Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Những quy định của pháp luật về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc trong BLDS 2005 thực trạng và giải pháp hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (809.6 KB, 88 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ NGỌC MAI

NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI THỪA KẾ
KHÔNG PHỤ THUỘC VÀO NỘI DUNG DI CHÚC TRONG BLDS
2005 – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. Phùng Trung Tập

HÀ NỘI - 2013


LỜI CẢM ƠN
Trước hết tôi xin được bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc nhất tới thầy giáo –
PGS. TS Phùng Trung Tập, người đã tận tình hướng dẫn và chỉ bảo tôi trong
suốt quá trình thực hiện luận văn này.
Xin cùng bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy cô giáo Trường Đại
học Luật Hà Nội, người đã đem lại cho tôi những kiến thức bổ trợ, vô cùng có
ích trong những năm học vừa qua.
Cũng xin gửi lời cám ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, Khoa sau đại học,


Khoa pháp luật Dân sự, Đại học Luật Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi trong quá
trình học tập.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cám ơn đến gia đình, bạn bè, những người đã
luôn bên tôi, động viên và khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện đề tài
nghiên cứu của mình.
Xin chân thành cảm ơn./.
Học viên
Nguyễn Thị Ngọc Mai

Hà Nội, ngày 24 tháng 05 năm 2013


MỤC LỤC
1
LỜI NÓI ĐẦU
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGƯỜI THỪA KẾ VÀ NGƯỜI THỪA KẾ
KHÔNG PHỤ THUỘC VÀO NỘI DUNG CỦA DI CHÚC

5

1.1

Khái niệm chung về người thừa kế

5

1.1.1

Khái niệm người thừa kế


5

1.1.2

Điều kiện của người thừa kế

10

1.2

Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc

13

1.2.1

Khái niệm

13

1.2.2

Căn cứ xác định người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc

16

1.3

Sơ lược lịch sử phát triển các quy định của pháp luật về người thừa kế

không phụ thuộc vào nội dung của di chúc

18

1.3.1

Giai đoạn trước khi ban hành pháp lệnh thừa kế năm 1990

18

1.3.2

Giai đoạn từ năm 1990 đến nay

20

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

23

Chương 2
NGƯỜI THỪA KẾ KHÔNG PHỤ THUỘC VÀO NỘI DUNG CỦA DI
CHÚC THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT DÂN SỰ HIỆN HÀNH

24

24

2.1.1


Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc trong mối quan
hệ với người để lại di sản
Xác định theo quan hệ hôn nhân

2.1.2

Xác định theo quan hệ huyết thống

26

2.1.3

Xác định theo quan hệ nuôi dưỡng

30

2.2

Điều kiện của người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc

32

2.2.1

Không được người để lại di chúc cho hưởng di sản hoặc cho hưởng nhưng
ít hơn hai phần ba một suất thừa kế theo pháp luật

33

2.1


24


2.2.2

Không thuộc trường hợp là người thừa kế từ chối nhận theo Điều 642
BLDS và bị tước quyền hưởng di sản theo khoản 1 Điều 643 BLDS

36

2.3

Phần di sản mà người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc
được hưởng

48

2.3.1

Cách xác định hai phần ba một suất thừa kế theo pháp luật

48

2.3.2

Những trường hợp người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di
chúc được hưởng hai phần ba của một suất thừa kế theo pháp luật

58


KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

63

3.1

Chương 3
THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ NGƯỜI THỪA KẾ
KHÔNG PHỤ THUỘC VÀO NỘI DUNG CỦA DI CHÚC
VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật về người thừa kế không
phụ thuộc vào nội dung của di chúc

64

64

3.2

Kiến nghị hoàn thiện pháp luật

73

3.2.1

Hoàn thiện các quy định pháp luật về thừa kế liên quan

73


3.2.2

Hoàn thiện quy định của pháp luật về người thừa kế không phụ thuộc vào
nội dung của di chúc

76

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

80
81
82


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLDS:

Bộ luật Dân sự

BLHS:

Bộ luật Hình sự

Luật HN & GĐ: Luật Hôn nhân và Gia đình


1


LỜI NÓI ĐẦU
1.Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, các quan
hệ pháp luật, quan hệ xã hội theo đó cũng phát triển…trong đó phải kể đến là sự mở
rộng của các quan hệ thừa kế, bởi lẽ trong bất kỳ chế độ xã hội có giai cấp nào, vấn đề
thừa kế cũng có vị trí quan trọng trong các chế định pháp luật nói chung và bản thân
chế định này cũng phản ánh trở lại bản chất của chế độ xã hộ đó. Ở nước ta, pháp luật
về thừa kế được quy định khá sớm ngay từ các Bộ luật cổ như Bộ luật Hồng Đức (năm
1483), Bộ luật Gia Long (năm 1815), cũng đã có quy định về vấn đề này. Cho đến
thời kỳ Pháp thuộc có Bộ dân Luật Bắc Kì 1931 và Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật năm
1936, sau này thừa kế được phát triển và ghi nhận qua các bản Hiến pháp của nước ta,
Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992. Từ việc được ghi
nhận ở các bản Hiến pháp, với tư cách là Đạo luật cơ bản, Luật mẹ đã làm cơ sở cho
việc ghi nhận thừa kế với tư cách là một chế định độc lập trong BLDS năm 1995, đánh
dấu một bước phát triển của pháp luật nước ta về thừa kế. Hiện nay, BLDS năm 2005
tiếp tục kế thừa và bổ sung thêm các quy định của BLDS năm 1995 về vấn đề thừa kế.
Đây là cơ sở pháp lý quan trọng cho quá trình áp dụng cũng như giải quyết các vấn đề
về thừa kế của các Tòa án.Tuy nhiên, do sự phát triển ngày càng mạnh mẽ và mở rộng
của các quan hệ xã hội mà pháp luật không thể dự liệu hết được các tình huống có thể
xảy ra. Từ đó dẫn đến tồn tại nhiều vụ việc phức tạp, các tranh chấp về thừa kế xảy ra
nhiều trên thực tế nhưng các quy định của pháp luật về vấn đề này lại chưa được hoàn
thiện, đồng bộ để làm cơ sở giải quyết, khiến các Tòa án gặp rất nhiều khó khăn trong
công tác xét xử của mình.
Những vướng mắc, bất cập của pháp luật về thừa kế chủ yếu diễn ra xung
quanh các vấn đề xác định di sản thừa kế, xác định người thừa kế theo di chúc, theo
pháp luật , người thừa không có quyền hưởng di sản...Một trong những khó khăn,
vướng mắc điển hình là những tranh chấp liên quan đến người thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung của di chúc. Vấn đề này mặc dù đã được quy định trong BLDS
nhưng những quy định này còn quá chung chung khiến việc áp dụng giải quyết gặp rất
nhiều khó khăn, việc giải quyết của các Tòa án về vấn đề này chưa được “thấu tình đạt

lý”. Từ những thực trạng trên và đồng thời nhận thức được tầm quan trọng của pháp


