BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
PHẠM THỊ HỒNG HƯƠNG
HOẠT ĐỘNG CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TRONG KIỂM SÁT VIỆC THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ
Chuyên ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HOÀNG THỊ MINH SƠN
HÀ NỘI - 2013
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy; chính xác và trung
thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố trong
bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Phạm Thị Hồng Hương
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
BLHS
Bộ luật hình sự
BLTTHS
Bộ luật tố tụng hình sự
CATA
Chánh án Tòa án
CATANDTC
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao
CHHP
Chấp hành hình phạt
CQ
Cơ quan
CQTHAHS
Cơ quan thi hành án hình sự
CQĐT
Cơ quan điều tra
GTHCHHPT
Giảm thời hạn chấp hành hinh phạt tù
HĐTHATH
Hội đồng thi hành án tử hình
HĐTPTANDTC
Hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao
LTHAHS
Luật thi hành án hình sự
KSTHA
Kiểm sát thi hành án
KSTHAHS
Kiểm sát thi hành án hình sự
KSV
Kiểm sát viên
LTHAHS
Luật thi hanh án hình sự
QLVGDNCHHPT
Quản lý va giáo dục ngươi chấp hanh hình phạt tù
TA
Tòa án
TAND
Tòa án nhân dân
TANDTC
Tòa án nhân dân tối cao
THA
Thi hành án
THAHS
Thi hành án hình sự
THATH
Thi hành án tử hình
UBND
Ủy ban nhân dân
VKS
Viện kiểm sát
VKSND
Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC
Viện kiểm sát nhân dân tối cao
VTVKS
Viện trưởng Viện kiểm sát
VTVKSNDTC
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao
XHCN
Xã hội chủ nghĩa
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TÁC KIỂM SÁT THI
HÀNH ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN .............................. 5
1.1 Khái niệm kiểm sát thi hành án hình sự ……………………………….…..5
1.2 Khái quát về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân
trong hoạt động kiểm sát thi hành án hình sự…………………………………..…6
1.3. Đối tượng, phạm vi công tác kiểm sát thi hành án hình sự ............................. 7
1.4. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong công tác kiểm sát thi hành án
hình sự ................................................................................................................. 8
1.5. Nội dung hoạt động kiểm sát thi hành án hình sự theo pháp luật hiện hành . 12
1.5.1 Kiểm sát việc Tòa án ra các quyết định về thi hành án; quyết định ủy thác thi
hành án và gửi các quyết định thi hành án…………………………………………12
1.5.2. Kiểm sát việc thi hành hình phạt chính……………………………………...13
1.5.3. Kiểm sát việc thi hành hình phạt bổ sung…………………………………...34
1.5.4. Kiểm sát việc áp dụng các biện pháp tư pháp……………………………….38
1.5.5. Kiểm sát các vấn đề khác của thi hành án hình sự………………………….45
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
CÔNG TÁC KIỂM SÁT VIỆC THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ .............................. 47
2.1. Thực trạng hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát việc ra
quyết định thi hành án hình sự ........................................................................... 47
2.1.1. Thực trạng hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát thi hành án
hình phạt chính…………………………………………………………………….48
2.1.2. Thực trạng hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát thi hành án
hình phạt bổ sung và thi hành các biện pháp tư pháp…………………………….56
2.1.3 Những nguyên nhân hạn chế………………………………………………..56
2.2. Những giải pháp, kiến nghị nâng cao chất lượng công tác kiểm sát thi hành án
hình sự................................................................................................................... 59
2.2.1 Hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật…………………………………59
2.2.2 Các giải pháp khác………………………………………………………..…64
KẾT LUẬN………………………………………………………………………..70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Bản án, quyết định của Tòa án nhân danh Nhà nước khi được chấp hành nghiêm
chỉnh có tác động trực tiếp đến lòng tin của nhân dân đối với pháp luật. Vì vậy, hoạt động
thi hành án có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc giữ vững kỷ cương phép nước,
củng cố pháp chế và trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, đảm bảo cho quyền lực tư pháp
được thực thi trên thực tế. THAHS liên quan trực tiếp đến bảo vệ an ninh quốc gia, giữ
gìn trật tự, an toàn xã hội; góp phần bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa. Hiến pháp 1992 khẳng định:
"Các bản án và quyết định của Tòa án nhân dân đã có hiệu lực pháp luật phải được các cơ
quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, các đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công
dân tôn trọng; những người và đơn vị hữu quan nghiêm chỉnh chấp hành".
Xác định thi hành án hình sự là công tác quan trọng nên Nhà nước ta đặc biệt quan
tâm và đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở cho hoạt động này như:
Nghị định số 60/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000 quy định việc thi hành hình phạt cải tạo
không giam giữ; Nghị định số 61/2000/NĐ-CP ngày 30/10/2000 quy định việc thi hành
hình phạt tù cho hưởng án treo; Nghị định số 52/2001/NĐ-CP ngày 23/8/2001 hướng dẫn
biện pháp tư pháp đưa vào trường giáo dưỡng; Nghị định số 53/2001/NĐ-CP ngày
23/8/2001 hướng dẫn thi hành hình phạt cấm cư trú, quản chế; Nghị định số 54/2001/NĐCP ngày 23/8/2001 hướng dẫn thi hành hình phạt trục xuất; Nghị định số 113/2008/NĐCP ngày 28/10/2008 ban hành Quy chế trại giam; Nghị định số 77/2009/NĐ-CP ngày
15/9/2009 quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Công
an…và ngày 17/6/2010, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XII đã thông qua Luật Thi hành
án Hình sự năm 2010. Trên cơ sở pháp lý đó, trong thời gian qua hoạt động thi hành án
hình sự đã được tổ chức, thực hiện bảo đảm sự nghiêm minh, khoan hồng, nhân đạo, góp
phần đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự, an toàn
xã hội, phục vụ yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Trước yêu cầu mới của thực tiễn, hướng đến mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, công tác kiểm sát thi hành án hình sự của ngành kiểm sát cần
phải đổi mới tổ chức và hoạt động để nâng cao công tác thi hành án hình sự, đáp ứng yêu
2
cầu cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta. Do vậy, việc tiếp tục
nghiên cứu sâu sắc hơn nữa hoạt động của VKSND trong kiểm sát việc thi hành án hình
sự, từ đó đưa ra kiến nghị, giải pháp nhằm cao hiệu quả hoạt động này không những có ý
nghĩa lý luận - thực tiễn và pháp lý quan trọng, mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết. Đây
cũng là lý do luận chứng cho việc tác giả quyết định chọn đề tài “Hoạt động của Viện
kiểm sát nhân dân trong kiểm sát việc thi hành án hình sự” để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Những năm gần đây, trước những đòi hỏi khách quan của công tác THAHS, đã có
một số công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề này ở những góc độ khác nhau.
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ "Những giải pháp nâng cao chất lượng thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp” của Viện khoa học kiểm sát
VKSNDTC; Đề tài khoa học cấp bộ” Nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong việc tạm
giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù theo yêu cầu cải cách tư
pháp hiện nay” năm 2007; Đề tài “Một số khó khăn vướng mắc và hướng giải quyết khi
kiểm sát tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù và kiểm sát
thi hành án hình sự năm 2009; Luận văn thạc sỹ: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
THAHS của tác giả Đàm Công Thuận, năm 2000.
