Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Hoạt động giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức cấp huyện qua thực tiễn tại huyện phúc thọ, thành phố hà nội hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (624.51 KB, 77 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

HOÀNG MINH PHƯỢNG

HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC CẤP HUYỆN QUA THỰC TIỄN
TẠI HUYỆN PHÚC THỌ, THÀNH PHỐ HÀ NỘI HIỆN NAY

Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 60380101

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. CHU HỒNG THANH

HÀ NỘI – 2013


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và
trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác./.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN


Hoàng Minh Phượng


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC CẤP HUYỆN ............................................................................. 6
1.1. Khái niệm, chủ thể, đối tượng giáo dục pháp luật..................................... 6
1.2. Nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục pháp luật ........................... 14
1.3. Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức cấp huyện. ............................ 18
1.3.1. Khái niệm giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức cấp huyện......... 18
1.3.2.Đặc điểm, nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục pháp luật cho cán
bộ, công chức cấp huyện ............................................................................... 19
1.4 Sự cần thiết phải giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức cấp huyện ... 28
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÁN BỘ,
CÔNG CHỨC CẤP HUYỆN QUA THỰC TIỄN TẠI HUYỆN PHÚC THỌ,
THÀNH PHỐ HIỆN NAY. .............................................................................. 33
2.1 Khái quát về giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức cấp huyện. ......... 33
2.1.1 Thực trạng về công tác giáo dục pháp luật nói chung và trên địa bàn
huyện Phúc Thọ nói riêng. ............................................................................ 33
2.1.2 Những kết quả của công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức
trên địa bàn huyện Phúc Thọ ........................................................................ 38
2.2 Những ưu điểm và các mặt hạn chế trong công tác giáo dục pháp luật cho
cán bộ, công chức cấp huyện tại huyện Phúc Thọ trong thời gian qua........... 44
2.2.1 Những ưu điểm ..................................................................................... 44
2.2.2 Những hạn chế trong công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức . 45
2.2.3 Nguyên nhân cơ bản của một số hạn chế nêu trên ................................ 46
CHƯƠNG 3. PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƯỢNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP
HUYỆN HIỆN NAY....................................................................................... 49

3.1 Phương hướng giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức cấp huyện hiện
nay. ............................................................................................................... 49


3.2 Một số giải pháp nâng cao hiệu quả chất lượng giáo dục pháp luật cho cán
bộ, công chức cấp huyện. .............................................................................. 53
3.2.1 Xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp luật về giáo dục pháp luật cho
cán bộ, công chức cấp huyện ở cả Trung ương và địa phương...................... 53
3.2.2 Xác định cụ thể, đổi mới, nâng cao chất lượng hiệu quả về nội dung,
hình thức, phương pháp giáo dục pháp luật phù hợp cho cán bộ, công chức
cấp huyện ...................................................................................................... 55
3.2.3 Kết hợp giáo dục pháp luật gắn với củng cố chuyên môn và bồi dưỡng
về phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức. .................................................... 60
3.2.4 Công tác giáo dục pháp luật cần xuất phát đặc thù của cán bộ, công
chức cấp huyện với các cấp khác. ................................................................. 61
3.2.5 Tăng cường đầu tư, bảo đảm kinh phí, xây dựng cơ chế phối hợp thực
hiện giữa các cơ quan, tổ chức trong hoạt động giáo dục pháp luật cho cán
bộ, công chức. ............................................................................................... 62
3.2.6. Thường xuyên tiến hành kiểm tra, giám sát, tổng kết, đánh giá và có các
hình thức khen thưởng, kỷ luật đối với hoạt động giáo dục pháp luật cho cán
bộ, công chức cấp huyện. .............................................................................. 64
3.2.7 Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, chỉ đạo của chính quyền
đối với công tác giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức. ......................... 65
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 69
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................. 70


1

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp luật luôn giữ một vị thế vô cùng quan trọng trong việc duy trì trật tự
kỷ cương; thúc đẩy Nhà nước phát triển lớn mạnh theo định hướng xã hội chủ
nghĩa: dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh và xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì dân.
Muốn xây dựng được nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thành công thì bên cạnh điều kiện cần là ban hành một hệ thống pháp luật đầy
đủ, đồng bộ phù hợp với điều kiện thực tế của xã hội nước ta, còn phải có điều
kiện đủ là đưa được hệ thống pháp luật vào cuộc sống, làm cho mọi thành viên
trong xã hội đều nhận thức được các qui định của pháp luật, xây dựng được lòng
tin vào ý thức pháp luật, tự giác tham gia vào các lĩnh vực đời sống pháp luật,
tạo điều kiện cho nhà nước quản lý bằng pháp luật.
Trong đó xây dựng nền hành chính Việt Nam trong sạch, vững mạnh là
một tất yếu khách quan trong tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam. Nền hành chính đó đòi hỏi phải có một đội ngũ cán bộ,
công chức không chỉ vững vàng về bản lĩnh chính trị, có đạo đức, lối sống lành
mạnh, mà còn phải có kiến thức, hiểu biết pháp luật ở trình độ cao và tinh thông
nghiệp vụ, bởi lẽ, cán bộ, công chức là khâu chủ yếu để thực hiện chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Mọi chủ trương, chính
sách của Nhà nước phải được cán bộ, công chức triển khai thì mới có thể đi vào
trong đời sống xã hội được. Cán bộ, công chức là những người trực tiếp chuyển
“pháp luật trên giấy tờ” thành “pháp luật trong hành động”. Vì vậy, để quản lý
được nhà nước và xã hội bằng pháp luật có hiệu quả, để pháp luật đi vào cuộc
sống thực sự phát huy được tác dụng thì yêu cầu cấp bách đặt ra hiện nay là Nhà
nước ta phải quan tâm đến hoạt động phổ biến giáo dục pháp luật, đặc biệt đội
ngũ cán bộ, công chức phải được trang bị kiến thức, hiểu biết pháp luật và có ý
thức pháp luật ở trình độ cao để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.