2

luật thừa kế trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay, việc lựa chọn
đề tài
“Những quy định của pháp luật về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung
của di chúc trong BLDS năm 2005 – Thực trạng và giải pháp hoàn thiện” làm
luận văn thạc sĩ để có thể nghiên cứu một cách khái quát đầy đủ về vấn đề này là một
việc làm cần thiết đáp ứng được yêu cầu về tính cấp thiết trong lý luận cũng như trong
thực tiễn thi hành, áp dụng pháp luật.
2.Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong một số công trình nghiên cứu về những vấn đề trong chế định quyền thừa
kế từ trước tới nay như: Khóa luận tốt nghiệp, Luận văn Thạc sĩ, Luận án Tiến sỹ, một
số bài viết trên các Tạp chí Luật học, Tạp chí Tòa án, Tạp chí Dân chủ và pháp luật và
một số các sách chuyên khảo về thừa kế...cũng có đề cập đến một số vấn đề liên quan
đến người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc. Cụ thể, Phạm Văn
Tuyết “Xung quanh việc xác định hai phần ba suất của một người thừa kế theo luật”,
Tạp chí Luật học số 2, (1996); Trần Thị Huệ “Bàn về việc xác định hai phần ba suất
của một người thừa kế theo pháp luật”, Tạp chí Luật học số 2, (1998). Trong hai bài
viết này tác giả Phạm Văn Tuyết và Trần Thị Huệ đã đưa ra các quan điểm và lập luận
riêng trong việc xác định phần di sản mà người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung
của di chúc được nhận. Là những bài nghiên cứu đầu tiên về vấn đề này, do đó việc
nghiên cứu của các tác giả mới chỉ dừng lại ở một khía cạnh của vấn đề này mà chưa
đi vào nghiên cứu một cách sâu rộng về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung
của di chúc. Tiếp đến là một số sách chuyên khảo của các tác giả, TS. Nguyễn Ngọc
Điện (1999), Một số suy nghĩ về thừa kế trong Luật dân sự Việt Nam, Nxb. Trẻ; TS.
Phạm Văn Tuyết (2007), Thừa kế - Quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng, Nxb.
Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội; TS. Phùng Trung Tập (2008), Pháp luật thừa kế Việt

Nam, Nxb. Hà Nội; TS. Nguyễn Minh Tuấn (2009), Pháp luật thừa kế Việt Nam –
Những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb. Lao động – xã hội, Hà Nội…cùng nhiều đề tài
khoa học, bài viết khác. Tuy nhiên, trong các công trình này, các tác giả mới chỉ dừng
lại ở việc nghiên cứu chung về thừa kế còn đối với vấn đề người thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung của di chúc mới chỉ dừng lại ở việc đề cập dưới dạng các mục nhỏ
trong các công trình nghiên cứu trên. Chưa thực sự khái quát đầy đủ các vấn đề về
người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc.


3

Như vậy, có thể xem luận văn này như một tài liệu chuyên khảo nghiên cứu
một cách độc lập, hệ thống về vấn đề người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của
di chúc trong BLDS hiện hành.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Đề tài tập trung vào nghiên cứu các quy định của pháp luật trong BLDS năm
2005 và các văn bản pháp luật khác có liên quan như: Luật HN & GĐ năm 2000,
BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009…để làm rõ các vấn đề xung quanh người
thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc để từ đó có cái nhìn tổng quát về
vấn đề này đồng thời luận văn đi vào phân tích thực trạng của các quy định trong
BLDS năm 2005 trong việc giải quyết các tranh chấp về thừa kế có liên quan đến
người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc của Tòa án, từ đó đưa ra
những kết luận nhất định.
4. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
- Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm rõ các quy định của pháp luật hiện hành về
vấn đề này, trên cơ sở phân tích đánh giá các quy định hiện hành làm rõ phạm vi người
thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc, phần di sản mà họ được hưởng.
Trên cơ sở nghiên cứu đề xuất hướng sửa đổi, bổ sung các quy định về người thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung của di chúc.
- Nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài là xây dựng được khái niệm về người

thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc, căn cứ xác định người thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung của di chúc, phân tích, lập luận để có thể xác định được
phạm vi người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc, cách xác định phần
di sản mà họ được hưởng. Từ những phân tích, lập luận này đưa ra các kiến nghị cụ
thể để hoàn thiện pháp luật về vấn đề này.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện việc nghiên cứu có hiệu quả đề tài này, việc nghiên cứu được thực
hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà
nước và Pháp luật và quan điểm của Đảng về quản lý Nhà nước, quản lý xã hội cũng
như chủ trương, quan điểm về việc xây dựng Bộ luật Dân sự
Luận văn đã vận dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử trong
quá trình nghiên cứu. Với phương pháp này luận văn được xem xét trong sự vận động
và phát triển của các quy định của pháp luật về thừa kế nói chung và thừa kế không


4

phụ thuộc vào nội dung của di chúc nói riêng. Để từ đó có thể tham khảo, kế thừa một
cách có chọn lọc các quan điểm, nhận định của các nhà khoa học, các nhà luật
học…về vấn đề người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc qua đó xây
dựng được những cách hiểu thống nhất, khái quát về vấn đề này. Ngoài ra, luận văn
còn kết hợp sử dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, lịch sử, logic…
nhằm làm sáng tỏ các vấn đề trong nội dung của luận văn.
6. Đóng góp của Luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu khoa học, có tính hệ thống và tương đối toàn
diện về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc
Trong nội dung của luận văn có những điểm mới sau đây:
- Xây dựng được khái niệm người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di
chúc, xác định được quan hệ giữa người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di
chúc với người thừa kế theo pháp luật và người thừa kế theo di chúc. Luận văn đưa ra

được các căn cứ xác định người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc
cũng như phạm vi những những người này đồng thời đưa ra cách xác định về phần di
sản mà họ được hưởng.
- Luận văn trên cơ sở phân tích các quy định hiện hành về thừa kế và thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung của di chúc đã đưa ra được các kiến nghị cụ thể nhằm
bổ sung và hoàn thiện các quy định về thừa kế liên quan và quy định về người thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung của di chúc. Những kiến nghị mà luận văn đưa ra hoàn
toàn dựa trên các cơ sở khoa học các quan điểm, đánh giá của các nhà khoa học cũng
như các nhà luật học về vấn đề liên quan nhằm góp phần giải quyết những bất cập, hạn
chế của pháp luật và nâng cao hiệu quả giải quyết các tranh chấp về thừa kế.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được cơ
cấu gồm ba chương
Chương 1: Lý luận chung về người thừa kế và người thừa kế không phụ thuộc
vào nội dung của di chúc
Chương 2: Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc theo quy
định của pháp luật Dân sự hiện hành
Chương 3: Thực trạng áp dụng pháp luật về người thừa kế không phụ thuộc vào
nội dung của di chúc và kiến nghị hoàn thiện.


