các quy định
của pháp luật hiện hành cũng như trên thực tế từ đó lý giải nguyên nhân tại sao
giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương mại chưa thực sự được các doanh
nghiệp tin dùng ở Việt Nam. Từ những nhận định, phân tích đánh giá về nội
dung từng nguyên tắc, sự thể hiện của nguyên tắc trong các quy định của pháp
luật cũng như trên thực tế, tác giả đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
thương mại ở Việt Nam với mong muốn phương thức giải quyết này được các
doanh nghiệp, các nhà kinh doanh ưu tiên lựa chọn khi giải quyết tranh chấp
phát sinh.
3. Phạm vi nghiên cứu.
Tác giả nghiên cứu những nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài

thương mại trong phạm vi các quy định pháp luật hiện hành về trọng tài thương
mại mà chủ yếu được ghi nhận tại Luật TTTM 2010. Trong quá trình nghiên cứu
tác giả cũng có sự so sánh, đối chiếu các quy định pháp luật về trọng tài thương
mại của Việt Nam hiện hành với Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003, một số
quy định về trọng tài có liên quan trong pháp luật về trọng tài một số nước trên
thế giới như Anh, Mỹ…hay trong một số Quy tắc tố tụng trọng tài của một số
trung tâm trọng tài lớn trên thế giới.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài được thực hiện bằng nhiều phương pháp nghiên
cứu khoa học khác nhau, như phương pháp tổng hợp và phân tích, phương pháp
thống kế, phương pháp so sánh và đối chiếu, phương pháp kết hợp nghiên cứu lý


3

luận và thực tiễn. Các phương pháp nghiên cứu trong luận văn được thực hiện
trên nền tảng của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, dựa trên các
quan điểm, đường lối về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của Đảng và Nhà
nước trong quản lý Nhà nước nói chung và quản lý nhà nước đối với hoạt động
của trọng tài thương mại nói riêng.
5. Tình hình nghiên cứu đề tài
Lĩnh vực trọng tài thương mại luôn được sự quan tâm, chú ý của các nhà
nghiên cứu. Các công trình nghiên cứu về các nội dung của trọng tài thương mại
được thể hiện dưới các cấp độ khóa luận tốt nghiệp, luận văn, luận án. Có thể kể
đến những công trình nghiên cứu như
- Pháp luật giải quyết tranh chấp bằng hình thức trọng tài - Luận văn
thạc sỹ của tác giả Phạm Thị Hương Thủy, trường Đại học Luật Hà Nội, năm
2004,
- Hoàn thiện pháp luật vê trọng tài thương mại của Việt Nam trong điều
kiện hội nhập quốc tế- Luận án tiến sỹ của tác giả Nguyễn Đình Thơ, Trường

Đại học Luật Hà Nội, năm 2007;
- Giải quyết tranh chấp thương mại quốc tế tại trọng tài Việt Nam- Luận
văn thạc sỹ của tác giả Trần Minh Ngọc, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm
2004.
Sau khi Luật TTTM 2010 có hiệu lực, vấn đề trọng tài thương mại tiếp tục
nhận được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu, có thể kể đến các công trình
như:
- Luật trọng tài thương mại năm 2010- Bước phát triển mới của pháp luật
trọng tài thương mại Việt Nam - Luận văn thạc sỹ của tác giả Nguyễn Thị Hồng
Hạnh, Trường đại học Luật Hà Nội, năm 2011;
- Phương thức giải quyết tranh chấp kinh doanh, thương mại bằng trọng
tài và tòa án dưới góc độ so sánh- Luận văn thạc sỹ của tác giả Cao Thị Thanh
Thủy, Trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2012;


4

- Sự hỗ trợ của cơ quan tư pháp đối với hoạt động của trọng tài thương
mại theo Luật trọng tài thương mại 2010- Luận văn thạc sỹ của tác giả Phan
Chân Nhân, trường Đại học Luật Hà Nội, năm 2012;
- Pháp luật về thi hành phán quyết của trọng tài thương mại ở Việt NamMột số vấn đề lý luận và thực tiễn- Luận văn thạc sỹ của tác giả Nguyễn Mạnh
Cường năm 2012.
Như vậy có thể nói vấn đề trọng tài thương mại không còn là vấn đề mới
trong giới nghiên cứu luật học. Tuy vậy, các công trình nghiên cứu thường tập
trung vào một vấn đề của trọng tài thương mại như phán quyết trọng tài, thỏa
thuận trọng tài, sự hỗ trợ của tòa án đối với hoạt động trọng tài…chứ chưa có
công trình nghiên cứu nào đi sâu phân tích và luận giải những nguyên tắc giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại, cơ sở những nguyên tắc đó, sự thể
hiện các nguyên tắc đó ra sao trong các quy định pháp luật hiện hành cũng như
trên thực tế… Vì vậy, đề tài “Những nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng

trọng tài thương mại” mang tính mới nhất định cả về mặt lý luận và thực tiễn.
6. Những điểm mới của Luận văn
Trong Luận văn, tác giả đi sâu phân tích và làm rõ những nguyên tắc giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại, xây dựng khái niệm nguyên tắc giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại, cơ sở những nguyên tắc, sự thể hiện
của các nguyên tắc trong các quy định pháp luật về trọng tài thương mại cũng
như trên thực tế từ đó tác giả cũng chỉ ra những mặt đạt được cũng như những
điểm còn tồn tại của pháp luật về nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
thương mại. Trên cơ sở những mặt tồn tại đã phân tích, tác giả cũng đưa ra
những đề xuất nhằm hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật về những nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại.
Với phạm vi nghiên cứu, mục đích nghiên cứu và những đóng góp đã kể trên thì
có thể khẳng định rằng đề tài nghiên cứu của tác giả về những nguyên tắc giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại chứa đựng những điểm mới nhất
định, đáp ứng yêu cầu của một công trình nghiên cứu luật học.


