Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Hoàn thiện pháp luật việt nam về công ty cổ phần theo kinh nghiệm của một số nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (850.72 KB, 74 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐỖ THỊ KHÁNH HUYỀN

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN
THEO KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƢỚC

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60380107

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ YẾN

HÀ NỘI - 2013


Lời cảm ơn!
Đầu tiên, em xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc đến các thầy, cô giáo trong Trường
Đại học Luật Hà Nội đã tạo điều kiện và giúp đỡ em trong quá trình em học tập và
nghiên cứu chương trình sau đại học tại trường.
Em cũng xin được gửi lời cảm ơn chân thành nhất với cô Nguyễn Thị Yến, người
đã tận tâm, nhiệt tình chỉ bảo và giúp đỡ em hoàn thành luận văn này. Cảm ơn gia
đình, bạn bè luôn ở bên ủng hộ và tạo mội điều kiện để em có thể hoàn thành tốt việc
nghiên cứu đề tài này.

Hà Nội, ngày 25 tháng 5 năm 2013


Học viên
Đỗ Thị Khánh Huyền


1

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ............................................................................................................. 4
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài. ............................................................ 4
2. Tình hình nghiên cứu đề tài. .................................................................................. 5
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài. ..................................................................................... 6
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài. ...................................................... 6
6. Kết cấu của luận văn. ............................................................................................. 7
CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN VÀ PHÁP
LUẬT VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN .............................................................................. 8
1.1. Sự hình thành và phát triển của CTCP ở một số nƣớc trên thế giới và Việt
Nam. ............................................................................................................................. 8
1.2. Khái niệm và đặc điểm CTCP. ......................................................................... 13
1.3. Pháp luật về CTCP. ........................................................................................... 15
1.3.1 Khái niệm pháp luật về CTCP. .................................................................... 15
1.3. 2 Nội dung pháp luật về CTCP. .................................................................... 17
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM .................................... 20
VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN ........................................................................................ 20
2.1. Quy định về điều kiện và thủ tục thành lập CTCP. ....................................... 20
2.1.1. Điều kiện thành lập CTCP. ........................................................................ 20
2.1.2 Thủ tục thành lập doanh nghiệp. ................................................................. 22
2.2 Quy định về vốn CTCP. ..................................................................................... 23
2.2.1 Vốn điều lệ của CTCP. ................................................................................ 23
2.2.2. Các quy định chuyển nhượng và mua lại cổ phần của CTCP. .................. 24
2.2.3 Các trường hợp tăng, giảm vốn điều lệ của CTCP...................................... 25

2.3. Quy định về tổ chức, quản lý nội bộ CTCP. .................................................... 26
2.3.1. Mô hình quản lý CTCP. .............................................................................. 26
2.3.2. Tổ chức quản lý công ty cổ phần theo LDN 2005. ..................................... 28
2.3.3. Trách nhiệm người quản lý CTCP. ............................................................ 42
2.4. Cổ đông và quyền, nghĩa vụ của cổ đông CTCP............................................. 44
2.4.1 Cổ đông CTCP. ........................................................................................... 44
2.4.2 Quyền và nghĩa vụ của cổ đông CTCP. ...................................................... 45
2.5 Tổ chức lại, chấm dứt hoạt động của CTCP .................................................... 47


2

2.5.1. Tổ chức lại CTCP ....................................................................................... 47
2.5.2. Chấm dứt hoạt động của CTCP. ................................................................ 48
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CÔNG
TY CỔ PHẦN............................................................................................................ 52
3.1 Sự cần thiết hoàn thiện pháp luật Việt Nam về CTCP. .................................. 52
3.1.1 Hoàn thiện pháp luật về CTCP nhằm bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư ..... 52
3.1.2 Hoàn thiện pháp luật về CTCP nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập của
LDN 2005 về CTCP. ................................................................................................. 52
3.1.3 Hoàn thiện pháp luật về CTCP nhằm đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế
quốc tế. ...................................................................................................................... 53
3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về CTCP ở Việt Nam. ........... 54
3.2.1 Sửa đổi, bổ sung các quy định về điều kiện thủ tục thành lập CTCP. ........ 54
3.2.2 Hoàn thiện các quy định về vốn của CTCP. ............................................... 55
3.2.3 Hoàn thiện các quy định pháp luật về tổ chức, quản lý CTCP. .................. 57
3.2.4. Bổ sung thêm các quyền của cổ đông CTCP. ............................................ 63
3.2.5 Hoàn thiện các quy định về tổ chức lại và chấm dứt hoạt động CTCP. ..... 65
3.2.6 Ban hành đầy đủ các chế tài xử lý đối với các hành vi vi phạm quy định về
CTCP. ....................................................................................................................... 66

KẾT LUẬN ................................................................................................................ 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................ 69


3

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BKS

:

Ban kiểm soát

BLDS

:

Bộ luật Dân sự

CTCP

:

Công ty cổ phần

ĐHĐCĐ

:


Đại hội đồng cổ đông

ĐKKD

:

Đăng ký kinh doanh

HĐQT

:

Hội đồng quản trị

GĐ/TG

:

GĐ/Tổng GĐ

LCT

:

Luật Công ty

LDN

:


Luật Doanh nghiệp

RMBCA

:

Đạo luật mẫu về công ty kinh doanh


4

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài.
Là sản phẩm của nền sản xuất hàng hóa, công ty đã đi vào đời sống của con người
như một mô hình “lý tưởng” nhất giúp tối đa hóa lợi nhuận trong kinh doanh. Do đó,
khi nhu cầu mở rộng quy mô kinh doanh xuất hiện sẽ kéo theo nhu cầu huy động vốn
từ nhiều nguồn khác nhau. So với các loại hình doanh nghiệp khác, loại hình doanh
nghiệp là công ty, nhất là công ty cổ phần (CTCP) đã nhanh chóng đáp ứng nhu cầu
này. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, với những ưu thế của mình,
CTCP đã dần trở thành lựa chọn hấp dẫn đối với các nhà đầu tư khi tiến hành đầu tư
vốn sản xuất kinh doanh.
Tiếp thu kinh nghiệm pháp luật công ty của các nước phát triển trên thế giới,
trong thời gian qua, Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể trong nhận thức và thực
hành pháp luật kinh doanh, nếu so sánh với những quy định về công ty nói chung và
CTCP nói riêng thì pháp luật về công ty của nước ta đã có cách tiếp cận và phát triển
khá bài bản, đã giải quyết được những yêu cầu đặt ra trong quá trình phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Tuy nhiên, sự phát hiện
và xử lý vấn đề của các nhà làm luật Việt Nam chưa toàn diện, nhiều vụ việc tranh
chấp, nhiều hành vi lợi dụng vai trò, ảnh hưởng của người quản lý để trục lợi, làm
thiệt hại đến lợi ích của cổ đông vẫn xảy ra thường xuyên mà nguyên nhân chủ yếu

xuất phát từ những bất cập và thiếu sót của pháp luật, chưa khuyến khích được các nhà
đầu tư, nhất là nhà đầu tư nước ngoài tiến hành đầu tư dưới hình thức CTCP để kinh
doanh thu lợi nhuận. Hơn nữa, việc tiếp thu kinh nghiệm trong quá trình xây dựng Luật
Doanh nghiệp (LDN) 2005 được thực hiện vào thời điểm các quốc gia được tiếp nhận
kinh nghiệm cũng đang tiến hành việc sửa đổi các đạo luật về công ty của họ. Vì vậy,
sau khi LDN 2005 của Việt Nam được ban hành, trên thế giới, cùng năm này, LCT
Trung Quốc ra đời, sau đó một năm vào năm 2006, LCT Nhật Bản, LCT Anh, LCT
Singapo sửa đổi được ban hành… với nhiều quy định mới tiến bộ nhằm hoàn thiện hơn
nữa môi trường kinh doanh, thu hút và khuyến khích các nhà đầu tư mở rộng quy mô
kinh doanh. Do đó, việc nghiên cứu nhằm hoàn thiện vấn đề pháp lý liên quan đến
CTCP trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới trong
giai đoạn này là việc làm cần thiết. Vì vậy, tác giả chọn vấn đề: “Hoàn thiện pháp luật


