Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Hoàn thiện pháp luật về các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (636.83 KB, 78 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN THỊ LAN PHƢƠNG

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ C ÁC HẠN CH Ế ĐỂ BẢ O ĐẢM A N TOÀN
TRON G H OẠT ĐỘ NG CỦA TỔ C HỨC TÍN D ỤNG
Chuyên ngành: Luật kinh tế
M ã số: 60380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Nguyễn M inh Hằng

HÀ NỘI - 2013


M ỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1 – KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁP LUẬT CÁC HẠN CHẾ ĐỂ
BẢO ĐẢM AN TOÀN TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG . 5
1.1 M ột số vấn đề lý luận về các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động
của tổ chức tín dụng ....................................................................................... 5
1.1.1 Khái niệm các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức
tín dụng ....................................................................................................... 5
1.1.2 Đặc điểm và vai trò của các biện pháp hạn chế để bảo đảm an toàn
trong hoạt động của tổ chức tín dụng ........................................................... 6


1.2 Pháp luật về các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức
tín dụng .......................................................................................................... 9
1.2.1 Sự cần thiết của pháp luật về các hạn chế để bảo đảm an toàn trong
hoạt động của tổ chức tín dụng .................................................................... 9
1.2.2 Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về các hạn chế để bảo
đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng ...................................... 13
CHƢƠNG 2 – THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CÁC HẠN CHẾ ĐỂ BẢO
ĐẢM AN TOÀN TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG ........ 25
2.1 Quy định về Các hạn chế để bảo đảm an toàn trong quá trình thành lập
một tổ chức tín dụng ..................................................................................... 25
2.2 Quy định về Các hạn chế để bảo đảm an toàn trong quá trình hoạt động
của tổ chức tín dụng ..................................................................................... 29
2.2.1 Hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động nhận tiền gửi ............... 30
2.2.2 Hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng ................. 31
2.2.3 Hạn chế trong việc góp vốn, mua cổ phần .......................................... 39
2.2.4 Tỷ lệ đảm bảo an toàn ....................................................................... 43
2.2.5 Dự phòng rủi ro ................................................................................ 52
2.3 Quy định về Các hạn chế để bảo đảm an toàn trong quy chế kiểm soát đặc
biệt ............................................................................................................... 56


CHƢƠNG 3 – HOÀN THIỆN PHÁP LUẬ T VỀ CÁC HẠN CHẾ ĐỂ BẢO
ĐẢM AN TOÀN TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG ........ 60
3.1 Cơ sở hoàn thiện pháp luật về các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt
động của tổ chức tín dụng ............................................................................ 60
3.1.1 Xuất phát từ mục tiêu bảo đảm an toàn cho hoạt động ngân hàng và an
toàn cho cả hệ thống tín dụng .................................................................... 60
3.1.2 Xuất phát từ những bất cập trong các quy địn h của pháp luật về các hạn
chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng .................... 61
3.1.3 Xuất phát từ rủi ro thực tế trong hoạt động của các tổ chức tín dụng .. 62

3.2 Các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về các hạn chế để bảo
đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng ....................................... 63
3.2.1 Các kiến nghị hoàn thiện pháp luật về c ác hạn chế để bảo đảm an toàn
trong hoạt động của tổ chức tín dụng ......................................................... 63
3.2.2 Các kiến nghị thực hiện pháp luật về các hạn chế để bảo đảm an toàn
trong hoạt động của tổ chức tín dụng ......................................................... 68
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 72


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Sự ra đời hoạt động ngân hàng đánh d ấu một bước ngoặt trong lịch sử phát triển
và tiến bộ của con người. Hoạt động kinh doanh ngân hàng là một lĩnh vực kinh
doanh đặc biệt bởi hàng hoá trong quá trình kinh doanh là tiền tệ - loại hàng hoá có
tính nhạy cảm và sức cuốn hút đặc biệt. Chính tính đặc biệt riêng có này của tiền tệ
mà hoạt động kinh doanh ngân hàng vừa là một loại hoạt động đem lại hiệu quả rất
lớn đối với nền kinh tế, vừa là một lĩnh vực mà khả năng xảy ra rủi ro cao. Để
phòng tránh những rủi ro đặc trưng trong hoạt động ngân hàng , hầu hết các quốc
gia đều đặc biệt chú trọng đưa ra mọi biện pháp nhằm đảm bảo an toàn cho hoạt
động của tổ chức tín dụng để nó phát huy hết được vai trò tích cực đối với nền kinh
tế và đời sống xã hội, trong đó công cụ sử dụng pháp luật để điều chỉnh là b iện
pháp quan trọng. Pháp luật các nước nói chung và pháp luật Việt Nam nói riêng đã
ban hành các quy định pháp luật về những hạn chế trong các hoạt động của tổ chức
tín dụng để bảo đảm an toàn cho các tổ chức tín dụng và tổng thể hơn là bảo đảm
an toàn cho cả nền kinh tế. Ở nước ta hiện nay, để điều chỉnh hoạt động này, pháp
luật đã ban hành Luật tổ chức tín dụng 2010 và các văn bản có liên quan. Từ khi
Luật tổ chức tín dụng 2010 ra đời, hành lang pháp lý về các hạn chế để bảo đảm an

toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng đã được củng cố, tuy nhiên khi đi vào áp
dụng thực tế đã bộc lộ nhiều nhược điểm và chưa hoàn thiện so với bối cảnh hiện
nay của nền kinh tế. Hiện nay, số lượng các ngân hàng đã giảm dần do rơi vào tình
trạng mất kiểm soát, không an toàn dẫn đến phải sáp nhập gây ảnh hưởng xấu đến
vấn đề lưu thông tiền tệ làm cho nền kinh tế biến động. Do vậy, để các tổ chức tín
dụng tồn tại và hoạt động phát huy được hiệu quả thì các quy định pháp luật về các
hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng phải hoàn thiện
hơn nữa. Đây là lý do học viên chọn đề tài Hoàn thiện pháp luật về các hạn chế
để bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng cho luận văn tốt
nghiệp của mình.


2
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hoàn thiện pháp luật về các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ
chức tín dụng là một vấn đề đặt ra không chỉ đối với các nhà xây dựng pháp luật
Việt Nam mà còn là vấn đề cấp bách đối với pháp luật các nước trên thế giới. Ở
nước ta, đã có nhiều bài viết, công trìn h nghiên cứu khoa học, các bài viết liên quan
đến đề tài này như: Luận văn thạc sỹ luật học của tác giả Trương Thị Kim Dung
“Các biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng tín dụng ngân hàng”, 1996; Luận văn
thạc sỹ luật học của tác giả Phạm Thanh Chung “Pháp lu ật bảo đảm an toàn trong
hoạt động cấp tín dụng của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam, 2005; Luận văn thạc
sỹ của tác giả Kim Thị Huyền “Vấn đề bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng
và quyền tự do kinh doanh của các TC TD”, 2008; Khóa luận tốt nghiệp của tác giả
Tô Quỳnh Thảo “Pháp luật bảo đảm an toàn trong hoạt động của hệ thống ngân
hàng Việt Nam”, 2004; Khóa luận tốt nghiệp của tác giả Phạm Thị Kim Liên
“Hoàn thiện pháp luật bảo đảm an toàn trong hoạt động quỹ tín dụng nhân dân”,
2006; Khóa luận tốt nghiệp của tác giả Lê Thị Út “Pháp luật bảo đảm an toàn trong
hoạt động cho vay và đầu tư tài chính của Ngân hàng thương mại ở Việt Nam ”,
2006; Khóa luận tốt nghiệp của tác giả Phan Nữ Hiền Oanh “Bảo đảm an toàn huy

