Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Pháp luật bảo đảm quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (726.05 KB, 86 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

B Ộ TƯ PHÁP

TRƯ ỜNG Đ ẠI HỌC LU ẬT HÀ N ỘI

NGUYỄN ÁNH TUY ẾT

PHÁP LUẬT BẢO ĐẢM
QUYỀN TỰ DO CẠNH TRANH CỦA DOANH NGHIỆP
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN TH ẠC SĨ LUẬ T H ỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA H ỌC: TS. BÙI NG ỌC CƯỜNG

HÀ NỘI - 2013


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành Luận văn tốt nghiệp cao học, em xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc
tới Thầy giáo – TS. Bùi Ngọc Cường vì sự giúp đỡ nhiệt tình và nhữ ng kinh nghiệm
quý báu của Thầy đã dành cho em trong suốt thời gian hướng dẫn em hoàn thành
Luận văn tốt nghiệp này.
Em cũng xin chân thành cảm ơn sự quan tâm giúp đỡ của các thầy cô giáo
Khoa Sau đại học, cùng các thầy cô trong tổ bộ môn Pháp luật Kinh tế - Trường Đại
học Luật Hà Nội và sự động viên của gia đình, bạn bè trong suốt thời gian qua./.

Học viên:



Nguyễn Ánh T uyết


BẢNG TỪ VIẾT TẮT

QPPL

Quy phạm pháp luật

CNTT

Công nghệ thông tin

TTHC

Thủ tục hành chính

QLCT

Quản lý cạnh tranh

CSDLQG

Cơ sở dữ liệu Quốc gia

PAKN

Phản ánh kiến nghị


DNNN

Doanh nghiệp nhà nước

GTVT

Giao thông vận tải


M ỤC LỤC
Trang
LỜI N ÓI ĐẦU

1

Chương 1: Những vấn đề lý luận về quyền tự do cạnh tranh của các

6

doanh nghiệp
1.1. Quan niệm về quyền tự do cạnh tranh

6

1.2. Cơ sở hình thành quyền tự do cạnh tranh

7

1.2.1. Đặc điểm của nền kinh tế thị trường


8

1.2.2. Ý nghĩa của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường

9

1.3. Yếu tố đảm bảo quyền tự do cạnh tranh

13

1.3.1. Bảo đảm sự bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế

13

1.3.2. Kiểm soát các hành vi cản trở cạnh tranh lành mạnh: chống độc

14

quyền và kiểm soát hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
1.3.3. Hạn chế, xoá bỏ các quy định, thủ tục hành chính cản trở đến tự do

15

cạnh tranh
1.3.4. Xây dựng các chế tài nghiêm ngặt đối với các hành vi cạ nh tranh

16

không lành mạnh, hạn chế cạnh tranh.
1.4. Giới hạn của quyền tự do cạnh tranh


16

Chương 2: C ác biện pháp pháp lý bảo đảm quyền tự do cạnh tranh

19

của các doanh nghiệp
2.1. Pháp luật bảo đảm quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp

20

2.2. Pháp luật kiểm soát độc quyền

22

2.2.1. Kiểm soát thỏa thuận hạn chế cạnh tranh

24

2.2.2. Kiểm soát lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc

25

quyền
2.2.3 Kiểm soát tập trung kinh tế

27

2.3. Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh


29

2.4. Cải cách thủ tục hành chính góp phần thúc đẩy doanh nghiệp thực

34

hiện quyền tự do cạnh tranh.
2.5. Nhà nước ban hành chế tài xử lý vi phạm pháp luật cạnh tranh nhằm

38


bảo vệ quyền tự do cạnh tranh
Chương 3: Thực trạng và giải pháp bảo đảm quyề n tự do cạnh tranh

43

của doanh nghiệp
3.1. Thực trạng việc bảo đảm thực hiện quyền tự do cạnh tranh của doanh