5

Việt Nam về CTCP theo kinh nghiệm của một số nước” làm đề tài luận văn thạc sĩ
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Pháp luật về công ty nói chung và CTCP nói riêng là vấn đề được nhiều nhà
nghiên cứu quan tâm, trong đó có thể kể đến một số công trình nghiên cứu sau:
- Luận án tiến sỹ luật học, Hoàn thiện hệ thống pháp luật về doanh nghiệp - Một
số vấn đề lý luận và thực tiễn (2004) của Đồng Ngọc Ba. Luận án tập trung làm rõ
các vấn đề lý luận và thực tiễn của việc hoàn thiện các loại hình doanh nghiệp của
Việt Nam, trong đó có CTCP. Trong luận án này, đã phân tích một số điểm bất cập
của pháp luật Việt Nam về các loại hình doanh nghiệp và đề xuất các giải pháp đề
hoàn thiện.
- Luận văn thạc sĩ luật học, Một số khía cạnh pháp lý về CTCP dưới góc độ so
sánh pháp luật Việt Nam và pháp luật cộng hòa Pháp (2004) của Bạch Thị Lệ Hoa.
Trong luận văn này, tác giả tập trung nghiên cứu một số vấn đề pháp lý như cơ cấu

quản lý nội bộ, vốn, cổ đông của CTCP theo LDN Việt Nam trên cơ sở so sánh với
quy định về CTCP trong pháp luật Pháp, từ đó kiến nghị một số nội dung cần hoàn
thiện về CTCP ở Việt Nam, tiếp cận từ kinh nghiệm Pháp.
- Sách: “LDN bảo vệ cổ đông pháp luật và thực tiễn” (2011) của TS. Bùi Xuân
Hải. Cuốn sách này tập trung phân tích làm rõ thực trạng pháp luật về quyền của cổ
đông, cách thức và biện pháp bảo vệ cổ đông CTCP trên cơ sở có so sánh với pháp
luật của một số nước trên thế giới, từ đó đưa ra kiến nghị sửa đổi, bổ sung LDN năm
2005 nhằm tăng cường bảo vệ cổ đông CTCP.
- Bài viết: “So sánh cấu trúc quản trị công ty điển hình trên thế giới” của TS.
Phạm Văn Tuyết, Tạp chí Khoa học pháp lý số 6/2006; bài viết: “Tạo thuận lợi hơn
cho việc thực hiện quyền cổ đông trong Luật Liên minh châu Âu và luật Đức - Kinh
nghiệm cho Việt Nam” của Phan Huy Hồng, Tạp chí khoa học pháp lý số 3/2010; bài
viết: “Giấc mơ nửa triệu doanh nghiệp và một đạo luật chung: LDN năm 2005 từ
một góc nhìn so sánh với LCT 2005 của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa” của
PGS.TS Phạm Duy Nghĩa, Tạp chí Nhà nước & pháp luật, tháng 7/2006...
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên chủ yếu phân tích làm rõ một số khía
cạnh pháp lý trong quá trình thành lập, tổ chức và hoạt động kinh doanh của CTCP,
quyền và nghĩa vụ của cổ đông CTCP, chưa đi sâu nghiên cứu toàn diện những hạn


6

chế, bất cập trong quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về CTCP trên cơ sở so
sánh, đối chiếu với các quy định pháp luật của một số quốc gia trên thế giới,từ đó đưa
ra các giải pháp hoàn thiện.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài.
CTCP với tư cách là một loại hình kinh doanh trong nền kinh tế là đối tượng
nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau. Do đó, luận văn không tập trung
nghiên cứu về CTCP dưới góc độ của khoa học kinh tế mà chỉ nghiên cứu dưới góc
độ khoa học pháp lý. Theo cách tiếp cận của luận văn, tác giả không nghiên cứu toàn

bộ các vấn đề pháp lý về CTCP mà chỉ tập trung vào các quy định của pháp luật Việt
Nam về CTCP trên cơ sở phân tích, đánh giá pháp luật thực định và thực tiễn thi hành
trên cơ sở so sánh với pháp luật về CTCP của một số quốc gia trên thế giới, từ đó đưa
ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam trong lĩnh vực này.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài.
Để thực hiện đề tài, luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa học
luật, cụ thể:
- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử được sử dụng chủ yếu trong
Chương 1 khi nghiên cứu những vấn đề chung về CTCP, cơ sở lý luận và thực tiễn
cho việc hoàn thiện pháp luật về CTCP ở Việt Nam;
- Phương pháp phân tích, tổng hợp và so sánh luật học được sử dụng chủ yếu ở
Chương 2 khi phân tích các quy định của pháp luật hiện hành về CTCP và chỉ ra
những điểm bất cập trong pháp luật về CTCP ở Việt Nam trên cơ sở so sánh với pháp
luật của một số nước trên thế giới;
- Phương pháp diễn giải, quy nạp được sử dụng chủ yếu trong Chương 3 để đưa
ra định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về CTCP ở Việt Nam.
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
Bằng việc nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định của pháp luật về CTCP
về phương diện lý luận cũng như trong thực tiễn thi hành, luận văn tập trung phân
tích những điểm bất cập, hạn chế, những điểm chưa phù hợp trong quy định của pháp
luật hiện hành qua đó kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật về CTCP ở Việt Nam.
Để thực hiện được mục đích này, đề tài có các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Nghiên cứu làm rõ một số vấn đề chung về CTCP, cơ sở lý luận và thực tiễn cho
việc hoàn thiện CTCP ở Việt Nam;


7

- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về CTCP ở Việt Nam và thực tiễn thi
hành các quy định này trên thực tế;

- Tìm hiểu bộ phận pháp luật tương ứng của một số quốc gia trên thế giới trong
mối tương quan, so sánh với pháp luật Việt Nam về CTCP;
- Chỉ ra những yêu cầu khách quan của việc hoàn thiện quy định pháp luật về
CTCP và đề xuất các định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh vấn đề
này.
6. Kết cấu của luận văn.
Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương:
- Chương 1: Khái quát chung về công ty cổ phần và pháp luật về công ty cổ phần.
- Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về công ty cổ phần.
- Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật về công ty cổ phần ở Việt Nam.


8

CHƢƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN VÀ PHÁP
LUẬT VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN
1.1. Sự hình thành và phát triển của CTCP ở một số nƣớc trên thế giới và
Việt Nam.
Cũng giống như các hình thức tổ chức kinh doanh khác, CTCP ra đời, tồn tại và
phát triển trong những điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Tuy ra đời sau các loại hình
công ty đối nhân nhưng CTCP là hình thức đầu tiên của loại hình công ty đối vốn.
Không giống sự ra đời của hình thức công ty TNHH - là sản phẩm của các nhà lập
pháp xuất phát từ nhu cầu của thực tiễn kinh doanh, CTCP được hình thành trong
hoạt động kinh doanh, do nhu cầu của các nhà kinh doanh rồi sau đó mới được pháp
luật thừa nhận và hoàn thiện thành một chế định pháp lý. Ở Anh, mặc dù loại hình
CTCP đã xuất hiện hơn 100 trăm năm trước, nhưng phải đến năm 1844, Anh mới có
đạo luật đầu tiên về công ty. Và đến năm 1856, Anh mới có Luật về CTCP.
Sự hình thành và phát triển của CTCP gắn liền với sự hình thành của thị trường
vốn và thị trường tiền tệ. CTCP là một loại hình kinh doanh phổ biến hiện nay, được