động vốn của các tổ chức tín dụng - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện”,
2009; Khóa luận tốt nghiệp của tác giả Vũ Thị Chiêm “Pháp luật bảo đảm an toàn
trong hoạt động kinh doanh ngoại tệ của các ngân hàng thương mại”, 2009 và nhiều
bài viết trên các tạp chí.
Tuy nhiên, mỗi bài viết chỉ phân tích một khía cạnh trong các hoạt động của tổ
chức tín dụng, chưa có bài viết nào khái quát được hạn chế trong các hoạt động của
tổ chức tín dụng theo Luật tổ chức tín dụng 2010. Do vậy, đây là công trình nghiên
cứu đầu tiên có tính hệ thống và đầy đủ về thự c trạng quy định của pháp luật về các
hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng và các giải pháp
hoàn thiện theo Luật tổ chức tín dụng 2010.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Pháp luật về các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín
dụng là một đề tài tương đối rộng, bao gồm nhiều vấn đề cần phải giải quyết. Trên
cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về các hạn chế để bảo đảm an toàn trong


3
hoạt động của tổ chức tín dụng, luận văn tập trung phân tích các quy định của pháp
luật hiện hành, những vướng mắc khi áp dụng các quy định của pháp luật hiện hành
trên thực tế, trên cơ sở đó, luân văn đưa ra một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về
hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Đề tài đượ c xây dựng và nghiên cứu trên cơ sở phương pháp duy vật biện
chứng, phương pháp duy vật lịch sử của Chủ nghĩa M ác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
M inh và đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình xây
dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Ngoài ra, trong quá trình thực hiện đề tài, còn vận dụng các phương pháp như:
hệ thống, tổng hợp, phân tích, so sánh, thống kê và một số phương pháp khác để
giải quyết các vấn đề mà đề tài đặt ra.
5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài

Do pháp luật hiện hành về hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ
chức tín dụng còn có một số bất cập gây ra khó khăn cho các tổ chức tín dụng trong
việc áp dụng các quy định của pháp luật để thực hiện chức năng của m ình. Cho
nên, luận văn được nghiên cứu với mục đích đóng góp một số giải pháp để pháp
luật về hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng được hoàn
thiện, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động của các tổ chức tín dụng.
6. Những đóng góp mới của luận văn
Luận văn trình bày một cách khoa học và hệ thống những vấn đề lý luận về các
hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng.
Phân tích và đánh giá một cách toàn diện các quy định của pháp luật về các hạn
chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng theo Luật tổ chức tín
dụng 2010 và các văn bản pháp luật có liên quan.
Đưa ra được các đề xuất pháp lý nhằm hoàn thiện pháp luật về các hạn chế để
bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần lời nói đầu và kết luận, nội dung chính của luận văn bao gồm 3
chương:


4
Chương 1: Khái quát chung về pháp luật các hạn chế để bảo đảm an toàn trong
hoạt động của tổ chức tín dụng.
Chương 2 – Thực trạng pháp luật về các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt
động của tổ chức tín dụng.
Chương 3 – Hoàn thiện pháp luật về các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt
động của tổ chức tín dụng.


5


CHƢƠNG 1 – KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁP LUẬT CÁC
HẠN CHẾ ĐỂ BẢO ĐẢM AN TOÀN TRONG HOẠT ĐỘNG
CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG
1.1 Một số vấn đề lý luận về các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động
của tổ chức tín dụng
1.1.1 Khái niệm các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng
1.1.1.1 Khái niệm về bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng
Tổ chức tín dụng (TCTD) là doanh nghiệp thực hiện hoạt động kinh doanh tiền
tệ. Thông qua hoạt động huy động vốn từ các nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư và
hoạt động cấp tín dụng cho các đối tượng cần vay vốn, TCTD trở thành đối tượng
trung gian cung cấp và điều tiết vốn cho nền kinh tế, có tác động lớn đến sự biến
động của xã hội. Do vậy, hoạt động của TCTD cần được bảo đảm an toàn để góp
phần ổn định tiền tệ và giá cả. Làm thế nào để hoạt động của các TC TD được bảo
đảm an toàn cần hiểu được bảo đảm an toàn là gì?
Theo Từ điển Tiếng Việt, bảo đảm được hiểu là làm cho chắc chắn thực hiện
được, giữ gìn được, hoặc có đầy đủ những gì cần thiết.
Theo đó, bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD là những hoạt động m à
TCTD tiến hành để thực hiện mục đích kinh doanh tiền tệ của mình phải chắc chắn.
Bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD được hiểu nhiều cách khác nhau
phụ thuộc vào cách thức tiếp cận và mục đích tiếp cận.
+ Dưới góc độ kinh tế, bảo đảm an toàn trong hoạt động của TC TD được hiểu
là việc các TCTD thực hiện các biện pháp nhất định sao cho phù hợp với quy định
của pháp luật và phù hợp vớ i thực tế kinh doanh để duy trì cho các TC TD hoạt
động an toàn và hiệu quả. Ngoài việc thực hiện các quy định của pháp luật về các
yêu cầu bảo đảm an toàn trong hoạt động của m ình, các TC TD còn phải thực hiện
những hoạt động khác do chính TCTD quy định để không rơi vào tình trạng mất
kiểm soát.
+ Dưới góc độ pháp lý, bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD được hiểu
là một chế định pháp luật, bao gồm tổng thể các quy phạm pháp luật về các biện
pháp mà TCTD phải thực hiện để bảo đảm an toàn cho các hoạt động của TCTD.



6
1.1.1.2 Khái niệm về các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức
tín dụng
Để hoạt động của các TCTD được bảo đảm an toàn không gây ảnh hưởng đến
nền kinh tế thì việc đưa ra các biện pháp hạn chế thông qua các quy định pháp luật
và những quy tắc của từng TCTD là công cụ rất quan trọng để điều tiết vấn đề này.
Theo Từ điển tiếng Việt, hạn chế được hiểu là giữ lại, ngăn lại trong mộ t giớ i
hạn nhất định, không để cho vượt qua.
Các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động của TC TD được hiểu là các
biện pháp mà nhà nước và TCTD cấm, hạn chế hoặc giới hạn TCTD không được
làm trong quá trình hoạt động kinh doanh nhằm đảm bảo cho sự an t oàn cho hoạt
động của TCTD .
Pháp luật về các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD đượ c
hiểu là tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định về những vấn đề mà các TC TD
bị hạn chế thực hiện, giới hạn việc thực hiện, không được thực hiện hoặc buộc phải
thực hiện một hoặc một số hoạt động nhất định nhằm bảo đảm an toàn trong hoạt
động của các TCTD.
1.1.2 Đặc điểm và vai trò của các biện pháp hạn chế để bảo đảm an toàn trong
hoạt động của tổ chức tín dụng
Các chủ thể bị tác động bởi các hạn chế để bảo đảm an trong hoạt động của
TCTD: Các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD có tác động
đến tất cả các chủ thể có liên quan đến hoạt động ngân hàng.
+ Về phía TCTD: TCTD là chủ thể chịu sự tác động và áp dụng nhiều nhất của
các hạn chế này, vì đây là chủ thể cung cấp và thường xuyên tiến hành hoạt động
ngân hàng. Việc tác động của các hạn chế để bảo đảm an toàn thông qua từng thành
viên của tổ chức đó mà trướ c hết là thành viên của Hội đồng thành viên, Hội đồng
quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc và các chức danh quản lý, điều hành khác.
+ Về phía cơ quan quản lý nhà nước: sự tác động của các hạn chế đối với cơ

quan quản lý nhà nước thể hiện ở chỗ đây là một trong những căn cứ pháp lý để các
cơ quan quản lý nhà nước áp dụng trong quá trình thanh tra, giám sát và xử lý vi
phạm. Đồng thời đây là cơ sở cho các cán bộ có thẩm quyền xem xét các hoạt động