43

nghiệp.
3.1.1. Thành tựu đạt được trong việc bảo đảm quyền tự do cạnh tranh của

43

doanh nghiệp
3.1.2. Những tồn tại trong việc bảo đảm quy ền tự do cạnh tranh của


51

Doanh nghiệp.
3.2. Giải pháp đảm bảo thực hiện quyền tự do cạnh tranh của doanh

62

nghiệp
3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường

62

3.2.2. Đảm bảo sự bình đẳng giữa các loại hình doanh nghiệp

64

3.2.3. H oàn thiện hệ thống cơ quan quản lý cạnh tranh

66

3.2.4. Tiếp tục Cải cách thủ tục hành chính nhằm loại bỏ những rào cản

68

của tự do cạnh tranh
3.2.5. M inh bạch hóa chính sách, pháp luật

70


KẾT LUẬN

73


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bất cứ nền kinh tế hàng hóa nào cũng tồn tại nhu cầu tự do kinh doanh
nói chung, tự do cạnh tranh nói riêng. Tuy nhiên, trong các xã hội khác nhau và ở
từng thời kỳ lịch sử cụ thể thì mức độ đảm bảo việc thực hiện nhu cầu tự do kinh
doanh, tự do cạnh tranh cũng k hác nhau. Điều này phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố,
trong đó pháp luật giữ vai trò đặc biệt quan trọng. Lý luận và thực tiễn đã chứng
minh hệ thống pháp luật là một trong nhữ ng nhân tố quyết định cho việc đảm bảo
quyền tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh.
Kể từ Đại hội đại biểu lần thứ VI của Đảng năm 1986, Việt Nam đã trải qua
rất nhiều cải cách hạ tầng thể chế của nền kinh tế. Đại hội đại biểu lần thứ VI của
Đảng đã quyết định m ở cửa nền kinh tế, chấp nhận các quy tắc của nền kinh tế thị
trường có định hướng và vì vậy nền kinh tế của Việt Nam đã tăng trưởng mạnh mẽ,
cải thiện cuộc sống cho đại bộ phận của người dân. Quá trình chuyển đổi từ nền kinh
tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường làm thay đổi về căn bản vai trò
của nhà nước trong thị trường. Có những điều được coi là hiển nhiên trong nền kinh
tế kế hoạch hóa trở nên không còn phù hợp với kinh tế thị trường và ngược lại, có
những điều không được chấp nhận trong kinh tế tập trung lại thích hợp trong kinh tế
thị trường. Cạnh tranh là một phạm trù như vậy.
Kinh tế thị trường vận hành theo cơ chế cạnh tranh là chủ yếu. Trong kinh tế
thị trường, việc nhà nước chỉ huy m ột cách tập trung – thể hiện bằng các quy định,
chỉ thị, mệnh lệnh hành chính đối với hoạt động kinh doanh của các thành phần ki nh
tế, kể cả quốc doanh, ngoài quốc doanh, đầu tư nước ngoài – không còn phù hợp.

M ặt khác, chúng ta cũng đang chuyển đổi sang một nền kinh tế mở cửa hơn, hội
nhập hơn với mức độ lớn hơn với kinh tế thế giới. Điều này có nghĩa mở rộng cạnh
tranh nhằm đảm bảo cho tự do thương mại và ổn định để phát triển. Với tư cách là
người quản lý xã hội, nhà nước cần xây dựng chính sách duy trì cạnh tranh và kiểm
soát độc quyền trong kinh doanh.
Cạnh tranh là cơ chế vận hành chủ yếu của kinh tế thị trường, là động lực th úc
đẩy phát triển kinh tế. Đối với m ỗi chủ thể kinh doanh, cạnh tranh tạo sức ép hoặc
kích thích ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến trong sản xuất, cải tiến công nghệ,
thiết bị sản xuất và phương thức quản lý nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá
thành và giá bán hàng hóa. Cạnh tranh với các tín hiệu giá cả và lợi nhuận sẽ hướng
người kinh doanh chuyển nguồn lực từ nơi sử dụng có hiệu quả thấp hơn sang nơi sử
dụng có hiệu quả cao hơn. Đối với xã hội, cạnh tranh là động lực quan trọng nhất để
huy động nguồn lực của xã hội vào sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ còn thiếu,
qua đó nâng cao năng lực sản xuất của toàn xã hội. Trong cạnh tranh, các doanh
nghiệp yếu kém bị đào thải, doanh nghiệp mới xuất hiện. Doanh nghiệp làm ăn có
hiệu quả sẽ tiếp tục tồn tại và phát triển, nhờ đó nguồn lực xã hội được sử dụng hợp
lý. Cạnh tranh tạo ra sự đa dạng của sản phẩm và dịch vụ cũng chính là tạo ra nhiều