5

Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGƯỜI THỪA KẾ VÀ NGƯỜI THỪA KẾ KHÔNG
PHỤ THUỘC VÀO NỘI DUNG CỦA DI CHÚC
1.1 Khái niệm chung về người thừa kế
1.1.1 Khái niệm người thừa kế
Trong bất kì một chế độ xã hội nào, con người muốn tồn tại và phát triển được
đều cần có những cơ sở vật chất nhất định. Nói cách khác, con người với tư cách là

một thực thể xã hội, con người không thể sống và phát triển khi không có tài sản. Tài
sản là phương tiện sống của con người, hàng ngày con người khai thác công dụng của
tài sản để thỏa mãn cho những nhu cầu của mình, ăn, mặc, ở, sinh hoạt, đi lại …Khi
chết, tài sản còn lại của họ được dịch chuyển cho người còn sống khác. Khi nhà nước
xuất hiện, bằng pháp luật, Nhà nước tác động đến quá trình dịch chuyển tài sản nói
trên, trong đó, quyền để lại di sản cũng như quyền hưởng di sản của các chủ thể được
Nhà nước ghi nhận và đảm bảo thực hiện bằng pháp luật, từ đó quá trình dịch chuyển
di sản được gọi là quyền thừa kế. Trong quá trình dịch chuyển đó, người chết có tài
sản để lại được gọi là người để lại di sản thừa kế, người được hưởng di sản từ quá trình
dịch chuyển trên, gọi là người thừa kế.
Theo quy định của pháp luật Dân sự Việt Nam hiện hành thì người thừa kế bao
gồm người thừa kế theo di chúc và người thừa kế theo pháp luật. Sở dĩ, có sự phân
chia thành hai loại thừa kế trên là dựa trên cơ sở xác định người thừa kế được hưởng di
sản thừa kế bằng cách thức dịch chuyển nào. Nếu quá trình dịch chuyển này được thực
hiện dựa trên ý chí của người đã chết thể hiện trong nội dung của di chúc mà họ để lại,
được gọi là: Thừa kế theo di chúc và người được hưởng di sản thừa kế bằng hình
thức dịch chuyển này sẽ được gọi là người thừa kế theo di chúc. Ngược lại, sự dịch
chuyển trên được thực hiện “Theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp
luật qui định” (Điều 674 BLDS năm 2005) sẽ được gọi là: Thừa kế theo pháp luật và
người được hưởng di sản thừa kế trong trường hợp này là người thừa kế theo pháp
luật.
Vậy hiểu thế nào là người thừa kế theo di chúc và thế nào là người thừa kế theo
pháp luật?
1.1.1.1.Người thừa kế theo di chúc


6

Nguyên tắc tôn trọng ý chí của người có quyền thừa kế là một trong những
nguyên tắc quan trọng và đặc trưng trong chế định quyền thừa kế.

Theo đó cá nhân với tư cách là chủ sở hữu đối với tài sản hợp pháp của mình
sẽ có đầy đủ các quyền năng của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật (Điều 164
BLDS năm 2005), trong đó có quyền định đoạt tài sản, quyền để lại tài sản của cá nhân
sau khi chết thông qua di chúc chính là sự cụ thể hóa của quyền định đoạt đối với tài
sản của chủ sở hữu. Theo quy định của BLDS năm 2005 về chế định quyền sở hữu,
quyền sở hữu đối với tài sản của cá nhân là một quan hệ pháp luật dân sự tuyệt đối. Vì
vậy, khi còn sống cá nhân có toàn bộ quyền năng của chủ sở hữu đối với tài sản của
mình thì sau khi chết đi quyền năng đó vẫn được pháp luật bảo hộ, thông qua việc thừa
nhận cá nhân có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình. Thông qua di chúc,
người để lại di sản thể hiện ý chí của mình trong việc định đoạt tài sản, cụ thể của sự
định đoạt đó là xác định ai sẽ là người được hưởng di sản, được hưởng bao nhiêu di
sản, hưởng như thế nào và khi nào được hưởng. Như vậy, bằng một di chúc hợp pháp
người để lại di sản sẽ chỉ định ai là người thừa kế theo di chúc của họ.
Việc chỉ định ai được hưởng di sản trong nội dung của di chúc là hoàn toàn phụ
thuộc vào ý chí chủ quan của người lập di chúc, do đó người thừa kế theo di chúc có
thể là bất kì ai. Hay nói cách khác bất kì ai cũng có thể được chỉ định là người thừa kế
theo di chúc. Theo đó, người thừa kế theo di chúc có thể là cá nhân, tổ chức hoặc thậm
chí là Nhà nước. Cá nhân, người thừa kế theo di chúc có thể là người có quan hệ hôn
nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng với người lập di chúc nhưng cũng có thể họ không
có bất kì mối quan hệ nào trong ba mối quan hệ trên với người để lại di sản. Tổ chức,
Nhà nước là người thừa kế theo di chúc nếu những chủ thể này được người lập di chúc
chỉ định cho hưởng di sản theo di chúc. Tuy nhiên, cá nhân hay tổ chức, để có thể là
người thừa kế theo di chúc đều phải tuân theo những điều kiện nhất định được quy
định tại Điều 635 BLDS năm 2005:
“Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế
hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi
người để lại di sản chết.
Trong trường hợp người thừa kế theo di chúc là cơ quan, tổ chức thì phải là cơ
quan, tổ chức tồn tại vào thời điểm mở thừa kế”.



7

Quy định trên đã chỉ ra những điều kiện nhất định đối với người thừa kế nói
chung và người thừa kế theo di chúc nói riêng.
Khi chỉ định chủ thể được hưởng di sản trong di chúc, bản thân người lập di
chúc cũng sẽ xác định phần di sản mà người đó được hưởng và cách thức cũng như
thời điểm hưởng phần di sản đó. Từ nội dung đó, người thừa kế theo di chúc sẽ được
xác định một cách cụ thể.
Một vấn đề đặt ra ở đây, chúng ta cần phân biệt người thừa kế theo di chúc với
người được di tặng. Bởi, người di tặng cũng là người được hưởng di sản theo ý chí của
người lập di chúc thể hiện trong nội dung của di chúc hay nói cách khác người được
hưởng di sản theo di chúc bao gồm: người thừa kế theo di chúc và người được di tặng.
Nhưng, người được di tặng và người thừa kế theo di chúc không phải là một. Di tặng
là sự thể hiện ý chí của người lập di chúc về việc dành một phần di sản để tặng cho
người khác. Như vậy, di tặng là sự tặng cho tài sản và người được di tặng được hiểu là
người được nhận phần di sản của người chết như một món quà, một phần quà tặng với
ý nghĩa là sự kỉ niệm và họ không phải gánh chịu nghĩa vụ về tài sản do người chết để
lại, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 671 BLDS năm 2005. Còn bản thân
người thừa kế theo di chúc lại là chủ thể được người để lại di sản chỉ định cho hưởng
di sản với tư cách là người thừa kế của họ thông qua di chúc, do đó họ phải có nghĩa
vụ của người thừa kế nói chung theo quy định của pháp luật.
Để có cái nhìn toàn diện và đầy đủ về người thừa kế theo di chúc, chúng ta phải
có khái niệm khái quát về vấn đề này. Đó là cơ sở để xác định những vấn đề pháp lý
khác liên quan đến người thừa kế theo di chúc cũng như để phân biệt người thừa kế
theo di chúc với các chủ thể khác cũng được hưởng di sản thừa kế của người chết để
lại.
Hiện nay, pháp luật Dân sự Việt Nam không có khái niệm cụ thể về người thừa
kế theo di chúc, nhưng từ những phân tích trên chúng ta có thể hiểu một cách khái quát
về người thừa kế theo di chúc như sau: Người thừa kế theo di chúc là cá nhân đang

còn sống, cơ quan tổ chức đang tồn tại vào thời điểm mở thừa kế hoặc thai nhi sinh
ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã được người để lại di sản chỉ
định làm người thừa kế của mình bằng một di chúc hợp pháp1

1

Phạm Văn Tuyết, (2003), Thừa kế theo di chúc theo quy định của Bộ luật Dân sự Việt Nam, Luận án Tiến sĩ
Luật học, tr.49.