xem là phương thức phát triển cao nhất cho đến nay của loài người để huy động vốn
cho kinh doanh và qua đó làm cho nền kinh tế của mỗi quốc gia phát triển [5, tr.18].
Vào thế kỷ XVIII, XIX, cuộc cách mạng công nghiệp ở các nước châu Âu và Bắc Mỹ
phát triển mạnh mẽ, nhu cầu tích tụ vốn để đầu tư của các nhà tư bản ngày một lớn,
mô hình sản xuất kinh doanh theo đó được mở rộng, mức độ cạnh tranh và độc quyền
giữa các nhà tư bản ngày một gay gắt buộc họ phải đi đến thỏa hiệp với nhau nhằm
thu được tối đa lợi nhuận cũng như tăng cường sự bành trướng và thế lực kinh tế của
mình. Chính yêu cầu này đã làm xuất hiện loại hình CTCP bởi nó thỏa mãn được
những mong muốn mà các nhà tư bản đặt ra, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút
và tập trung tư bản. Qua các CTCP, sự tập trung đã thực hiện được trong nháy mắt
[22, tr.199].
Công ty Đông Ấn (the East India Company hay East India Trading Company,
English East India Company, sau đó là the Bristish East India Company) được coi là
một trong những CTCP xuất hiện đầu tiên trên thế giới, được thành lập theo một sắc
lệnh ngày 31/12/1600 của Nữ hoàng Anh Elizabeth I với tên gọi Governor and
Company of Merchants of London trading into the East Indies [15, tr.58] bởi một
nhóm 218 người, được cấp phép độc quyền kinh doanh trong vòng 15 năm ở vùng


9

Đông Ấn, các quốc gia và hải cảng ở châu Á, châu Phi và được đi lại từ tất cả các hải
cảng của các đảo, thị trấn và địa điểm ở châu Á, châu Phi và Mỹ hay bất kỳ địa điểm
nào như thế nằm ngoài Mũi Hảo Vọng (Cape of Good Hope) và Eo biển Magellan.
Ngày 01/6/1874, công ty này bị giải thể khi giấy phép hoạt động cuối cùng không
được gia hạn. Mô hình tổ chức, hoạt động của CTCP đầu tiên này hết sức lỏng lẻo:
“Người đầu tư góp vốn theo chuyến đi biển và sau mỗi chuyến đi biển nhận lại vốn
cổ phần và tiền lãi” [36, tr.10].
Đến năm 1602, ở Hà Lan xuất hiện các CTCP theo hình thức tương tự công ty
Đông Ấn của Anh, sau đó các CTCP lần lượt xuất hiện ở Thụy Điển, Đan Mạch,

Đức… Ở Mỹ, CTCP phát triển rất mạnh. Lúc đầu là vì phải xây dựng đường xe lửa,
sau này là để thiết lập mạng lưới phân phối và bán lẻ trên toàn lãnh thổ rộng lớn của
Mỹ. Chính do yêu cầu tài trợ cho các công ty làm đường xe lửa mà thị trường chứng
khoán ở New York phát triển. Năm 1811, bang New York ban bố luật về tính TNHH
dành cho các công ty sản xuất. Nhờ có luật này, tiền ùn ùn đổ về New York và tính
hữu hạn kia trở thành phổ biến vì bang nào không dùng đến nó là không thu hút được
vốn [5, tr.25].
Từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX, ở các nước tư bản phát triển, CTCP
được thành lập để kinh doanh nhiều lĩnh vực khác nhau như giao thông, vận tải, xây
dựng, các ngành chế tạo cơ khí, ngân hàng, bảo hiểm… sau đó mô hình tổ chức này
được lan rộng ra các quốc gia khác trên thế giới. Đến những năm 20, 30 của thế kỷ
XIX, cùng với sự phát triển nhanh chóng của khoa học, kỹ thuật, nền kinh tế thế giới
có bước phát triển mạnh mẽ, dẫn đến nhu cầu phải tập trung nguồn vốn lớn để xây
dựng cơ sơ hạ tầng kinh tế – xã hội ngày một cao. Để thực hiện mục đích này, CTCP
được các nhà đầu tư sử dụng như một công cụ để thu hút và tập trung vốn. Chính khả
năng tập trung vốn cao của CTCP đã giúp các nhà đầu tư nhanh chóng thực hiện được
mục tiêu trong đầu tư của mình. “Nếu như cứ phải chờ cho đến khi tích luỹ làm cho
số tư bản riêng lẻ lớn lên đến mức có thể đảm đương được việc xây dựng đường sắt
thì có lẽ đến ngày nay thế giới vẫn chưa có đường sắt” [22, tr.199].
Trải qua quá trình phát triển lâu dài, ngày nay, CTCP trở thành loại hình kinh
doanh có mặt ở hầu khắp các quốc gia trên thế giới hoạt động trong rất nhiều lĩnh
vực, với ưu thế về chế độ chịu TNHH, khả năng huy động vốn rộng rãi trong công
chúng để đầu tư vào nhiều lĩnh vực khác nhau, số lượng thành viên lớn và hầu hết


10

không hạn chế số lượng tối đa, CTCP đã phát triển từ đơn giản đến phức tạp, từ quy
mô nhỏ đến quy mô lớn, từ một ngành đến đa ngành, từ một quốc gia đến nhiều quốc
gia thông qua các tập đoàn đa quốc gia.

Sự phát triển ngày càng lớn mạnh của CTCP đòi hỏi phải có sự điều chỉnh của
pháp luật đối với quá trình tổ chức hoạt động của loại hình công ty này, nhằm bảo vệ
quyền lợi cho các cổ đông cũng như các chủ thể khác tham gia quan hệ với công ty
cũng như tạo lập môi trường kinh doanh lành mạnh, khuyến khích các nhà đầu tư
tham gia hoạt động sản xuất, kinh doanh. Luật về CTCP được ban hành ở Anh lần
đầu tiên năm 1844. Tuy nhiên, theo Luật này, CTCP không được hưởng chế độ trách
nhiệm hữu hạn (TNHH), do đó khiến nảy sinh sự nghi ngờ của công chúng về CTCP
lúc đó. Vào những năm 1950, do không tìm thấy các quy định có lợi từ pháp luật
trong nước, hơn 40 nhà đầu tư Anh đã sang Pháp để thành lập CTCP dù chi phí thành
lập công ty ở Pháp rất cao. Chính điều đó khiến Chính phủ Anh phải ban hành Luật
về tính TNHH cho các công ty đã được thành lập theo Luật về CTCP. Đến năm 1862,
hai luật này được hợp nhất và lấy tên là Luật về công ty (Companies Act).Vào lúc ấy,
nước Anh là đế quốc thống trị về hàng hải và là một cường quốc công nghiệp hàng
đầu thế giới.
Lịch sử hình thành và phát triển CTCP ở Việt Nam khá ngắn so với pháp LCT
của các nước phương Tây, dưới các triều đại phong kiến (trước khi Pháp xâm lược
Việt Nam), hoạt động buôn bán kinh doanh tuy đã được hình thành và phát triển song
chưa có pháp luật về công ty. Sau khi xâm chiếm và biến Việt Nam thành thuộc địa,
bên cạnh chế độ cai trị hà khắc, thực dân Pháp từng bước áp đặt tư tưởng pháp lý của
họ vào Việt Nam. Các quy định đầu tiên về công ty được ghi nhận trong Bộ Dân luật
thi hành tại các toà Nam án Bắc Kỳ năm 1931, trong đó tiết thứ 5 (Chương IX) nói về
hội buôn được chia thành hai loại là hội người và hội vốn. Trong đó hội vốn được
chia thành hai loại là hội vô danh (CTCP) và hội hợp cổ (Công ty hợp vốn đơn giản).
Nhìn chung, quy định của Pháp luật thời kỳ này về CTCP còn rất sơ khai [9, tr.17].
Đến năm 1942, Bộ luật thương mại Trung phần được ban hành áp dụng tại Trung
Kỳ, trong đó có quy định về CTCP (gọi là công ty vô danh) từ Điều 102 đến Điều
142 và từ Điều 159 đến Điều 171. Cả hai bộ luật này đều quy định về mô hình CTCP
gần giống mô hình CTCP của nước Pháp thời kỳ đó. Nguồn gốc hai từ “công ty”
trong Tiếng Việt được cho là bắt nguồn từ tiếng Quan Thoại để chỉ Công ty Đông Ấn