5

7. Kết cấu luận văn
Ngoài Lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được
kết cấu thành ba chương:
Chương 1: Khái quát về những nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài thương mại.
Chương 2: Thực trạng các quy định pháp luật về những nguyên tắc giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại.
Chương 3 : Hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật về những nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại.



6

CHƢƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ NHỮNG NGUYÊN TẮC GIẢI QUYẾT
TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI
1.1. Khái niệm những nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương
mại
Nguyên tắc, theo từ điển Tiếng Việt được hiểu là “điều cơ bản định ra,
nhất thiết phải tuân theo trong một loạt việc làm” [31,tr. 694 ]. Do vậy bất cứ
hoạt động nào có mục đích muốn đạt được kết quả đều đòi hỏi người thực hiện
phải xác định được những nguyên tắc cơ bản và tuyệt đối tuân thủ nó. Hoạt động
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại là hoạt động mang tính thực tiễn
và khoa học cao do vậy cũng phải tuân theo những nguyên tắc nhất định.
Theo lí luận về nhà nước và pháp luật, nguyên tắc của ngành luật (hoặc
lĩnh vực pháp luật) thường được hiểu là những tư tưởng chính trị, pháp lí cơ bản
chỉ đạo, định hướng cho hoạt động xây dựng và thực hiện các quy định của nó.
Trên thực tế, các tư tưởng pháp lý chỉ có giá trị bắt buộc nếu được thể hiện dưới
hình thức quy phạm pháp luật. Do vậy, các nguyên tắc của một ngành luật
thường được quy định trong văn bản pháp luật về ngành luật đó làm cơ sở cho
việc thực hiện và được quy định dưới dạng của quy phạm chung [14, tr244]
Để làm rõ nội hàm khái niệm nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
thương mại thì phải hiểu rõ như thế nào là giải quyết tranh chấp và như thế nào
là trọng tài thương mại.
Tranh chấp được hiểu là những mâu thuẫn, bất đồng về lợi ích giữa các
chủ thể trong một giao dịch.Tranh chấp rất dễ phát sinh trong hoạt động kinh
doanh, vì vậy giải quyết tranh chấp phát sinh được coi là đòi hỏi tự thân của nền
kinh tế. Giải quyết tranh chấp chính là việc lựa chọn các hình thức, biện pháp
thích hợp để giải tỏa các mâu thuẫn, bất đồng, xung đột lợi ích giữa các bên, tạo
lập lại trạng thái cân bằng về lợi ích mà các bên có thể chấp nhận được. Trọng
tài thương mại cũng là một phương thức giải quyết tranh chấp. Do vậy, nó cũng
hướng tới mục đích là giải các mâu thuẫn, bất đồng giữa các bên, đảm bảo quyền

và lợi ích hợp pháp của các bên trong hoạt động thương mại.


7

Theo Đại từ điển kinh tế tế thị trường, Trọng tài là “phương pháp giải
quyết hòa bình các vụ tranh chấp, là chỉ đôi bên đương sự tự nguyện đem những
sự việc, những vấn đề tranh chấp giao cho người thứ ba có tư cách công bằng,
chính trực xét xử, lời phán quyết do người này đưa ra có hiệu lực ràng buộc với
cả hai bên” [30, tr.1989 ]. Theo định nghĩa này, trọng tài được hiểu là một
phương thức giải quyết tranh chấp với sự tham gia của người thứ ba và lời phán
quyết được đưa ra bởi người thứ ba này có hiệu lực ràng buộc với cả hai bên.
Theo Luật TTTM 2010 thì “trọng tài thương mại là phương thức giải
quyết tranh chấp do các bên thỏa thuận và được tiến hành theo quy định của
Luật này”. Như vậy, theo quy định của pháp luật Việt Nam, trọng tài thương mại
là một trong bốn phương thức giải quyết là thương lượng, hòa giải, Trọng tài
thương mại và Tòa án. Mỗi phương thức giải quyết tranh chấp đều có ưu và
nhược điểm nhất định tùy thuộc vào sự đánh giá của mỗi chủ thể trong quan hệ
có tranh chấp, vào mỗi hoàn cảnh xảy ra tranh chấp… Phương thức giải quyết
tranh chấp bằng Trọng tài thương mại với đặc điểm giải quyết nhanh chóng, thủ
tục linh hoạt, giải quyết không công khai và xét xử một lần…ngày càng được
các nhà kinh doanh lựa chọn làm phương thức giải quyết tranh chấp của mình.
Trọng tài thương mại là một phương thức giải quyết tranh chấp giữa các
chủ thể kinh doanh trong hoạt động thương mại và nguyên tắc được hiểu là
những tư tưởng chỉ đạo, định hướng cho những công việc nhất định. Do đó, tác
giả đưa ra định nghĩa về những nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
thương mại như sau:
Những nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại là
những tư tưởng chỉ đạo, định hướng cho toàn bộ quá trình giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài thương mại thể hiện bản chất của trọng tài thương mại và được

quy định trong Luật Trọng tài thương mại cũng như các văn bản quy phạm pháp
luật khác có liên quan.