8

Như vậy, việc xác định người thừa kế theo di chúc sẽ dựa trên ý chí chủ quan
của người để lại di sản được thể hiện trong nội dung của di chúc. Căn cứ trên sự xác
định đó, dẫn đến phạm vi người thừa kế theo di chúc rộng hơn so với người thừa kế
theo pháp luật và bản thân người thừa kế theo di chúc cũng có thể đồng thời là người
thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản.
1.1.1.2. Người thừa kế theo pháp luật
Pháp luật thừa kế Việt Nam ghi nhận hai hình thức thừa kế, thừa kế theo di
chúc và thừa kế theo pháp luật. Thừa kế theo pháp luật được quy định tại Điều 674
BLDS năm 2005, cụ thể: “Thừa kế theo pháp luật là thừa kế theo hàng thừa kế, điều
kiện thừa kế và trình tự thừa kế do pháp luật quy định”.
Nếu như quyền thừa kế là tổng hợp các quy định của pháp luật về sự dịch
chuyển tài sản từ người chết sang những người còn sống khác2, thì thừa kế theo pháp
luật với tư cách là một trong hai hình thức thừa kế, được hiểu là sự dịch chuyển tài sản
của người chết để lại theo hàng thừa kế, điều kiện, trình tự thừa kế theo quy định của
pháp luật cho những người còn sống khác. Người còn sống được hưởng di sản theo
hình thức dịch chuyển này được gọi là người thừa kế theo pháp luật.
Người thừa kế theo pháp luật là người được hưởng di sản của người chết để lại
theo hàng thừa kế, điều kiện và trình tự thừa kế do pháp luât quy định. Dựa trên các

quy định của pháp luật về hàng thừa kế, về điều kiện và trình tự thừa kế chúng ta có
thể xác định được chủ thể là người thừa kế theo pháp luật. Nói cách khác, người thừa
kế theo pháp luật là người được hưởng di sản của người chết để lại theo luật định. Cụ
thể, Điều 676 BLDS năm 2005 quy định về người thừa kế theo pháp luật như sau:
“Người thừa kế theo pháp luật
1.

Những người thừa kế theo pháp luật được xác định theo thứ tự sau đây:

a.

Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con

đẻ , con nuôi của người chết;
b.

Hàng thừa kế thứ hai bao gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột,

chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội,
bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
c.

Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột,

cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là
2

Trường Đại học Luật Hà Nội, (2008), Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam,tập 1 , Nxb. CAND



9

bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết
là cụ nội, cụ ngoại;
2.

Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau;

3.

Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở

hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng
di sản hoặc từ chối nhận di sản”.
Căn cứ vào quy định trên, chúng ta thấy rằng người thừa kế theo pháp luật là
người có một hoặc đồng thời hai mối quan hệ trong các mối quan hệ hôn nhân, huyết
thống, nuôi dưỡng với người để lại di sản thừa kế.
Họ là những người mà khi còn sống người để lại di sản có nghĩa vụ chăm sóc,
nuôi dưỡng và yêu thương. Do vậy, khi chết đi người để lại di sản vẫn cần có một phần
trách nhiệm với những người này. Điều này phù hợp với truyền thống đạo đức tôn
trọng hiếu, lễ, nghĩa của người dân Việt Nam. Ba mối quan hệ hôn nhân, huyết thống,
nuôi dưỡng là ba căn cứ quan trọng để xác định diện thừa kế theo pháp luật hay nói
cách khác là căn cứ xác định phạm vi những người thừa kế theo pháp luật của người
để lại di sản.
Nếu như việc xác định người thừa kế theo di chúc phụ thuộc vào ý chí chủ quan
của người để lại di sản, từ đó dẫn đến người thừa kế có thể là bất kì ai: cá nhân, cơ
quan, tổ chức và thậm chí là Nhà nước thì ngược lại, để xác định người thừa kế theo
pháp luật chúng ta phải dựa vào diện thừa kế hay chính là dựa trên ba mối quan hệ hôn
nhân, huyết thống, nuôi dưỡng của người để lại di sản với những người được xác định
là người thừa kế theo pháp luật. Như vậy, người thừa kế theo pháp luật chỉ có thể là cá

nhân, không thể là cơ quan, tổ chức hay Nhà nước. Bởi các chủ thể này không thể tồn
tại một trong ba mối quan hệ trên với người để lại di sản.
Người thừa kế theo pháp luật được hưởng di sản theo quy định của pháp luật tuân
theo các trình tự và thủ tục nhất định. Trình tự dịch chuyển tài sản của người chếtcho
những người thừa kế theo pháp luật tuân theo hàng thừa kế được quy định tại Điều 676
BLDS năm 2005, theo trình tự dịch chuyển này thì những người thuộc hàng thừa kế
thứ nhất sẽ được ưu tiên hàng đầu bởi giữa họ có mối quan hệ thân thuộc, thiêng liêng
và gẫn gũi nhất. Khi không còn những người gẫn gũi nhất do đã chết, không có quyền
hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc do từ chối nhận di sản thì những người
thuộc hàng thừa kế tiếp theo sẽ được hưởng di sản. Như vậy, dù cùng là những người


10

thuộc diện thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản nhưng không phải tất cả
những người này đều được hưởng di sản thừa kế cùng một lúc. Nhận thấy, thứ tự ưu
tiên hưởng di sản theo hàng là thứ tự tuyệt đối. Không có trường hợp nào hai cá nhân
thuộc hai hàng thừa kế khác nhau cùng hưởng di sản theo pháp luật.
Như vậy, người thừa kế theo pháp luật là người được hưởng di sản theo quy định
của pháp luật. Pháp luật xác định người nào là người thừa kế theo pháp luật của người
để lại di sản thừa kế thông qua diện thừa kế. Việc hưởng di sản của người thừa kế theo
pháp luật dựa theo hàng thừa kế, điều kiện, trình tự thừa kế theo quy định của pháp
luật. Điểm khác biệt rõ nhất giữa người thừa kế theo pháp luật và người thừa kế theo di
chúc là người thừa kế theo pháp luật chỉ có thể là cá nhân và cá nhân này phải mang
trong mình ít nhất một trong ba mối quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng
với người để lại di sản. Phần di sản được hưởng, thời điểm được hưởng và cách thức
hưởng di sản của những người này dựa vào quy định của pháp luật chứ không bị sự chi
phối bởi ý chí chủ quan của người lập di chúc.
1.1.2 Điều kiện của người thừa kế
1.1.2.1. Người thừa kế là cá nhân

Điều 635 BLDS năm 2005 quy định: “Người thừa kế là cá nhân phải là người
còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế
nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết”
Dựa vào quy định trên, nhận thấy người thừa kế là cá nhân muốn được hưởng
di sản phải đáp ứng được các điều kiện sau đây:
Thứ nhất: Phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế
Với đặc trưng cơ bản của thừa kế là sự nối tiếp về sở hữu tài sản giữa người còn
sống với người đã chết nên người tiếp nhận di sản phải là người còn sống. Sẽ là vô
nghĩa nếu tài sản được dịch chuyển từ một người chết này sang người chết khác3. Như
vậy, người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế, khi
hiểu về thuật ngữ “còn sống” chúng ta phải hiểu theo một diện rộng. Bởi lẽ, trên thực
tế có những trường hợp vào thời điểm phân chia di sản thừa kế thì người thừa kế đã
chết nhưng thực tế vào thời điểm mở thừa kế thì họ vẫn là những người còn sống, do
đó bản thân họ có quyền được hưởng di sản, đương nhiên trong trường hợp này phần
di sản đó lại trở thành phần di sản mà họ để lại và được chia cho những người thừa kế
3