2

lựa chọn cho khách hàng và người tiêu dùng. Để cạnh tranh tồn tại và duy trì thì bản
thân các doanh nghiệp trực tiếp thực hiện các hoạt động kinh tế phải được tự do thực
hiện các hoạt động nhằm kinh doanh, cạnh tranh với các chủ thể khác trong nền kinh
tế, cũng vì vậy mà quyền tự do cạnh tranh được hình thành và ghi nhận.
Nhận thức được ý nghĩa của cạnh tranh tr ong nền kinh tế thị trường cũng như
tầm quan trọng của quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp được thực thi trên thực
tế, mà hiện nay quyền tự do cạnh tranh đã được Nhà nước ghi nhận và cụ thể hóa
trong các Văn bản QPPL. Tuy nhiên, trên thực tế không phải mọi doanh nghiệp đều
có thể thực hiện được quyền tự do cạnh tranh của mình, nếu không có các biện pháp

bảo đảm, cơ chế thực thi phù hợp thì quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp chỉ
tồn tại trên giấy và không thể đi vào đời sống. Do đó, vấn đề bảo đảm t hực hiện
quyền tự do cạnh tranh được đặt ra bức thiết hơn bao giờ hết. Quyền đã có nhưng để
hiện thực hóa đưa quyền tự do cạnh tranh vào cuộc sống thì cần có những biện pháp
bảo đảm thực hiện. C hính vì thế việc nghiên cứu, tìm hiểu pháp luật bảo đảm quyền
tự do cạnh tranh của doanh nghiệp, để từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm đảm bảo
cho quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp được thực thi trên thực tế là hết sức
cần thiết. Đ ó cũng là lý do tác giả lựa chọn đề tài: “ Pháp luật bảo đảm quyền tự do
cạnh tranh của doanh nghiệp” làm đề tài Luận văn tốt nghiệp cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quyền tự do cạnh tranh là một bộ phận hợp thành trong hệ thống các quyền tự
do kinh doanh nói chung, cùng với quyền được đảm bảo sở hữu đối với tài sản,
quyền tự do thành lập doanh nghiệp, quyền tự do hợp đồng, quyền tự do định đoạt
trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp đã hợp thành quyền tự do kinh doanh của doanh
nghiệp. Có thể nói trong hơn chục năm trở lại đây, đã có khá nhiều các công trình
nghiên cứu khoa học về quyền tự do kinh doanh được công bố và đã đạt được những
thành công nhất định. Các công trình này không chỉ đa dạng về nội dung mà cả hình
thức như khóa luận tốt nghiệp, luận văn cao học, luận án tiến sĩ, sách tham
khảo… vv. Điển hình như: “Quyền tự do kinh doanh trong pháp luật kinh tế Việt
Nam” - luận văn thạc sỹ luật học thực hiện năm 1996 của Bùi N gọc Cường; “Xây
dựng và hoàn thiện pháp luật kinh tế nhằm đảm bảo quyền tự do kinh doanh ở nước
ta” - luận án tiến sỹ luật học thực hiện năm 2001 của Bùi Ngọc Cường; “Một số vấn
đề về quyền tự do kinh doanh trong pháp luật kinh tế hiện hành ở Việt Nam” - sách
chuyên khảo của B ùi N gọc Cư ờng viết năm 2004; hay “Q uyền tự do kinh doanh của
công dân theo quy định của pháp luật hiện hành - Thực trạng và giải pháp, khoá
luận tốt nghiệp năm 2011 của Nguyễn Thị Nguyệt. Gần đây, có thêm một số công
trình mới nghiên cứu về quyền tự do kinh doanh theo Luật Doanh nghiệp, như:
Quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp theo Luật Doanh nghiệp , khóa luận tốt
nghiệp của Nguyễn Thị Thanh H oa (2004); Luật D oanh nghiệp 2005 với việc mở
rộng quyền tự do kinh doanh ở Việt Nam , luận văn Thạc sỹ luật học của Trần Tuấn