11

của người Anh, đã trở nên dễ hiểu, quen thuộc hơn là các thuật ngữ “hội người”, “hội
vốn” đã từng được sử dụng khi dịch các từ chỉ công ty trong pháp luật của người
Pháp sang tiếng Việt trong những năm đầu thế kỷ XX [25, tr.192-193]. Mặc dù chịu
sự cai trị của người Pháp nhưng thời này đã có một số công ty do người Việt thành
lập và dành được nhiều thành công lớn, đủ sức cạnh tranh với tư bản Pháp và thương
nhân Hoa Kiều như Bạch Thái Bưởi, Quách Đàm, Trần Chánh Bướu…
Với chủ trương xây dựng nền kinh tế kế hoạch hóa, vận hành theo cơ chế tập
trung, bao cấp, trong thời kỳ đất nước bị chia cắt làm hai miền, các hình thức công ty
nói chung và CTCP nói riêng hầu như không được thừa nhận ở miền Bắc. Các hình
thức tổ chức sản xuất, kinh doanh trong giai đoạn này chủ yếu bao gồm các nhà máy,
xí nghiệp quốc doanh, hợp tác xã (đối với thành phần kinh tế tập thể) và công tư hợp
danh (hình thành từ quá trình cải tạo công thương nghiệp xã hội chủ nghĩa). Mặc dù
Điều lệ về đầu tư của nước ngoài ở nước CHXHCN Việt Nam (ban hành kèm theo
Nghị định 115/CP của Chính phủ ngày 18/4/1977) có đề cập đến hình thức CTCP khi
quy định “xí nghiệp hoặc công ty hỗn hợp” có thể thành lập theo hình thức “công ty
vô danh” (một tên gọi khác của CTCP) nhưng cũng không có quy định pháp luật nào
điều chỉnh quá trình tổ chức hoạt động của loại hình công ty này. Trong khi đó, ở
miền Nam Việt Nam, mô hình công ty từ thời Pháp thuộc vẫn được duy trì và thừa
nhận. Đến năm 1972, chính quyền Việt Nam Cộng hoà ban hành Bộ luật Thương mại
Sài Gòn (Bộ Thương luật) gồm 5 quyền, 1051 điều, trong đó CTCP được gọi là hội
nặc danh với đặc điểm “gồm có các hội viên mệnh danh cổ đông, chỉ chịu trách
nhiệm trong giới hạn phần hùn của mình dưới hình thức cổ phần” (Điều 236) và “chỉ
được thành lập nếu có số hội viên từ 7 người trở lên” (Điều 295). Các vấn đề pháp lý
liên quan đến hình thức hội nặc danh như thành lập, góp vốn, cơ cấu quản lý … đã
được quy định rất chi tiết trong Bộ luật này từ Điều 236 đến Điều 278 cũng như từ
Điều 295 đến Điều 314.
Đến năm 1990, đạo luật công ty đầu tiên của nước Việt Nam thống nhất được ban

hành với 46 điều luật, cũng trong đạo luật này, hình thức CTCP đã được ghi nhận cụ
thể với các đặc điểm: (i) Số thành viên gọi là cổ đông mà công ty phải có trong suốt
thời gian hoạt động ít nhất là bảy; (ii) Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều
phần bằng nhau gọi là cổ phần. Giá trị mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ phiếu. Mỗi cổ
đông có thể mua một hoặc nhiều cổ phiếu; (iii) Cổ phiếu được phát hành có thể ghi


12

tên hoặc không ghi tên. Cổ phiếu của sáng lập viên, của thành viên HĐQT phải là
những cổ phiếu có ghi tên; (iv) Cổ phiếu không ghi tên được tự do chuyển nhượng.
Cổ phiếu ghi tên chỉ được chuyển nhượng nếu được sự đồng ý của HĐQT, trừ trường
hợp quy định tại Điều 39 của Luật này. Sau khi LCT 1990 ra đời, nhiều văn bản pháp
luật khác nhau đã được ban hành nhằm điều chỉnh hoạt động của các CTCP hoạt
động trong các lĩnh vực đặc thù. Chẳng hạn quy định về hình thức ngân hàng thương
mại cổ phần trong Luật các tổ chức tín dụng 1997 hay các công ty chứng khoán trong
lĩnh vực chứng khoán trong Quy chế về tổ chức và hoạt động của công ty chứng
khoán ban hành kèm theo Quyết định số 04/1998/QĐ-UBCK ngày 13/10/1998.
Sau gần 9 năm thi hành trên thực tế, LCT 1990 đã phát huy tích cực vai trò của
mình, tạo cơ sở pháp lý cho sự phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở nước ta, và là
mốc quan trọng, có ý nghĩa quyết định trong quá trình đổi mới kinh tế, chuyển sang
nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, thực tiễn các quan hệ kinh doanh
ở nước ta trong thời kỳ này liên tục biến đổi, LCT đã bộc lộ rất nhiều bất cập, nhất là
trong vấn đề thủ tục thành lập và ĐKKD. Nhiều quy định của luật này tỏ ra lạc hậu
với cách thức tổ chức một công ty theo cơ chế thị trường và thông lệ quốc tế. Việc
sửa đổi, thay thế luật này được đặt ra như là một sự tất yếu khách quan.
Ngày 12/6/1999, Quốc hội Việt Nam đã thông qua LDN để thay thế cho LCT và
LDN tư nhân, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp nói
chung và CTCP nói riêng, góp phần hoàn thiện môi trường kinh doanh, giải phóng

sức sản xuất, huy động mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội. Sau hơn 5 năm
triển khai thực hiện trên thực tế, trước những yêu cầu phát triển kinh tế và hội nhập
quốc tế, LDN 1999 đã bộc lộ nhiều hạn chế, gây ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh
của các doanh nghiệp. Vì vậy, để góp phần tích cực vào việc thực hiện nhất quán
chính sách kinh tế của nhà nước, khai thác mạnh mẽ mọi nguồn lực phát triển kinh tế,
nhất là nguồn lực tài chính, nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp, tạo khung
pháp lý thống nhất, minh bạch, bình đẳng hơn cho các nhà đầu tư khi gia nhập thị
trường, LDN 2005 đã được ban hành thay thế LDN 1999. Trong văn bản này, CTCP
vẫn tiếp tục được ghi nhận và được quy định theo hướng tiếp cận dần đến các chuẩn
mực quốc tế về quản trị CTCP.