Ths. Phạm văn Tuyết, (2003), Bàn về điều kiện của người thừa kế, Tạp chí Dân chủ pháp luật, số (1), Tr.20 -41


11

của người này. Hoặc có trường hợp vào thời điểm mở thừa kế, người thừa kế đang mất
tích nhưng họ chưa bị tuyên bố chết hoặc đã bị tuyên bố chết nhưng ngày được coi là
đã chết được xác định sau thời điểm mở thừa kế thì trường hợp này vẫn được xác định
là còn sống vào thời điểm mở thừa kế và được quyền hưởng di sản. Như vậy, cá nhân
còn sống vào thời điểm mở thừa kế, cho dù chỉ cần sống trong một quãng thời gian
ngắn sau khi người để lại di sản chết thì cũng đã đủ tư cách thừa kế. Tuy nhiên, dù là
một khoảng thời gian ngắn nhưng khoảng thời gian này phải xác định được, nếu
khoảng thời gian này không thể xác định được sẽ coi là những người này chết cùng

thời điểm. Về nguyên tắc theo quy định tại Điều 641 BLDS: “Trong trường hợp
những người có quyền thừa kế di sản của nhau đều chết cùng thời điểm hoặc được coi
là chết cùng thời điểm do không xác định được người nào chết trước (sau đây gọi là
những người chết cùng thời điểm) thì họ không được thừa kế di sản của nhau và di sản
của mỗi người do người thừa kế của người đó hưởng, trừ trường hợp thừa kế thế vị
theo quy định tại Điều 677 của Bộ luật này”, như vậy, trường hợp những người chết
cách nhau một khoảng thời gian rất ngắn không thể xác định rõ ai chết trước (trong các
vụ tai nạn máy bay, đắm thuyền, vụ nổ, thiên tai, hỏa hoạn, do thảm họa chiến tranh,
do cùng nhau tự tử, do cùng bị người khác giết), thì những người này dù bản thân họ
có quyền hưởng di sản của nhau nhưng do không đáp ứng được điều kiện “còn sống
vào thời điểm mở thừa kế” dẫn đến việc họ không được thừa kế di sản của nhau.
Thứ hai: Phải thành thai trước khi người để lại di sản chết nếu sinh ra và còn
sống sau thời điểm mở thừa kế.
BLDS năm 2005 quy định về điều kiện của cá nhân là người thừa kế phải là
người còn sống vào thời điểm mở thừa kế, tuy nhiên đối với trường hợp thai nhi được
sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để
lại di sản chết thì quyền thừa kế của những người này vẫn được pháp luật bảo hộ,
giống như một sự bảo lưu quyền thừa kế cho những chủ thể đặc biệt này. Tuy vậy, để
được hưởng di sản thì thai nhi phải sinh ra và còn sống, cá nhân không thể hưởng thừa
kế được nếu sinh ra nhưng không còn sống. Việc xác định như thế nào là “sinh ra và
còn sống” là một vấn đề khá phức tạp. Khi một đứa trẻ được sinh ra và sống bình
thường thì việc xác định đứa trẻ đó là người thừa kế hoàn toàn không có gì khó khăn.
Ngược lại, nếu một đứa trẻ sinh ra và chết ngay sau đó thì ranh giới để xác định là còn
sống hay đã chết là một vấn đề không hề đơn giản và chưa được BLDS của chúng ta


12

ghi nhận rõ. Ranh giới giữa sự sống và cái chết đôi khi chỉ là một khoảnh khắc. Một
đứa trẻ được xác định là sinh ra và còn sống, khi sinh ra sống được năm phút, mười

phút, một giờ, hai giờ hay một ngày, hai ngày... Việc xác định sinh ra và còn sống là
hết sức quan trọng, bởi hai sự kiện trên sẽ dẫn đến những hậu quả pháp lý rất khác
nhau. Để xác định chính xác tình trạng “còn sống” hay “đã chết” đối với một đứa trẻ
sinh ra rồi mới chết cần căn cứ vào một số quy định pháp luật sau, Điều 23 Nghị định
số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ quy định về đăng ký và quản lý
hộ tịch thì: “Trẻ em sinh ra và sống được từ 24 giờ trở lên rồi mới chết cũng phải đăng
ký khai sinh và đăng ký khai tử. Nếu cha, mẹ không đi khai sinh và khai tử, thì cán bộ
tư pháp hộ tịch tự xác định nội dung để ghi vào Sổ đăng ký khai sinh và Sổ đăng ký
khai tử. Trong cột ghi chú của Sổ đăng ký khai sinh và Sổ đăng ký khai tử phải ghi rõ
“Trẻ chết sơ sinh”, Từ quy định này chúng ta có thể suy ra rằng một đứa trẻ sinh ra
sống được từ 24 giờ trở lên thì được coi là “sinh ra và còn sống”
Việc bảo lưu quyền thừa kế của thai nhi chỉ được thực hiện khi thai nhi đó đã
thành thai trước khi người để lại di sản chết, quy định này chủ yếu nhằm mục đích xác
định mối quan hệ huyết thống giữa người để lại di sản và với người thừa kế theo pháp
luật của họ. Người được sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng trước đó
đã thành thai trước khi người để lại di sản chết thì mặc nhiên được coi là có quan hệ
huyết thống với người để lại di sản. Về vấn đề này chúng ta cần căn cứ vào một số văn
bản pháp luật sau, Điều 63 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: “Con sinh
ra trong thời kì hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kì hôn nhân là con
chung của vợ chồng …” và khoản 2 Điều 21 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày
03/10/2001 hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đã xác định theo
phương pháp suy đoán một thai nhi tồn tại tối đa là 300 ngày kể từ thời điểm mở thừa
kế, nếu trong khoảng thời gia này, đứa trẻ được sinh ra thì mặc nhiên sẽ được coi là
thành thai trước thời điểm mở thừa kế, là người thừa kế của người để lại di sản4. Tuy
nhiên, nếu có trường hợp đứa trẻ được sinh ra sau thời hạn này nhưng có căn cứ chứng
minh là con đẻ của người chết thì hoàn toàn có quyền hưởng di sản của họ.
Tổng kết vấn đề điều kiện của người thừa kế là cá nhân, chúng ta thấy người
thừa kế là cá nhân phải thỏa mãn được các điều kiện là còn sống vào thời điểm mở
điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành
4