3

Anh (2006); “Pháp luật về quyền tự do kinh doanh của cá nhân hoạt động thương
mại - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” – luận văn Thạc sĩ Luật học của Nguyễn
Thị Giang (2012); “Bảo vệ quyền tự do kinh doanh theo quy định của Luật Doanh
nghiệp năm 2005- Lý luận và thực tiễn”, luận văn Thạc sĩ Luật học Nguyễn Thu
Huyền (2012).
Trong các công trình đã nghiên cứu chủ yếu đề cập đến quyền tự do kinh
doanh nói chung và các biện pháp bảo đảm để thực hiện quyền tự do kinh doanh của
doanh nghiệp. M ặc dù các tác giả có đề cập đến quyền tự do cạnh tranh của doanh
nghiệp trong các công trình nghiên cứu thông qua việc phân tích cá c quyền hợp
thành quyền tự do kinh doanh nhưng đó là việc phân tích các yếu tố cấu tạo quyền tự
do kinh doanh nói chung, còn việc nghiên cứu độc lập, riêng rẽ quyền tự do cạnh
tranh của doanh nghiệp và pháp luật bảo đảm thực hiện quyền tự do cạnh tranh của
doanh nghiệp là một công trình nghiên cứu độc lập thì chưa có công trình nào nghiên
cứu về vấn đề này.
Do đó, có thể nói đề tài của tác giả là công trình nghiên cứu đầu tiên về quyền
tự do cạnh tranh của doanh nghiệp và pháp luật bảo đảm quyền tự do cạnh tranh của
doanh nghiệp. Tác giả hy vọng việc nghiên cứu đề tài này sẽ mở đường cho các công
trình nghiên cứu khác về quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp sau này.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Căn cứ vào hoàn cảnh thực tế của doanh nghiệp trong việ c thực hiện quyền tự
do cạnh tranh của mình, pháp luật về quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp có thể
được nghiên cứu, tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên, trong phạm vi luận
văn này, tác giả chỉ nghiên cứu, làm rõ những quy định nhằm đảm bảo q uyền tự do
cạnh tranh của doanh nghiệp hoạt động thương mại. Đồng thời, trên cơ sở nghiên
cứu lý luận và tìm hiểu thực trạng trong việc đảm bảo quyền tự do cạnh tranh của các
doanh nghiệp, tác giả sẽ đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm tiếp tục hoàn thiện và

nâng cao hiệu quả thực thi của các bảo đảm quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp
trên thực tế.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa M ác Lênin, đồng thời tiếp thu đường lối, chính sách phát triển kinh tế-xã hội của Đảng và
Nhà nước ta trong sự nghiệp đổi mới.
Trong quá trình thực hiện đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên
cứu khoa học chuyên ngành như phương pháp mô tả, phương pháp phân tích,
phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp thống kê, phương pháp
lịch sử, phương pháp biện chứ ng.
Ngoài ra, đề tài còn được thực hiện kết hợp với phương pháp nghiên cứu thực
tiễn như phương pháp thu thập và xử lý thông tin đối với các sự kiện thực tế, các