7
của TCTD có tuân thủ đúng quy định của pháp luật hay chưa, nếu có vi phạm thì
tính chất, mức độ đến đâu và cách xử lý vi phạm.
+ Về phía khách h àng của TCTD: sự tác động của các hạn chế đối với khách
hàng của TCTD thể hiện ở chỗ khách hàng sẽ biết được khả năng mà TCTD có thể
cung ứng cho mình mà không rơi vào những hạn chế đó. Chẳng hạn tại khoản 1
Điều 128 Luật các TCTD 2010 quy định: “Tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với
một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của TCTD ..” thì khách hàng
sẽ biết được mức tối đa được TCTD cấp tín dụng để có kế hoạch huy động và sử
dụng nguồn vốn sao cho hợp lý.
Phạm vi điều chỉnh của các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động của
TCTD: Các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động của các TC TD có phạm vi
rộng hay hẹp tùy thuộc vào mức độ rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động của các
TCTD. Nếu mức độ và phạm vi của rủi ro càng lớn thì phạm vi, nội dung c ủa các
hạn chế càng rộng và ngượ c lại. Các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động
của TCTD phải dự liệu và bao quát hết các rủi ro có thể xảy ra đối với các hoạt
động của TCTD. M ỗi một hoạt động của TC TD có những rủi ro riêng cho nên các
hạn chế để bảo đảm an toàn phải bao quát và điều chỉnh được đối với những rủi ro
cụ thể đó. Phạm vi của các các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động của
TCTD có tác động và quan hệ mật thiết đối với phạm vi hoạt động của các TCTD,
nếu các phạm vi, nghiệp vụ ngân hàng càng đa dạng, phức tạp thì rủi ro càng lớn.
Nếu rủi ro càng lớn thì các hạn chế để bảo đảm an toàn càng cần phải được thắt
chặt, các hạn chế càng nhiều dẫn đến phạm vi hoạt động và cung ứng dịch vụ của
các TCTD càng bị thu hẹp.
Chủ thể đưa ra các biện pháp hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động của

TCTD: Nhà nước là chủ thể đưa ra các đường lối, chính sách bảo đảm an toàn cho
cả hệ thống TCTD. Các đường lối được cụ thể hóa bằng các quy định của pháp luật
mang tính bắt buộc, thể hiện ý chí của Nhà nước trong việc điều chỉnh các hoạt
động của TCTD. Các TCTD buộc phải tuân theo các quy định này và thể hiện cụ
thể thông qua các quy định trong điều lệ của TCTD và các quy định riêng trong nội
bộ. Nếu các TCTD vi phạm các quy định này thì tùy theo tính ch ất, mức độ vi
phạm sẽ dẫn đến những hậu quả pháp lý khác nhau như hợp đồng tín dụng trở


8
thành vô hiệu hoặc bị xử phạt vi phạm hành chính, xử lý kỷ luật, bồi thường thiệt
hại hoặc có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Việc quy định về các các hạn chế
để bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD thể hiện rõ vai trò quản lý của Nhà
nước trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Những quy định này không
mang tính can thiệp trực tiếp vào các hoạt động của TC TD mà chỉ m ang tính quản
lý ở tầm vĩ mô, dự liệu những nguy cơ gây mất an toàn trong hoạt động mà TCTD
gặp phải trong quá trình kinh doanh và giải quyết các xung đột về lợi ích trong nội
bộ các TCTD [26].
Các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD thể hiện trong từng
nghiệp vụ ngân hàng. Để đảm bảo được an toàn cho các TC TD thì cần thiết phải
đảm bảo trong từng hoạt động chi tiết của mỗi TCTD cho nên trong suốt quá trình
hoạt động của mình từ khâu thành lập cho đến suốt quá trình thực hiện hoạt động
kinh doanh, thậm chí ở cả khâu sáp nhập thì các hạn chế để bảo đảm an toàn trong
hoạt động của TCTD được quy định cụ thể đối với mỗi hoạt động cụ thể, đảm bảo
cho các khâu không có sai sót để không xảy ra các rủi ro tín dụng. Cùng với đó là
sự quản lý của bộ máy TC TD nói riêng và các cơ quan quản lý nhà nước nói chung
để đảm bảo thực thi các quy định về các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt
động của TCTD.
Khi đưa ra các quy định pháp luật về các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt
động của TCTD các nhà làm luật phải dựa trên những nguyên tắc n hất định đó là

những nguyên lý, tư tưởng cơ bản có ý nghĩa làm cơ sở quyết định điều chỉnh bằng
pháp luật nhằm hạn chế rủi ro, bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD. Các
quy định về các các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD phải
bao quát hết các rủi ro trong hoạt động của TCTD; đảm bảo quyền tự chủ kinh
doanh, phải tránh gây khó khăn cho TCTD, không hạn chế tăng trưởng tín dụng;
đảm bảo sự công bằng, công khai, minh bạch; phù hợp với chính sách của Nhà
nước về hoạt động của TCTD và thông lệ quốc tế.
Các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động của TC TD được đặt ra nhằm
bảo đảm an toàn cho chính các TCTD, hạn chế đến m ức thấp nhất những tiêu cực,
rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động của TC TD, và đồng thời bảo vệ những lợi ích


9
chung của Nhà nước và xã hội đó là sự ổn định tiền tệ quốc gia, sự an toàn cả hệ
thống các TCTD, và bảo vệ lợi ích của người gửi tiền.
Đảm bảo an toàn cho hoạt động của TCTD có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối
với mỗi quốc gia bởi hệ thống các TCTD là huyết mạch của nền kinh tế quốc gia.
Việc bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD không chỉ có ý nghĩa về m ặt kinh
tế mà còn giữ vững được đất nước.
1.2 Pháp luật về các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức
tín dụng
1.2.1 Sự cần thiết của pháp luật về các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt
động của tổ chức tín dụng
Để thấy được sự cần thiết của việc cần đưa ra các hạn chế để bảo đảm an toàn
trong hoạt động của TCTD trước hết phải hiểu được vai trò của TC TD và tác động
của các hoạt động TC TD đối với n ền kinh tế như thế nào để thấy được tại sao hoạt
động này cần thiết phải được bảo đảm an toàn và cách thức bảo đảm an toàn được
thực hiện ra sao.
TCTD là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt ra đời với vai trò là đối tượng
trung gian cung cấp vốn và điều tiết vốn cho nền kinh tế. Thông qua hoạt động của

TCTD đã góp phần thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng h óa phát triển, đáp ứng kịp
thời nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh, qua đó
làm kích thích sản xuất, chẳng hạn như các do anh nghiệp vay vốn để sản xuất, mua
sắm, trang bị m áy móc thiết bị, xây dựng, mở rộng nhà xưởng… Bên cạnh đó, hoạt
động tín dụng đáp ứng kịp thời các nhu cầu thanh toán, có thể thanh toán thuận
tiện, không phân biệt không gian và thời gian, dẫn đến kích th ích quá trình lưư
thông hàng hóa phát triển. Việc mở tài khoản và giao dịch thanh toán thông qua
hình thức chuyển khoản và bù trừ cho nhau khiến cho các mối quan hệ kinh tế được
giải quyết nhanh chóng.
Hoạt động của TCTD đã phản ánh và góp phần kiểm soát đ ược các hoạt động
kinh tế khác. Thông qua quá trình tập trung và phân phối lại vốn đã phản ánh được
mức độ phát triển kinh tế về các m ặt như khối lượng tiền tệ nhàn rỗi trong xã hội,
nhu cầu vốn trong từng thời kỳ, từ đó giúp chúng ta có cái nhìn tổng quan về những
quan hệ cân đối lớn trong nền kinh tế, đặc biệt là quan hệ giữa tích lũy và tiêu