Điều 21. Xác định con chung của vợ chồng


13

thai trước khi người để lại di sản chết. Đây là những điều kiện quan trọng để chúng ta
xác định chính xác những cá nhân nào có quyền hưởng di sản của người chết.
1.1.2.2. Người thừa kế là tổ chức
Ngoài người thừa kế là cá nhân, chúng ta còn có người thừa kế là cơ quan, tổ
chức với tư cách là người thừa kế theo di chúc của người để lại di sản. Như vậy, với tư
cách là người thừa kế theo di chúc, cơ quan, tổ chức cũng phải đáp ứng những điều
kiện nhất định của người thừa kế.
Người thừa kế theo di chúc là cơ quan, tổ chức, thì phải còn tồn tại vào thời
điểm mở thừa kế. Tuy nhiên, nếu vào thời điểm mở thừa kế tổ chức còn tồn tại nhưng
vào thời điểm phân chia di sản thừa kế cơ quan, tổ chức đó không còn tồn tại (do việc
hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, giải thể, phá sản) thì phần di sản khi chưa chia vẫn
thuộc về cơ quan, tổ chức đó hay thuộc về một cá nhân, tổ chức nào đó hay di sản sẽ
được coi là tài sản vô chủ và thuộc về Nhà nước? Hoặc trong trường hợp pháp nhân đó
bị giải thể, bị tuyên bố pháp sản vào thời điểm mở thừa kế, nhưng sau thời điểm đó lại
được thành lập lại theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền thì pháp nhân
đó có được quyền thừa kế di sản không?, về vấn đề này BLDS của chúng ta chưa có
quy định cụ thể. Đối với pháp nhân, tổ chức do hợp nhất, sáp nhập, chia, tách về bản
chất là sự thay đổi phương thức tồn tại và đồng thời quyền và nghĩa vụ của pháp nhân,
tổ chức này sẽ được chuyển giao cho pháp nhân mới theo quy định của BLDS năm
2005, do đó phần di sản mà pháp nhân, tổ chức được hưởng sẽ thuộc về pháp nhân, tổ
chức mới. Nhưng đối với trường hợp pháp nhân, tổ chức đã bị giải thể, bị phá sản,
năng lực chủ thể của pháp nhân, tổ chức đó đã chấm dứt, di sản sẽ được chia theo pháp
luật (áp dụng tương tự đối với trường hợp di chúc không có hiệu lực pháp luật)
1.2 Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc

1.2.1 Khái niệm
Nguyên tắc phát huy truyền thống tốt đẹp, đảm bảo tình đoàn kết trong gia
đình, là một trong những nguyên tắc cơ bản và quan trọng trong chế định quyền thừa
kế. Dựa trên tinh thần của nguyên tắc này, các quy định về thừa kế chủ yếu nhằm để
bảo vệ quan hệ huyết thống, quan hệ gia đình.
Cha, mẹ, vợ, chồng, các con của người để lại di sản là những người có quan hệ
huyết thống, hôn nhân hoặc nuôi dưỡng với người để lại di sản. Đây là những chủ thể
mà khi còn sống người để lại di sản có nghĩa vụ chăm sóc, yêu thương, nuôi dưỡng


14

(quy định của luật hôn nhân và gia đình về nghĩa vụ các thành viên trong gia đình).
Xuất phát từ điều đó, BLDS năm 2005 quy định, khi người để lại di sản lập di chúc
định đoạt tài sản của mình mà không cho cha, mẹ, vợ hoặc chồng, con chưa thành
niên, con đã thành niên mà không có khả năng lao động hưởng di sản thì những chủ
thể này vẫn được hưởng một phần di sản bằng 2/3 một suất thừa kế theo pháp luật.
Quy định này thể hiện sự phù hợp của pháp luật nói chung và pháp luật về thừa kế nói
riêng với các phong tục, tập quán và truyền thống đạo đức của người Việt Nam ta.
Vấn đề này được quy định cụ thể tại Điều 669 BLDS năm 2005, “Những người
sau đây vẫn được hưởng phần di sản bằng hai phần ba suất của một người thừa kế
theo pháp luật, nếu di sản được chia theo pháp luật, trong trường hợp họ không được
người lập di chúc cho hưởng di sản hoặc chỉ cho hưởng phần di sản ít hơn hai phần
ba suất đó, trừ khi họ là những người từ chối nhận di sản theo quy định tại Điều 642
hoặc họ là những người không có quyền hưởng di sản theo quy định tại khoản 1 Điều
643 của bộ luật này:
1. Con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng
2. Con đã thành niên mà không có khả năng lao động”
Quy định trên là một cơ sở pháp lý quan trọng để giải quyết vấn đề người thừa
kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc. Tuy nhiên, quy định này mới chỉ đưa ra

cho chúng ta biết những đối tượng nào có thể được hưởng di sản thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung của di chúc mà chưa đưa ra được khái niệm một cách khái quát về
người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc. Khi nghiên cứu về bất kì
một vấn đề pháp lý nào chúng ta cũng cần có những cách hiểu khái quát về vấn đề
đang nghiên cứu đó. Như vậy, việc đưa ra một khái niệm về người thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung của di chúc, là một yêu cầu quan trọng khi nghiên cứu về vấn đề
này. Ở Việt Nam, trong BLDS năm 2005 ngay cả khái niệm về “người thừa kế” cũng
chưa có một quy định cụ thể, người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc
có phải là người thừa kế hay không, nếu là người thừa kế thì là người thừa kế nào?,
người thừa kế theo di chúc hay người thừa kế theo pháp luật? đây là những vấn đề cần
làm rõ trong khi tìm hiểu khái niệm về “người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung
của di chúc”
Từ điển giải thích luật học, giải thích vấn đề này như sau:


15

Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc được hiểu là người
thừa kế mà pháp luật quy định luôn được hưởng phần di sản nhất định nếu người để lại
di chúc không cho hưởng hoặc cho hưởng ít hơn phần di sản đó. Theo quy định của
BLDS, con chưa thành niên, con đã thành niên mà không có khả năng lao động và cha,
mẹ, vợ, chồng của gười để lại di sản là người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung
của di chúc. Nếu người để lại di sản lập di chúc không cho những người này hưởng di
sản hoặc cho hưởng nhưng ít hơn hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp
luật (nếu di sản đươc chia theo pháp luật) thì họ vẫn được hưởng di sản bằng hai phần
ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, trừ trường hợp họ không có quyền
hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Mặc dù Điều 669 BLDS năm 2005 chưa đưa ra được khái niệm khái quát về
người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc nhưng từ quy định này chúng
ta có thể nhận thấy rõ ba vấn đề sau:

Thứ nhất: Cha, mẹ, vợ, chồng, con chưa thành niên, con đã thành niên mà
không có khả năng lao động là những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung
của di chúc, đồng thời những người này cũng là người thừa kế theo pháp luật thuộc
hàng thừa kế thứ nhất của người để lại di sản theo quy định tại Khoản 1 Điều 676
BLDS. Như vậy, thực chất người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc là
người thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản. Khi tài sản được chia theo pháp
luật thì họ chính là những người thừa kế đầu tiên được xác định để hưởng di sản của
người chết.
Thứ hai: Những chủ thể trên chỉ có thể hưởng di sản theo Điều 669 khi người
để lại di sản có để lại di chúc và di chúc hợp pháp, nhưng trong di chúc họ không được
người để lại di chúc cho hưởng di sản hoặc có cho hưởng nhưng ít hơn 2/3 suất của
một người thừa kế theo pháp luật.
Thứ ba: Người từ chối nhận di sản theo Điều 642 BLDS năm 2005 và người bị
tước quyền hưởng di sản theo khoản 1 Điều 643 BLDS năm 2005 không thể là người
thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc của người để lại di sản. Bởi, người
từ chối nhận di sản là người có quyền được hưởng di sản nhưng bản thân họ đã tự
mình khước từ quyền lợi đó, pháp luật tôn trọng và cho phép họ thực hiện quyền này,
ngược lại, người bị tước quyền hưởng di sản là những người ban đầu họ là chủ thể có