2


Chính vì vậy, song song với quá trình xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp
luật, Đảng và Nhà nước ta luôn coi hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật cho
đội ngũ cán bộ, công chức là một phương thức chiếm vị trí, vai trò vô cùng đặc
biệt của sự tăng cường nền pháp chế xã hội chủ nghĩa. Trên tinh thần quán triệt
đó, trong những năm qua, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật luôn được cấp
ủy Đảng và chính quyền huyện Phúc Thọ coi trọng và xác định là mục tiêu theo
đuổi lâu dài trong quá trình quản lý nhà nước ở địa phương. Đồng thời xem đây
là một bộ phận của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, là nhiệm vụ trọng tâm
của hệ thống chính trị ở địa phương.
Với nhiều hình thức, phương tiện tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp
luật phong phú như hiện nay, hoạt động giáo dục pháp luật cho cán bộ, công
chức cấp huyện đã được thực hiện một cách thường xuyên, liên tục, kịp thời và
không ngừng được nâng cao, hoàn thiện cả về nội dung lẫn phương thức thực
hiện và đã đạt được nhiều kết quả tích cực.
Tuy nhiên hiện nay, qua các phương tiện thông tin đại chúng cho thấy: ở
nhiều địa phương, việc vi phạm pháp luật, làm trái pháp luật của cán bộ, công
chức không phải ít. Trong nhiều nguyên nhân dẫn đến vi phạm đó, có một
nguyên nhân cơ bản, đó là cán bộ, công chức chưa nắm vững kiến thức về nhà
nước và pháp luật. Vì vây, làm thế nào để tất cả cán bộ, công chức trên địa bàn
huyện khi đã tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội phải nắm bắt, am hiểu
pháp luật một cách chặt chẽ, áp dụng pháp luật một cách đúng đắn trước hết là
trong lĩnh vực mình quản lý đang được xem là vấn đề cấp thiết hiện nay.
Xuất phát từ nhận thức đó, tôi đã chọn đề tài: “ Hoạt động giáo dục pháp
luật cho cán bộ, công chức cấp huyện qua thực t iễn tại huyện Phúc Thọ
,Thành phố Hà Nội hiện nay” làm đề tài luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu
Giáo dục pháp luật là một vấn đề mang tính cấp thiết ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay. Đây là vấn đề đã và đang được các nhà khoa học pháp lý quan
tâm. Nhiều công trình nghiên cứu về lĩnh vực này đã được công bố như: “ Nâng



3

cao ý thức pháp luật của đội ngũ cán bộ quản lý hành chính nhà nước hiện
nay”, Luận án Tiến sĩ của Lê Đình Khiên, 1993; “ Xây dựng ý thức và lối sống
theo pháp luật”, Đào Trí Úc chủ biên, Hà Nội, 1995; “ Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn về giáo dục pháp luật trong công cuộc đổi mới”, của Viện nghiên cứu
khoa học pháp lý, Bộ tư pháp, Hà Nội, 1995; “ Một số vấn đề giáo dục pháp luật
ở miền núi và vùng dân tộc thiểu số”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996; “
Giáo dục pháp luật trong các trường đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy
nghề ( không chuyên luật) ở nước ta hiện nay”, Luận án phó tiến sĩ luật học của
Đinh Xuân Thảo, 1996; “ Giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp – hình thức
đặc thù của giáo dục pháp luật”, Luận án phó tiến sĩ của Dương Thanh Mai,
1996; “ Công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật ở nước ta – Thực trạng và
giải pháp”, Luận văn thạc sĩ của Hồ Quốc Dũng, 1997; “ Một số vấn đề về giáo
dục pháp luật trong giai đoạn hiện nay”, của Vụ phổ biến giáo dục pháp luật ,
Bộ tư pháp, Nxb Thanh niên, 1997; “ Đổi mới giáo dục pháp luật trong hệ thống
các trường Chính trị ở nước ta hiện nay”, Đề tài khoa học cấp Bộ, Khoa nhà
nước-pháp luật, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1999; “ Đổi mới giáo
dục pháp luật hệ đào tạo trung học chính trị ở nước ta hiện nay”, Luận văn thạc
sĩ của Nguyễn Ngọc Hoàng, 2000; Đề tài “ Cơ sở khoa học của việc xây dựng ý
thức và lối sống theo luật pháp” trong chương trình khoa học công nghệ cấp
Nhà nước ; tác giả Đào Duy Tấn trong luận án Tiến sĩ Triết học “ Những đặc
điểm của quá trình hình thành ý thức pháp luật ở Việt Nam hiện nay”, Hà Nội,
2000. Một số bài viết trên các tạp chí, như: “ Làm thế nào để xây dựng ý thức
pháp luật và lối sống theo pháp luật”, tác giả Đào Trí Úc – Tạp chí nhà nước và
pháp luật, số 4/1993...Các giáo trình: Lý luận chung về nhà nước và pháp luật,
Luật hành chính của các cơ sớ đào tạo luật học, hành chính cũng có một số
chương đề cập đến vấn đề này.

Các công trình nghiên cứu trên đã nêu ra nhiều vấn đề rất cơ bản cả về lý
luận và thực tiễn trong hoạt động giáo dục pháp luật trên nhiều góc độ. Tuy
nhiên có thể nói rằng, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách


4

đầy đủ và có hệ thống về giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức nói chung và
cán bộ, công chức cấp huyện nói riêng. Trong quá trình nghiên cứu, luận văn đã
kế thừa và vận dụng có chọn lọc những tri thức khoa học đã có, đồng thời phát
triển những tri thức khoa học đó, kết hợp với những sáng tạo mới của mình,
nhằm tiếp tục phân tích và làm sáng tỏ những vấn đề quan trọng liên quan tới
hoạt động giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức nói chung và cán
bộ, công chức cấp huyện nói riêng, qua khảo sát tại một huyện cụ thể trong giai
đoạn hiện nay.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực trạng giáo dục pháp
luật cho cán bộ, công chức cấp huyện, từ đó đưa ra những phương hướng, giải
pháp nhằm bổ sung, hoàn thiện việc giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức
chính quyền cấp Huyện hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau:
Phân tích cơ sở lý luận chung về giáo dục pháp luật, trên cơ sở đó làm rõ
một số vấn đề lý luận liên quan đến hoạt động giáo dục pháp luật cho cán bộ,
công chức cấp huyện nói riêng.
Phân tích, đánh giá thực trạng giáo dục pháp luật của công tác giáo dục
pháp luật cho cán bộ, công chức cấp huyện hiện nay.
Từ thực trạng đó đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm tăng cường hiệu
quả hoạt động giáo dục pháp luật cho đội ngũ cán bộ, công chức cấp huyện.

4. Phạm vi nghiên cứu
Về đối tượng: luận văn nghiên cứu về giáo dục pháp luật cho cán bộ, công
chức cấp huyện.
Về địa bàn khảo sát: Học viên chỉ tập trung tiến hành thực tế tại huyện
Phúc Thọ trên địa bàn thành phố Hà Nội.