13

1.2. Khái niệm và đặc điểm CTCP.
Điều 77 LDN 2005 quy định “CTCP là doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ được
chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần; Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân;
số lượng cổ đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa; Cổ đông chỉ chịu
trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm
vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp; Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần
của mình cho người khác, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 81 và khoản 5
Điều 84 của Luật này. CTCP có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng
nhận ĐKKD. CTCP có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động vốn”.
Mặc dù LDN không đưa ra một khái niệm khái quát mà chỉ liệt kê những dấu hiệu
pháp lý để nhận diện CTCP nhưng quy định này đã xác định tư cách pháp lý tồn tại
của CTCP theo pháp luật Việt Nam, giúp phân biệt loại hình CTCP với các loại hình
doanh nghiệp khác.
Về vấn đề này, pháp luật một số nước trên thế giới có quy định khá tương đồng
với pháp luật Việt Nam, Điều 1041 LCT Anh 2006 định nghĩa: “CTCP có nghĩa là
một công ty - (A) có vốn điều lệ đã góp hoặc cổ phần danh nghĩa của tổng số vốn cố

định được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần, cũng số vốn cố định, hoặc
nắm giữ và chuyển giao như chứng khoán, hoặc được chia và nắm giữ một phần bằng
cách này và một phần bằng cách khác và (B) thành lập trên nguyên tắc có các thành
viên sở hữu cổ phiếu hoặc chứng khoán đó và không có những người khác”.
Ở Pháp, CTCP hay còn gọi là công ty vô danh (SA) được ra đời khá sớm, ngoài
SA, Pháp còn có loại hình CTCP đơn giản. Theo Luật quy định điều kiện để công ty
phát hành các loại chứng khoản ngày 14/12/1985, CTCP được gọi là công ty vô danh,
ở đó phải có ít nhất 7 cổ đông, vốn pháp định tối thiểu là 25.000 FF (đối với các công
ty không phát hành chứng khoán) và 1.500.000 FF (đối với các công ty phát hành
chứng khoán), mệnh giá thống nhất mỗi cổ phiếu là 100 FF. Các cổ đông có quyền tự
do chuyển nhượng cổ phần. Công ty nếu đủ điều kiện, có thể phát hành chứng khoán
để huy động vốn.
Như vậy, về bản chất của CTCP, pháp luật Việt Nam và pháp luật của một số
nước trên thế giới tương đối tương đồng khi quan niệm đây là loại hình công ty đặc
trưng của công ty đối vốn với đặc điểm quan trọng là có sự tách bạch tài sản của công
ty và tài sản của các cổ đông, các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về khoản nợ của công


14

ty trong phạm vi phần vốn góp vào công ty, vốn cơ bản của công ty được chia thành
các cổ phần, trong quá trình hoạt động, CTCP được phát hành các loại chứng khoán
ra thị trường để huy động vốn.
Từ khái niệm về CTCP quy định tại Điều 77 LDN 2005, có thể nhận thấy, CTCP
theo pháp luật Việt Nam có những đặc điểm sau:
Một là, vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ
phần, giá trị mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ phần và được phản ánh trong cổ phiếu.
Một cổ phiếu có thể phản ánh mệnh giá của một hoặc nhiều cổ phần.
Hai là, về tư cách pháp lý: CTCP có tư cách pháp nhân kể từ khi được cấp giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp (trước đây gọi là giấy chứng nhận ĐKKD; ĐKKD

và đăng ký thuế), hoạt động độc lập, tự mình tham gia vào các giao dịch; xác lập các
quyền và nghĩa vụ cho công ty.
Ba là, về số lượng cổ đông: CTCP phải có ít nhất 3 cổ đông và không hạn chế số
lượng tối đa. Như vậy, về lý thuyết các CTCP có thể có hàng ngàn, hàng vạn cổ
đông... và cổ đông có thể mang quốc tịch khác nhau. Tuy nhiên, do có quá nhiều cổ
đông nên việc sở hữu vốn điều lệ của công ty sẽ bị phân tán cho nhiều cổ đông, lợi
ích của các cổ đông cũng có thể không thống nhất hay đôi khi là sự xung đột lợi ích
giữa các nhóm cổ đông. Khác với công ty trách nhiệm hữu hạn, nhiều cổ đông CTCP
không biết nhau và chủ yếu họ quan tâm đến cổ phần và cổ tức, giá trị gia tăng của cổ
phần.
Bốn là, chế độ trách nhiệm: Theo Điều 77 LDN năm 2005 thì cổ đông chỉ chịu
trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của doanh nghiệp trong phạm
vi số vốn đã góp vào công ty; như vậy, cổ đông của CTCP chỉ chịu TNHH đối với
các khoản nợ của công ty. CTCP với tư cách là một pháp nhân sẽ tự chịu trách nhiệm
về các nghĩa vụ tài sản của công ty, cổ đông không phải chịu trách nhiệm thay CTCP
về các khoản nợ của công ty.
Năm là, về khả năng chuyển nhượng cổ phần: So với mô hình công ty TNHH,
phần vốn góp của cổ đông trong CTCP (tức là cổ phần) có khả năng chuyển nhượng
dễ dàng hơn. Về nguyên tắc, cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần mà
mình sở hữu, trừ trường hợp cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập (Điều 84) và cổ
phần ưu đãi biểu quyết (Điều 81).


15

Sáu là, về phát hành chứng khoán: Theo khoản 3, Điều 77 LDN 2005 thì CTCP
có quyền phát hành các loại chứng khoán để huy động vốn theo quy định của pháp
luật. Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ
liệu điện tử, bao gồm các loại cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ, quyền mua cổ
phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm

chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán. CTCP có quyền phát hành chứng khoán khi
đáp ứng đầy đủ các điều kiện pháp luật quy định.
1.3. Pháp luật về CTCP.
1.3.1 Khái niệm pháp luật về CTCP.
Là loại hình đặc trưng của công ty đối vốn với cơ cấu tổ chức và hoạt động chặt
chẽ, quá trình thành lập, tổ chức và hoạt động của CTCP được điều chỉnh bởi các quy
phạm pháp luật độc lập. Có thể nói, pháp luật về CTCP có vai trò quan trọng trong hệ
thống pháp luật về công ty. Vì vậy, việc nghiên cứu, đánh giá các quy định này góp
phần không nhỏ trong tiến trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về công ty
ở Việt Nam. Xuất phát từ sự cần thiết đó, việc đưa ra khái niệm pháp luật về CTCP là
việc làm có ý nghĩa, đặt nền móng cho việc hoàn thiện các quy định pháp luật về
CTCP nói riêng và pháp luật về công ty nói chung.
Tùy điều kiện kinh tế xã hội của mỗi quốc gia khác nhau mà pháp luật về CTCP
có chức năng khác nhau. Nhưng ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, pháp luật về
CTCP chủ yếu thực hiện chức năng phản ánh các quan hệ xã hội đã phát sinh liên
quan đến quá trình thành lập, tổ chức, điều hành của CTCP. Bởi lẽ, hình thức CTCP
đã xuất hiện trong nền kinh tế, trở thành một loại hình kinh doanh được nhiều nhà tư
bản lựa chọn để huy động vốn phục vụ cho hoạt động đầu tư sản xuất, kinh doanh,
tìm kiếm lợi nhuận. Do đó, loại hình CTCP cần được Nhà nước điều chỉnh bằng pháp
luật nhằm bảo vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư cũng như bảo
vệ lợi ích của nhà nước, của cộng đồng. Tuy nhiên, cùng với chức năng phản ánh,
pháp luật về CTCP còn thực hiện chức năng định hướng, bởi trong số các quy phạm
về CTCP, có rất nhiều quy phạm mang tính dự liệu, tạo khuôn mẫu để CTCP tổ chức
hoạt động.
Tùy từng quốc gia khác nhau mà pháp luật về CTCP có thể được quy định khác
nhau. Có những nước như Singapore, Thái Lan, Anh…pháp luật về CTCP được quy
định trong nhiều văn bản thuộc hệ thống pháp luật thương mại mà nền tảng là LCT.