16

quyền hưởng nhưng do những hành vi nhất định của mình mà pháp luật tước đi quyền
đó của họ.
Như vậy, từ những phân tích trên, theo tác giả có thể hiểu về người thừa kế
không phụ thuộc vào nội dung của di chúc theo một khái niệm mang tính khái quát
sau, “Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc là người thừa kế theo
pháp luật thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người để lại di sản, đồng thời không phải là
những người từ chối nhận di sản theo Điều 642, người bị tước quyền hưởng di sản
theo khoản 1 Điều 643. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc được

hưởng di sản khi không được người để lại di chúc cho hưởng di sản hoặc cho hưởng ít
hơn hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật, di sản mà họ nhận được ít
nhất bằng hai phần ba của một suất đó, phần di sản này được hưởng không tuân theo
nội dung của di chúc mà dựa trên quy định của pháp luật”.
Xác định được người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc là ai,
được hưởng di sản khi nào và phần di sản của họ được hưởng là bao nhiêu chúng ta
cần phải dựa trên những căn cứ nhất định mới có thể xác định được một cách cụ thể.
Dựa vào khái niệm trên theo quan điểm của tác giả, chúng ta có các căn cứ sau:
1.2.2 Căn cứ xác định người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc
1.2.2.1.Là người thuộc diện thừa kế và hàng thừa kế thứ nhất của người để lại di sản
Khoản 1 Điều 676 BLDS năm 2005 quy định, những người thừa kế thuộc hàng
thừa kế thứ nhất của người để lại di sản bao gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi,
mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết. Đối chiếu quy định này với quy định tại
Điều 669 BLDS năm 2005, người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc
bao gồm: cha, mẹ, vợ, chồng, con chưa thành niên, con đã thành niên mà không có khả
năng lao động của người để lại di chúc. Như vậy, khi đối chiếu hai quy định này với
nhau chúng ta thấy rằng người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc là
những người có quan hệ gần gũi nhất của người chết. Họ thực chất là người thừa kế
theo pháp luật của người để lại di sản. Giữa họ và người chết có mối quan hệ huyết
thống, hôn nhân và nuôi dưỡng gần gũi nhất. Người thừa kế không phụ thuộc vào nội
dung của di chúc không phải ai khác mà chính là những người thuộc diện thừa kế và
hàng thừa kế thứ nhất của người để lại di sản. Tuy nhiên, không phải tất cả người thừa
kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người để lại di sản đều là người thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung của di chúc. Cụ thể, tất cả các con bao gồm cả con đẻ, con nuôi


17

của người để lại di sản đều là người thừa kế theo pháp luật thuộc hàng thừa kế thứ nhất
của người để lại di sản nhưng những người con này chỉ có thể là người thừa kế không

phụ thuộc vào nội dung của di chúc khi vào thời điểm mở thừa kế họ là người chưa
thành niên hoặc đã thành niên nhưng không có khả năng lao động. Như vậy, chúng ta
thấy rõ ở đây diện những người thừa kế theo pháp luật của người để lại di sản sẽ rộng
hơn “diện” những người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc.
1.2.2.2.Là người không được người để lại di sản cho hưởng di sản hoặc cho hưởng
nhưng ít hơn hai phần ba một suất thừa kế theo pháp luật
Là người thừa kế thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người để lại di sản những
người này có thể được hưởng di sản theo pháp luật, khi người để lại di sản không để
lại di chúc hoặc có để lại di chúc nhưng di chúc không hợp pháp hoặc một số trường
hợp khác mà pháp luật quy định. Tuy nhiên, người có tài sản sau khi chết đi có thể lập
di chúc tự định đoạt tài sản của mình, theo sự định đoạt này thì một số người thừa kế
trên có thể không được hưởng di sản hoặc được hưởng nhưng phần hưởng lại ít hơn
phần di sản tối thiểu mà pháp luật quy định họ được hưởng. Trong trường hợp này,
mặc dù pháp luật tôn trọng ý chí của người để lại di chúc nhưng pháp luật cũng luôn
bảo vệ quyền của một số người thừa kế nhất định và cho họ được hưởng phần di sản
tối thiểu. Do vậy, chỉ khi người để lại di sản không cho hưởng hoặc cho hưởng ít hơn
hai phần ba của một suất thừa kế theo pháp luật thì vấn đề thừa kế không phụ thuộc
vào nội dung của di chúc mới đặt ra.
1.2.2.3.Là người không từ chối nhận di sản, không bị tước quyền hưởng di sản
Khi xác định người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc, ngoài
hai căn cứ nêu trên chúng ta còn phải dựa trên căn cứ thứ ba không kém phần quan
trọng, đó là, người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc không được là
người từ chối nhận di sản, người bị tước quyền hưởng di sản. Bởi nếu rơi vào một
trong hai trường hợp này thì bản thân những người này sẽ không được hưởng di sản
theo Điều 669 BLDS. Khi là người từ chối nhận di sản hoặc bị tước quyền hưởng di
sản thì ngay cả những người thừa kế nói chung và người thừa kế không phụ thuộc vào
nội dung của di chúc nói riêng đều không có quyền hưởng phần di sản mà đáng ra
mình được hưởng.
Vậy một lần nữa chúng ta phải khẳng định rằng để xác định được chính xác
những chủ thể là người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc của người



18

để lại di sản chúng ta phải dựa trên đồng thời cả ba căn cứ nêu trên. Có như vậy mới
có thể bảo vệ quyền lợi của người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc
cũng như quyền lợi của những người thừa kế khác.
1.3 Sơ lược lịch sử phát triển các quy định của pháp luật về người thừa kế không
phụ thuộc vào nội dung của di chúc
1.3.1 Giai đoạn trước khi ban hành pháp lệnh thừa kế năm 1990
1.3.1.1. Giai đoạn trước năm 1945
Trước cách mạng tháng Tám năm 1945 Việt Nam còn là một nước nửa thuộc
địa nửa phong kiến. Bản chất của pháp luật là thể hiện ý chí của giai cấp thống trị, là
công cụ giúp giai cấp này quản lý xã hội. Do đó, ở giai đoạn này hệ thống pháp luật
chỉ là công cụ của thực dân Pháp nhằm thực hiện triệt để chính sách khai thác thuộc
địa. Cộng hòa Pháp được biết đến là một nước có hệ thống pháp luật dân chủ, tiến bộ,
song với bản chất của một nước đi xâm lược thì Pháp đã tận dụng những hủ tục phong
kiến lạc hậu của xã hội phong kiến nước ta thời kỳ đó để xây dựng hệ thống pháp luật
làm công cụ nhằm thực hiện âm mưu khai thác thuộc địa của mình. Bởi thế, pháp luật
dân sự Việt Nam ra đời trong giai đoạn này cũng chứa đựng bản chất thực dân- phong
kiến khá rõ nét, được thể hiện cụ thể trong Bộ Dân luật Bắc Kì năm 1931, Dân luật
Trung kì năm 1936. Tư tưởng trọng nam, khinh nữ của ý thức hệ phong kiến vẫn tồn
tại phổ biến trong các quan hệ xã hội. Do đó, quan hệ thừa kế trong giai đoạn này cũng
chịu ảnh hưởng lớn của ý thức hệ trên. Trong lĩnh vực thừa kế di sản, quyền bình đẳng
về thừa kế không được bảo đảm, quyền của người vợ bị hạn chế. Khi người vợ chết
trước, người chồng được thừa nhận là người chủ sở hữu duy nhất đối với toàn bộ tài
sản riêng của vợ. Ngược lại, nếu người chồng chết trước thì theo quy định tại Điều 346
Dân luật Bắc Kì và Điều 314 Dân luật Trung Kì, người vợ chỉ được quyền hưởng dụng
tài sản riêng của mình. Tức là người vợ hoàn toàn không được hưởng di sản thừa kế
của người chồng để lại. Do chịu ảnh hưởng tư tưởng của chế độ phong kiến nên cơ sở