10
dùng, đặc biệt trong hoạt động cho vay của các TCTD góp phần đảm bảo an toàn
về vốn.
Hoạt động của các TCTD góp phần ổn định tiền tệ và giá cả, giúp vận chuyển
tiền tệ từ nơ i thừa sang nơi thiếu làm cho tiền tệ trong nền kinh tế vừa phải không
gây ra lạm phát, thúc đẩy đượ c sản xuất kinh doanh, sản phẩm hàng hóa dịch vụ
làm ra ngày càng nhiều, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của xã hội góp phần làm
ổn định giá cả, ổn định đời sống.
Hoạt động của TCTD góp phần tạo công ăn, việc làm, ổn định trật tự xã hội:
giúp cho các tổ chức, doanh nghiệp có đủ nguồn vốn kịp thời cho quá trình sản xuất
kinh doanh, đầu tư mở rộng, đầu tư mới, dẫn đến việc tuyển thêm lao động trong
nền kinh tế, làm dịch chuyển lao động từ khu vực này sang khu vực khác. Từ đó
góp phần ổn định đời sống cho người lao động, giảm tệ nạn xã hội, kích thích nhu
cầu tiêu dùng của người dân…

Hoạt động của TC TD góp phần tiết kiệm tiền mặt và chi phí lưu thông trong xã
hội: TCTD huy động tất cả các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội vào nguồn quỹ của
TCTD cùng với một khối lượng lớn tiền cho vay qua các tổ chức kinh tế, các cá
nhân thể hiện thông qua tài khoản làm cho lượng tiền m ặt ngoài lưu thông giảm
giúp tiết kiệm chi phí lưu thông trong xã hội. Cùng với sự ra đời của các công cụ
lưu thông tín dụng như trái phiếu, séc… và các phương tiện thanh toán hiện đại như
thẻ tín dụng đã làm giảm bớt các chi phí có liên quan như in tiền, đúc tiền, vận
chuyển và bảo quản tiền.
Tuy nhiên, hoạt động của TC TD mang tính rủi ro cao do quan hệ kinh doanh
giữa TCTD và khách hàng thường diễn ra trong thời gian dài khó kiểm soát chứa
đựng nhiều nguy cơ xấu ảnh hưởng đến khả năng thu hồi vốn của TCTD . So với
phía khách hàng, phía các TCTD là phía chịu rủi ro gấp nhiều lần, TCTD vừa bị
phụ thuộc vào hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng vừa bị phụ thuộc vào
thiện chí trả nợ của khách hàng m à còn phải chịu rủi ro của nền kinh tế. Hoạt động
của TCTD là đi vay để cho vay một số tiền với s ố lượng lớn, nếu chủ thể đi vay
không hoàn trả đượ c thì phía TC TD cũng không có tiền để trả nợ cho khách hàng
gửi tiền khi đến hạn. Lúc đó lợi ích của người gửi tiền bị ảnh hưởng, họ đồng loạt
rút tiền khiến cho TCTD có thể bị rơi vào tình trạng m ất kiểm s oát. Nhưng việc


11
một TCTD rơi vào tình trạng m ất kiểm soát không chỉ dừng lại ở chính bản thân nó
mà còn ảnh hưởng có tính chất dây chuyền đến các TCTD khác gây ra những tác
động tiêu cực đến toàn hệ thống TCTD .
Hoạt động tín dụng chứa đựng nhiều rủi ro và bị chi phối bởi các yếu tố khách
quan và chủ quan.
* Yếu tố khách quan:
Nền kinh tế luôn ở trạng thái động, nó biến đổi không ngừng đặc biệt là giai
đoạn hiện nay khi nền kinh tế đang tiến hành toàn cầu hóa, hội nhập, giao thoa với
nền kinh tế các nước trên thế giới ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế trong

nước nói chung và ảnh hưởng đến hoạt động của TCTD nói riêng. Nền kinh tế ngày
càng phát triển, thị trường ngày càng thay đổi dẫn đến giá trị đồng tiền cũng có
biến động, khi các TCTD tiến hành cấp tín dụng với những số tiền lớn với thời hạn
vay dài khi mà tỷ lệ lạm phát biến động làm đồng tiền mất giá thì hoạt động kinh
doanh tiền tệ của các TC TD cũng bị ảnh hưởng. Khi nền kinh tế đang tăng trưởng
ổn định thì các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và có nhiều khả năng trả nợ cho
TCTD. Ngược lại, khi nền kinh tế rơi vào tình trạng bị suy thoái, mất ổn định đã
làm cho các doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn trong hoạt động kinh doanh, sản
xuất bị đình trệ, sức mua bị giảm sút, hàng hoá bị ứ đọng. Điều này đã làm cho các
doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và đã ảnh hưởng đến khả năng trả nợ cho TC TD
gây ảnh hưởng đến an toàn vốn cho TCTD.
Các rủi ro tự nhiên như lũ lụt, hỏa hoạn… là những hiện tượng bất khả kháng
mà chính các chủ thể không thể lường trước được cũng là một trong các yếu tố có
ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của các TCTD.
Các chính sách quản lý kinh tế vĩ mô của Chính Phủ cũng ảnh hưởng không
nhỏ đến hoạt động của TCTD, ví dụ như Chính Phủ có thể gây khó khăn cho một
số khách hàng của TCTD khi theo đuổi mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao.
M ôi trường chính trị, xã hội cũng là yếu tố tác động đến mức độ an toàn trong
hoạt động của các TCTD. M ột môi trường chính trị, xã hội ổn định sẽ tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp phát triển. Ngược lại, nếu mô i trường chính trị, xã hội bất ổn,
ví dụ như cấm vận về kinh tế sẽ làm cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh


12
nghiệp bị kìm hãm, từ đó gây ra rủi ro đối với các doanh nghiệp nói chung và đối
với rủi ro tín dụng của TCTD nói riêng.
Bên cạnh đó, trong quá trình doanh nghiệp vay vốn kinh doanh, do gặp những
biến cố khiến cho hoạt động kinh doanh thua lỗ, khó có thể thu hồi vốn và không
thể hoàn trả lại số tiền đã vay của TC TD, số nợ này được xếp vào nợ xấu và ảnh
hưởng đến hoạt động kinh doanh của TCTD.