8

1.2. Đặc điểm những nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương
mại
Những nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại mang
những đặc điểm sau:
Thứ nhất, những nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương
mại là những tư tưởng chỉ đạo, định hướng cho toàn bộ quá trình giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài thương mại. Trong cả quá trình giải quyết tranh chấp các
trọng tài viên, Hội đồng trọng tài phải tuyệt đối tuân thủ những nguyên tắc này.
Mọi hành vi không thực hiện hay thực hiện không đúng những nguyên tắc đều
được coi là hành vi trái pháp luật. Trong hoạt động giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài nếu trọng tài viên không tuân thủ những nguyên tắc thì phán quyết của
trọng tài có thể bị Tòa án có thẩm quyền tuyên hủy theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, những nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương
mại thể hiện bản chất của trọng tài thương mại.
Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại là sự kết hợp giữa hai yếu
tố thỏa thuận và tài phán. Thỏa thuận làm tiền đề cho phán quyết và không thể có
phán quyết thoát ly những yếu tố đã thỏa thuận. Các đương sự có thể lựa chọn
bất cứ trọng tài vụ việc (trọng tài ad-hoc) hoặc bất cứ tổ chức trọng tài nào trên
thế giới để làm người phân xử cho tranh chấp phát sinh giữa các bên.
Giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại bảo đảm quyền tự do
định đoạt của đương sự cao hơn so với quyết định giải quyết tranh chấp dân sự
bằng tòa án như các đương sự có quyền lựa chọn trọng tài viên, địa điểm giải
quyết tranh chấp, lựa chọn quy tắc tố tụng. Bản chất của giao dịch phát sinh
tranh chấp trong lĩnh vực kinh doanh thương mại cũng là giao dịch dân sự với

nguyên tắc tối thượng là đề cao và tôn trọng sự thỏa thuận hợp pháp của các bên.
Do vậy về nguyên tắc, trong tố tụng trọng tài hay tố tụng dân sự ở Tòa án thì
Trọng tài/Tòa án đều phải đảm bảo quyền tự do định đoạt của đương sự trong
mọi quá trình tố tụng. Tuy nhiên trong tố tụng Tòa án nghĩa vụ tôn trọng sự thỏa


9

thuận của các bên chỉ áp dụng cho nội dung tranh chấp (thỏa thuận về nội dung
giải quyết vụ án như vấn đề hòa giải, những giải quyết nội dung của vụ tranh
chấp…) chứ không áp dụng cho những nội dung liên quan đến mặt thủ tục tố
tụng (tòa án có thẩm quyền thụ lý, thời hạn giải quyết…). Trong tố tụng tòa án,
những vấn đề về tố tụng được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự 2004, sửa
đổi bổ sung 2011. Ngược lại, trong tố tụng trọng tài các bên hoàn toàn được thỏa
thuận toàn bộ các vấn đề liên quan đến vụ tranh chấp từ những vấn đề về mặt nội
dung cũng như những vấn đề về mặt tố tụng. Tại phương thức giải quyết này,
các bên hoàn toàn có khả năng lựa chọn trọng tài làm phương thức giải quyết,
lựa chọn địa điểm tiến hành trọng tài, thời gian giải quyết, lựa chọn trọng tài
viên, hội đồng trọng tài, thỏa thuận cách thức giải quyết tranh chấp, hòa
giải….Vì vậy, có thể khẳng định rằng, trong tố tụng Tòa án quyền tự do định
đoạt của các đương sự được thể hiện sâu sắc và toàn diện hơn so với giải quyết
tranh chấp mang tính chất dân sự tại cơ quan Tòa án.
Phán quyết trọng tài có giá trị chung thẩm và không thể bị kháng cáo
trước bất cứ cơ quan, tổ chức nào. Đây cũng là một đặc điểm đặc thù của giải
quyết bằng Trọng tài thương mại trong mối tương quan với Tòa án. Với tính chất
xét xử một lần, một cấp xét xử, phán quyết Trọng tài mang tính chất chung thẩm,
các bên có nghĩa vụ thi hành phán quyết. Không có một tổ chức trọng tài nào có
thể hủy phán quyết của bất kỳ tổ chức trọng tài nào bởi các tổ chức trọng tài, các
trọng tài viên có tư cách pháp lý bình đẳng, độc lập nhau không phải mối quan
hệ cấp trên- cấp dưới như tổ chức trong hệ thống Tòa án. Để giám sát hoạt động

tuân thủ pháp luật của Hội đồng trọng tài, pháp luật các nước cũng ghi nhận cơ
chế hủy phán quyết trọng tài của Tòa án khi đáp ứng những quy định của pháp
luật. Tuy nhiên, khi xem xét để hủy phán quyết trọng tài, Tòa án cũng chỉ xem
xét những vấn đề về mặt tố tụng của quá trình giải quyết tranh chấp, chứ không
xem xét những vấn đề về mặt nội dung mà Hội đồng trọng tài đã giải quyết. Như
vậy, tính chung thẩm của phán quyết trọng tài vẫn được đảm bảo.