5

5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh ( vận dụng tổng hợp các phương pháp
duy vật biện chứng, duy vật lịch sử...).Trong quá trình thực hiện luận văn đã sử
dụng những phương pháp nghiên cứu cụ thể: Phân tích, tổng hợp, lịch sử - cụ
thể; Đồng thời, kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khác như: thống kê, so
sánh, điều tra xã hội học...
6. Ý nghĩa của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn là làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về
giáo dục pháp luật cho cán bộ công chức cấp huyện; đánh giá về thực trạng, tìm
ra nguyên nhân và đề xuất những giải pháp cơ bản trong công tác xây dựng ý
thức pháp luật. Kết quả nghiên cứu có thể làm tài liệu tham khảo cho học tập,
giảng dạy về nhà nước và pháp luật tại các cơ sở đào tạo.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức.
Chương 2: Thực trạng giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức cấp
huyện qua thực tiễn tại huyện Phúc Thọ, thành phố Hà Nội hiện nay.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục pháp
luật cho cán bộ, công chức cấp huyện hiện nay.



6

CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT CHO
CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP HUYỆN
1.1. Khái niệm, chủ thể, đối tượng giáo dục pháp luật
* Khái niệm giáo dục pháp luật:
Giáo dục pháp luật là một nội dung quan trọng của lý luận chung về nhà nước và
pháp luật. Hiện nay trong khoa học pháp lý Việt Nam đang tồn tại nhiều quan
điểm về giáo dục pháp luật. Từ nhiều góc độ tiếp cận rộng, hẹp khác nhau tuỳ
theo cơ sở xuất phát để nghiên cứu và vận dụng vào quá trình giáo dục pháp luật
cụ thể.
Có khái niệm cho rằng giáo dục pháp luật là một bộ phận của giáo dục
chính trị, tư tưởng và đạo đức. Nghĩa là, nếu tiến hành giáo dục chính trị tư
tưởng, đạo đức là đã có thể đạt được sự tôn trọng pháp luật, ý thức pháp luật và
tự khắc trên thực tế sẽ có được “sản phẩm phụ” là một công dân với ý thức chấp
hành pháp luật cao. Chính vì vậy giáo dục pháp luật không được đặt ra như một
hoạt động độc lập, dẫn đến việc chậm chạp trong việc đưa môn giáo dục pháp
luật vào giảng dạy trong các trường học.
Một quan điểm khác lại đồng nhất giáo dục pháp luật với hoạt động tuyên
truyền, phổ biến, giải thích pháp luật và giới thiệu các văn bản pháp luật. Theo
quan điểm này thì việc giáo dục pháp luật chẳng qua chỉ là công việc của các
phương tiện thông tin đại chúng, của các đợt tuyên truyền, giới thiệu các văn
bản pháp luật mới hoặc khi cần thiết.
Lại có quan điểm còn phủ nhận giáo dục pháp luật, cho rằng không có
khái niệm giáo dục pháp luật, bởi vì pháp luật là các qui tắc xử sự có tính bắt
buộc chung, mọi người phải có nghĩa vụ tuân thủ, giáo dục pháp luật thực chất
chỉ là phổ biến pháp luật và nội hàm của nó không bao hàm tuyên truyền, giải

thích pháp luật.
Có thể nói những quan niệm trên đều hiểu một cách phiến diện, giản đơn
về giáo dục pháp luật cũng như đã đánh giá thấp vai trò của giáo dục pháp luật,


7

chưa thấy được vai trò của giáo dục pháp luật trong đời sống xã hội, trong công
cuộc xây dựng, hội nhập và phát triển hiện nay. Vì vậy chưa đưa ra được một
khái niệm chính xác, khoa học, phản ánh đủ, đúng bản chất và vai trò của giáo
dục pháp luật.
Để xây dựng một khái niệm đúng đắn về giáo dục pháp luật, trước hết
phải xuất phát từ khái niệm giáo dục pháp luật. Theo Từ điển Tiếng việt thì: “
giáo dục là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát triển tinh
thần, thể chất của một đối tượng nào đó làm cho đối tượng ấy dần dần có được
những phẩm chất năng lực như yêu cầu đặt ra [ 27. tr.394].”
Khái niệm giáo dục pháp luật thường được hiểu ở hai cấp độ khác nhau:
Theo nghĩa rộng, giáo dục pháp luật là quá trình hình thành ý thức pháp luật
và văn hoá pháp lý của các thành viên xã hội, quá trình đó chịu sự tác động của
những điều kiện khách quan và nhân tố chủ quan, trong đó điều kiện khách quan (
chế độ chính trị, điều kiện kinh tế, văn hoá xã hội, môi trường sống...) là nhân tố
ảnh hưởng, nó có thể tác động tự phát theo chiều tích cực hoặc tiêu cực, còn nhân
tố chủ quan bao giờ cũng là sự tác động tự giác, tích cực, có ý thức, có chủ định
theo chiều hướng xác định nhằm đạt được mục đích của chủ thể tác động.
Theo nghĩa hẹp, giáo dục pháp luật là hoạt động có định hướng, có tổ
chức, có chủ định của cơ quan, tổ chức và cá nhân( chủ thể giáo dục) tác động
lên đối tượng giáo dục nhằm cung cấp tri thức pháp luật, bồi dưỡng tình cảm
pháp luật và thói quen tuân thủ pháp luật.
Trên cơ sở nghiên cứu khái niệm giáo dục pháp luật về cả nghĩa rộng và
nghĩa hẹp, tôi cho rằng, giáo dục pháp luật cần được hiểu theo nghĩa hẹp của

khái niệm giáo dục trong khoa học sư phạm, nghĩa là chỉ bao gồm tác động có
tính chất, chủ động, định hướng của nhân tố chủ quan lên đối tượng giáo dục. Sở
dĩ như vậy là vì:
Thứ nhất: Sự hình thành và phát triển ý thức con người là sản phẩm của
một quá trình ảnh hưởng, tác động đồng thời của các điều kiện khách quan và
nhân tố chủ quan. Các điều kiện khách quan như: chế độ chính trị, kinh tế, văn


8

hoá, môi trường có ảnh hưởng mạnh mẽ đến ý thức của con người, đến việc hình
thành và phát triển nhân cách con người. Sự thay đổi các điều kiện khách quan
có thể sẽ kéo theo sự thay đổi ý thức con người. Tuy nhiên sự tác động của nhân
tố chủ quan có ảnh hưởng rất lớn, nếu đặt trong những hoàn cảnh cụ thể nó có
tính chất quyết định đến sự hình thành và phát triển ý thức con người. Đó là
những hoạt động chủ động, có định hướng, có tổ chức, có mục đích do con
người thực hiện. Khi con người được cung cấp những tri thức khoa hoc, tri thức
về cuộc sống thì trong họ sẽ dần dần hình thành lòng tin, tình cảm từ đó họ sẽ tự
nhận thức đúng đắn và điều chỉnh hành vi của mình một cách phù hợp với đòi
hỏi của xã hội. Vì thế quá trình giáo dục phải được tiến hành một cách thường
xuyên, liên tục, có định hướng, có tổ chức chặt chẽ. Mặt khác cần giảm tối thiểu
những ảnh hưởng tiêu cực của yếu tố khách quan lên đối tượng giáo dục. Trong
điều kiện hiện nay hoạt động giáo dục pháp luật cần phải có nội dung, hình thức,
phương pháp phù hợp.
Thứ hai: giữa giáo dục pháp luật theo nghĩa hẹp với giáo dục nói chung có
mối quan hệ “cái riêng” và “cái chung”. Giáo dục pháp luật là “cái riêng” còn
giáo dục là “cái chung”, cái phổ biến. Từ mối quan hệ biện chứng giữa cái
chung và cái riêng này chúng ta rút ra được những đặc điểm chung cũng như
những đặc điểm riêng của giáo dục pháp luật. Là một bộ phận, một loại hình của
giáo dục, giáo dục pháp luật sử dụng các hình thức, phương pháp, phương tiện