chính để xác định vấn đề thừa kế thời kì này là quan hệ huyết thống, còn quan hệ hôn
nhân chỉ được coi là thứ yếu. Từ những tư tưởng phong kiến lạc hậu, bất bình đẳng
trên mà pháp luật thừa kế thời kì này mặc dù, đã thể chế hóa được quyền thừa kế theo
pháp luật của công dân Việt Nam nhưng nó vẫn còn tồn tại sự bất bình đẳng, tần dư
của chế độ phong kiến. Những quy định pháp luật dân sự nói chung và pháp luật về
thừa kế thời nói riêng thời kì này vẫn còn mang tính “sơ khai” chưa đầy đủ. Do đó,


19

trong giai đoạn này vấn đề về người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc
chưa được đề cập đến.
1.3.1.2. Giai đoạn từ Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước ngày có Pháp lệnh
thừa kế năm 1990.
Trong giai đoạn từ năm 1945-1990, nước ta giành độc lập, pháp luật nói chung
và pháp luật về thừa kế nói riêng của chế độ mới đã được xây dựng, củng cố và hoàn
thiện hơn.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, đất nước ta giành được độc lập và
bước vào kỉ nguyên mới, kỉ nguyên của độc lập tự do và chủ nghĩa xã hội. Mỗi Nhà
nước đều có một hệ thống pháp luật riêng để làm công cụ hữu hiệu cho việc quản lý xã
hội, thực hiện chức năng của Nhà nước. Do vậy, cùng với việc củng cố chính quyền,
củng cố nền kinh tế Đảng và Nhà nước ta đã rất chú trọng đến việc củng cố và phát
triển hệ thống pháp luật của nước nhà. Nền kinh tế có sự thay đổi, các mối quan hệ xã
hội cũng có sự thay đổi dần dần để phù hợp với thực tiễn khách quan. Nhiệm vụ của
hệ thống pháp luật lúc này là phải có sự điều chỉnh phù hợp với các quan hệ xã hội
mới. Hệ thống pháp luật thời kì này đã được hình thành và phát triển hơn, trong đó có
quyền thừa kế của công dân cũng được coi trọng. Pháp luật thừa kế của nhà nước ta
giai đoạn này đã xóa bỏ nhưng tàn tích của chế độ phong kiến trong quan hệ thừa kế
và thiết lập mối quan hệ bình đẳng giữa nam và nữ, giữa vợ và chồng, giữa các con
trong gia đình…loại bỏ tư tưởng gia trưởng, tư tưởng trọng nam, khinh nữ, bảo vệ

quyền thừa kế của người vợ góa và người con gái đã kết hôn…người vợ góa dù đã kết
hôn với người khác vẫn được thừa kế di sản của chồng.
Giai đoạn này, một loạt các văn bản pháp luật được ban hành và có quy định về
vấn đề thừa kế như Sắc lệnh ngày 10 tháng 10 năm 1945, Sắc lệnh số 97-SL ngày 22
tháng 05 năm 1950 sửa đổi một số quy lệ và chế định trong Dân luật để thi hành cho
đến khi ban hành những bộ luật mới cho toàn cõi Việt Nam. Đặc biệt trong thời kì này
có sự ra đời của bản Hiến pháp quan trọng, Hiến pháp năm 1946. Tuy nhiên, trong các
văn bản pháp luật nói chung và văn bản pháp luật về thừa kế nói riêng chưa có văn bản
nào có quy định đề cập tới “người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc”.
Mặc dù, pháp luật thời kì này đã có sự phát triển hơn so với giai đoạn trước năm 1945,
những tư tưởng phong kiến lạc hậu đã dần được xóa bỏ nhưng vấn đề bảo vệ quyền lợi
của cá nhân một số người thừa kế theo pháp luật của người lập di chúc chưa được chú


20

trọng. Đó có thể là một trong những nguyên nhân dẫn tới việc chưa có quy định nào
trong các văn bản này đề cập về “người người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung
của di chúc”
Cho đến năm 1981, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Thông tư số 81TANDTC, ngày 24-7-1981 hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về thừa kế, theo thông
tư này lần đầu tiên vấn đề về “người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di
chúc” được ghi nhận. Cụ thể, “Người lập di chúc phải dành lại một phần tài sản cho
những người thừa kế bắt buộc (nếu có). Những người thừa kế bắt buộc gồm: vợ góa
hoặc chồng góa, con chưa thành niên hoặc tuy đã thành niên nhưng không có khả
năng lao động; bố mẹ già yếu và túng thiếu.
Phần di sản dành lại cho mỗi người thừa kế bắt buộc, ít nhất bằng 2/3 suất của
thừa kế theo luật. Nếu di chúc truất quyền thừa kế của người thừa kế bắt buộc hoặc
phần dành cho mỗi người thừa kế bắt buộc ít hơn 2/3 suất thì phải trích cho đủ…”
Như vậy, theo Thông tư số 81, người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung
của di chúc được xác định là những chủ thể sau: Vợ góa hoặc chồng góa, con chưa

thành niên, còn đã thành niên nhưng không có khả năng lao động; bố mẹ già yếu và
túng thiếu. Trong thông tư gọi những người này là người thừa kế bắt buộc mà không
gọi là người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc. Tuy nhiên, đây có thể
được coi là những quy định đầu tiên, manh nha về vấn đề người thừa kế không phụ
thuộc vào nội dung của di chúc.
Để có thể là người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc thì bản
thân những người này phải đáp ứng một số điều kiện nhất định sau: Cha, mẹ phải là
người già yếu, túng thiếu, con đã thành niên thì là người không có khả năng lao động.
Đáp ứng được những điều kiện này thì họ mới có thể được hưởng phần di sản bắt
buộc. Thông tư số 81 –TANDTC quy định về người thừa kế bắt buộc được coi là một
văn bản pháp lý đầu tiên ghi nhận quyền của những người thừa kế không phụ thuộc
vào nội dung của di chúc, là cơ sở quan trọng cho việc ghi nhận vấn đề này trong các
văn bản pháp lý tiếp theo.
1.3.2 Giai đoạn từ năm 1990 đến nay
Trong giai đoạn từ năm 1990 đến năm 1996, cùng với sự phát triển của kinh tếxã hội ở nước ta, quyền dân sự cũng được củng cố và phát triển phù hợp. Pháp lệnh
thừa kế ngày 30-8-1990 được bàn hành là văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao


×