4

buổi phỏng vấn lãnh đạo các cơ quan chức năng liên quan đến hoạt động kinh doanh
của cá nhân hoạt động thương mại.
5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Lựa chọn nghiên cứu đề tài này tác giả mong muốn làm sáng tỏ m ột số vấn đề
lý luận về quyền tự do cạnh tranh và pháp luật bảo đảm quyền tự do cạnh tranh của
doanh nghiệp. Đồng thời, trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành
và tổng kết thực trạng thi hành pháp luật về bảo đảm quyền tự do cạnh tranh của
doanh nghiệp, tác giả đề xuất các giải pháp nhằm tiếp tục hoàn thiện các quy định
pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật trên thực tế về vấn đề này.
Để đạt được mục đích trên, tác giả phải tập trung giải quyết những nhiệm vụ
cơ bản sau:
(i) Phân tích khái niệm, cơ sở hình thành của quyền tự do cạnh tranh để có
được cái nhìn toàn diện về vấn đề này.
(ii) Phân tích các yếu tố đảm bảo thực hiện quyền tự do cạnh tranh của doanh
nghiệp để làm rõ tính tất yếu phải bảo đảm quyền tự do cạnh tranh cũng như cơ sở

của việc đề xuất các giải pháp nhằm bảo vệ quyền tự do cạnh tranh của doanh
nghiệp.
(iii) Đi sâu phân tích, làm sáng tỏ các quy định của pháp luật hiện hành bảo
đảm thực hiện quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp
(iv) Phân tích các biện pháp pháp lý cụ thể bảo đảm thực hiện quyền tự do
cạnh tranh của doanh nghiệp
(v) Trên cơ sở tổng kết thực tiễn và đánh giá hạn chế trong việc bảo đảm thực
thi quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp, luận văn đề xuất giải pháp hoàn thiện
pháp luật cũng như việc nâng cao hiệu quả thực thi pháp luậ t về bảo đảm quyền tự do
cạnh tranh của doanh nghiệp.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của Luận v ăn
Trên cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu về quyền tự do cạnh tranh và pháp luật bảo
đảm quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp, Luận văn đã đưa ra được cái nhìn
toàn diện về quyền tự do cạnh tranh và các yếu tố bảo đảm thực thi quyền tự do cạnh
tranh của doanh nghiệp trên thực tế.
Luận văn đi sâu phân tích pháp luật bảo đảm quyền tự do cạnh tranh của
doanh nghiệp, thực tiễn thực thi quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp. Trên cơ
sở đó chỉ ra những điểm còn bất cập hạn chế trong công tác bảo đảm thực thi quyền
tự do cạnh tranh của doanh nghiệp trên thực tế.
Luận văn đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm đảm bảo thực thi quyền tự do
cạnh tranh của doanh nghiệp.
7. Kết cấu của luận văn


5

Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3
chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp.
Chương 2. Các biện pháp pháp lý bảo đảm quyền tự do cạnh tranh của doanh

nghiệp
Chương 3. Thực trạng và giải pháp đảm bảo quyền tự do cạnh tranh của
doanh nghiệp