* Yếu tố chủ quan:
- Về phía người đi vay: Nếu người đi vay sử dụng vốn sai mục đích so với hợp
đồng tín dụng khiến cho nguồn trả nợ bấp bênh hoặc khách hàng cố tình không trả
nợ, hoặc lập phương án sản xuất kinh doanh giả, giấy tờ thế chấp cầm cố giả m ạo,
hoặc đi vay ở nhiều ngân hàng với cùng bộ hồ sơ thì việc thanh toán gốc và lãi
đúng hạn rất khó thực hiện dẫn đến rủi ro tín dụng xuất hiện.
Trong trường hợp người đi vay là người thiếu năng lực pháp lý, kinh nghiệm
và năng lực hoạt động kinh doanh còn thấp, không nắm bắt được thông tin kịp thờ i,
thiếu thích nghi với cạnh tranh dẫn đến hiệu quả kinh doanh không đạt chỉ tiêu, khả
năng trả nợ của khách hàng không thực hiện được cũng dẫn đến những rủi ro tín
dụng khiến cho TCTD không thể thu hồi số vốn đã ch o vay.
Người đại diện của tổ chức kinh doanh, liên kết không thực hiện hết trách
nhiệm, bổn phận của mình đối với các khoản vay hoặc lạm dụng quyền hạn, trốn
tránh trách nhiệm và nghĩa vụ đã ủy quyền cũng ảnh hưởng đến độ an toàn trong
hoạt động của TC TD. Ví dụ như một số công ty, tổng công ty đứng ra bảo lãnh
hoặc uỷ quyền cho các chi nhánh trực thuộc thực hiện vay vốn của TCTD để tránh
sự kiểm tra giám sát của ngân hàng cho vay chính, khi đơn vị vay vốn mất khả
năng thanh toán, bên bảo lãnh và uỷ quyền kh ông chịu thực hiện việc trả nợ thay
gây ra rủi ro tín dụng cho TCTD cho vay vốn.
- Về phía các TCTD:
TCTD tiến hành cho vay không tuân thủ đúng các nguyên tắc, điều kiện và các
quy định khác trong thể lệ tín dụng hiện hành. Cán bộ tín dụng chưa nắm chính xác
thông tin về người vay vốn như: thu nhập, năng lực sản xuất… Trình độ cán bộ cấp
tín dụng còn hạn chế, thẩm định không tốt, có thể chấp nhận cho vay những khoản
vay không khả thi hoặc bị khách hàng lừa gạt hoặc không xử lý triệt để đối với


13
những khách hàng sử dụng không đúng mục đích xin vay cũng là một trong những
nguyên nhân gây ra nợ xấu cho TC TD. Sự cạnh tranh không lành mạnh nhằm thu

hút khách hàng giữa các TCTD khiến cho việc thẩm định khách hàng trở nên sơ
sài, qua loa hơn. Hơn nữa, nhiều TCTD do quá chú trọng đến lợi nhuận nên đã
chấp nhận rủi ro cao, bất chấp những khoản vay không lành mạnh, thiếu an toàn.
Quy chế cho vay chưa chặt chẽ, quá cụ thể hoặc quá linh hoạt đều khiến cho
các TCTD gặp phải rủi ro tín dụng, môi trường pháp lý chưa hoàn thi ện và đồng
bộ, hoặc thay đổi theo hướng bất lợi cho doanh nghiệp thì cũng khiến các khoản
vay TCTD khó thu hồi, các chế tài xử phạt khi các chủ thể vi phạm các quy định về
vấn đề bảo đảm an toàn trong hoạt động của TCTD chưa cao, chưa đủ sức răn đe.
Với vai trò quan trọng và tầm ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của nền kinh tế
như vậy cho nên hoạt động của các TCTD cần đảm bảo tính an toàn và ổn định mới
góp phần ổn định nền tài chính quốc gia, là cơ sở để phát triển nền kinh tế và hội
nhập kinh tế thế giới. Nhưng các hạn chế chỉ thực sự phát huy hiệu quả khi nó được
quy định trong các văn bản pháp luật. Do vậy, pháp luật hiện hành đã nghiên cứu
kỹ lưỡng nguyên nhân phát sinh rủi ro tín dụng để ban hành một hệ thống các văn
bản quy phạm pháp luật về các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động của
TCTD buộc các TCTD không được phép làm hoặc bị giới hạn trong quá trình hoạt
động nhằm bảo vệ an toàn trong hoạt động của TCTD. Bởi nếu để tín dụng phát
triển tràn lan, hoạt động của các TCTD không được kiểm soát m ột cách chặt chẽ
hoặc không hiệu quả sẽ khiến nền kinh tế bị lạm phát, ảnh hưởng lớn đến đời sống
kinh tế xã hội.
1.2.2 Quá trình hình thành và phát triển của pháp luật về Các hạn chế để bảo
đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng
Do tính đặc thù trong hoạt động kinh doanh của TCTD mang tính rủi ro cao
ảnh hưởng đến mức độ an toàn cho nên hầu hết pháp luật các nước đều có những
quy định chặt chẽ và tương đối đầy đủ về các hạn chế để bảo đảm an toàn trong
hoạt động của các TCTD từ khi TCTD được hình thành. Đa số pháp luật các nước
đều có quy định về cấm các TCTD không được phép cấp tín dụng hoặc hạn chế cấp
tín dụng đối với những khách hàng có mối quan hệ dễ dẫn đến việc lợi dụng vốn
vay để hưởng lợi bất chính làm ảnh hưởng xấu đến hiệu quả kinh doan h của các



14
TCTD và quy định khống chế số tiền vay của khách hàng so với số vốn tự có của
các TCTD. Ví dụ như tại Điều 40 Luật Ngân hàng thương mại Trung Quốc năm
1995 quy định về cấm các Ngân hàng thương m ại chấp thuận khoản vay không có
bảo đảm cho các thành viên hội đồng quản trị, thành viên của ban thanh tra, cán bộ,
nhân viên quản lý tín dụng của tổ chức m ình. Hay tại Đạo luật số 372 Luật các tổ
chức tài chính và ngân hàng M alaysia năm 1989 quy định về cấm TCTD cho vay
đối với Giám đốc, nhân viên…
Ở nước ta, kể từ khi các TCTD ra đời, hệ thống các văn bản pháp luật điều
chỉnh các hoạt động của các TCTD cũng được ban hành nhằm đảm bảo an toàn cho
hệ thống TCTD nói riêng và bảo đảm an toàn, giữ vững ổn định cho nền kinh tế nói
chung. Sự thay đổi của nền kinh tế qua từng giai đoạn kéo theo sự thay đổi trong
các quy định của pháp luật về các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động của
TCTD để phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội từng thời kỳ.
Vào giai đoạn đầu, khi TCTD mới hình thành dựa trên Sắc lệnh thiế t lập Việt
Nam quốc gia ngân hàng số 86/SL ngày 20/10/1947 thì các nghị quyết, quyết định,
thông tư, chỉ thị được ban hành nhằm điều chỉnh hoạt động của các ngân hàng thời
kỳ đó, tuy nhiên vấn đề hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động của ngân hàng
thời kỳ này chưa được đề cập vì ảnh hưởng bởi điều kiện kinh tế xã hội thời kỳ đó.
Cho đến khi Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính năm
1990 do Hội đồng Nhà nước ban hành đã thay thế Nghị định 53/NĐ ngày
26/3/1988 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng là văn bản pháp luật tạo điều kiện cho
hệ thống TCTD thay đổi mạnh m ẽ về số lượng và chất lượng, có những quy định
bước đầu tập trung và rõ ràng để bảo đảm an toàn cho hoạt động của các TCTD.
Pháp lệnh đã có những quy định về các hạn chế để bảo đảm an toàn cho hoạt động
của các TCTD như: quy định về mức vốn điều lệ tại Điều 12; quy định về dự trữ
bắt buộc và dự trữ tối thiểu bắt buộc tại Điều 14 và Điều 21; quy định về mức huy
động vốn không được quá 20 lần tổng số vốn tự có và quỹ dự trữ tại Đi ều 23; quy
định giới hạn mức cho vay một khách hàng không quá 10% vốn tự có và quỹ dự trữ

tại Điều 25 và những quy định về những đối tượng không được hưởng ưu
đãi… M ặc dù các quy định về các hạn chế để bảo đảm an toàn cho hoạt động của
TCTD trong Pháp lệnh này chưa thực sự đầy đủ và toàn diện nhưng cũng thể hiện