của giáo dục nói chung, đồng thời nó còn có tính đặc thù về nội dung, phương
pháp, hình thức và phương tiện giáo dục. Nó có mối liên hệ chặt chẽ, tác động
qua lại với các loại hình giáo dục khác như: giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức,
chuyên môn nghiệp vụ...
Từ những phân tích trên có thể đưa ra khái niệm giáo dục pháp luật như sau:
giáo dục pháp luật là hoạt động có chủ định, có định hướng, có tổ chức của cơ
quan, tổ chức và cá nhân để cung cấp tri thức pháp luật, bồi dưỡng tình cảm cho
đối tượng giáo dục nhằm hình thành ở họ ý thức pháp luật, niềm tin pháp luật,
thói quen chấp hành và sử dụng pháp luật một cách tự giác, tích cực, chủ động.


9

Vậy là giáo dục pháp luật có ba mục đích :
- Mục đích cung cấp, từng bước làm sâu sắc và mở rộng hệ thống tri thức
pháp luật của công dân ( mục đích nhận thức).
- Mục đích hình thành tình cảm và niềm tin đối với pháp luật ( mục đích
cảm xúc).
- Giáo dục pháp luật nhằm hình thành động cơ, hành vi và thói quen xử sự
hợp pháp, tích cực của công dân ( mục đích hành vi).
* Chủ thể giáo dục pháp luật:
Trong giáo dục pháp luật, thì chủ thể giáo dục pháp luật là những cá nhân,
những tổ chức tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào công tác giáo dục pháp luật.
Có rất nhiều chủ thể tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào hoạt động giáo dục
pháp luật. Tuy nhiên, căn cứ vào sự liên quan giữa chức năng, nhiệm vụ hay
trách nhiệm pháp lý của các chủ thể giáo dục pháp luật với các mục đích của
giáo dục pháp luật thì chủ thể của giáo dục pháp luật thường được phân thành
hai loại là chủ thể chuyên nghiệp và chủ thể không chuyên nghiệp.
Chủ thể giáo dục pháp luật chuyên nghiệp là những người có chức năng,
nhiệm vụ hay trách nhiệm pháp lý chủ yếu, trực tiếp và thường xuyên thực hiện

các mục đích, nội dung của giáo dục pháp luật. Đây là những chủ thể quan trọng
và chủ yếu của giáo dục pháp luật. Những chủ thể chuyên nghiệp bao gồm các
tổ chức đảng, các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến cơ sở, các tổ chức chính
trị xã hội, hội đồng phổ biến giáo dục pháp luật các cấp, các tổ chức kinh tế, các
cơ sở đào tạo pháp luật, các báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật, các cộng
tác viên pháp luật…
Chủ thể của giáo dục pháp luật không chuyên nghiệp là những cá nhân, tổ
chức mà chức năng, nhiệm vụ chính của họ không phải là giáo dục pháp luật,
nhưng khi thông qua các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của mình như hoạt
động xét xử của toà án; hoạt động bào chữa, tư vấn của luật sư; hoạt động điều
tra, truy tố của cơ quan công an, viện kiểm sát nhân dân... đã góp phần quan
trọng vào việc thực hiện công tác giáo dục pháp luật. Nếu so sánh với các chủ


10

thể chuyên nghiệp thì các chủ thể không chuyên nghiệp mặc dù hiệu quả của
công tác giáo dục pháp luật không toàn diện, liên tục, không cao bằng các chủ
thể chuyên nghiệp. Tuy không có chức năng, nhiệm vụ giáo dục pháp luật,
nhưng các chủ thể không chuyên nghiệp cũng đóng một vai trò quan trọng trong
công tác giáo dục pháp luật và nó cùng với chủ thể chuyên nghiệp góp phần tích
cực tạo nên hiệu quả của công tác giáo dục pháp luật, đáp ứng được mục đích,
yêu cầu và nội dung của công tác giáo dục pháp luật hiện nay của nước ta. Các
chủ thể không chuyên nghiệp bao gồm: Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng
nhân dân các cấp, các luật sư, luật gia, cộng tác viên trợ giúp pháp lý, các cán bộ
trong các cơ quan tư pháp, cán bộ, đảng viên, công nhân viên chức nhà nước…
Ngoài ra, công dân cũng được coi là chủ thể của giáo dục pháp luật, vì
bằng sự hiểu biết pháp luật, bằng ý thức trách nhiệm công dân của mình và trước
hết là bằng sự gương mẫu thực hiện đúng, đầy đủ chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước và các quy định của địa phương thì mỗi công dân

cũng là tấm gương sáng cho mọi người học tập, noi theo; đồng thời họ vận động
người thân, người dân cùng xóm làng chấp hành nghiêm chỉnh .
Chủ thể của giáo dục pháp rất đa dạng, phong phú. Việc xác định các chủ
thể trong giáo dục pháp luật có ý nghĩa rất lớn trong việc đề cao trách nhiệm
của các tổ chức, cá nhân trong quá trình tham gia thực hiện nhiệm vụ giáo dục
pháp luật.
* Đối tượng giáo dục pháp luật:
Bản thân hoạt động giáo dục pháp luật hướng đến nhiều đối tượng khác
nhau với những mục đích cụ thể.
Đối tượng trong giáo dục pháp luật: là công dân được tiếp nhận trực tiếp
hoặc gián tiếp những tác động của các hoạt động giáo dục pháp luật do các chủ
thể giáo dục pháp luật tiến hành nhằm đạt mục đích giáo dục pháp luật đã đặt ra.
Đối tượng giáo dục pháp luật rất đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, dựa vào
các yếu tố như điều kiện đời sống vật chất, tinh thần, các yếu tố dân tộc, địa lý,
giới tính, lứa tuổi, học vấn, địa vị xã hội của mỗi công dân, dựa vào yêu cầu thực