10

Thứ ba, những nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại
được ghi nhận trong Luật TTTM cũng như các văn bản pháp luật khác. Ở nước
ta, những nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại được ghi
nhận tại điều 4 Luật TTTM 2010 và được thể hiện ở các điều luật cụ thể trong
Luật TTTM 2010. Việc ghi nhận những nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài thương mại thành một điều luật riêng nhằm nhấn mạnh ý nghĩa, vai trò
của những nguyên tắc này đối với quá trình giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
thương mại.
1.3. Ý nghiã của những nguyên tắc giải quyết tranh chấp đối với hoạt động
của trọng tài thương mại.
Nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại là những tư
tưởng chỉ đạo, định hướng cho toàn bộ của quá trình giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài thương mại thể hiện bản chất của trọng tài thương mại.
Nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại là tư tưởng
pháp lý chỉ đạo nên việc thực hiện đúng các nguyên tắc này trong quá trình xây
dựng và thực hiện pháp luật trọng tài có ý nghĩa quan trọng. Trong việc xây
dựng pháp luật về trọng tài phải dựa vào các nguyên tắc giải quyết tranh chấp để
xây dựng các quy phạm pháp luật cụ thể, phù hợp tránh được những mâu thuẫn
chồng chéo giữa các quy phạm pháp luật hoặc thiếu sự nhất quán giữa các văn
bản pháp luật. Ngoài ra, dựa vào nguyên tắc cũng có thể tìm ra những mâu

thuẫn, khiếm khuyết của quy phạm pháp luật đã ban hành để sửa chữa, bổ sung,
hoàn thiện quy phạm pháp luật đó. Trong việc thực hiện pháp luật, những bên
tham gia vào quá trình giải quyết tranh chấp phải tuyệt đối tuân thủ các nguyên
tắc giải quyết tranh chấp. Trong trường hợp không tuân thủ thì quyết định giải
quyết bằng trọng tài thể hiện dưới hình thức phán quyết trọng tài có thể bị hủy
bỏ bởi cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Tòa án). Như vậy, dưới góc độ thực
hiện pháp luật thì nguyên tắc giải quyết tranh chấp còn có ý nghĩa là thước đo
tính hợp pháp của cả quá trình giải quyết tranh chấp, của quyết định trọng tài.


11

Khi phát hiện trọng tài viên giải quyết tranh chấp đi ngược lại với các nguyên tắc
thì đó là một trong những căn cứ để hủy phán quyết trọng tài.
Nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại thể hiện
những đặc trưng của quá trình giải quyết tranh chấp bằng phương thức này so
với các phương thức khác (như thương lượng, hòa giải hay Tòa án). Nguyên tắc
là những tư tưởng chỉ đạo quá trình xây dựng pháp luật, hoàn thiện pháp luật và
thực thi pháp luật trong lĩnh vực nhất định. Do vậy ngoài những nguyên tắc
chung của yêu cầu giải quyết tranh chấp thì mỗi phương thức giải quyết tranh
chấp khác nhau sẽ có những nguyên tắc đặc thù góp phần làm nên nét đặc thù
của phương thức giải quyết tranh chấp đó. Nếu như trong tòa án nguyên tắc hai
cấp xét xử, xét xử công khai, Thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật được xem là những nguyên tắc đặc thù thì giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài thương mại nguyên tắc xét xử không công khai, phán quyết
của trọng tài là chung thẩm được đánh giá là nét đặc trưng của phương thức giải
quyết tranh chấp này.
1.4. Sự hình thành và phát triển những nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài thương mại ở Việt Nam
Pháp luật Việt Nam thừa nhận khá sớm vai trò của Trọng tài trong giải

quyết tranh chấp. Theo một số tài liệu thì trọng tài đã từng được thừa nhận trong
pháp luật An Nam từ cuối thế kỷ 19. Chẳng hạn, trong một tranh chấp về đất đai
giữa Dương Thị Lành và Võ Văn Thụ, hai bên đã thỏa thuận yêu cầu một chuyên
gia nước ngoài làm trọng tài. Liên quan đến việc thi hành phán quyết của Trọng
tài, Tòa thượng thẩm sài gòn đã xét rằng “trọng tài được thừa nhận ở An
Nam”[43]
Sự hình thành và phát triển tiếp theo của Trọng tài thương mại Việt Nam
gắn liền với sự hình thành và phát triển của nền kinh tế thị trường. Cùng với sự
phát triển các chế định pháp luật về trọng tài thương mại, sự ghi nhận những
nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng hình thức này cũng có những thay đổi
nhất định qua từng thời kỳ.


12

1.4.1. Thời kỳ từ 1960-1994
Sự hình thành và phát triển của trọng tài kinh tế nhà nước với vai trò là cơ
quan quản lý nhà nước về chế độ hợp đồng kinh tế. Thời gian này, hoạt động của
Trọng tài được điều chỉnh bởi các văn bản pháp luật sau:
Nghị định 20/NĐ-TTg về tổ chức ngành trọng tài kinh tế do Thủ tướng
Chính phủ ban hành ngày 14/01/1960 sau khi ban hành Nghị định số 04/TTg
ngày 04/1/1960 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Điều lệ tạm thời về chế độ
hợp đồng kinh tế.
Ngày 14/4/1975, Chính phủ ban hành Nghị định 75/CP quy định Điều lệ
về tổ chức và hoạt đồng của hội đồng trọng tài kinh tế ngay sau khi Bản điều lệ
chính thức về hợp đồng kinh tế được ban hành kèm theo nghị định số 54 NĐ/CP
ngày 10/03/1975 được ban hành.
Ngày 10/1/1990 Pháp lệnh Trọng tài kinh tế Nhà nước được ban hành bởi
Hội đồng Nhà nước sau khi Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế được ban hành ngày
25/9/1989.