15
được sự phù hợp với sự phát triển kinh tế thời kỳ đó và đánh dấu bước ngoặt quan
trọng tạo tiền đề cho việc ra đời Luật các TCTD sau này.
Giai đoạn tiếp theo khi Luật các TCTD số 07/1997/QHX ngày 12/ 12/1997 ra
đời, hoạt động của các TCTD được luật hóa với rất nhiều quy định mới chưa có
trong Pháp lệnh ngân hàng năm 1990. Luật các TCTD 1997 được xây dựng gồm 11
chương và 131 điều (Pháp lệnh ngân hàng, hợp tác xã tín dụng và công ty tài chính
năm 1990 chỉ có 8 chương và 51 điều) với nhiều quy định cụ thể về thuật ngữ, về
các loại hình TC TD, về vai trò quản lý của Ngân hàng nhà nước… Luật các TC TD
1997 đã kế thừa nhiều ưu điểm của Pháp lệnh năm 1990 và tính đến thực tế hoạt
động của hệ thống TCTD từ năm 1990 đến năm 1997, trong đó những quy định về
các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động của TC TD đã được hệ thống hóa
thành một mục riêng cụ thể là M ục 5 Chương III. Luật các TCTD 1997 là văn bản
đầu tiên quy định rõ ràng, đầy đủ và chặt chẽ về các hạn chế để bảo đảm an toàn
trong hoạt động của TCTD. Luật các TCTD 1997 đã cụ thể hóa các hạn chế để đảm
bảo an toàn trong hoạt động của TC TD thành 06 biện pháp cơ bản trong đó: Điều
77 quy định về những trường hợp không được cho vay; Điều 78 quy định hạn chế
tín dụng; Điều 79 quy định giới hạn cho vay, bảo lãnh; Điều 80 quy định cụ thể về
giới hạn góp vốn, mua cổ phần; Điều 81 quy định về tỷ lệ đảm bảo an toàn và cuối
cùng là Điều 82 quy định về dự phòng rủi ro. Các hạn chế để bảo đảm an toàn trong
hoạt động của TCTD quy định tại M ục 5, Chương III, Luật các TCTD 1997 được
ban hành và áp dụng kịp thời, các quy định này hoàn toàn phù hợp với tình hình
thực tế của các TCTD lúc bấy giờ. Chính vì vậy đến thời điểm năm 2004, sau 07
năm áp dụng Luật các TCTD 1997 với sự thay đổi và phát triển không ngừng của
nền kinh tế nước ta, một số quy định của Luật các TCTD 1997 không còn thực sự

phù hợp. Vì vậy, Ngày 16 tháng 6 năm 2004, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi,
bổ sung một số điều của Luật các TCTD trong đó các hạn c hế để bảo đảm an toàn
trong hoạt động của TCTD cũng đã được sửa đổi, bổ sung phù hợp với tình hình
thực tế giai đoạn này hơn cụ thể là Điều 79 đã được bổ sung hạn chế không chỉ về
giới hạn cho vay bảo lãnh nói chung m à còn đưa ra những hạn chế về việc chiế t
khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác, cho thuê tài chính; Tỷ lệ bảo đảm an
toàn tại Điều 81 cũng được sửa đổi, bãi bỏ điểm d “ Tỷ lệ tối đa dư nợ cho vay so


16
với số tiền gửi”, điều này hoàn toàn phù hợp với tình hình thực tế trong hoạt động
của TCTD thời gian này.
Sau một thời gian thực hiện Luật TC TD được sửa đổi bổ sung năm 2004 đã
bộc lộ nhiều thiếu sót, nhiều quy định của Luật không còn thích hợp đã trở nên gò
bó, làm giảm tính tự chủ của TCTD, không đồng bộ với các luật khác mới ban hành
(Luật doanh nghiệp, Luật chứng khoán… ) và chưa phù hợp với thông lệ quốc tế.
Giai đoạn đó tình hình thế giới và trong nước đã có nhiều thay đổi, Việt Nam đã trở
thành thành viên tổ chức thương mại thế giới WTO và hội nhập ngày càng sâu rộng
vào kinh tế toàn cầu. Việc hội nhập đặt ra những yêu cầu tất yếu như: đa dạng hóa
các hoạt động, dịch vụ ngân hàng; đối xử bình đẳng giữa các loại hình TCTD thuộc
các thành phần kinh tế trong nước và nước ngoài; từng bước áp dụng các chuẩn
mực quản trị ngân hàng theo thông lệ quốc tế. Do vậy, cần thiết phải sửa đổi cơ bản
Luật các TCTD nhằm khắc phục những tồn tại, bất cập của những quy định hiện
hành, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của hoạt động ngân hàng trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đ áp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế. Luật các TC TD 2010 ra đời có nhiều đổi mớ i,
khắc phục được một số bất cập của Luật các TC TD cũ; thể chế hóa đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển ngành n gân hàng, đã đề cập
và đưa vào áp dụng nhiều thông lệ, chuẩn mực quốc tế phù hợp với điều kiện Việt
Nam, qua đó tạo cơ sở pháp lý xây dựng hệ thống TCTD hiện đại, nâng cao năng
lực cạnh tranh, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các TCTD nhằm xây

dựng thị trường tiền tệ lành mạnh, đồng thời hạn chế rủi ro, đảm bảo an toàn trong
hoạt động của hệ thống các TC TD. Luật các TCTD 2010 gồm 10 chương, 163
Điều, trong đó các hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động của TC TD đã được
cụ thể hóa thành một chương hoàn chỉnh, gồm 10 điều với những hạn chế được quy
định hoàn chỉnh, cụ thể hóa phù hợp với tình hình thực tế hơn rất nhiều.
Theo quy định tại Luật các TC TD 2010, các hạn chế để bảo đảm an toàn
trong hoạt động của TCTD được quy định cụ thể như sau:
a. Pháp luật Các hạn chế để bảo đảm an toàn trong quá trình thành lập một
tổ chức tín dụng


17
TCTD là một loại hình doanh nghiệp, cho nên việc thành lập TCTD cũng chịu
sự điều chỉnh của pháp luật như các doanh nghiệp thông thường khác theo các quy
định của Luật doanh nghiệp. Tuy nhiên, TCTD thực hiện các hoạt động ngân hàng
với đối tượng kinh doanh đặc biệt là tiền tệ, cho nên ngoài điều kiện thành lập như
các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực khác thì thành lập TCTD khắt khe và
phức tạp hơn. Điều kiện để các TC TD được cấp Giấy phép tiến hành hoạt động
kinh doanh được quy định cụ thể tại Điều 20 Luật các TCTD 2010:
- Quy định về vốn: TCTD chỉ được cấp Giấy phép khi có vốn điều lệ, vốn được
cấp tối thiểu bằng mức vốn pháp định. Vốn điều lệ là mức vốn được hình thà nh khi
TCTD được thành lập. Vốn pháp định là mức vốn tối thiểu phải có theo quy định
của pháp luật khi thành lập các TCTD. Theo quy định tại Nghị định số
141/2006/NĐ -CP ngày 22/11/2006 của Chính phủ, vốn pháp định của các Ngân
hàng thương mại hiện nay là 3000 tỷ đồng.
- Quy định về chủ sở hữu: Trong trường hợp chủ sở hữu là công ty trách nhiệm
hữu hạn một thành viên, cổ đông sáng lập, thành viên sáng lập là pháp nhân đang
hoạt động hợp pháp và có đủ năng lực tài chính. Còn nếu cổ đông sáng lập hoặc
thành viên sáng lập là cá nhân thì yêu cầu phải có năng lực hành vi dân sự đẩy đủ
và có khả năng tài chính để góp vốn.