16


Theo đó, các chế định pháp luật về CTCP đều được ghi nhận trong LCT và các văn
bản hướng dẫn thi hành, theo đó, pháp luật về CTCP bao gồm các chế định từ thành
lập, tổ chức điều hành hoạt động, quản lý nhà nước, giải quyết tranh chấp phát sinh
cũng như các chế tài áp dụng đối với các hành vi vi phạm trong quá trình thực hiện
quy định pháp luật về công ty, bao gồm chế tài dân sự, chế tài hành chính và chế tài
hình sự đều được ghi nhận chung tại một đạo luật. Đây là cách thức được áp dụng ở
những nước luật pháp không phân chia thành các ngành luật độc lập, do đó, hệ thống
pháp luật về một quan hệ pháp luật cụ thể bao gồm tất cả các chế định điều chỉnh các
quan hệ phát sinh từ hoạt động đó. Điều này khiến cho pháp luật về CTCP tương đối
cụ thể, đầy đủ và dễ áp dụng trên thực tế. Tuy vậy, cũng có các quốc gia như Nhật
Bản, Việt Nam, Liên bang Nga…, pháp luật về CTCP được quy định trong nhiều văn
bản pháp luật thuộc các lĩnh vực luật khác nhau như: LCT, Luật dân sự, Luật hành
chính, Luật hình sự… Theo cách này, LCT chỉ quy định những vấn đề liên quan đến
nội dung của quan hệ phát sinh trong quá trình hình thảnh, tổ chức và hoạt động của
CTCP còn những vấn đề khác liên quan đến tài sản góp vốn, thành viên góp vốn, hợp
đồng chuyển nhượng cổ phần... được quy định trong những văn bản pháp luật chung về
dân sự. Các quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp phát sinh từ quá trình tổ chức,
hoạt động của CTCP cũng như các quy định về chế tài áp dụng đối với hành vi vi phạm
pháp luật như chế tài dân sự, chế tài hành chính, chế tài hình sự (nếu cấu thành tội
phạm) được dẫn chiếu sang các văn bản pháp luật chuyên ngành. Cách thức này được
áp dụng ở những nước có hệ thống pháp luật được phân chia thành các ngành luật,
trong đó mỗi khía cạnh của một quan hệ pháp luật được điều chỉnh bằng một ngành
luật chuyên biệt. Cách quy định này tuy tạo ra sự chuyên sâu trong việc điều chỉnh các
mối quan hệ nhưng lại khiến cho các quy định pháp luật khó áp dụng trên thực tế.
Mặc dù có sự khác biệt trong cách thức quy định của pháp luật giữa các quốc gia
nhưng pháp luật về CTCP đều bao gồm các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan
hệ xã hội phát sinh trong quá trình thành lập, tổ chức và hoạt động của CTCP. Qua
những phân tích trên, có thể rút ra khái niệm:
Pháp luật về CTCP là hệ thống các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành hoặc

thừa nhận điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tổ chức và hoạt
động của CTCP, thể hiện cụ thể ở các nhóm quy phạm: quy phạm về điều kiện và thủ
tục thành lập CTCP; quy phạm về vốn của CTCP; quy phạm về cơ cấu tổ chức quản


17

lý nội bộ; quy phạm về cổ đông và quyền, nghĩa vụ của cổ đông; quy phạm tổ chức
lại, chấm dứt hoạt động của CTCP và các quy phạm pháp luật khác phát sinh trong
quá trình tổ chức hoạt động của CTCP.
1.3. 2 Nội dung pháp luật về CTCP.
Theo pháp luật các nước, quy định về CTCP bao gồm các nhóm quy phạm sau:
- Quy phạm về điều kiện và thủ tục thành lập CTCP:
Điều kiện và thủ tục thành lập là những quy định nhằm cho ra đời tư cách pháp lý
của CTCP. Tùy vào điều kiện kinh tế xã hội của mình mà pháp luật mỗi nước đặt ra
các điều kiện có thể khác nhau. Về điều kiện thành lập, có nước, ví dụ Trung Quốc,
Pháp, Đức…điều kiện tiên quyết để thành lập CTCP là điều kiện về vốn. Sở dĩ điều
kiện này được đặt ra nhằm hạn chế tình trạng các công ty khai khống vốn để tham gia
thị trường, tạo ra vô số “công ty ma”, không có vốn. Ngoài điều kiện về vốn, CTCP
phải có Điều lệ phù hợp với quy định của pháp luật và các điều kiện khác mà pháp luật
từng nước quy định. Có nước, ví dụ như Hoa Kỳ chỉ đòi hỏi phải nộp một tài liệu duy
nhất, thường được gọi là “Các điều khoản thành lập”, được ký bởi một người duy nhất
đóng vai trò như người thành lập, tại hầu hết các khu vực tài phán (Điều 2.01 Đạo luật
mẫu về công ty kinh doanh (RMBCA))... Bên cạnh đó, số lượng thành viên tối thiểu
cũng là một trong những điều kiện thành lập CTCP ở Trung Quốc, Việt Nam, Nhật
Bản, Pháp…Nhìn chung, pháp luật các nước quy định về điều kiện thành lập các
CTCP là tương đối đơn giản và nhanh chóng, tạo điều kiện cho chủ đầu tư sớm gia
nhập thị trường kinh doanh. Như vậy, các quy phạm về điều kiện thành lập và ĐKKD
đối với CTCP có vai trò quan trọng trong pháp luật về CTCP. Đây là cơ sở pháp lý để
CTCP có thể ra đời và hoạt động.

- Quy phạm về vốn của CTCP
Cũng như những chủ thể kinh doanh khác, để thực hiện hoạt động kinh doanh,
CTCP phải có vốn. Vốn của CTCP không chỉ liên quan đến bản chất kinh tế, khả
năng tài chính mà còn là yếu tố xác định vị thế, năng lực cạnh tranh của CTCP trên
thị trường, liên quan đến các vấn đề pháp lý như quyền sở hữu, chuyển nhượng, thế
chấp. Chính vì vậy, pháp luật về CTCP quy định cụ thể về vấn đề này. Các quy phạm
pháp lý về vốn trong pháp luật về CTCP của Việt Nam cũng như các quốc gia khác
trên thế giới chủ yếu bao gồm cơ chế góp vốn, chuyển nhượng và mua lại cổ phần,
các trường hợp thay đổi vốn.


18

- Quy phạm về cơ cấu tổ chức quản lý nội bộ của CTCP
Quản lý công ty đã trở thành một vấn đề đặc biệt quan trọng và được quan tâm
không chỉ ở các nước phát triển mà còn ở các nền kinh tế đang phát triển, nhất là sau
cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á ở thập niên cuối của thế kỷ XX và đặc biệt là sự
phá sản của nhiều tập đoàn tài chính, nhiều công ty đa quốc gia ở Mỹ và châu Âu do
tác động của cuộc khủng hoảng tài chính. Các công ty trên thế giới đều có bộ máy
quản trị, điều hành nội bộ để thực hiện những mục tiêu đã đặt ra. Cơ cấu tổ chức quản
lý của một công ty luôn phải tuân theo những qui tắc nhất định theo pháp luật. Tuy
pháp luật của mỗi quốc gia quy định về cơ cấu tổ chức quản lý nội bộ của CTCP có
những điểm khác nhau nhất định tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, xã hội của quốc gia
đó nhưng nhìn một cách tổng quan cơ cấu tổ chức quản lý nội bộ của các CTCP trên
thế giới có hai mô hình cơ bản: cấu trúc hội đồng kép hay còn gọi là hội đồng hai
tầng và mô hình hội đồng đơn hay còn gọi là hội đồng một tầng. Với vai trò quan
trọng trong việc đảm bảo vận hành của công ty cũng như bảo vệ quyền lợi của cổ
đông và các chủ thể có liên quan nên những quy phạm về cơ cấu tổ chức quản lý nội
bộ của CTCP luôn chiếm tỷ lệ lớn nhất trong hệ thống các quy phạm pháp luật về
CTCP.