Cùng với sự ra đời của các văn bản pháp luật kể trên thì cơ cấu tổ chức
của trọng tài kinh tế Nhà nước cũng được cải tổ nhiều lần: lần đầu theo Nghị
định số 20/TTg thì trọng tài kinh tế được tổ chức ở Trung ương, Khu (Khu Việt
Bắc, khu tự trị Việt Bắc), Bộ; sau đó cải tổ theo cơ cấu trọng tài kinh tế trung
ương, Bộ, tỉnh rồi lại cải tổ theo địa giới hành chính là trọng tài kinh tế Trung
ương, tỉnh, huyện. Chức năng của Trọng tài kinh tế nhà nước lúc bấy giờ là quản
lý chế độ hợp đồng kinh tế, thanh tra, kiểm tra, đôn đốc, nhắc nhở việc thực hiện
hợp đồng kinh tế, xét xử các tổ chức kinh tế và theo pháp lệnh trọng tài kinh tế
thì thêm cả chức năng xử lý, kết luận và tuyên hợp đồng kinh tế vô hiệu.
Về nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, mặc dù trong Pháp
lệnh trọng tài kinh tế không có điều luật nào trực tiếp ghi nhận các nguyên tắc
giải quyết, nhưng thông qua các điều luật cụ thể, có thể thấy rằng, Trọng tài kinh
tế hoạt động theo những nguyên tắc sau đây:


13

1. Khi giải quyết tranh chấp, trọng tài viên chỉ tuân theo pháp luật và chịu
trách nhiệm cá nhân trước pháp luật về các quyết định của mình [10, Điều 3]
2. Khi giải quyết tranh chấp, trọng tài kinh tế căn cứ vào các điều khoản
của hợp đồng, các quy định pháp luật, theo nguyên tắc thương lượng để thỏa
thuận phù hợp với pháp luật [10, Điều 4]
3. Các bên tranh chấp bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong tố tụng trọng
tài kinh tế [10, Điều 5]
4. Quyết định của Trọng tài được xem xét lại khi có kháng cáo, khi phát
hiện có vi phạm pháp luật hoặc khi có tình tiết mới được phát hiện [10, Điều 6]
Như vậy, dựa vào các nguyên tắc giải quyết tranh chấp được nêu ở trên
cùng với cơ cấu tổ chức của trọng tài kinh tế, ta thấy được sự tương đồng giữa
giải quyết tranh chấp bằng trọng tài và giải quyết tranh chấp bằng Tòa án. Năm
1994, hoạt động của Trọng tài kinh tế Nhà nước được thay thế bằng hoạt động

của Tòa kinh tế.
Trong thời gian này bên cạnh sự tồn tại của Trọng tài kinh tế Nhà nước là
cơ quan giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế còn có sự xuất hiện và hoạt động
các trọng tài phi chính phủ để giải quyết các tranh chấp kinh tế phát sinh từ quan
hệ kinh tế quốc tế. Đó là Hội đồng trọng tài ngoại thương thành lập theo nghị
định số 59/CP và Hội đồng trọng tài hàng hải theo Nghị định số 153/CP. Các tổ
chức trọng tài này có thẩm quyền giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động
mua bán ngoại thương, thanh toán quốc tế, vận chuyển quốc tế, hàng hóa và bảo
hiểm quốc tế. Sau một thời gian hoạt động, mặc dù đã mang lại những kết quả
nhất định nhưng hoạt động của các tổ chức trọng tài này vẫn còn tồn tại nhiều
hạn chế. Do vậy, ngày 28/4/1993 Thủ tướng Chính phủ ban hành quyết định số
204/TTg về tổ chức trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng
thương mại và Công nghiệp Việt Nam, trên cơ sở hợp nhất Hội đồng Trọng Tài
Ngoại thương và Hội đồng Trọng tài Hàng Hải. Kèm theo Quyết định này, Thủ
tướng Chính phủ ban hành Điều lệ tổ chức trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam


14

xác định rõ trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam là một tổ chức phi chính phủ và
có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp phát sinh từ quan hệ kinh tế quốc tế.
Một nguyên tắc đã được ghi nhận là khi giải quyết tranh chấp “các trọng tài viên
phải thực hiện nhiệm vụ một cách độc lập, vô tư khách quan” (Điều 9).
1.4.2. Thời kỳ 1994-2003
Ngày 5/9/1994, Chính phủ ban hành quyết định 116/CP về tổ chức và hoạt
động của trọng tài kinh tế, quy định trọng tài kinh tế là tổ chức xã hội- nghề
nghiệp và được tổ chức dưới hình thức trung tâm trọng tài kinh tế. Tại Nghị định
này gián tiếp quy định các nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài như:
Các bên có quyền thỏa thuận lựa chọn trung tâm trọng tài kinh tế để giải quyết
tranh chấp, trọng tài viên giải quyết tranh chấp kinh tế phải tôn trọng sự thật