- Quy định về người quản lý, người điều hành, thành viên Ban kiểm soát phải là
những đối tượng không bị cấm đảm nhiệm chức vụ và có những điều ki ện cụ thể
đối với từng vị trí như về kinh nghiệm làm việc, bằng cấp, trình độ học vấn, mối
quan hệ đối với những chức danh quản lý khác trong TCTD.
- Quy định về Điều lệ của TC TD không được trái với Luật các TC TD 2010 và
các văn bản pháp luật có liên quan.
- Quy định về đề án, phương án kinh doanh: việc pháp luật quy định khi thành
lập TCTD phải có đề án thành lập, phương án kinh doanh khả thi, không gây ảnh
hưởng đến sự an toàn của hệ thống TCTD.
Đồng thời, Luật các TCTD 2010 bổ sung quy định chặt chẽ về đ iều kiện khai
trương hoạt động của TCTD để bảo đảm TCTD khi khai trương hoạt động có đầy
đủ các điều kiện về bộ máy nhân sự, cơ sở vật chất, quy trình quản lý, kiểm soát nội


18
bộ, kiểm soát rủi ro cũng là những yếu tố cần thiết cho việc hoạt động của các
TCTD được bảo đảm an toàn.
Luật các TC TD 2010 quy định rõ mỗi TC TD sẽ được cấp duy nhất một Giấy
phép thành lập và hoạt động, trong đó xác định rõ phạm vi hoạt động của từng
TCTD trên cơ sở nhu cầu và khả năng đáp ứng các điều kiện của từng TCTD.
Trong quá trình hoạt động, pháp luật cũng tạo điều kiện để các TC TD có thể mở
rộng hoặc thu hẹp phạm vi hoạt động và sẽ được Ngân hàng nhà nước chấp thuận
bằng Quyết định sửa đổi, bổ sung Giấy phép, quy định này tạo điều kiện mở cho sự
phát triển của các TCTD, nhưng cũng là chế tài đối với những TCTD yếu kém sẽ
làm cho các TCTD thực hiện tốt và đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh
của mình.
b. Pháp luật về Các hạn chế để bảo đảm an toàn trong quá trình hoạt động của
tổ chức tín dụng



Hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động nhận tiền gửi:

+ Quy định về các loại tiền gửi mà TCTD được phép nhận: Luật các TCTD
2010 có quy định về việc nhận các loại tiền gửi đối với mỗi loại hình TC TD khác
nhau tương ứng nhận loại tiền gửi khác nhau. Ví dụ như theo quy định tại Điều 98
Luật các TCTD 2010 thì Ngân hàng thương mại được phép nhận tiền gửi không kỳ
hạn, có kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm và các loại tiền gửi khác, còn đối v ới loại hình
TCTD phi ngân hàng theo Điều 108. Điều 112 Luật các TCTD 2010 chỉ được phép
nhận tiền gửi của tổ chức.
+ Quy định về các tỷ lệ đảm bảo trong hoạt động nhận tiền gửi: Theo Điều 130
Luật các TCTD 2010, Thông tư số 13/2010/TT -NHNN, Thông tư số 19/2010/TTNHNN và Thông tư số 22/2011/TT-NHNN có quy định về duy trì tỷ lệ an toàn vốn
tối thiểu 9% , tỷ lệ khả năng chi trả tối thiểu bằng 15% giữa tổng tài sản “Có” thanh
toán ngay và tổng “Nợ” phải trả. Theo Thông tư 15/2009/TT-NHNN thì tỷ lệ tối đa
nguồn vốn ngắn hạn để cho vay trung hạn và dài hạn đối với Ngân hàng thương
mại, Công ty tài chính và Công ty cho thuê tài chính là 30%, Quỹ tín dụng nhân
dân trung ương là 20%.


19
+ Quy định về dự trữ bắt buộc: Dự trữ bắt buộc hay tỷ lệ dự trữ bắt buộc là một
quy định của Ngân hàng nhà nước về tỷ lệ giữa tiền m ặt và tiền gửi mà các TC TD
bắt buộc phải tuân thủ, đảm bảo được khả năng chi trả khi gặp khó khăn trong
thanh toán. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc do Ngân hàng nhà nước quy định đối với từng
loại tín dụng, từng loại tiền gửi và từng thời kỳ khác nhau là khác nhau tùy thuộc
vào mục đích của Ngân hàng nhà nước ở từng th ời kỳ. Cụ thể vào đầu năm 2008,
nhằm ổn định thị trường tiền tệ, kiềm chế lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
Thống đốc Ngân hàng nhà nước đã ban hành Quyết định số 187/2008/QĐ -NHNN
ngày 16/01/2008 về việc điều chỉnh dự trữ bắt buộc đối với các TC TD, áp dụng dự
trữ bắt buộc đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn từ 24 tháng trở xuống, điều
chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc thêm 1% đối với tiền gửi Việt Nam đồng và tiền

gửi ngoại tệ tăng từ 10% lên thành 11%, tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên t ừ
4% tăng lên thành 5%. Đến tháng 12/2008, Ngân hàng nhà nước ra Quyết định số
3158/2008/QĐ -NHNN điều chỉnh theo hướng giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Đến n ăm
2009 ra Quyết định số 379/2009/QĐ -NHNN ngày 24/02/2009 điều chỉnh tỷ lệ dự
trữ bắt buộc đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng bằng đồng
Việt Nam đối với các N gân hàng thương mại Nhà nước (không bao gồm Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam), Ngân hàng thương mại cổ
phần Ngoại thương Việt Nam, N gân hàng thương mại cổ phần đô thị, ngân hàng
liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng 100% vốn nước ngoài,
công ty tài chính là 3% trên tổng số d ư tiền gửi phải dự trữ bắt buộc; Ngân hàng
Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam, ngân hàng thương mại cổ phần
nông thôn, Quỹ tín dụng nhân dân trung ương, ngân hàng hợp tác là 1% trên tổng
số dư tiền gửi phải dự trữ bắt buộc; Tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi từ 12
tháng trở lên bằng đồng Việt Nam áp dụng với các ngân hàng thương mại Nhà
nước, Ngân hàng thương m ại cổ phần Ngoại thương Việt Nam, ngân hàng thương
mại cổ phần đô thị, Ngân hàng thương m ại cổ phần nông thôn, ngân hàng liên
doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, ngân
hàng hợp tác, công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính, Quỹ tín dụng nhân dân
trung ương là 1% trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt buộc. Ngày 29/9/2010
Ngân hàng nhà nước ban hành Thông tư số 20/2010/TT -NHNN hướng dẫn thực


20
hiện các biện pháp điều hành công cụ chính sách tiền tệ để hỗ trợ TCTD cho vay
phát triển nông nghiệp, nông thôn (trừ Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở) thông qua các
công cụ điều hành chính sách tiền tệ, trong đó có việc áp dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc
đối với tiền gửi bằng đồng Việt Nam thấp hơn so với mức tỷ lệ dự trữ bắt buộc
thông thường và áp dụng kể từ kỳ duy trì dự trữ bắt buộc tháng 10/2010, cụ thể đối
với TCTD có tỷ trọng dư nợ cho vay phát triển nông nghiệp nông thôn trên tổng dư
nợ bình quân cuối các quý trong năm tài chính liền kề từ 70% trở lên, tỷ lệ dự trữ