- Các sách như: Bình luận khoa học luật thi hành án hình sự và các quy định mới
nhất về thi hành án hình sự, Trần Minh Hưởng, Hà Nội, NXB Thời đại, 2010; Bình luận
Luật thi hành án hình sự, Chủ biên: Nguyễn Ngọc Anh năm 2010; Công Phương Vũ,
Nguyễn Thị Thu Hương . - Hà Nội : Chính trị quốc gia - Sự thật, 2012; THA phạt tù : Từ
thực tiễn đến khoa học giáo dục, Nguyễn Hữu Duyện, NXB Công an nhân dân, 2010;
- Ngoài ra công tác kiểm sát thi hành án còn đăng tải ở các bài viết đăng trên các
tạp chí như: Bàn về vị trí, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong thi hành án hình sự Bùi Đức Long - Tạp chí Kiểm sát số 23/2010; Kết quả và bài học kinh nghiệm qua 10
năm công tác kiểm sát thi hành án hình sự, Bùi Đức Long, Tạp chí Kiểm sát số 03/2006;
Bàn về hoạt động kiểm sát việc đảm bảo an toàn nơi giam giữ, Nguyễn Hữu Hậu, Tạp chí
kiểm sát số 3/2006; Lựa chọn mô hình tổ chức thi hành án phù hợp với điều kiện của
mỗi quốc gia, GS. Claude Brenner, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 7, 8/2006; Vấn đề
chuyển giao người bị kết án trong quan hệ giữa nước ta với các nước, PGS.TS Trần Đình
Nhã, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 9/2006; Một số vấn đề lí luận và thực tiễn về
3
chính sách thi hành án hình sự, PGS.TSKH. Lê Cảm, Tạp chí Kiểm sát số 10/2006...
Các công trình nêu trên nghiên cứu về thi hành hình sự ở những khía cạnh và mức
độ khác nhau, hầu hết đề cập đến thực trạng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt
động thi hành án hình sự nói chung mà không đi sâu nghiên cứu công tác kiểm sát thi
hành án hình sự và phần lớn được thực hiện trước khi ban hành Luật thi hành án hình sự.
Mặt khác cũng chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề hoạt động của
VKS trong thi hành án hình sự, đặc biệt là theo Luật Thi hành án Hình sự năm 2010.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục tiêu tổng quát của đề tài là: Trên cơ sở nghiên cứu và làm rõ những vấn đề
chung về hoạt động của VKSND khi kiểm sát hoạt động thi hành án hình sự, những quy
định của pháp luật thi hành án hình sự phân tích kết quả thực tiễn của hoạt động này, luận
văn đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát thi hành án hình sự ở
nước ta trong giai đoạn hiện nay
Để đạt được mục tiêu lớn đó cần phải thực hiện các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Làm rõ những căn cứ pháp lý về thi hành án và kiểm sát thi hành án hình sự.
- Đánh giá đúng đắn và toàn diện về thực trạng pháp luật và thực trạng hoạt động của
công tác kiểm sát thi hành án hình sự trong thời gian qua.
- Phân tích nguyên nhân của thực trạng đó.
4. Phạm vi nghiên cứu
“Hoạt động của VKSND trong kiểm sát việc thi hành án hình sự ” là một đề tài có
tính khái quát cao, nội dung rất rộng, phong phú và phức tạp. Vì vậy, trong khuôn khổ
luận văn thạc sỹ, tác giả tập trung nghiên cứu những nội dung cơ bản và thực tiễn công
tác kiểm sát thi hành án hình sự; đánh giá thực trạng hoạt động kiểm sát thi hành hình sự
trong thời gian qua (từ năm 2008 – 2012) và từ đó rút ra những giải pháp hoàn thiện pháp
luật, đổi mới tổ chức và hoạt động của công tác này nhằm nâng cao hiệu quả việc thi
hành án hình sự trong điều kiện mới của đất nước ta.
Đề tài không nghiên cứu hoạt động của Viện kiểm sát quân sự trong kiểm sát việc
thi hành án hình sự và thi hành phần dân sự trong bản án hình sự vì phần này được quy
định tại Luật thi hành án dân sự.
4
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi đã sử dụng phương pháp luận của việc
nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử và phép biện chứng
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật.
Các phương pháp cụ thể được sử dụng kết hợp, đó là: Phương pháp nghiên cứu
lịch sử - cụ thể, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê,
tổng hợp.
6. Ý nghĩa và những điểm mới của đề tài
- Đề tài đã đưa ra và luận giải được một số quan điểm cơ bản về khái niệm kiểm
sát thi hành án hình sự,phân tích quy định của pháp luật về thi hành án hình sự tìm hiểu
thực trạng của công tác kiểm sát thi hành án hình sự làm phong phú thêm cho hoạt động
nghiên cứu khoa học về pháp luật thi hành án hình sự.
- Từ việc đánh giá thực trạng pháp luật kiểm sát thi hành án hình sự, tác giả đã đưa
ra được những điểm bất cập cần sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật tố
tụng hình sự về công tác thi hành án hình sự và kiểm sát thi hành án hình sự.
- Từ việc đánh giá thực tiễn kiểm sát thi hành án hình sự, phân tích những nguyên
nhân và đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát thi hành án
hình sự theo Luật Thi hành án Hình sự năm 2010.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 2
chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về công tác kiểm sát thi hành án hình sự của
Viện kiểm sát nhân dân
Chương 2: Thực trạng hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong kiểm sát việc
thi hành án hình sự từ năm 2008 đến năm 2012. Và Những giải pháp, kiến nghị nâng cao
chất lượng công tác kiểm sát việc thi hành án hình sự theo Pháp luật Thi hành án Hình sự.
5
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TÁC KIỂM SÁT
THI HÀNH ÁN HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
1.1. Khái niệm kiểm sát thi hành án hình sự
Kiểm sát THA là một trong những công tác để thực hiện chức năng kiểm sát các
hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân. Hoạt động kiểm sát thi hành án có tác
dụng thúc đẩy công tác thi hành án, hạn chế những vi phạm và góp phần bảo đảm hiệu
quả, hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án. Việc hiểu, nhận thức đúng và đầy đủ các
quy định của pháp luật về công tác thi hành án và công tác kiểm sát thi hành án là yêu
cầu bắt buộc đối với cán bộ kiểm sát làm công tác kiểm sát thi hánh án.
Thi hành án hình sự là một hoạt động mang tính quyền lực Nhà nước nhằm đưa
các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án ra thi hành. Thi hành án hình
sự là giai đoạn cuối cùng trong các hoạt động tố tụng của các cơ quan thực thi pháp luật,
trong đó buộc người bị xử phạt tù phải chấp hành hình phạt mà Toà án đã quyết định.
Một bản án, quyết định của Tòa án có được thi hành nghiêm chỉnh hay không là tuỳ
thuộc chủ yếu vào giai đoạn này [64].
Hiện nay, đang có những quan điểm cho rằng bản chất của hoạt động thi hành án
nói chung và thi hành án hình sự nói riêng không phải là hoạt động tư pháp mà chỉ là hoạt
động hành chính - tư pháp, điều này có nghĩa là hoạt động thi hành án không phải là đối
tượng kiểm sát của chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát. Tôi cho
rằng vấn đề xác định về phương diện lý luận của khái niệm như thế nào là hoạt động tư
pháp là một vấn đề phức tạp, cần được xem xét không chỉ trên phương diện lý luận đơn
thuần mà cả trên phương diện lịch sử. Theo pháp luật hiện hành, tại Điều 23 Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân năm 2002 đã quy định rõ:”Viện kiểm sát nhân dân kiểm sát việc
tuân theo pháp luật của Tòa án nhân dân, cơ quan thi hành án, chấp hành viên, cơ quan
tổ chức, đơn vị và cá nhân có liên quan trong việc thi hành bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật và những bản án và quyết định được thi hành ngay theo quy định của pháp
luật nhằm đảm bảo các bản án và quyết định đó được thi hành đúng pháp luật, đầy đủ,
kịp thời [6]. Theo quy định này, khi thực hiện công tác KSTHA, các VKSND kiểm sát
việc tuân theo pháp luật không chỉ đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước, tổ chức
mà cả đối với cá nhân bao gồm những người phải thi hành bản án và quyết định của Tòa
án cũng như người được thi hành bản án và quyết định đó. Trong số các chủ thể là đối
tượng kiểm sát của Viện kiểm sát khi thực hiện công tác kiểm sát thi hành án thì cơ bản
và trọng tâm là hoạt động tuân theo pháp luật của các cơ quan nhà nước, tổ chức và đơn
vị trong hoạt động thi hành án, bởi lẽ, nếu để xảy ra vi phạm pháp luật trong cơ quan nhà
nước thì hậu quả của nó lớn hơn gấp nhiều lần so với một vi phạm của công dân.