khách quan, vô tư và đúng pháp luật. Đặc biệt tại Điều 5 Nghị định quy định
“Quyết định giải quyết tranh chấp của Trung tâm trọng tài kinh tế (sau đây gọi
là quyết định trọng tài) có hiệu lực thi hành ngay, không bị kháng cáo”. Đây là
nguyên tắc khác với nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài kinh tế được
quy định trong Pháp lệnh trọng tài kinh tế, đồng thời cũng là một tiêu chí phân
biệt phương thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương mại với phương
thức giải quyết tranh chấp bằng Tòa án.
Như vậy, trong giai đọan 1994-2003 bên cạnh cơ quan tài phán Nhà nước
là Tòa kinh tế, thì ở nước ta tồn tại song song hai loại tổ chức trọng tài có cùng
bản chất là trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam và trung tâm trọng tài kinh tế
dựa trên hai cơ sở pháp lý khác nhau là Quyết định 204/TTg và Nghị định
116/CP. Thực tế, cả nước có năm trung tâm trọng tài được thành lập theo Nghị
định 116/CP trong đó Hà Nội có 2 trung tâm, Thành phố Hồ Chí Minh- 1 trung
tâm, Bắc Giang -1 trung tâm và Cần Thơ -1 trung tâm và trung tâm trọng tài
quốc tế Việt Nam với tổng cộng 94 thẻ trọng tài viên được cấp. Tuy nhiên, dù
trọng tài phi chính phủ đã xuất hiện nhưng hoạt động của các tổ chức trọng tài
này lại không thể mang lại những hiệu quả như nhà làm luật mong muốn.


15

1.4.3. Giai đoạn 2003- nay
Để đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường, ngày 25/02/2003, Ủy ban
thường vụ Quốc hội ban hành Pháp lệnh Trọng tài thương mại có hiệu lực từ
ngày 1/7/2003 đánh dấu bước phát triển mới của trọng tài thương mại. Pháp lệnh
trọng tài thương mại đã phần nào khắc phục những điểm bất cập, chồng chéo,
mâu thuẫn của văn bản trước đây về trọng tài đồng thời đưa ra nhiều cơ chế, quy
định mới có khả năng đáp ứng tốt hơn cho quá trình hội nhập. Về nguyên tắc giải
quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại, tại điều 3 Pháp lệnh trọng tài thương
mại quy định:

“1. Tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài nếu trước hoặc sau khi xảy
ra tranh chấp các bên có thỏa thuận trọng tài.
2. Khi giải quyết tranh chấp, Trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô
tư, phải căn cứ vào pháp luật và tôn trọng thỏa thuận các bên”
Gần 10 năm áp dụng và thực hiện trên thực tế, Pháp lệnh trọng tài thương
mại mặc dù đã thu được nhiều kết quả nhưng cũng tồn tại nhiều bất cập trên thực
tế, dẫn đến nhu cầu tất yếu cho việc ra đời một văn bản pháp luật thay thế. Ngày
17 tháng 6 năm 2010, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật trọng tài thương mại
thay thế cho Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003. Luật TTTM 2010 ra đời được
đánh giá là bước phát triển của pháp luật trọng tài ở Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý
vững chắc cho sự phát triển của hoạt động giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
thương mại trong thời gian sắp tới. Tại Điều 4, Luật TTTM ghi nhận các nguyên
tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, gồm:
“1. Trọng tài viên phải tôn trọng thỏa thuận của các bên nếu thỏa thuận
đó không vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội
2. Trọng tài viên phải độc lập, khách quan, vô tư và tuân theo quy định
của pháp luật
3. Các bên tranh chấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Hội đồng trọng
tài có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình


16

4. Giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài được tiến hành không công khai,
trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác.
5. Phán quyết trọng tài là chung thẩm”
Như vậy, cùng với sự phát triển của pháp luật về trọng tài thương mại,
những nguyên tắc giải quyết tranh chấp về trọng tài cũng có những thay đổi đáng
kể. Một số nguyên tắc xuất hiện cùng thời điểm với sự xuất hiện của trọng tài
như nguyên tắc độc lập, khách quan của trọng tài viên. Bên cạnh đó, cũng có

một số nguyên tắc tuy thời gian đầu không được ghi nhận trực tiếp thành một
nguyên tắc, nhưng chúng cũng được ghi nhận trong các quy định cụ thể và phần
nào thể hiện đặc trưng của quá trình giải quyết tranh chấp bằng trọng tài so với
các phương thức giải quyết tranh chấp khác như nguyên tắc giải quyết tranh chấp
không công khai, nguyên tắc phán quyết trọng tài là chung thẩm.
Tiểu kết Chƣơng 1
Ở nước ta, phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại
tuy có lịch sử muộn hơn so với các nước trên thế giới nhưng Đảng và Nhà nước
ta luôn có những chính sách nhằm khuyến khích phát triển hoạt động của
phương thức giải quyết tranh chấp này. Hiện nay, những nguyên tắc giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài thương mại ở nước ta đã thể hiện bản chất của hình
thức giải quyết tranh chấp này- một phương thức giải quyết tranh chấp linh
hoạt, phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường, các quy phạm pháp luật đã
thể hiện nội dung của những nguyên tắc giải quyết tranh chấp và cơ bản đã đạt
chuẩn so với thế giới. Thực tế quá trình giải quyết tranh chấp bằng trọng tài
thương mại, các trọng tài viên luôn quán triệt nội dung của các nguyên tắc này.
Tuy nhiên, một số quy định pháp luật cũng như thực tiễn thi hành pháp luật về
trọng tài thương mại ở một số địa phương trong một số trường hợp chưa thể
hiện đầy đủ và chi tiết tư tưởng của những nguyên tắc giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài thương mại. Những vấn đề này chính là nội dung chương 2 của
Luận văn.