11

tế của tình hình kinh tế, chính trị, xã hội và nhất là các chủ trương thực hiện phổ
biến, giáo dục pháp luật sâu rộng trong cán bộ, đảng viên, công chức, trong các
tầng lớp nhân dân lao động… theo tinh thần Chỉ thị số 32-CT/TW của Ban Bí
thư Trung ương Đảng (khoá IX) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của
cán bộ và nhân dân; Chỉ thị số 02/1998/CT-TTg và Quyết định số 03/1998/QĐTTg của Thủ tướng Chính phủ về triển khai công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
từ năm 1998 đến năm 2002; Quyết định số 13/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ về phê duyệt Chương trình phổ biến giáo dục pháp luật từ năm 2003 2007; Quyết định số 212/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt
Chương trình phổ biến giáo dục pháp luật và nâng cao ý thức chấp hành pháp
luật cho cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn từ năm 2005 - 2010 thì đối
tượng phổ biến, giáo dục được phân loại như sau:

 Đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật là công chức nhà nước
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X khẳng định: “Mỗi cán bộ,
viên chức nhà nước phải xác định rõ việc học tập, nghiên cứu để hiểu biết pháp
luật, thi hành nghiêm chỉnh pháp luật là trách nhiệm của mình. Cán bộ, viên
chức nhà nước phải là những người gương mẫu trong việc giữ gìn kỷ cương,
phép nước và góp phần thực hiện giáo dục pháp luật trong nhân dân”.
Loại đối tượng này có đặc điểm là theo chức năng, nhiệm vụ của mình họ
vẫn là đối tượng cần được phổ biến, giáo dục pháp luật tức là cần được trang bị
những hiểu biết cơ bản về hệ thống pháp luật chung và pháp luật chuyên ngành
về nguyên tắc hoạt động của bộ máy nhà nước và các chủ trương, chính sách của
Đảng… Đồng thời họ vừa là chủ thể phổ biến, giáo dục pháp luật trong quan hệ
với nhân dân bằng việc thông qua các công việc hàng ngày theo chức năng,
nhiệm vụ được phân công họ áp dụng các quy phạm pháp luật để giải quyết công
việc cụ thể, giải thích pháp luật cho đồng nghiệp, cho các đối tượng mà họ làm
việc, tiếp xúc, từ đó tác động lên tình cảm, lòng tin và cách ứng xử của đông đảo
quần chúng nhân dân lao động nơi họ sinh sống và làm việc.


12

 Đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật là chủ doanh nghiệp, người quản
lý, cán bộ công đoàn và người lao động
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, Nhà nước ta đã khẳng định địa vị
pháp lý bình đẳng cho các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Với sự
phát triển của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, các doanh
nghiệp thuộc tất cả các thành phần kinh tế không ngừng tăng lên. Đất nước ta
sau những năm đổi mới đã thu được những thành tựu quan trọng trên tất cả các
lĩnh vực kinh tế, văn hoá xã hội, quốc phòng an ninh, đối ngoại... những thành
tựu đó khẳng định có sự đóng góp không nhỏ của các doanh nghiệp. Tuy nhiên,
cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường với sự cạnh tranh mang tính chất

khốc liệt và quyết liệt đã làm cho nhiều doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, dẫn đến bị
phá sản do thiếu kiến thức pháp luật, đặc biệt là những luật về kinh tế. Vì vậy, phổ
biến, giáo dục pháp luật cho doanh nhiệp là xuất phát từ nhu cầu thiết thực của
các doanh nghiệp, của các nhà quản lý kinh doanh và của người lao động trong các
doanh nghiệp đó. Về nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật đối với chủ các
doanh nghiệp, ngoài việc phổ biến các kiến thức pháp luật phổ thông, họ phải
được phổ biến pháp luật chuyên ngành liên quan đến lĩnh vực quản lý, sản xuất
kinh doanh nhằm từng bước tạo cho họ thói quen kinh doanh trong khuôn khổ
pháp luật, chỉ kinh doanh những điều pháp luật không cấm, tránh cho họ những
thiệt hại đáng tiếc xảy ra do không hiểu biết pháp luật. Đối với những người lao
động trong các doanh nghiệp cần được phổ biến kiến thức về hợp đồng lao động,
kỷ luật lao động, bảo hiểm lao động, an toàn vệ sinh lao động, bảo hiểm xã hội,
trách nhiệm vật chất khi vi phạm kỷ luật lao động, thủ tục giải quyết tranh chấp
lao động, tổ chức hoạt động của công đoàn trong doanh nghiệp…
Mặt khác, để khắc phục tình trạng vi phạm pháp luật trong sản xuất kinh
doanh, ngoài việc phổ biến, giáo dục pháp luật cho các đối tượng trên, đòi hỏi
Nhà nước phải đổi mới việc xây dựng, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về kinh
doanh để pháp luật điều chỉnh đầy đủ trên tất cả các lĩnh vực nhằm tạo hành lang
pháp lý đầy đủ cho các doanh nghiệp trong sản xuất, kinh doanh.


13

 Đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật là học sinh, sinh viên
Học sinh, sinh viên là những công dân trẻ, là lực lượng nòng cốt trong
việc xây dựng đất nước và là chủ nhân tương lai của đất nước. Chính vì vậy,
Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm đến công tác phổ biến, giáo dục pháp
luật cho đối tượng này. Tuy nhiên, qua theo dõi, tìm hiểu và các số liệu thống kê
cho thấy, các đối tượng này sự nhận thức và hiểu biết pháp luật còn rất hạn chế,
dẫn đến một bộ phận học sinh, sinh viên mắc vào các tệ nạn xã hội, vi phạm