6
Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS đối với hoạt động thi hành
án được quy định trong Hiến pháp, được cụ thể hóa trong Luật tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân năm 2002 và được ghi nhận trong các đạo luật khác có liên quan như trong
BLTTHS, Luật thi hành án hình sự, Luật thi hành án dân sự... Đó là những căn cứ pháp lý
đối với hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động thi hành án, với tư
cách là một công tác kiểm sát nhằm thực hiện chức năng kiểm sát hoạt động tư pháp của
Viện kiểm sát.
Tóm lại, Kiểm sát thi hành án hình sự là hoạt động của Viện kiểm sát kiểm sát việc
tuân theo pháp luật của TAND, cơ quan quản lý thi hành án hình sự, cơ quan thi hành án
hình sự, cơ quan, tổ chức được giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự trong việc thi
hành bản án, quyết định về hình sự nhằm đảm bảo các bản án, quyết định đó được thi
hành đúng pháp luật, đầy đủ, kịp thời.
1.2. Khái quát về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân
trong hoạt động kiểm sát thi hành án hình sự
VKSND là một trong các cơ quan tư pháp được tổ chức từ Trung ương đến địa
phương để thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư
pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật.
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật là một hoạt động quản lý, hoạt động đó nhằm
thúc đẩy một công việc đạt tới mục đích, có hiệu quả, không chệch hướng. Hoạt động
kiểm sát của VKSND cũng tương tự như vậy, mục đích của việc kiểm sát là hướng tới
làm cho pháp luật được chấp hành một cách nghiêm chỉnh, thống nhất, kịp thời; công tác
kiểm sát việc tuân theo pháp luật của VKS trong hoạt động thi hành án cũng nằm trong
khuôn khổ đó.
Trong từng giai đoạn khác nhau, hệ thống tổ chức, bộ máy của VKSND hình
thành những đơn vị có chức năng kiểm sát việc thi hành án: Từ năm 1978 trở về trước,
trách nhiệm KSTHA của Kiểm sát viên gắn liền với trách nhiệm kiểm sát điều tra, kiểm
sát xét xử án hình sự, kiểm sát án dân sự, kiểm sát việc giam giữ và cải tạo. Từ năm 1978
đến năm 1982, tại VKSNDTC có đơn vị (Vụ KSTHA chuyên trách thực hiện nhiệm vụ
KSTHA. Tiếp đó là thời kỳ không có đơn vị chuyên trách KSTHA ở VKSNDTC. Cuối
năm 1993 Vụ KSTHA được tái lập, ở VKS cấp tỉnh thành lập bộ phận (sau này là phòng
KSTHA), ở VKS cấp huyện có Kiểm sát viên phụ trách công tác KSTHA.
Từ năm 2002 đến năm 2010, công tác KSTHA được tăng cường, ở
VKSNDTC có Vụ KSTHA, ở cấp tỉnh có Phòng KSTHA độc lập, ở cấp huyện có
bộ phận KSTHA được phân công như sau:
7
- Vụ kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án
phạt tù VKSNDTC, phòng Kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người
chấp hành án phạt tù VKSND cấp tỉnh thực hiện chức năng, nhiệm vụ kiểm sát việc tạm
giữ, tạm giam và kiểm sát thi hành án hình sự.
- Bộ phận kiểm sát thi hành án VKSND cấp huyện thực hiện chức năng, nhiệm vụ
kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và kiểm sát thi hành án dân sự, kiểm sát thi hành án hình
sự ở địa phương [63].
Có thể nói, công tác kiểm sát thi hành án trong thời gian qua đã được lãnh đạo
VKSND các cấp quan tâm chỉ đạo, tổ chức thực hiện và đã đạt được những kết quả tốt,
góp phần quan trọng vào việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động thi hành án; phát
hiện và kiến nghị khắc phục kịp thời những thiếu sót, vi phạm trong hoạt động thi hành
án của các cơ quan thi hành án và các đối tượng khác, góp phần đảm bảo sự tuân thủ
nghiêm chỉnh, thống nhất các quy định của pháp luật. Qua đó, khẳng định vai trò, vị trí
của VKSND trong hoạt động thi hành án. Thực tế đó cho thấy, cần phải tiếp tục nâng cao
hơn nữa trách nhiệm của VKS các cấp trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ kiểm sát
thi hành án, góp phần vào việc nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành án nói riêng và sự
thành công của chiến lược cải cách tư pháp ở nước ta nói chung [32, tr.9].
1.3. Đối tượng, phạm vi công tác kiểm sát thi hành án hình sự
- Đối tượng công tác kiểm sát thi hành án hình sự
Đối tượng của công tác KSTHA là việc tuân theo pháp luật của Toà án, cơ quan
quản lý thi hành án hình sự, Cơ quan thi hành án hình sự, cơ quan, tổ chức được giao một
số nhiệm vụ thi hành án hình sự và người có trách nhiệm trong việc thi hành án hình sự
theo quy định của pháp luật.
Theo quy định tại Điều 10 Luật Thi hành án hình sự năm 2010, hệ thống tổ chức thi
hành án hình sự bao gồm: Cơ quan quản lý THAHS, CQTHAHS, cơ quan được giao một
số nhiệm vụ THAHS. Cơ quan quản lý THAHS được tổ chức ở Bộ Công an và Bộ Quốc
phòng. Cơ quan THAHS bao gồm: Trại giam thuộc Bộ Công an, trại giam thuộc Bộ
Quốc phòng, trại giam thuộc quân khu (sau đây gọi là trại giam); Cơ quan thi hành án
hình sự Công an tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (sau đây gọi là cơ quan thi hành
án hình sự Công an cấp tỉnh); CQTHAHS Công an huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc
tỉnh (sau đây gọi là CQTHAHS Công an cấp huyện); CQTHAHS quân khu và tương
đương (sau đây gọi là CQTHAHS cấp quân khu). Cơ quan được giao một số nhiệm vụ
THAHS bao gồm: Trại tạm giam thuộc Bộ Công an, trại tạm giam thuộc Bộ Quốc phòng,
trại tạm giam thuộc Công an cấp tỉnh, trại tạm giam cấp quân khu (sau đây gọi là trại tạm
8
giam); Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi là Ủy ban nhân dân cấp xã);
Đơn vị quân đội cấp trung đoàn và tương đương (sau đây gọi là đơn vị quân đội).
`- Phạm vi công tác kiểm sát thi hành án hình sự
Phạm vi công tác kiểm sát thi hành án trong lĩnh vực hình sự bắt đầu từ khi bản án,
quyết định về hình sự của Toà án có hiệu lực pháp luật hoặc chưa có hiệu lực pháp luật
nhưng được thi hành ngay theo quy định của pháp luật và kết thúc khi người bị kết án
được xoá án tích. Riêng đối với hình phạt tử hình, phạm vi kiểm sát thi hành án tử hình
bắt đầu từ khi bản án tử hình có hiệu lực thi hành, tức là sau khi Chánh án TAND tối cao
và Viện trưởng VKSND tối cao trả lời không kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm
hoặc tái thẩm bản án tử hình hoặc có kháng nghị nhưng Hội đồng giám đốc thẩm, Hội
đồng tái thẩm Tòa án nhân dân tối cao quyết định không chấp nhận kháng nghị, tuyên giữ
nguyên bản án tử hình và sau đó người bị kết án làm đơn xin ân giảm án tử hình nhưng
Chủ tịch nước đã bác đơn xin ân giảm.