- Quy phạm về cổ đông và quyền, nghĩa vụ của cổ đông
Bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các nhà đầu tư là một trong những yếu tố quan
trọng cho sự phát triển của nền kinh tế bởi lẽ một nhà đầu tư sẽ chỉ bỏ vốn để kinh
doanh khi quyền và lợi ích hợp pháp của họ được bảo vệ. Chính vì vậy, các quy phạm
về cổ đông và quyền, nghĩa vụ của cổ đông CTCP luôn được pháp luật của hầu hết
các quốc gia trên thế giới quan tâm và quy định cụ thể.
- Quy phạm tổ chức lại, chấm dứt hoạt động của CTCP
Trong suốt quá trình tổ chức hoạt động, CTCP có thể thực hiện các biện pháp tổ
chức lại công ty như chia, tách, hợp nhất, sáp nhập và chuyển đổi hình thức công ty.
Những quy định về tổ chức lại công ty là cơ sở pháp lý tạo điều kiện cho công ty phát
triển thuận lợi, hiệu quả và đa dạng. Đồng thời, pháp luật cũng có các quy định về
chấm dứt hoạt động đối với CTCP theo các cách: một là các cổ đông tự nguyện chấm
dứt hoạt động khi thấy CTCP hoạt động không hiệu quả, không đạt được mục tiêu đề
ra hay khi sự tồn tại của CTCP là không cần thiết; hai là trong quá trình hoạt động


19

CTCP có những hành vi vi phạm pháp luật, bị cơ quan nhà nước có thẩm quyền thu
hồi giấy phép kinh doanh và buộc phải chấm dứt hoạt động.
- Quy phạm về xử lý đối với hành vi vi phạm pháp luật về CTCP
Trong quá trình hoạt động, cổ đông và CTCP có thể không tránh khỏi những
hành vi vi phạm pháp luật và vi phạm Điều lệ công ty đề ra. Những hành vi vi phạm
này có khả năng ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của cổ đông,
CTCP cũng như các chủ thể khác có liên quan. Do vậy, trong chế định pháp luật về
CTCP, không thể thiếu các quy định pháp luật về xử lý công ty và xử lý cổ đông
CTCP khi rơi vào trường hợp này. Tùy tính chất của từng hành vi vi phạm, các chế
tài được áp dụng có thể là chế tài dân sự, chế tài hành chính hoặc chế tài hình sự nếu
cấu thành tội phạm. Các quy phạm pháp luật này là thực sự cần thiết nhằm xử lý
những hành vi trái luật của CTCP người quản lý điều hành CTCP và các cổ đông.

Tóm lại, CTCP có lịch sử hình thành lâu đời trên thế giới, qua quá trình phát
triển, đến nay, CTCP đã trở thành một hình thức tổ chức kinh doanh có khả năng huy
động vốn lớn cho việc thực hiện hoạt động kinh doanh của các nhà đầu tư và ngày
càng phát triển mạnh mẽ. Ở Việt Nam, do ảnh hưởng của điều kiện kinh tế, xã hội
nên loại hình CTCP mới được hình thành. Tuy nhiên, do có sự tiếp thu kinh nghiệm
của các quốc gia trên thế giới, pháp luật Việt Nam về CTCP ngày càng được hoàn
thiện và dần hướng tới chuẩn mực chung. Pháp luật về CTCP là một chế định quan
trọng, bao gồm các quy định điều chỉnh hoạt động của CTCP từ quá trình thành lập,
hoạt động đến khi chấm dứt sự tồn tại, thủ tục giải quyết tranh chấp, xử lý vi phạm
phát sinh từ hoạt động này. Pháp luật điều chỉnh về CTCP, theo cách tiếp cận của
luận văn này, bao gồm sáu nhóm quy định cơ bản: quy phạm về điều kiện thành lập
và ĐKKD; quy phạm về vốn của CTCP; quy phạm về cơ cấu tổ chức quản lý nội bộ;
quy phạm về cổ đông và quyền, nghĩa vụ của cổ đông; quy phạm tổ chức lại, chấm
dứt hoạt động của CTCP; các quy phạm về xử lý hành vi vi phạm pháp luật về CTCP.


20

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN
2.1. Quy định về điều kiện và thủ tục thành lập CTCP.
2.1.1. Điều kiện thành lập CTCP.
2.1.1.1 Đối tượng thành lập CTCP.
Với nguyên tắc đảm bảo quyền tự do kinh doanh, trong đó có quyền tự do góp
vốn thành lập công ty, LDN 2005 đã có những quy định cụ thể về đối tượng được
thành lập doanh nghiệp nói chung và CTCP nói riêng. Theo đó, tất cả các tổ chức, cá
nhân không phân biệt quốc tịch, nếu không thuộc trường hợp bị pháp luật cấm đều có
quyền thành lập và quản lý CTCP tại Việt Nam (Khoản 1 Điều 13). Tuy nhiên, theo
Khoản 1 Điều 12 Nghị định 102/2010/NĐ-CP (NĐ 102) thì chỉ những tổ chức có tư
cách pháp nhân mới có quyền thành lập CTCP theo quy định của pháp luật Việt Nam.

Như vậy, có thể coi sự hướng dẫn tại NĐ 102 là sự thu hẹp quy định của LDN 2005
về quyền thành lập CTCP của một tổ chức.
Bằng phương pháp loại trừ, Khoản 2 Điều 13 LDN 2005 quy định các tổ chức, cá
nhân không được quyền thành lập và quản lý CTCP tại Việt Nam. So với các quốc
gia khác trên thế giới, LDN 2005 quy định khá cụ thể và chi tiết những đối tượng
không được thành lập CTCP. Chẳng hạn, LDN Philippin và Thái Lan chỉ quy định
chung người sáng lập công ty phải có đầy đủ năng lực pháp luật còn LCT Singapo và
Malaysia cụ thể hơn khi quy định người từ 21 tuổi trở lên có quyền thành lập CTCP.
Tuy nhiên, vấn đề xác minh, thẩm định điều kiện về chủ thể vẫn là một bài toán khó
đối với cơ quan quản lý nhà nước về ĐKKD tại Việt Nam.
2.1.1.2 Điều kiện về số lượng cổ đông.
Theo quy định của LDN 2005, số lượng cổ đông CTCP tối thiểu phải là 03 (Điều
77) và công ty bị giải thể khi không còn đủ số lượng thành viên tối thiểu trong thời
hạn sáu tháng liên tục (Điều 157). Như vậy, số lượng thành viên tối thiểu của CTCP
đã được rút xuống đáng kể so với LCT 1990. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có một
học thuyết hay triết lý chính thức nào giải thích cho quy định này. Chính sự hạn chế
về số lượng cổ đông tối thiểu trong CTCP dẫn đến thực tế “lách luật” của các nhà đầu
tư khi họ mong muốn được kinh doanh dưới hình thức CTCP nhưng không muốn hợp
tác với các nhà đầu tư khác hoặc không thể tìm kiếm được các nhà đầu tư khác cùng
kinh doanh để thu lợi nhuận. Trong những trường hợp này, các nhà đầu tư thường


21

mượn tên thêm của những người khác để thành lập CTCP, trên thực tế, CTCP đó chỉ
do một cá nhân làm chủ và chịu trách nhiệm. Chính vì vậy, quy định về số lượng cổ
dông tối thiểu của CTCP gây khó khăn cho chính các nhà đầu tư cũng như trong quản
lý nhà nước với hoạt động của loại hình công ty này.
Ở một số quốc gia trên thế giới, số lượng thành viên của công ty được quy định
linh động hơn. Chẳng hạn, LCT Anh 2006 qui định, công ty (không phân biệt loại