pháp luật. Vì vậy, với đối tượng này cần áp dụng bằng nhiều hình thức phổ biến,
giáo dục pháp luật và một trong những hình thức quan trọng có hiệu quả nhất là
giảng dạy pháp luật trong các nhà trường. Tuỳ theo từng cấp học, bậc học khác
nhau để xác định nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật cho phù hợp.
 Đối tượng phổ biến, giáo dục pháp luật là các tầng lớp nhân dân
Đây là đối tượng đông đảo nhất trong xã hội bao gồm phụ nữ, thanh niên,
nông dân, cựu chiến binh, đồng bào dân tộc, tôn giáo… Khi tiến hành phổ biến,
giáo dục pháp luật cho đối tượng này cần chú ý tới các đặc điểm về giới tính,
nghề nghiệp, nhu cầu tìm hiểu pháp luật, dân tộc, tôn giáo, địa bàn sinh sống.
Phải đặc biệt chú ý đến đồng bào dân tộc, tôn giáo, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc
biệt khó khăn. Về nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật cho đối tượng này cần
tập trung tuyên truyền, phổ biến pháp luật về quyền tự do dân chủ của công dân,
quyền tham gia quản lý nhà nước, quyền bầu cử, ứng cử, giám sát hoạt động của cơ
quan, công chức nhà nước, quyền lao động, tự do kinh doanh; giáo dục nghĩa vụ
phải tuân theo hiến pháp, pháp luật, nghĩa vụ bảo vệ tài sản của nhà nước, của
công dân, lợi ích của cộng đồng; nghĩa vụ đóng thuế và các quyền, nghĩa vụ cơ
bản của công dân… Ngoài ra, tuỳ từng nhóm đối tượng mà lựa chọn nội dung
phổ biến, giáo dục pháp luật cho phù hợp. Ví dụ như Quyết định số
212/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Chương trình phổ
biến, giáo dục pháp luật và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật cho cán bộ,
nhân dân ở xã, phường, thị trấn từ năm 2005 - 2010 thì đối tượng giáo dục pháp
luật là cán bộ, nhân dân ở xã, phường, thị trấn.


14

1.2. Nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục pháp luật
* Nội dung giáo dục pháp luật: là một thành tố quan trọng của quá trình
giáo dục pháp luật, nhằm truyền tải tri thức của nhân loại nói chung, của một
nhà nước về hai hiện tượng Nhà nước và pháp luật. Cung cấp một cách thường

xuyên, có hệ thống các loại thông tin về pháp luật và thực tiễn thi hành, bảo vệ
pháp luật. Qua đó bồi dưỡng cho các đối tượng giáo dục pháp luật những nhận
thức, tính chất đúng đằn, lòng tin vào pháp luật, rèn luyện khả năng sử dụng
những tri thức đó để phân tích, phê phán, lý giải một cách có căn cứ khoa học về
những vấn đề thực tiễn, làm cơ sở định hướng và lựa chọn cách xử sự phù hợp
trong những hoàn cảnh cụ thể.
Do đó, xác định đúng nội dung giáo dục pháp luật sẽ bảo đảm cho hoạt
động này diễn ra có chất lượng, tạo sự chuyển biến tích cực về nhận thức, thái
độ và hành vi của các đối tượng được giáo dục pháp luật.
* Hình thức giáo dục pháp luật:
- Cơ sở để triển khai các hình thức giáo dục pháp luật
Giáo dục pháp luật được hiểu là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có
chủ định nhằm đạt mục đích hình thành ở đối tượng được tác động tri thức pháp
lý, tình cảm và hành vi phù hợp với đòi hòi của hệ thống pháp luật hiện hành,
góp phần nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý xã hội và nâng
cao trình độ văn hoá pháp lý của công dân.
Hình thức giáo dục pháp luật là cách thức tổ chức hoạt động giáo dục
pháp luật, cách tiến hành một hoạt động cụ thể để đạt được mục đích hình thành
ở đối tượng tình cảm, tri thức và hành vi pháp lý phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi
của pháp luật.
Xét theo quan điểm triết học về mối quan hệ giữa nội dung và hình thức,
hình thức giáo dục pháp luật giữ vai trò hỗ trợ hoặc tác động trở lại đối với kết
quả chung của hoạt động giáo dục pháp luật. Nếu nội dung pháp luật phù hợp,
thiết thực, dễ hiểu, gần gũi nhưng hình thức tổ chức mờ nhạt, thiếu sáng tạo, xa
rời thực tiễn thì tất yếu sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả giáo dục pháp luật.


15

Vì lẽ đó, hoạt động giáo dục pháp luật luôn được xã hội (Nhà nước, tổ

chức, công dân) quan tâm ở cả nội dung và hình thức phổ biến, truyền tải pháp
luật, thông tin pháp lý để đối tượng được tác động hình thành được thói quen,
tình cảm đối với pháp luật và có hành vi xử sự phù hợp, có ý thức chấp hành,
tuân thủ pháp luật.
Ngày 7/12/1982, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng đã ban hành Chỉ thị số
315/CT về việc đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật đã xác định:
Hình thức tuyên truyền cần phong phú, hấp dẫn, thích hợp với từng loại đối
tượng. Cần sử dụng rộng rãi báo chí, phát thanh, truyền hình và các hình thức
văn hoá, nghệ thuật khác để phổ biến pháp luật. Báo chí, đài phát thanh, truyền
hình chú ý thường xuyên có mục tuyên truyền giáo dục pháp luật bằng các hình
thức nói chuyện, giải đáp pháp luật, biểu dương người tốt, việc tốt, phê phán
những hiện tượng vi phạm pháp luật. Trong các bài báo như tin tức, mẩu
chuyện, bình luận, xã luận… cần có ý thức phân tích khía cạnh pháp lý của vấn
đề, qua đó mà giáo dục ý thức pháp luật cho người đọc. Xuất bản sách phổ
thông giới thiệu văn bản pháp luật của nhà nước. Xây dựng chương trình, biên
soạn tài liệu để đưa giáo dục pháp luật vào các trường học. Tiếp đó, Chỉ thị số
300/CT ngày 22/10/1987 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng về một số công tác
trước mắt nhằm tăng cường quản lý Nhà nước bằng pháp luật đề ra yêu cầu:
Triển khai mạnh mẽ công tác tuyên truyền và giáo dục pháp luật, huy động lực
lượng của các đoàn thể chính trị, xã hội, nghề nghiệp, các phương tiện thông tin
đại chúng tham gia vào đợt vận động thiết lập trật tự kỷ cương và các hoạt động
thường xuyên xây dựng nếp sống và làm việc theo pháp luật trong các cơ quan
Nhà nước và trong xã hội”.
Trong Chỉ thị số 02/1998/CT-TTg ngày 07/01/1998 của Thủ tướng Chính
phủ về việc tăng cường công tác phổ biến, giáo dục pháp luật trong giai đoạn
hiện nay và Quyết định số 03/1998/QĐ-TTg đã chỉ rõ “chú trọng hình thức
tuyên truyền miệng trong việc phổ biến, triển khai thực hiện các văn bản pháp
luật cần thiết cho từng đối tượng, nhất là cán bộ chính quyền cấp cơ sở, các tầng