Theo quy định tại Điều 255 BLTTHS, những bản án và quyết định được thi hành là
những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, bao gồm: Những bản án và quyết định
của Tòa án cấp sơ thẩm không bị kháng cáo, kháng nghị theo trình tự phúc thẩm; những
bản án và quyết định của Tòa án cấp phúc thẩm; những quyết định của Tòa án giám đốc
thẩm hoặc tái thẩm. Bên cạnh đó, còn có những bản án hoặc quyết định của Tòa án được
thi hành ngay, mặc dù vẫn có thể bị kháng cáo, kháng nghị, đó là trong trường hợp bị cáo
đang bị tạm giam mà Tòa án cấp sơ thẩm quyết định đình chỉ vụ án, không kết tội, miễn
trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt cho bị cáo, áp dụng hình phạt không phải là hình
phạt tù hoặc phạt tù nhưng cho hưởng án treo; trường hợp quyết định hình phạt tù nhưng
thời hạn phạt tù bằng hoặc ngắn hơn thời hạn đã tạm giam [48 ]
1.4. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong công tác kiểm sát thi hành
án hình sự
Theo quy định tại Điều 141 LTHAHS, khi thực hiện kiểm sát thi hành án hình
sự, Viện kiểm sát có các nhiệm vụ và quyền hạn sau:
- Yêu cầu Tòa án cùng cấp và cấp dưới ra quyết định THA đúng quy định của pháp
luật. Sau 7 ngày kể từ ngày bản án, quyết định sơ thẩm có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ
ngày nhận được bản án, quyết định phúc thẩm, quyết định giám đốc thẩm, quyết định tái
thẩm, VKS có quyền yêu cầu Chánh án toà án đã xét xử sơ thẩm ra quyết định THA hoặc
uỷ thác cho Toà án khác cùng cấp ra quyết định THA. Trường hợp quyết THA không
đúng với nội dung bản án được đưa ra thi hành, VKS cũng có quyền yêu cầu Toà án có
thẩm quyền ra quyết định thi hành án đúng với nội dung bản án đã tuyên.
9
- Yêu cầu tự kiểm tra việc THAHS hoặc cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến
THAHS. Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Toà án, CQTHAHS, cơ quan, tổ chức được
giao một số nhiệm vụ THAHS tự kiểm tra việc THAHS và thông báo kết quả kiểm tra
cho Viện kiểm sát. Sau khi nhận được thông báo về kết quả tự kiểm tra, Viện kiểm sát có
thể yêu cầu Toà án, CQTHAHS, cơ quan, tổ chức được giao một số nhiệm vụ THAHS
cung cấp hồ sơ, tài liệu có liên quan đến việc THAHS để kiểm tra kết quả đó. Riêng trong
lĩnh vực kiểm sát thi hành án phạt tù, Viện kiểm sát có nhiệm vụ, quyền hạn kiểm tra hồ
sơ, tài liệu của cơ quan, đơn vị cùng cấp và cấp dưới có trách nhiệm trong việc quản lý và
giáo dục người chấp hành án phạt tù; gặp, hỏi người chấp hành án phạt tù về việc quản lý
và giáo dục người chấp hành án phạt tù; yêu cầu cơ quan cùng cấp, cấp dưới và người có
trách nhiệm thông báo tình hình quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù; trả lời
về quyết định, biện pháp hoặc việc làm vi phạm pháp luật trong việc quản lý và giáo dục
người chấp hành án phạt tù.
- Phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm pháp luật trong thi hành án
hình sự theo thẩm quyền; quyết định trả tự do ngay cho người đang chấp hành án phạt tù
không có căn cứ và trái pháp luật. Viện trưởng Viện kiểm sát ra quyết định trả tự do ngay
cho người đang chấp hành án phạt tù không có căn cứ và trái pháp luật trong các trường
hợp sau: Người đã chấp hành xong thời hạn phạt tù ghi trong bản án nếu họ không bị tạm
giam về một hành vi phạm tội khác; người đã có quyết định giảm hết thời hạn chấp hành
hình phạt tù; người đã có quyết định đặc xá của Chủ tịch nước; người đã có quyết định
tạm đình chỉ chấp hành hình phạt tù, người đã có quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án,
người bị bắt thi hành bản án đã được Toà án có thẩm quyền thông báo đã hết thời hiệu
theo Điều 55 Bộ luật Hình sự. Đối với quyết định trả tự do này, cơ quan thi hành án hình
sự phải thi hành ngay; nếu không nhất trí với quyết định đó thì vẫn phải thi hành nhưng
có quyền khiếu nại lên VKS cấp trên trực tiếp. Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày nhận
được khiếu nại, Viện trưởng VKS cấp trên trực tiếp phải xem xét giải quyết.
Phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm pháp luật trong THAHS theo
thẩm quyền là nhiệm vụ, quyền hạn của VKS, được thực hiện không chỉ khi phát hiện
thấy có các trường hợp oan, sai trong quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù mà
còn đối với những vi phạm khác trong THAHS nói chung.
- Kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu đối với Toà án, CQTHAHS cùng cấp, cấp dưới, cơ
quan, tổ chức được giao một số nhiệm vụ THAHS và cá nhân có liên quan khi có các
biểu hiện vi phạm pháp luật trong việc THAHS; yêu cầu đình chỉ việc thi hành, sửa đổi
hoặc bãi bỏ quyết định có vi phạm pháp luật trong việc THAHS; chấm dứt hành vi vi
phạm pháp luật. Cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến THAHS trong phạm vi
nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm xem xét, giải quyết và trả lời kiến nghị,
10
kháng nghị, yêu cầu, thi hành quyết định của Viện kiểm sát về THAHS theo quy định của
pháp luật. Toà án, cơ quan quản lý THAHS, CQTHAHS, cơ quan được giao một số
nhiệm vụ THAHS có trách nhiệm trả lời trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được
kháng nghị. Nếu không nhất trí với kháng nghị đó thì các cơ quan này có quyền khiếu nại
lên Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp; Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp phải giải quyết trong
thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Quyết định của Viện kiểm sát cấp trên
trực tiếp phải được thi hành.
Viện kiểm sát nhân dân có quyền kháng nghị với cơ quan cùng cấp và cấp dưới yêu
cầu đình chỉ việc thi hành, sửa đổi hoặc bãi bỏ quyết định có vi phạm pháp luật trong việc
quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù, chấm dứt việc làm vi phạm pháp luật và yêu
cầu xử lý người có hành vi vi phạm trong các trường hợp sau: Những quyết định của Giám
thị Trại giam về việc quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù trái pháp luật;
những quyết định của Toà án trong việc giảm thời hạn chấp hành hình phạt tù, tạm đình
chỉ chấp hành hình phạt tù trái pháp luật; những việc làm của cơ quan, đơn vị và người có
trách nhiệm trong việc tạm giữ, tạm giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt
tù trái pháp luật.
- Định kỳ và đột xuất kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành án hình
sự, kiểm sát hồ sơ thi hành án hình sự của cơ quan thi hành án hình sự cùng cấp và cấp
dưới, cơ quan, tổ chức được giao một số nhiệm vụ thi hành án hình sự. Viện kiểm sát
nhân dân cấp tỉnh trực tiếp kiểm sát việc tuân theo pháp luật, kháng nghị, kiến nghị, yêu
cầu đối với Trại giam đóng tại địa phương đó trong việc thi hành án phạt tù. Đối với Trại
giam một năm một lần kiểm sát toàn diện, có kết luận bằng văn bản. Việc trực tiếp kiểm
sát được thực hiện theo các bước sau:
Trước khi tiến hành kiểm sát trực tiếp, Viện kiểm sát phải ban hành quyết định kiểm
sát trực tiếp và có kế hoạch kiểm sát. Kế hoạch bao gồm những nội dung cơ bản như
chọn việc để kiểm sát, căn cứ pháp luật để tiến hành kiểm sát. Lãnh đạo Viện kiểm sát
ban hành quyết định kiểm sát. Quyết định kiểm sát có những nội dung chủ yếu như căn
cứ pháp luật; đối tượng được kiểm sát; nội dung kiểm sát trực tiếp; thời gian, thời điểm
kiểm sát; cán bộ; cơ quan, đơn vị có trách nhiệm thực hiện quyết định.
Sau khi có quyết định kiểm sát trực tiếp, KSV được giao nhiệm vụ trưởng đoàn phải
lập kế hoạch kiểm sát. Kế hoạch kiểm sát được Lãnh đạo VKS duyệt, sau đó giao cho
trưởng đoàn ký. Kế hoạch gồm có các nội dung cơ bản như mục đích, yêu cầu của việc
kiểm sát trực tiếp; nội dung kiếm sát trực tiếp; cách thức tiến hành kiểm sát trực tiếp.