hình) có thể do một hoặc nhiều thành viên thành lập (Mục 7 và Mục 8 Phần 2). Định
nghĩa về CTCP tại Mục 1041 cũng không đưa ra đặc điểm nhận dạng CTCP liên quan
tới số lượng cổ đông. Hay như ở CHLB Đức, CH Czech…cũng đều không có quy
định bắt buộc về số lượng cổ đông tối thiểu của CTCP. Như vậy, ở các nước này,
việc qui định về CTCP phải có số lượng cổ đông tối thiểu là không cần thiết. Và lý do
tại sao CTCP ở Việt Nam phải có số lượng cổ đông tối thiểu là ba chứ không phải là
năm hay bảy cổ đông là một câu hỏi khó có câu trả lời hợp lý. Vì vậy, trong thời gian
tới cần xem xét để bỏ quy định về số lượng cổ đông tối thiểu của CTCP.
2.1.1.3 Tài sản góp vốn.
Góp vốn theo LDN 2005 được hiểu là việc đưa tài sản vào công ty để trở thành
chủ sở hữu hoặc các chủ sở hữu chung của công ty (Khoản 4 Điều 4). Tuy nhiên, trên
thực tế hành vi góp vốn còn được thực hiện với nhiều cách thức khác nhau như
chuyển nhượng cổ phần, tặng, cho, thừa kế cổ phần của cổ đông công ty. Do vậy,
khái niệm góp vốn nói trên cần phải được tiếp cận theo nghĩa rộng.
Cũng theo quy định tại Khoản 4 Điều 4, LDN 2005, tài sản góp vốn đã được ghi
nhận theo phương pháp liệt kê. Về nguyên tắc, mọi tài sản đều có thể trở thành tài sản
góp vốn vào công ty nhưng việc góp vốn không phải là tiền có được chấp nhận hay
không lại hoàn toàn phụ thuộc vào điều lệ công ty đó có ghi nhận tài sản góp vốn này
hay không. Việc xác định các loại tài sản góp vốn như thế nào được thực hiện theo
Bộ luật Dân sự (BLDS). Điều 163 và Điều 181 BLDS chỉ coi vật có thực là tiêu
chuẩn quan trọng của tài sản và tách rời quyền sở hữu tài sản. Căn cứ các quy đinh
nói trên, vấn đề góp vốn bằng tri thức và công sức chưa được ghi nhận là một tài sản
góp vốn, trong khi đây là những vấn đề trọng yếu của nền kinh tế công nghiệp hay
kinh tế tri thức mà đã được các quốc gia trên thế giới như Pháp, Mỹ thừa nhận.
Để xác định giá trị của các loại tài sản góp vốn không phải là tiền Việt Nam,
ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, phương thức định giá phải được áp dụng. Người


22


thực hiện định giá là các cổ đông sáng lập hoặc tổ chức định giá độc lập. Tuy vậy,
Khoản 2 Điều 30 LDN 2005 lại bỏ sót trường hợp nếu cổ đông sáng lập gặp khó khăn
trong quá trình định giá tài sản góp vốn khi thành lập CTCP có thể thuê tổ chức định
giá chuyên nghiệp. Bên cạnh đó, thời điểm chịu trách nhiệm của người định giá sai
cũng là vấn đề cần bàn tới khi Điều 30 LDN quy định nghĩa vụ liên đới chịu trách
nhiệm đối với các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty thì dường như việc
quy định về trách nhiệm của người định giá tài sản khi định giá sai không còn ý nghĩa
bởi lẽ khi công ty đi vào hoạt động, nghĩa vụ trả nợ sẽ thuộc về công ty, chỉ khi công
ty mất khả năng thanh toán hoặc chấm dứt hoạt động thì mới xem xét đến các nguồn
tài sản khác để thanh toán khoản nợ cho công ty. Khi đó, trách nhiệm của những
người định giá tài sản góp vốn có lẽ sẽ không còn được nhắc đến. Do vậy, cần được
sửa đổi cho phù hợp.
2.1.2 Thủ tục thành lập doanh nghiệp.
Thủ tục thành lập doanh nghiệp nói chung và thành lập CTCP nói riêng hiện được
quy định tại nhiều văn bản như LDN 2005, NĐ 102, Nghị định số 43/2010/NĐ-CP
(NĐ 43) và Thông tư số 14/2010/TT-BKH. Với các quy định này, pháp luật Việt
Nam đã thể hiện quan điểm khá thông thoáng, cởi mở, tạo điều kiện thuận lợi cho các
chủ thể khi gia nhập thị trường, tôn trọng quyền tự do kinh doanh của người dân.
Thời gian để được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp được giảm xuống
đáng kể chỉ còn 05 ngày theo NĐ 43, việc hợp nhất mã số ĐKKD và mã số doanh
nghiệp, hệ thống ĐKKD nối mạng quốc gia, các chủ thể có thể thực hiện thủ tục
ĐKKD qua mạng internet…là những điểm mới nổi bật trong quy định về thủ tục
thành lập doanh nghiệp của pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm
đó, thủ tục thành lập doanh nghiệp nói chung, thủ tục thành lập CTCP nói riêng vẫn
còn tồn tại một số hạn chế:
Thứ nhất, về tên gọi của thủ tục thành lập CTCP, theo quy định tại LDN 2005,
thủ tục này được gọi là thành lập doanh nghiệp và ĐKKD để được cấp Giấy chứng
nhận ĐKKD. Tuy nhiên, đến NĐ 43 và Thông tư số 14/2010/TT-BKH thủ tục này
được gọi là đăng ký doanh nghiệp và được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp do thủ tục này đã bao gồm nội dung ĐKKD và đăng ký thuế. Đây là một quy

định tiến bộ với mục tiêu giảm thiểu thủ tục hành chính trong hoạt động thành lập
doanh nghiệp, giảm thiểu chi phí và thời gian cho các nhà đầu tư. Tuy nhiên, việc


23

cùng tồn tại hai tên gọi về một thủ tục trong hai văn bản pháp luật khác nhau dẫn đến
những hiểu nhầm khi nhiều người cho rằng họ phải thực hiện hai thủ tục khác nhau
để thành lập một CTCP. Do vậy, cần thống nhất tên gọi của thủ tục này, đảm bảo tính
phù hợp và đúng với bản chất pháp lý của hoạt động này.
Thứ hai, về người đại diện theo pháp luật của CTCP: LDN 2005 quy định, trong
hồ sơ ĐKKD, giấy đề nghị đăng ký CTCP; dự thảo điều lệ, danh sách thành viên
CTCP phải xác định rõ người đại diện theo pháp luật, tuy nhiên, quy định này không
hợp lý ở chỗ, vào thời điểm các cổ đông đăng ký thành lập CTCP, người đại diện
theo pháp luật của công ty là chưa thể có. Bên cạnh đó, sau khi được thành lập hoặc
trong quá trình hoạt động, các CTCP có quyền thuê người đại diện theo pháp luật của
công ty, nếu CTCP chưa được thành lập thì chủ thể ký hợp đồng thuê người đại diện
theo pháp luật được xác định là ai? Do vậy, quy định về việc xác định người đại diện
theo pháp luật của CTCP trong hồ sơ ĐKKD là không cần thiết và cần sửa đổi.
2.2 Quy định về vốn CTCP.
2.2.1 Vốn điều lệ của CTCP.
Là loại hình đặc trưng của công ty đối vốn, nên các quy định về vốn và tài chính
có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với CTCP. Khi thành lập, công ty phải có vốn điều lệ,
Khoản 6 Điều 4 LDN năm 2005 quy định, “vốn điều lệ là số vốn do các thành viên,
cổ đông góp hoặc cam kết góp trong một thời hạn nhất định và được ghi vào Điều lệ
công ty”. Như vậy, LDN chỉ buộc các cổ đông sáng lập phải mua ít nhất 20% tổng số
cổ phần được quyền chào bán. Đây là quy định tạo lợi thế huy động vốn cho loại hình
công ty này. Theo đó, vốn điều lệ tại thời điểm thành lập phải được hiểu là đã bao
gồm cả giá trị của số cổ phần được quyền chào bán.
Tuy nhiên, hướng dẫn quy định này, Khoản 4 Điều 6 NĐ 102 quy định tại thời

điểm ĐKKD thành lập công ty, vốn điều lệ của CTCP là tổng giá trị mệnh giá các cổ
phần do các cổ đông sáng lập và các cổ đông phổ thông khác đã đăng ký mua và
được ghi trong Điều lệ công ty; số cổ phần này phải được thanh toán đủ trong thời
hạn 90 ngày, kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Cùng với
đó, Khoản 4 Điều 40 NĐ 43 lại có quy định vốn điều lệ của CTCP sẽ không bao gồm
giá trị của số cổ phần được quyền chào bán. Để giải thích cho quy định trái luật này,
ban soạn thảo NĐ 102 cho rằng đây là quy định nhằm hạn chế tình trạng vốn “khống”
trong công ty. Tuy nhiên, vốn điều lệ theo quy định của LDN 2005 không chỉ bao


×