bắt buộc đối với tiền gửi bằng đồng Việt Nam bằng 1/20 so với tỷ lệ dự trữ bắt
buộc thông thường tương ứng với từng kỳ hạn tiền gửi; đối với TC TD có tỷ trọng
dư nợ cho vay phát triển nông nghiệp nông thôn trên tổng dư nợ bình quân cuối các
quý trong năm tài chính liền kề từ 40% đến dưới 70%, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với
tiền gửi bằng đồng Việt Nam bằng 1/5 so với tỷ lệ dự trữ bắt buộc thông thường
tương ứng với từng kỳ hạn tiền gửi. Ngày 02/02/2012, Ngân hàng Nhà nước đã có
văn bản thông báo việc áp dụng tỷ lệ dữ trữ bắt buộc theo Thông tư số 20/2010/TT NHNN đối với một số TCTD, thông báo mức tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi
bằng đồng Việt Nam mà các TCTD: Ngân hàng thương mại cổ phần M ê Kông,
Ngân hàng Phát triển Nhà đồng bằn g Sông Cửu Long, Quỹ Tín dụng nhân dân
Trung ương, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam và Ngân
hàng thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt được áp dụng từ tháng 02/2012 đến
tháng 7/2012.
+ Quy định về bảo hiểm tiền gửi đặc biệt là sự ra đời của Luật bảo hiểm tiền
gửi 2012 có ý nghĩa quan trọng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
gửi tiền, góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các TCTD, bảo đảm sự phát triển
an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng . Nguyên tắc hoạt động của bảo hiểm
tiền gửi yêu cầu tham gia bắt buộc đối với các TCTD, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài được nhận tiền gửi của cá nhân, là cơ sở để tập trung nguồn lực bảo vệ người
gửi tiền khi xảy ra đổ vỡ, và hơn thế, hỗ trợ quá trình giám sát thường xuyên các tổ
chức nhận tiền gửi, đảm bảo các tổ chức này tuân thủ chặt chẽ các quy định của
pháp luật. Luật bảo hiểm tiền gửi 2012 bảo hiểm cho tiền gửi bằng đồng Việt Nam
của cá nhân dưới nhiều hình thức, tuy nhiên không bảo hiểm cho tiền gửi hộ gia
đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh gửi tại tổ chức tham gia


21
bảo hiểm tiền gửi. Người được bảo hiểm tiền gửi có quyền được bảo hiểm số tiền
gửi của mình tại tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định tại Điều 11 Luật
bảo hiểm tiền gửi 2012 được nhận tiền bảo hiểm đầy đủ và đúng thời hạn; được yêu
cầu tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, tổ chức bảo hiểm tiền gửi cung cấp đầy đủ,

chính xác thông tin, chế độ về bảo hiểm tiền gửi; được khiếu nại, tố cáo, khởi kiện
cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến bảo hiểm tiền gửi theo quy định của
pháp luật.


Hạn chế để bảo đảm an toàn trong hoạt động cấp tín dụng :

+ Quy định về những trường hợp không được cấp tín dụng tại Điều 126 Luật
các TCTD 2010: TCTD không được cấp tín dụng hoặc nhận bảo đảm để cấp tín
dụng hoặc thực hiện việc bảo đảm để TCTD khác cấp tín dụng đối với: (i) Thành
viên Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên, Ban kiểm soát, Tổng Giám đốc, Phó
Tổng Giám đốc và các chức danh tương đương của TCTD, chi nhánh ngân hàng
nước ngoài, pháp nhân là cổ đông có người đại diện phần vốn góp là thành viên
Hội đồng quản trị, thành viên Ban kiểm soát của TC TD là công ty cổ phần, pháp
nhân là thành viên góp vốn, chủ sở hữu của TCTD là Công ty trách nhiệm hữu han;
(ii) Bố, m ẹ, vợ, chồng, con của thành viên Hội đồng quản trị, Hội đồng thành viên,
thành viên Ban kiểm soát, Tổng Giám đốc, Phó Tổng Giám đốc của TCTD và các
chức danh tương đương.
+ Quy định về những trường hợp hạn chế cấp tín dụng: Để đảm bảo an toàn
trong hoạt động ngân hàng của TCTD nhằm tránh xung đột lợi ích, Điều 127 Luật
các TCTD 2010 quy định về những trường hợp hạn chế cấp tín dụng thì pháp luật
cấm cho vay và hạn chế cho vay đối với các cá nhâ n có liên quan trong quá trình
cho vay hoặc có trách nhiệm chính trong hoạt động quản trị rủi ro tín dụng hoặc
công ty chứng khoán trực thuộc TCTD bao gồm: tổ chức kiểm toán, kiểm toán
viên, kế toán trưởng, cổ đông lớn, cổ đông sáng lập, người thẩm định, n gười xét
duyệt tín dụng, công ty con, công ty liên kết, doanh nghiệp mà TCTD nắm quyền
kiểm soát.
+ Quy định về giới hạn cấp tín dụng: Tại Điều 128 Luật các TC TD 2010 đã
quy định về giới hạn cấp tín dụng, theo đó tổng mức dư nợ đối với một khách hàng



22
không được vượt quá 15%, đối với một khách hàng và người có liên quan không
quá 25% vốn tự có của ngân hàng thương mại; còn đối với TCTD phi ngân hàng thì
tổng mức dư nợ đối với một khách hàng không được vượt quá 25%, đối với một
khách hàng và người có liên quan không quá 50% vốn tự có.


Hạn chế trong việc góp vốn, mua cổ phần: (i) Việc TCTD góp vốn, mua cổ

phần của doanh nghiệp khác cũng như các hình thức kinh doanh khác đều có những
rủi ro nhất định. Cho nên, trước khi quyết định đầu tư góp vốn, mua cổ phần của
doanh nghiệp khác, TCTD đã phải thẩm định và đánh giá tính hiệu quả, khả thi của
khoản đầu tư đó. Xét thấy việc đầu tư hiệu quả và có lãi, TCTD mới đầu tư góp
vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp khác. Để bảm đảm an toàn, ổn định của hoạt
động ngân hàng và thị trường tài chính tiền tệ, Ngân hàng nhà nước có thể hạn chế
mức góp vốn, mua cổ phần của các TCTD vào doanh nghiệp khác. Trong phạm vi
giới hạn góp vốn, mua cổ phần của TCTD vào doanh nghiệp khác theo quy định
của pháp luật thì TCTD được chủ động quyết định việc góp vốn, mua cổ phần và tự
chịu trách nhiệm về quyết định của m ình. Theo quy định tại Điều 129 Luật các
TCTD 2010 về giớ i hạn góp vốn, mua cổ phần, theo đó: M ức góp vốn, mua cổ
phần của một Ngân hàng thương mại và các công ty con, công ty liên kế t của Ngân
hàng thương m ại đó vào một doanh nghiệp hoạt động trên lĩnh vực quy định tại
khoản 4 Điều 103 của Luật này không được vượt quá 11% vốn điều lệ của doanh
nghiệp nhận vốn góp và không được vượt quá 40% vốn điều lệ và quỹ dự trữ của
ngân hàng thương mại; M ức góp vốn, mua cổ phần của một công ty tài chính và
các công ty con, công ty liên kết của công ty tài chính vào một doanh nghiệp theo
quy định tại khoản 2 Điều 110 của Luật này không được vượt quá 11% vốn điều lệ
của doanh nghiệp nhận vốn góp và k hông được vượt quá 60% vốn điều lệ và quỹ
dự trữ của công ty tài chính. Như vậy, Luật các TCTD 2010 quy định tỷ lệ giới hạn

góp vốn, mua cổ phần của công ty tài chính cao hơn so với Ngân hàng thương mại.
Tuy nhiên, tại Điều 16 mục 4 Thông tư số 13/2010/TT -NHNN quy định về giới
hạn góp vốn, mua cổ phần của Ngân hàng thương m ại và công ty tài chính là như
nhau. (ii) Tại Điều 135 Luật các TC TD 2010 còn quy định về việc góp vốn, mua cổ
phần giữa các công ty con, công ty liên kết, công ty kiểm soát không được g óp vốn,


×