16

lớp nhân dân” và “xác định rõ các biện pháp phổ biến, giáo dục pháp luật cho
từng đối tượng như tuyên truyền miệng, biên soạn tài liệu, các phương tiện
thông tin đại chúng…
Ngày 17/1/2003, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số
13/2003/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm
2003 đến năm 2007 trong đó dành một mục lớn (mục II) quy định các hình thức,
biện pháp phổ biến, giáo dục pháp luật chủ yếu. Thông tư số 01/2003/TT-BTP
ngày 14/3/2003 quy định một số hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật như
phương tiện thông tin đại chúng, hệ thống loa truyền thanh cơ sở, tủ sách pháp
luật, biên soạn tài liệu pháp luật, cuộc thi tìm hiểu pháp luật, câu lạc bộ pháp
luật, tư vấn pháp luật, trợ giúp pháp lý, giáo dục pháp luật trong nhà trường.
Ngày 12/3/2008 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
37/2008/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình phổ biến, giáo dục pháp luật từ năm
2008 đến năm 2012, trong đó đề ra “Đổi mới, nâng cao hiệu quả các hình thức,
biện pháp phổ biến, giáo dục pháp luật hiện có; triển khai trên diện rộng những
hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật mới đang phát huy hiệu quả trên thực
tế…” Gần đây nhất, luật phổ biến, giáo dục pháp luật được Quốc hội nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 20/6
/2012, và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2013. Đây là văn bản có giá trị đặc
biệt, là cơ sở pháp lý để công tác phổ biến, giáo dục pháp luật có điều kiện đi
sâu vào thực tiễn đời sống xã hội. Đổng thời nhận thức về pháp luật của nhân
dân sẽ được nâng cao thêm một bước, qua đó pháp luật thật sự sẽ là người bạn
tốt, đáng tin cậy của người dân Việt Nam.
* Hình thức giáo dục pháp luật:
Mục đích và nội dung của hoạt động giáo dục pháp luật không thể tự thân
đi vào nhận thức, tình cảm của người được giáo dục pháp luật, mà phải thông
qua những kênh truyền tải thông tin, là các dạng hoạt động cụ thể để triển khai,
tổ chức quá trình giáo dục pháp luật, thể hiện nội dung hoạt động giáo dục

pháp luật.


17

Các dạng hoạt động cụ thể đó phải phù hợp với khả năng tiếp cận của đối
tượng. Do đó, hiệu quả của hoạt động giáo dục pháp luật không chỉ phụ thuộc
vào việc xác định đúng mục đích, nội dung giáo dục pháp luật mà còn phụ thuộc
vào việc xác định đúng hình thức của giáo dục pháp luật.
Trong đó, hình thức nói chung là “cái bên ngoài, cái chứa đựng nội dung”,
là “ cách thức tiến hành” một việc, một hoạt động nào đó [ 27.tr.809]. Theo cách
hiểu này, hình thức giáo dục pháp luật chính là cách thức tổ chức thực hiện mà
thông qua đó chủ thể giáo dục pháp luật tiến hành hoạt động giáo dục pháp luật,
cung cấp tri thức pháp lý cho các đối tượng xác định nhằm đạt được mục đích
như mong muốn.
Trên thực tế công tác giáo dục pháp luật có rất nhiều cách thức để tiến
hành, hay nói cách khác đây là hình thức hết sức phong phú, đa dạng.
Có thể chia hình thức giáo dục pháp luật làm 2 loại:
Hình thức giáo dục mang tính phổ biến truyền thống : Hình thức này bao
gồm : Phổ biến nói chuyện pháp luật tại các cơ quan nhà nước, các tổ chức quần
chúng, tại các địa bàn dân cư, tổ chức các đội tuyên truyền cổ động, các cuộc thi
tìm hiểu pháp luật…giáo dục pháp luật trong các nhà trường, trong các cơ sở
đào tạo chuyên luật hoặc không chuyên luật.
Hình thức giáo dục pháp luật đặc thù: đó là việc định hướng mục đích
giáo dục pháp luật thông qua các hoạt động lập pháp hành pháp và tư pháp. Hình
thức này chủ yếu do cán bộ công chức nhà nước thực hiện, với vai trò chủ đạo
của các luật gia làm việc trong các cơ cấu tổ chức đó.
* Phương pháp giáo dục pháp luật:
Phương pháp, theo nghĩa chung nhất, đó là “cách thức nhận thức, nghiên
cứu hiện tượng của tự nhiên và đời sống xã hội”, là“ hệ thống các cách sử dụng

để tiến hành một hoạt động nào đó”.[ 27, tr. 93]. Như vậy, phương pháp giáo
dục pháp luật có thể hiểu là tổng thể cách thức, biện pháp mà chủ thể giáo dục
sử dụng để tác động lên đối tượng nhằm cung cấp tri thức pháp luật, tình cảm
pháp luật và thói quen, hành vi chấp hành pháp luật. Phương pháp giáo dục pháp


18

luật là một thành tố quan trọng của quá trình giáo dục, vì đây là cách thức mà
chủ thể giáo dục sử dụng để tác động lên đối tượng giáo dục. Nếu cách thức mà
chủ thể sử dụng phù hợp với đối tượng thì sẽ đạt được mục đích, nâng cao được
hiệu quả giáo dục và ngược lại.
Phương pháp giáo dục pháp luật hiện nay rất đa dạng như phương pháp
giáo dục thuyết phục, phương pháp tranh luận, phương pháp nêu gương, phương
pháp rèn luyện, phương pháp xử lý tình huống, phương pháp thi đua, phương
pháp bắt buộc xử phạt...Mỗi một phương pháp đều có vị trí, vai trò nhất định, có
ưu có nhược và có mối quan hệ tác động qua lại bổ sung lẫn nhau. Chính vì thế,
khi sử dụng các phương pháp phải căn cứ vào đối tượng, nội dung chương trình
giáo dục pháp luật để lựa chọn sử dụng các phương pháp cho phù hợp; nếu tuyệt
đối hoá hoặc hạ thấp một phương pháp nào thì đều sẽ ảnh hưởng tới chất lượng
của hoạt động giáo dục pháp luật.
1.3 Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức cấp huyện.
1.3.1. Khái niệm giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức cấp huyện
Khái niệm Cán bộ, công chức là những thuật ngữ cơ bản của chế độ công
vụ, công chức, thường xuyên xuất hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trong khoa học hành chính, theo các cách tiếp cận khác nhau, người ta đã đưa ra
nhiều cách giải thích khác nhau về thuật ngữ “ cán bộ”, “ công chức” . Tuy
nhiên, xác định cụ thể ai với những tiêu chí nào là cán bộ, là công chức thì chỉ
đến khi có Luật cán bộ, công chức năm 2008 mới được quy định chính thức.
Theo khoản 1 Điều 4 của Luật Cán bộ, công chức qui định thì:

Cán bộ là công dân Việt Nam, được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, ở tỉnh, thành phố trực thuộc
trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở huyện, quận, thị xã, thành phố
thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện), trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước.