Việc kiểm sát trực tiếp được bắt đầu bằng việc VKS công bố quyết định trực tiếp
kiểm sát, sau đó, tiến hành kiểm sát theo nội dung mà kế hoạch kiểm sát đã đề ra. Đoàn
11
kiểm sát yêu cầu báo cáo các nội dung liên quan đến cuộc kiểm sát; yêu cầu cung cấp các
tài liệu liên quan đến nội dung kiểm sát để kiểm tra, xác minh, đối chiếu; kiểm tra sổ sách
thụ lý thi hành án; các hồ sơ THA; các chứng từ thu chi; các phiếu thu chi; các biên lai
thu chi liên quan đến việc THA và tài liệu liên quan đến việc giải quyết khiếu nại về
THA. Đối với những vấn đề còn chưa rõ, VKS có thể yêu cầu giải trình. Kết quả kiểm tra
phải được lập thành biên bản có chữ ký xác nhận của đại diện bên được kiểm tra và người
trực tiếp kiểm sát. Khi hoàn thành kế hoạch kiểm sát, đoàn kiểm sát tập hợp những nội
dung đã kiểm tra, làm bản dự thảo kết luận và tổ chức thông báo dự thảo kết luận. Kết
luận do KSV là Trưởng đoàn ký sau khi đã báo cáo Lãnh đạo VKS và gửi cho cơ quan
được kiểm sát biết.
Sau khi tiến hành kiểm sát trực tiếp, VKS tập hợp những vi phạm đã phát hiện được
để làm văn bản kiến nghị hoặc kháng nghị với cơ quan được kiểm sát, cơ quan, tổ chức,
đơn vị hữu quan nhằm có biện pháp khắc phục, sửa chữa, xử lý. Kết quả thực hiện kiến
nghị, kháng nghị của cơ quan được kiểm sát phải được thông báo cho VKS.
- Đề nghị miễn, hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ chấp hành án; tham gia việc xét giảm,
miễn thời hạn chấp hành án, chấp hành biện pháp tư pháp, rút ngắn thời gian thử thách.
Viện kiểm sát có nhiệm vụ, quyền hạn đề nghị miễn, hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ chấp
hành án đối với các loại hình phạt, trong các trường hợp và theo các căn cứ mà pháp luật
qui định. Viện kiểm sát cũng có quyền tham gia các phiên họp của Tòa án để xét giảm,
miễn thời hạn chấp hành án, chấp hành biện pháp tư pháp, rút ngắn thời gian thử thách
của án treo đối với người bị kết án, kiểm sát các quyết định này của Tòa án và thực hiện
quyền kháng nghị đối với các quyết định đó nếu thấy không có căn cứ và trái pháp luật.
- Tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong quản lý, giáo dục người chấp hành
án phạt tù; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với
việc thi hành án hình sự. Đối với các khiếu nại, tố cáo về THAHS, VKS có quyền trực
tiếp giải quyết nếu đó là khiếu nại, tố cáo liên quan đến việc quản lý, giáo dục người chấp
hành án phạt tù; khiếu nại, tố cáo về các vấn đề còn lại liên quan đến THAHS, VKS
không giải quyết mà có trách nhiệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải
quyết của các cơ quan và người có thẩm quyền. Theo quy định tại Điều 142 LTHAHS,
khi kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo trong THAHS, VKS có quyền yêu cầu Toà
án, cơ quan quản lý THAHS, CQTHAHS, cơ quan, tổ chức được giao một số nhiệm vụ
THAHS cùng cấp và cấp dưới ra văn bản giải quyết khiếu nại, tố cáo; kiểm tra việc giải
quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền và của cấp dưới; thông báo kết quả giải quyết
và cung cấp hồ sơ, tài liệu liên quan đến việc giải quyết khiếu nại, tố cáo cho VKS. VKS
trực tiếp kiểm sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về THAHS của Toà án, cơ quan quản
lý THAHS, CQTHAHS, cơ quan, tổ chức được giao một số nhiệm vụ THAHS.
12
- Đề nghị khởi tố hoặc yêu cầu CQĐT khởi tố về hình sự khi phát hiện có dấu hiệu
tội phạm trong THAHS.
Tóm lại, nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam và
THAHS là những hoạt động của VKS nhằm đảm bảo cho việc tạm giữ, tạm giam và
THAHS của Nhà tạm giữ, trại tạm giam, TA, CQTHAHS, CQ được giao một số nhiệm
vụ THAHS và những người có trách nhiệm được thực hiện theo đúng quy định của pháp
luật. Những nhiệm vụ, quyền hạn đó đồng thời cũng chính là những phương thức hoạt
động để VKS thực hiện kiểm sát tuân theo pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam và thi
hành án hình sự. Các phương thức kiểm sát này thường được VKS sử dụng một cách linh
hoạt, có sự phối kết hợp lẫn nhau nhằm đạt tới hiệu quả cao nhất trong thực tiễn.[32, tr.9].
1.5. Nội dung hoạt động kiểm sát thi hành án hình sự theo pháp luật hiện
hành
1.5.1. Kiểm sát việc Toà án ra các quyết định về thi hành án; quyết định uỷ thác
thi hành án và gửi các quyết định thi hành án
VKS phải kiểm sát việc Chánh án TA đã xét xử sơ thẩm ra quyết định THA hoặc
uỷ thác cho Toà án khác cùng cấp ra quyết định THA theo đúng thẩm quyền, đảm bảo
đúng nội dung quyết định của bản án trong thời hạn luật định.
Trường hợp TA chậm ra quyết định THA hoặc uỷ thác THA, ra các quyết định
THS không đúng thẩm quyền, nội dung bản án đã tuyên, thì VKS ban hành văn bản kiến
nghị, kháng nghị hoặc yêu cầu đối với TA đã xét xử sơ thẩm phải ra quyết định THA
hoặc uỷ thác THA theo đúng quy định tại khoản 1 Điều 256 BLTTHS; khắc phục các vi
phạm pháp luật.
Khi nhận được quyết định uỷ thác, VKS nơi TA ủy thác phải thông báo ngay bằng
văn bản cho VKS nơi nhận uỷ thác biết để kiểm sát THA. Khi nhận được thông báo uỷ
thác VKS nơi nhận uỷ thác phải thông báo ngay trở lại cho VKS nơi TA uỷ thác biết đã
tiếp nhận được thông báo uỷ thác để theo dõi kết quả THA.
Kiểm sát việc TA gửi các quyết định về THA: VKS kiểm sát việc gửi các quyết
định THA; quyết định uỷ thác THA, quyết định hoãn THA, quyết định tạm đình chỉ
THA, giảm thời hạn chấp hành hình phạt, miễn chấp hành hình phạt, rút ngắn thời hạn
thử thách của án treo, quyết định cho người bị kết án được hưởng thời hiệu thi hành bản
án, quyết định xoá án tích.v.v. việc gửi các quyết định này của TA phải thực hiện đúng
quy định của pháp luật: gửi cho VKS cùng cấp, CQTHA, người bị kết án, cơ quan, tổ
chức, đơn vị có trách nhiệm trong việc THA đầy đủ và kịp thời [3, Đ.256, 257].
13
1.5.2. Kiểm sát việc thi hành hình phạt chính
- Kiểm sát thi hành án tử hình
+ VKS kiểm sát việc ra quyết định THA tử hình nhằm đảm bảo thủ tục ra quyết
định và việc gửi quyết định THA tử hình được thực hiện theo đúng quy định tại Điều 54
LTHAHS. Theo đó, Chánh án TA đã xét xử sơ thẩm ra quyết định THA tử hình. Quyết
định phải ghi rõ ngày, tháng, năm ra quyết định, họ tên, chức vụ của người ra quyết định;
bản án, quyết định được thi hành; họ tên, ngày, tháng, năm sinh, nơi cư trú của người bị
kết án. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định THA, TA đã ra quyết
định THA phải gửi quyết định cho VKS, CQTHAHS cùng cấp; Trại tạm giam nơi người
chấp hành án đang bị giam giữ; Sở Tư pháp nơi TA đã ra quyết định THA có trụ sở.
+ Viện kiểm sát phải kiểm sát việc thực hiện các thủ tục xem xét bản án tử hình
trước khi bản án được đưa ra thi hành. Theo quy định tại Điều 258 BLTTHS, sau khi bản
án tử hình có hiệu lực pháp luật, hồ sơ vụ án phải được gửi ngay lên CATANDTC và bản
án phải được gửi ngay lên VTVKSNDTC.