17

CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ NHỮNG
NGUYÊN TẮC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP BẰNG TRỌNG TÀI
THƢƠNG MẠI
Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại là những
tư tưởng chỉ đạo quá trình giải quyết tranh chấp giữa các bên mà các Trọng tài

viên phải tuân thủ. Luật TTTM 2010 kế thừa các nguyên tắc giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài đã được quy định trong Nghị định số 116/CP của Chính phủ
ngày 5/9/1994 quy định về tổ chức và hoạt động của trọng tài kinh tế và Pháp
lệnh Trọng tài thương mại năm 2003; bên cạnh những nguyên tắc tương tự
(nguyên tắc giải quyết bằng con đường tòa án, hòa giải như nguyên tắc trọng tài
viên độc lập, khách quan, vô tư; nguyên tắc các bên bình đẳng với nhau về
quyền và nghĩa vụ; nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận của các bên) thì Luật
TTTM 2010 cũng ghi nhận những nguyên tắc đặc thù tạo nên nét đặc trưng của
phương thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại so với các phương
thức giải quyết tranh chấp khác như nguyên tắc giải quyết tranh chấp không
công khai, nguyên tắc phán quyết trọng tài là chung thẩm. Trong phạm vi
chương này, tác giả đi sâu phân tích và bình luận từng nguyên tắc dựa trên cơ sở
của nguyên tắc, nội dung nguyên tắc, sự thể hiện của nguyên tắc trong các quy
định của pháp luật và trên thực tế theo ba nhóm là nhóm nguyên tắc liên quan
đến các bên tranh chấp, nhóm nguyên tắc liên quan đến người giải quyết tranh
chấp và nhóm nguyên tắc liên quan đến thủ tục giải quyết tranh chấp.
2.1. Nguyên tắc liên quan đến các bên tranh chấp: Nguyên tắc các bên bình
đẳng về quyền và nghĩa vụ
Nguyên tắc các bên tranh chấp bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ
trong quá trình giải quyết tranh chấp bằng trọng tài thương mại là sự thể hiện
nguyên tắc mọi người bình đẳng trước pháp luật được ghi nhận trong các công
ước quốc tế nói chung cũng như trong các văn bản pháp luật trong nước (Hiến


18

pháp 1992 , Bộ luật tố tụng dân sự 2004...) nói riêng. Điều 4, khoản 3 Luật
TTTM 2010 chỉ rõ “Các bên tranh chấp đều bình đẳng về quyền và nghĩa vụ.
Hội đồng trọng tài có trách nhiệm tạo điều kiện để họ thực hiện quyền và nghĩa
vụ của mình”.

Nguyên tắc các bên tranh chấp bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ
đã được đề cập một cách rõ ràng trong cả Công ước New York và Luật Mẫu
UNCITRAL và được pháp luật trọng tài một số quốc gia trên thế giới ghi nhận.
Tại điều 18, Luật Mẫu UNCITRAL quy định “Các bên phải được đối xử một
cách công bằng và mỗi bên phải được trao đầy đủ cơ hội để trình bày về vụ việc
của mình”. Theo nguyên tắc này, các bên tranh chấp hoàn toàn có quyền như
nhau trong việc lựa chọn, khước từ trọng tài viên, lựa chọn địa điểm, đưa ra yêu
cầu và các lý lẽ biện minh cũng như các chứng cứ để trọng tài xem xét và việc
tiếp nhận thông tin này từ các bên. Các đương sự có vị trí tố tụng như nhau thì có
quyền, nghĩa vụ tố tụng như nhau. Trường hợp các đương sự có vị trí tố tụng
khác nhau (ví dụ như nguyên đơn và bị đơn) thì bên cạnh ghi nhận những quyền
và nghĩa vụ đối ứng, pháp luật còn quy định các trường hợp các bên bình đẳng
với nhau trong quá trình giải quyết tranh chấp. Sự bình đẳng bao gồm cả sự bình
đẳng về quyền và sự bình đẳng về nghĩa vụ.
Trong quan hệ tranh chấp, các bên có địa vị pháp lý như nhau, do vậy
trong tố tụng trọng tài, các bên cũng có tư cách tố tụng bình đẳng với nhau trong
tất cả các hoạt động tố tụng nhằm đảm bảo giải quyết vụ tranh chấp một cách
công bằng và bảo vệ lợi ích hợp pháp của các bên. Bên cạnh việc ghi nhận trong
pháp luật của các quốc gia thì yêu cầu đối xử công bằng giữa các bên tranh chấp
cũng được thể hiện trong nhiều Quy tắc tố tụng của nhiều Trung tâm trọng tài
trên thế giới như quy tắc tố tụng UNCITRAL “ Theo Qui tắc này, hội đồng trọng
tài có thể tiến hành trọng tài theo cách thức mà hội đồng thấy là phù hợp, với
điều kiện là các bên đều được đối xử công bằng và tại bất cứ giai đoạn nào của
quá trình tố tụng từng bên có được cơ hội đầy đủ để trình bày vụ việc của mình”