19

Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch,
chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ
chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị
thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp,
công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không
phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của
đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức
chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên
chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy
lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được bảo đảm từ quỹ
lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật.
Xuất phát từ định nghĩa giáo dục pháp luật nói chung mà chúng ta đã đề
cập và phân tích ở trên, cùng với tính đặc thù về đối tượng, thì có thể hiểu giáo
dục pháp luật cho cán bộ, công chức cấp huyện là hoạt động có định hướng, có
tổ chức, thông qua các phương pháp đặc thù và bằng nhiều hình thức khác
nhau, hướng tới cung cấp, trang bị cho cán bộ, công chức chính quyền cấp
huyện những tri thức, hiểu biết về các vấn đề pháp luật nói chung, về các vấn đề
pháp luật cụ thể liên quan đến hoạt động công vụ nói riêng, nhằm làm hình
thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm pháp luật và hành vi phù hợp với những
yêu cầu, đòi hỏi của hệ thống pháp luật hiện hành.

1.3.2 Đặc điểm, nội dung, hình thức, phương pháp giáo dục pháp luật
cho cán bộ, công chức cấp huyện
* Đặc điểm của giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức cấp huyện
Giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức là một bộ phận cấu thành giáo
dục pháp luật nói chung, nghĩa là nó cũng phải tuân theo các quy luật chung của
quá trình giáo dục pháp luật, phải đáp ứng các yêu cầu về chủ thể, khách thể, về
nội dung, phương pháp và hình thức tổ chức của quá trình này. Bên cạnh đó,
giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức cũng có những đặc điểm riêng xuất
phát từ những nét đặc thù về vị trí công tác, tiêu chuẩn chuyên môn và chức
năng của họ trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.


20

Thứ nhất, giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức đòi hỏi tính chuyên
ngành, chuyên nghiệp cao cả trên phương diện chủ thể giáo dục pháp luật và
nội dung giáo dục pháp luât. Cán bộ, công chức là những người đang làm việc
trong các cơ quan thuộc bộ máy hành chính nhà nước nên họ rất cần đến kiến
thức pháp luật. Bởi vì, trong nhà nước pháp quyền, pháp luật có một vị trí độc
tôn, đòi hỏi mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân, ngay cả Nhà nước - người ban hành
pháp luật - cũng phải đặt mình dưới sự tác động, điều chỉnh của pháp luật. Điều
đó có nghĩa, cán bộ, công chức phải gương mẫu, đi đầu trong “sống, làm việc
theo pháp luật”. Do đó, ngoài kiến thức chuyên môn, họ rất cần được trang bị
kiến thức, hiểu biết pháp luật, nhất là kiến thức pháp luật chuyên ngành. Nhận
định về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: “Cán bộ là những người
đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi
hành. Đồng thời, cán bộ đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho
Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách đúng, vì vậy, cán bộ là cái gốc của mọi
công việc”
Để thực hiện tốt nhiệm vụ công vụ được giao, cán bộ, công chức trước hết

phải có sự hiểu biết, chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, phải thi hành nhiệm vụ, công vụ theo đúng
quy định của pháp luật. Cán bộ, công chức chịu trách nhiệm trước pháp luật về
việc thi hành nhiệm vụ, công vụ của mình. Cán bộ, công chức giữ chức vụ lãnh
đạo còn phải chịu trách nhiệm về việc thi hành công vụ của cán bộ, công chức
thuộc quyền quản lý của mình theo quy định của pháp luật. Vì vậy, nội dung
giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức phải là những kiến thức pháp luật có
tính hệ thống và tính chuyên ngành, chuyên nghiệp cao.
Từ yêu cầu cao về mặt nội dung tri thức pháp luật trang bị cho cán bộ, công
chức, chủ thể giáo dục pháp luật cũng đòi hỏi phải có trình độ cao về pháp luật
và kỹ năng sư phạm tốt. Nói cách khác, chủ thể giáo dục pháp luật cho cán bộ,
công chức phải là những nhà giáo dục pháp luật chuyên nghiệp.


21

Thứ hai, giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức đòi hỏi phải có sự lựa
chọn, phân loại cụ thể, hợp lý về đối tượng tiếp nhận giáo dục pháp luật. Như
đã phân tích ở trên, nhu cầu giải quyết các công việc chuyên môn đòi hỏi cán bộ,
công chức phải có trình độ kiến thức pháp luật chuyên ngành cao. Tuy nhiên,
theo phân cấp hành chính hiện nay, cán bộ, công chức ở nước ta đang đảm
nhiệm công việc tại bốn cấp: cấp trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp cơ sở
(xã, phường, thị trấn) với các chức năng, nhiệm vụ khác nhau và thuộc các
ngành, các lĩnh vực khác nhau. Ở mỗi cấp, mỗi lĩnh vực lại có những yêu cầu và
văn bản pháp luật điều chỉnh, quy định phạm vi, chức năng, nhiệm vụ riêng.
Chính vì vậy, nhu cầu đào tạo, bồi dưỡng, giáo dục pháp luật cho cán bộ, công
chức ở mỗi cấp, mỗi ngành cũng đa dạng và khác nhau. Chẳng hạn, nhu cầu
thông tin, kiến thức pháp luật của cán bộ, công chức cấp xã khác với nhu cầu
thông tin, kiến thức pháp luật của cán bộ, công chức cấp huyện và cấp tỉnh; nhu
cầu về thông tin pháp luật cho cán bộ, công chức ngành văn hóa - thông tin chắc

chắn khác nhiều so với nhu cầu thông tin pháp luật cho cán bộ, công chức ngành
tư pháp hay địa chính...
Bên cạnh đó, vấn đề trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật của các đối
tượng tiếp nhận giáo dục pháp luật cũng khác nhau. Có những cán bộ, công
chức đã có trình độ cử nhân luật, cử nhân hành chính trước khi trở thành cán bộ,
công chức nên nhu cầu thông tin pháp luật của họ khác với nhu cầu của những
người chưa được đào tạo chính quy, bài bản hoặc hiện giờ mới đang tham gia
các khóa giáo dục, đào tạo pháp luật. Tính chất nông - sâu, rộng - hẹp trong
truyền đạt nội dung pháp luật cho mỗi nhóm đối tượng cũng khác nhau.
Chính vì vậy, việc sàng lọc, lựa chọn, phân loại các đối tượng tiếp nhận
giáo dục pháp luật theo cấp, theo ngành, theo năng lực, trình độ và nhu cầu
thông tin của mỗi nhóm đối tượng là vấn đề hết sức quan trọng trong tổ chức
hoạt động giáo dục pháp luật cho cán bộ, công chức nhằm gia tăng hiệu quả của
hoạt động này, thực hiện phương châm “trang bị cái mà đối tượng của giáo dục
pháp luật cần chứ không phải trang bị cái mà nhà giáo dục pháp luật có”.


×