Trong thời hạn hai tháng, kể từ ngày nhận được bản án, Kiểm sát viên được phân
công giải quyết vụ án phải đề nghị Tòa án chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát để nghiên
cứu, báo cáo Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ra quyết định kháng nghị hoặc
ra quyết định không kháng nghị giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật, người bị kết án
được gửi đơn xin ân giảm lên Chủ tịch nước. Bản án tử hình được thi hành, nếu Chánh án
Toà án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao không kháng
nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái thẩm.
Trong trường hợp bản án tử hình bị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hoặc tái
thẩm mà Hội đồng giám đốc thẩm, Hội đồng tái thẩm Toà án nhân dân tối cao quyết định
không chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án tử hình, thì Kiểm sát viên phải kiểm
sát việc Toà án nhân dân tối cao thực hiện việc thông báo cho người bị kết án biết để họ
làm đơn xin ân giảm án tử hình.
Theo tinh thần hướng dẫn tại Mục II Nghị quyết số 02/2007/NQ-HĐTP ngày 02
tháng 10 năm 2007 của Hội đồng thẩm phán toà án nhân dân tối cao Hướng dẫn thi hành
một số quy định trong Phần thứ năm “Thi hành bản án và quyết định của TA” của
BLTTHS, thì sau khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị mà VKS không nhận được
kháng cáo, kháng nghị và sau khi hết thời hạn bảy ngày tiếp theo, kể từ ngày hết thời hạn
kháng cáo, kháng nghị mà vẫn không nhận được đơn xin ân giảm hình phạt tử hình của
người bị kết án tử hình, thì KSV phải xác minh tại Trại tạm giam (Trại giam) nơi đang
giam giữ người bị kết án tử hình về việc người bị kết án tử hình có làm đơn kháng cáo
14
trong thời hạn kháng cáo hay không hoặc người bị kết án tử hình có làm đơn xin ân giảm
hình phạt tử hình hay không. Việc xác minh phải được lập biên bản ghi đầy đủ, cụ thể nội
dung yêu cầu của họ (kháng cáo xin giảm hình phạt, kêu oan hay chỉ xin ân giảm hình
phạt tử hình) hoặc ghi rõ việc không kháng cáo và cũng không làm đơn xin ân giảm hình
phạt tử hình. Biên bản phải có chữ ký của KSV, cán bộ Trại tạm giam (Trại giam), chữ
ký (hoặc điểm chỉ) của người bị kết án tử hình, người làm chứng, người phiên dịch (nếu
có). Biên bản phải có xác nhận của Ban giám thị Trại tạm giam (Trại giam) và đóng dấu
của Trại tạm giam (Trại giam). Trường hợp người bị kết án tử hình không chịu ký tên
(hoặc điểm chỉ) thì phải ghi cụ thể lý do.
Bản án tử hình được thi hành khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:
Người bị kết án tử hình không làm đơn xin ân giảm hình phạt tử hình và có quyết
định không kháng nghị của Chánh án TANDTC và quyết định không kháng nghị của
Viện trưởng VKSNDTC.
Người bị kết án tử hình có làm đơn xin ân giảm hình phạt tử hình và có quyết định
không kháng nghị của CATANDTC, quyết định không kháng nghị của VTVKSNDTC và
quyết định của Chủ tịch nước bác đơn xin ân giảm hình phạt tử hình.
Người bị kết án tử hình không làm đơn xin ân giảm hình phạt tử hình và có quyết
định giám đốc thẩm hoặc quyết định tái thẩm của HĐTPTANDTC không chấp nhận
kháng nghị và giữ nguyên bản án tử hình.
Người bị kết án tử hình có làm đơn xin ân giảm hình phạt tử hình và có quyết
định giám đốc thẩm hoặc quyết định tái thẩm của Hội đồng Thẩm phán TANDTC không
chấp nhận kháng nghị và giữ nguyên bản án tử hình và bản sao quyết định của Chủ tịch nước
bác đơn xin ân giảm hình phạt tử hình.
Khi có đủ điều kiện thi hành án tử hình mà TA không ra quyết định THA, thì KSV
phải báo cáo lãnh đạo VKS để yêu cầu Chánh án đã xét xử sơ thẩm vụ án ra quyết định
THA. Trong trường hợp Chánh án xét xử sơ thẩm vụ án đã ra quyết định THA mà chưa
đủ các điều kiện thi hành án, thì KSV phải báo cáo ngay lãnh đạo VKS để kháng nghị.
+ VKS phải kiểm sát việc CATA ra văn bản yêu cầu thành lập Hội đồng THA tử
hình theo đúng quy định tại Điều 55 LTHAHS. Theo đó, ngay khi có quyết định THA tử
hình, CATA đã ra quyết định THA phải có văn bản yêu cầu VTVKS cùng cấp, Thủ
trưởng CQTHAHS Công an cấp tỉnh hoặc Thủ trưởng CQTHAHS cấp quân khu cử đại
diện tham gia Hội đồng thi hành án tử hình.
VKS phải kiểm sát thời hạn ra quyết định thành lập HĐTHA tử hình. Theo đó,
trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày ra quyết định THA, CATA đã ra quyết định THA phải
15
ra quyết định thành lập HĐTHA tử hình do Chánh án hoặc Phó CATA đã ra quyết định
THA làm Chủ tịch HĐTHA tử hình. Quyết định thành lập HĐTHA tử hình phải ghi rõ
ngày, tháng, năm ra quyết định, họ tên, chức vụ của người ra quyết định; căn cứ ra quyết
định; họ tên, chức vụ của người tham gia Hội đồng.
+ VKS phải kiểm sát việc tuân theo pháp luật của HĐTHATH. Theo quy định tại
Điều 56 LTHAHS thì HĐTHATH có trách nhiệm tổ chức kiểm tra các điều kiện về
người chấp hành án tử hình theo quy định của BLHS, BLTTHS. Khi thấy người bị kết án
không đủ điều kiện để THA thì HĐTHATH phải ra quyết định hoãn THA và báo cáo
CATA đã ra quyết định THA. HĐTHATH có trách nhiệm thông báo kết quả THA cho
CQ quản lý THAHS.
Chủ tịch HĐTHATH có trách nhiệm triệu tập họp, công bố các quyết định có liên
quan đến việc THA tử hình, quyết định thời gian thi hành án; những nội dung cần giữ bí
mật; các điều kiện bảo đảm việc tổ chức thực hiện kế hoạchTHA; địa điểm mai táng đối
với trường hợp không được nhận tử thi hoặc không có đơn đề nghị được nhận tử thi.
Cuộc họp phải được lập biên bản, lưu hồ sơ thi hành án tử hình. CQTHAHS Công an cấp
tỉnh, CQTHAHS cấp quân khu có trách nhiệm quản lý Hồ sơ THA tử hình.
+ Chế độ quản lý giam giữ, ăn, ở, mặc, sinh hoạt, gửi và nhận thư, nhận đồ vật,
tiền mặt, gặp thân nhân, chăm sóc y tế đối với người bị kết án tử hình trong thời gian chờ
THA thực hiện theo quy định của pháp luật về tạm giam [7.Đ.56].
+ Viện kiểm sát phải kiểm sát tính có căn cứ của việc ra quyết định hoãn thi hành
án tử hình của Hội đồng thi hành án tử hình, bảo đảm việc hoãn thi hành án tử hình tuân
thủ đúng quy định của pháp luật. Hội đồng thi hành án tử hình quyết định hoãn thi hành
án tử hình trong trường hợp sau:[7.Đ. 58 ]
Một là, hoãn thi hành án tử hình nếu xác định được người bị kết án thuộc trường
hợp quy định tại Điều 35 BLHS, nghĩa là các trường hợp người bị kết án là phụ nữ có
thai, phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi.
Hai là, hoãn thi hành án tử hình khi có lý do bất khả kháng, nghĩa là do những lý
do khách quan mà không thể thi hành được án tử hình;
Ba là, hoãn thi hành án tử hình ngay trước khi thi hành án người chấp hành án
khai báo những tình tiết mới về tội phạm.