19

[38,Điều 15], tại Quy tắc tố tụng trọng tài của Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới
(WIPO) (Điều 38), Điều 15 Quy tắc ICC, Điều 42 Quy tắc ICSID. Việc đảm bảo

sự bình đẳng giữa các bên tranh chấp thì tạo điều kiện cho quá trình giải quyết
tranh chấp đi đến thành công và phán quyết của trọng tài sẽ dễ dàng được các
bên tự nguyện thi hành.
Luật TTTM 2010 đã thể hiện khá đầy đủ nội dung của nguyên tắc các bên
tranh chấp bình đẳng về quyền và nghĩa vụ. Với vị trí tố tụng khác nhau, Luật
TTTM 2010 ghi nhận quyền nộp đơn khởi kiện của nguyên đơn cùng với quyền
nộp bản tự bảo vệ, quyền nộp yêu cầu phản tố của bị đơn. Các bên tranh chấp
còn bình đẳng với nhau về quyền chỉ định trọng tài viên, quyền yêu cầu thay đổi
trọng tài viên khi có căn cứ quy định tại Điều 42 Luật TTTM 2010, quyền khiếu
nại trong trường hợp Hội đồng trọng tài vượt quá thẩm quyền của mình (khoản
2, Điều 43, Điều 44); quyền yêu cầu hội đồng trọng tài triệu tập người làm
chứng (Điều 47), quyền yêu cầu áp dụng, thay đổi, bổ sung, hủy bỏ biện pháp
khẩn cấp tạm thời (Điều 48, Điều 51); quyền yêu cầu hoãn phiên họp giải quyết
tranh chấp trong trường hợp có lý do chính đáng (Điều 57); quyền yêu cầu hủy
phán quyết trọng tài (Điều 69). Bên cạnh sự bình đẳng về quyền, các bên trong
quan hệ tranh chấp còn bình đẳng với nhau về nghĩa vụ như nghĩa vụ tham dự
phiên họp giải quyết tranh chấp; nghĩa vụ cung cấp chứng cứ (Điều 46, Luật
TTTM 2010).
Nguyên tắc các bên tranh chấp bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ
không phải là nguyên tắc đặc trưng của quá trình giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài thương mại. Bởi lẽ, việc các bên tranh chấp bình đẳng với nhau về
quyền và nghĩa vụ chỉ là sự cụ thể hóa nguyên tắc hiến định “các công dân đều
bình đẳng trước pháp luật” trong quan hệ thương mại có tranh chấp. Trong việc
giải quyết tranh chấp các giao dịch dân sự nói chung, các bên tranh chấp bình
đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ cũng được ghi nhận tại Điều 8 Bộ luật tố
tụng dân sự- là một nguyên tắc cơ bản giải quyết tranh chấp dân sự bằng con


20


đường Tòa án. Tuy không phải là nguyên tắc đặc trưng của việc giải quyết tranh
chấp bằng trọng tài thương mại, nhưng việc ghi nhận trong văn bản pháp luật
một lần nữa nhấn mạnh vai trò của nguyên tắc này đối với quá trình giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài thương mại. Các nhà làm luật khẳng định các bên tranh
chấp bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ, điều đó tạo điều kiện cho việc
giải quyết tranh chấp được diễn ra nhanh chóng, và các bên dễ dàng tự nguyện
thực hiện phán quyết của Trọng tài.
2.2. Các nguyên tắc liên quan đến người giải quyết tranh chấp
2.2.1. Nguyên tắc Trọng tài viên phải tôn trọng thoả thuận của các bên nếu thỏa
thuận đó không vi phạm điều cấm và trái đạo đức xã hội.
Nguyên tắc này thể hiện rõ nét quyền tự định đoạt của các bên tranh chấp.
Đây là nguyên tắc cốt lõi của toàn bộ quá trình tố tụng trọng tài vì thực chất sự
hình thành trọng tài là do ý chí tự nguyện của các bên tranh chấp, và có một
nguyên tắc cốt lõi “không có thỏa thuận thì không có trọng tài”. Điều 5 Luật
TTTM 2010 khẳng định: tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài nếu các bên
có thoả thuận trọng tài, “Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên về việc
giải quyết bằng Trọng tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh”
[6,Điều 3, khoản 2]. Thỏa thuận trọng tài có thể được lập trước hoặc sau khi xảy
ra tranh chấp và phải được lập dưới dạng văn bản, không có thỏa thuận trọng tài
thì không thể có việc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Thỏa thuận trọng tài
về cơ bản là cơ sở cho việc phân biệt thẩm quyền giữa trọng tài và tòa án và
cũng là cơ sở để xác định thẩm quyền của trọng tài. Theo đó, trọng tài chỉ có
thẩm quyền giải quyết tranh chấp khi các bên có thỏa thuận trọng tài, đồng thời
tòa án từ chối giải quyết vụ tranh chấp khi các bên có thỏa thuận trọng tài
[6,Điều 6]. Chính vì sự hình thành trọng tài thương mại dựa trên cơ sở sự thỏa
thuận của các bên, nên có thể nói thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài
là do các bên trao cho. Đối với Tòa án, cơ quan giải quyết tranh chấp có thẩm
quyền đương nhiên và khi giải quyết tranh chấp, thẩm phán cũng như hội đồng



×