Khi quyết định hoãn thi hành án tử hình, Hội đồng phải lập biên bản ghi rõ ngày,
giờ, tháng, năm, địa điểm thi hành án; họ tên, chức vụ của thành viên hội đồng thi hành
án tử hình; lý do hoãn thi hành án. Biên bản hoãn thi hành án phải được tất cả các thành
viên Hội đồng thi hành án ký, lưu hồ sơ thi hành án tử hình và báo cáo Chánh án Tòa án
16
đã ra quyết định thi hành án, Viện trưởng Viện kiểm sát cấp tỉnh, cấp quân khu và cơ
quan thi hành án hình sự cấp tỉnh, cấp quân khu.
Cảnh sát hỗ trợ tư pháp hoặc Cảnh vệ tư pháp có trách nhiệm áp giải, bàn giao
người được hoãn thi hành án tử hình cho trại tạm giam để tiếp tục quản lý giam giữ người
đó. Việc giao nhận người được hoãn thi hành án tử hình phải được lập thành biên bản.
Trường hợp hoãn THA do có lý do bất khả kháng hoặc ngay trước khi THA người
chấp hành án khai báo những tình tiết mới về tội phạm mà lý do hoãn không còn thì
CATA ra quyết định THA yêu cầu HĐTHA án tiếp tục thực hiện việc THA. Trường hợp
có sự thay đổi thành viên Hội đồng thì CATA đã ra quyết định THA quyết định bổ sung
thành viên Hội đồng hoặc thành lập HĐTHA theo quy định tại Điều 55 của LTHAHS.
Theo quy định tại Điều 59 Luật Thi hành án hình sự thì hình phạt tử hình được thi
hành bằng hình thức tiêm thuốc độc. Trước khi thi hành án, Hội đồng thi hành án tử hình
phải kiểm tra danh bản, chỉ bản, hồ sơ lý lịch của người chấp hành án tử hình; trường hợp
người chấp hành án là nữ thì Hội đồng phải kiểm tra các tài liệu liên quan đến điều kiện
không thi hành án tử hình theo quy định của Điều 35 BLHS. Trước khi bị đưa ra thi hành
án tử hình, người chấp hành án được ăn, uống, viết thư, ghi âm lời nói gửi lại thân nhân.
Viện kiểm sát kiểm sát việc giải quyết việc xin nhận tử thi, hài cốt của người bị thi
hành án tử hình theo đúng quy định của pháp luật. Theo quy định tại Điều 60 LTHAHS,
việc giải quyết nhận tử thi, hài cốt của người bị THA tử hình được giải quyết như sau:
Trước khi thi hành án tử hình, thân nhân hoặc người đại diện hợp pháp của người
chấp hành án được làm đơn có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú gửi
Chánh án Tòa án đã xét xử sơ thẩm đề nghị giải quyết cho nhận tử thi của người chấp
hành án để an táng.
Trường hợp người chấp hành án là người nước ngoài thì đơn phải có xác nhận của
cơ quan có thẩm quyền hoặc cơ quan đại diện ngoại giao tại Việt Nam của nước mà
người chấp hành án mang quốc tịch và phải được dịch ra tiếng Việt. Đơn phải ghi rõ họ
tên, địa chỉ người nhận tử thi, quan hệ với người chấp hành án; cam kết bảo đảm yêu cầu
về an ninh, trật tự, vệ sinh môi trường và tự chịu chi phí;
CATA xét xử sơ thẩm thông báo bằng văn bản cho người có đơn đề nghị về việc
cho nhận tử thi hoặc không cho nhận tử thi khi có căn cứ cho rằng việc nhận tử thi ảnh
hưởng đến an ninh, trật tự, vệ sinh môi trường. Trường hợp người chấp hành án là người
nước ngoài, thì CATA xét xử sơ thẩm có trách nhiệm thông báo bằng văn bản cho Bộ
Ngoại giao Việt Nam để thông báo cho cơ quan có thẩm quyền hoặc cơ quan đại diện
ngoại giao tại Việt Nam của nước mà người đó mang quốc tịch;
17
CQTHAHS Công an cấp tỉnh, CQTHAHS cấp quân khu có trách nhiệm thông
báo cho người có đơn đề nghị ngay sau khi thi hành án để đến nhận tử thi về an táng.
Việc giao nhận tử thi phải được thực hiện trong thời hạn 24 giờ kể từ khi thông
báo và phải lập biên bản, có chữ ký của các bên giao, nhận; hết thời hạn này mà người có
đơn đề nghị không đến nhận tử thi thì CQTHAHS Công an cấp tỉnh, CQTHAHS cấp
quân khu có trách nhiệm an táng. Trường hợp không được nhận tử thi hoặc thân nhân của
người bị THA không có đơn đề nghị được nhận tử thi về an táng thì CQTHAHS Công an
cấp tỉnh, CQTHAHS cấp quân khu tổ chức việc an táng.
Sau 03 năm kể từ ngày thi hành án, thân nhân hoặc đại diện hợp pháp của người
đã bị thi hành án được làm đơn có xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi cư trú đề
nghị Cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp tỉnh, cơ quan thi hành án hình sự cấp quân
khu nơi đã thi hành án cho nhận hài cốt.
Đơn đề nghị phải ghi rõ họ tên, địa chỉ người nhận hài cốt, quan hệ với người bị
THA; cam kết bảo đảm yêu cầu về an ninh, trật tự, vệ sinh môi trường và tự chịu chi phí.
Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày nhận được đơn, CQTHAHS Công an cấp tỉnh,
CQTHAHS cấp quân khu có trách nhiệm xem xét, giải quyết.
Trường hợp người bị THA là người nước ngoài thì đơn đề nghị phải có xác nhận
của cơ quan có thẩm quyền hoặc cơ quan đại diện ngoại giao tại Việt Nam của nước mà
người bị thi hành án mang quốc tịch và phải được dịch ra tiếng Việt. Việc giải quyết cho
nhận hài cốt do CQ quản lý THAHS xem xét, quyết định.
- Kiểm sát việc thi hành hình phạt tù:
Căn cứ các điều 26, 27, 28, 29 Luật Tổ chức VKSND năm 2002 và Điều 21, 22,
141 Luật Thi hành án Hình sự năm 2010 thì nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong kiểm
sát việc thi hành án phạt tù bao gồm:
+ Yêu cầu Toà án cùng cấp và cấp dưới ra quyết định thi hành án phạt tù và thi
hành quyết định thi hành án phạt tù đúng quy định của pháp luật;
+ Định kỳ và đột xuất kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành án phạt
tù của CQTHAHS cùng cấp và cấp dưới. VKSND cấp tỉnh trực tiếp kiểm sát việc tuân
theo pháp luật, kháng nghị, kiến nghị, yêu cầu đối với Trại giam đóng tại địa phương đó
trong việc thi hành án phạt tù (nhiệm vụ này trong Quy chế kiểm sát việc tạm giữ, tạm
giam, quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù gọi là thường kỳ và bất thường);
+ Yêu cầu cơ quan cùng cấp, cấp dưới và người có trách nhiệm thông báo tình
hình quản lý và giáo dục phạm nhân; trả lời về quyết định, biện pháp hoặc việc làm vi
phạm pháp luật trong việc quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù;
18
+ Kháng nghị với cơ quan cùng cấp và cấp dưới, yêu cầu đình chỉ việc thi hành,
sửa đổi hoặc bãi bỏ quyết định có vi phạm pháp luật trong việc quản lý và giáo dục người
chấp hành án phạt tù, chấm dứt việc làm vi phạm pháp luật và yêu cầu xử lý người vi
phạm pháp luật. (Riêng nhiệm vụ này, theo Luật Thi hành án Hình sự năm 2010,
VKSND cấp tỉnh khi kiểm sát trực tiếp Trại giam thuộc Bộ công an đóng trên địa bàn
được quyền kiến nghi, kháng nghị);
+ Đề nghị miễn, hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ chấp hành án; kiểm sát việc xét
giảm, miễn thời hạn chấp hành án, hoãn, tạm đình chỉ;
+ Khởi tố hoặc yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố về hình sự khi phát hiện có dấu
hiệu tội phạm trong thi hành án hình sự theo quy định của pháp luật;
+ Tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố cáo trong quản lý và giáo dục người chấp
hành án phạt tù;
+ VKS có trách nhiệm phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp oan sai trong
việc quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù, trả tự do theo Khoản 1 Điều 28 Luật
Tổ chức VKSND năm 2002 cho người bị giam giữ không có căn cứ và trái pháp luật,
phát hiện tội phạm trong việc quản lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù, khởi tố và
yêu cầu Cơ quan điều tra khởi tố về hình sự;
+ Kiểm sát việc tiếp nhận người chấp hành án phạt tù vào Trại giam, phân trại
quản lý phạm nhân; quản lý và giáo dục họ trong suốt quá trình họ chấp hành án phạt tù.
Kiểm sát việc thực hiện các chế độ đối với phạm nhân, việc tạm đình chỉ thi hành án phạt
tù theo Điều 62 Bộ luật Hình sự; kiểm sát việc trả tự do cho người đã chấp hành xong
hình phạt tù [28].
- Kiểm sát việc hoãn chấp hành hình phạt tù
Hoãn chấp hành hình phạt tù là việc người bị xử phạt tù chưa chấp hành hình phạt
tù được hoãn chấp hành hình phạt tù trong một thời hạn nhất do có những điều kiện do
luật định, hết thời hạn hoãn chấp hành hình phạt tù thì người đó sẽ phải chấp hành hình
phạt tù
Nội dung kiểm sát việc hoãn chấp hành hình phạt tù bao gồm:
+ Kiểm sát việc áp dụng các điều kiện cho hoãn chấp hành hình phạt tù:
KSV phải kiểm sát việc áp dụng các điều kiện cho hoãn chấp hành hình phạt tù
theo quy định tại Điều 261 BLTTHS, Điều 23 Luật THAHS và khoản 1 Điều 61 BLHS.
Theo đó, người bị xử phạt tù nếu có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú
cụ thể, rõ ràng, đồng thời sau khi bị xử phạt tù không có hành vi vi phạm pháp luật
19
nghiêm trọng, không có căn cứ cho rằng họ bỏ trốn và thuộc một trong các trường hợp
sau đây thì được hoãn chấp hành hình phạt tù:
Là người bị bệnh nặng, tức là bị bệnh đến mức không thể đi chấp hành hình phạt
tù được và nếu bắt đi chấp hành hình phạt tù sẽ nguy hiểm đến tính mạng của họ; do đó,
cần thiết phải cho họ được hoãn chấp hành hình phạt tù để họ có điều kiện chữa bệnh; ví dụ:
ung thư giai đoạn cuối, xơ gan cổ chướng, lao nặng độ 4 kháng thuốc, bại liệt, suy tim độ
3 trở lên, suy thận độ 4 trở lên, HIV chuyển giai đoạn AIDS đang có các nhiễm trùng cơ
hội và có tiên lượng xấu... Phải có kết luận của bệnh viện cấp tỉnh trở lên về việc người bị
xử phạt tù bị bệnh nặng và nếu bắt họ đi chấp hành hình phạt tù sẽ nguy hiểm đến tính
mạng của họ.
Là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi (không phân biệt là con đẻ
hay con nuôi), nếu họ bị xử phạt tù lần đầu.
Là người bị kết án không phải về tội xâm phạm an ninh quốc gia hoặc các tội
khác là tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng và là người duy nhất trong gia đình
đang lao động có thu nhập và nếu bắt họ đi chấp hành hình phạt tù thì gia đình họ sẽ gặp
khó khăn đặc biệt trong cuộc sống (như không có nguồn thu nhập nào khác, không có ai
chăm nom, nuôi dưỡng... những người thân thích của họ trong gia đình mà không có khả
năng lao động).
Là người bị kết án về tội ít nghiêm trọng và do nhu cầu công vụ, tức là do nhu cầu
của cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương cần thiết sự có mặt của họ để thực hiện
công vụ nhất định và nếu bắt họ đi chấp hành hình phạt tù ngay thì chưa có người thay
thế họ (có xác nhận bằng văn bản của cơ quan, tổ chức, chính quyền địa phương có liên
quan đến việc thực hiện công vụ đó).
Trong các trường hợp khác nếu thuộc quy định tại khoản 1 Điều 61 BLHS cũng có
thể xem xét cho người bị kết án được hoãn chấp hành hình phạt tù, nhưng phải xem xét
rất chặt chẽ [24].
+ Kiểm sát việc chấp hành thời hạn hoãn chấp hành hình phạt tù:
Kiểm sát viên phải kiểm sát việc chấp hành thời hạn hoãn chấp hành hình phạt tù.
Theo khoản 1 Điều 61 BLHS thời hạn hoãn chấp hành đối với từng trường hợp như sau:
Người bị xử phạt tù bị bệnh nặng được hoãn chấp hành hình phạt tù cho đến khi
sức khoẻ hồi phục.
Người bị xử phạt tù là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi được
hoãn chấp hành hình phạt tù cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi. Trong thời gian được hoãn
chấp hành hình phạt tù mà người bị kết án lại có thai hoặc phải tiếp tục nuôi con dưới 36
20
tháng tuổi thì vẫn được hoãn cho đến khi đứa con sau cùng đủ 36 tháng tuổi.
Người bị xử phạt tù là người lao động duy nhất trong gia đình hoặc do nhu cầu
công vụ được hoãn một lần hoặc nhiều lần, nhưng tổng số thời gian được hoãn tối đa là một
năm [24].
+ Kiểm sát thủ tục đề nghị, quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù và việc lập hồ
sơ đề nghị hoãn chấp hành hình phạt tù của Cơ quan, tổ chức, cá nhân đề nghị hoãn
chấp hành hình phạt tù:
Kiểm sát viên phải kiểm sát thủ tục đề nghị và quyết định hoãn chấp hành hình
phạt tù theo quy định tại Điều 23 Luật THAHS.
Theo quy định tại Điều 23 Luật THAHS và tiểu mục 1.3 mục III Nghị quyết số
02/2007/NQ-HĐTP ngày 02/10/2007 của Hội đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn thi
hành một số quy định trong Phần thứ năm “Thi hành bản án và quyết định của Tòa án”
của BLTTHS (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số 02/2007/NQ-HĐTP), Cơ quan, tổ chức, cá
nhân nào đề nghị hoãn chấp hành hình phạt tù, thì cơ quan, tổ chức, cá nhân đó có trách
nhiệm lập hồ sơ đề nghị hoãn chấp hành hình phạt tù.
+ Kiểm sát việc thi hành quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù:
Kiểm sát viên phải kiểm sát việc thi hành quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù
của Tòa án. Nội dung kiểm sát việc thi hành quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù bao
gồm các hoạt động sau:
Kiểm sát việc ngừng làm thủ tục đưa người chấp hành án phạt tù đi chấp hành án:
Kiểm sát việc quản lý người được hoãn chấp hành án của Ủy ban nhân dân cấp xã
hoặc đơn vị quân đội được giao nhiệm vụ quản lý người được hoãn chấp hành án:
Theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 24 Luật THAHS, người được hoãn chấp
hành án không được đi khỏi nơi cư trú, nếu không được sự đồng ý của Ủy ban nhân dân
cấp xã hoặc đơn vị quân đội đang quản lý người đó.
Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc đơn vị quân đội đang quản lý người được hoãn chấp
hành hình phạt tù 03 tháng một lần phải báo cáo việc quản lý người được hoãn chấp hành
án với cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện, cơ quan thi hành án hình sự cấp
quân khu để thông báo cho Tòa án đã ra quyết định hoãn chấp hành án.
+ Kiểm sát việc chấp hành thủ tục đề nghị, quyết định hủy bỏ quyết định hoãn
chấp hành hình phạt tù:
Kiểm sát viên phải kiểm sát việc chấp hành các thủ tục đề nghị, quyết định hủy bỏ
quyết định hoãn chấp hành hình phạt tù trong trường hợp người bị kết án có hành vi vi