6

Chương 1: Những vấn đề lý luận về quyền tự do cạnh tranh của các
doanh nghiệp
1. 1. Quan niệm về quyền tự do cạnh tranh
Cùng với sự thay đổi của các hình thái kinh tế x ã hội trong lịch sử phát triển
của xã hội loài người, con người luôn đi tìm động lực phát triển trong các hình thái
kinh tế xã hội. V ới đặc trưng của nền kinh tế chuyển đổi, Việt Nam đã thực thi
những nguyên lý của cơ chế thị trường mà trước đó chưa từng đ ược biết đến trong
nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. Chúng ta đã dần quen với việc vận dụng một
động lực m ới của sự phát triển đó là cạnh tranh.
Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc
đẩy các chủ thể kinh doanh. M ỗi nhà sản xuất hay thương gia luôn vận dụng những
ưu thế và tiềm năng của mình để tối đa hóa lợi nhuận. Cạnh tranh vì thế đã trở thành
quy luật kinh tế phổ biến, đem lại diện mạo và sắc thái riêng cho nền kinh tế thị
trường. Điều này cũng cho phép hiểu rằng một môi trường kinh doanh thực sự phải
là một môi trường mà sự cạnh tranh luôn được kích thích và duy trì. Ở đó, cơ hội
cạnh tranh tự do cho tất cả các chủ thể kinh doanh phải được đảm bảo như một nội
dung quan trọng của quyền tự do kinh doanh.
Với tư cách là động lực nội tại trong mỗi một chủ thể kinh doanh, cạnh tranh
được cuốn Black’Law Dictionary diễn tả là “sự nỗ lực hoặc hành vi của hai hay
nhiều thương nhân nhằm tranh giành những lợi ích giống nhau từ chủ thể thứ ba”[1]
Với tư cách là hiện tượng xã hội, theo cuốn Từ điển Kinh doanh của Anh xuất
bản năm 1992, cạnh tranh được định nghĩa là “sự ganh đua, sự kình địch giữa các
nhà kinh doanh nhằm tranh giành cùng m ột loại tài nguyên hoặc cùng một loại khách

hàng về phía mình”[2] .
Có thể có nhiều định nghĩa khác nhau về cạnh tranh, song nhìn chung cạnh
tranh được hiểu là sự chạy đua hay ganh đua của các thành viên của một thị trường
hàng hóa, sản phẩm cụ thể nhằm m ục đích lôi kéo về phía mình ngày càng nhiều
khách hàng, thị trường và thị phần. [3]
Có thể nói cạnh tranh đã đem lại cho thị trường và cho đời sống xã hội một
diện mạo mới, đa dạng, linh hoạt phong phú và ngày càng phát triển. Tuy nhiên,
cạnh tranh chỉ tồn tại nếu như các chủ thể có quyền tự do cạnh tranh, tự do hành xử
trên thị trường.
Quyền tự do cạnh tranh được coi là thuộc tính tự nhiên của các nhà kinh
doanh. Vì vậy, nó phải được pháp luật bảo hộ với tư cách là quyền của các nhà kinh
doanh và trở thành nội dung không thể thiếu của quyền tự do kinh doanh.
Quyền tự do cạnh tranh là một bộ phận hợp thành trong hệ thống các quyền tự
do kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể hiểu quyền tự do kinh doanh của doanh
nghiệp về thực chất là khả năng của chủ thể được thực hiện những hoạt động sản
xuất, tiêu thụ sản phẩm, cung cấp dịch vụ kinh doanh dưới n hững hình thức thích


7

hợp với khả năng vốn, khả năng quản lý của mình nhằm thu lợi nhuận. [4]. Quyền tự
do kinh doanh là hệ thống các quyền gắn với chủ thể kinh doanh, mà chủ yếu và
trước hết là:
- Quyền được đảm bảo sở hữu đối với tài sản;
- Quyền tự do thành lập doanh nghiệp;
- Quyền tự do hợp đồng;
- Quyền tự do cạnh tranh theo pháp luật
- Quyền tự do định đoạt trong lĩnh vực giải quyết tranh chấp.
Các quyền tự do trên có m ối quan hệ hữu cơ tạo thành thể thống nhất của nội
dung quyền tự do kinh doanh. Trong hệ thống các quyền tự do đó thì quyền tự do

cạnh tranh của doanh nghiệp có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Giá trị to lớn của quyền
tự do cạnh tranh thể hiện ở chỗ nó là tự do trong hoạt động kinh tế, là động lực thúc
đẩy việc thực hiện các quyền sở hữu tư liệu sản xuất, tự do hợp đồng…
Thừa nhận cho cá nhân, tổ chức có quyền kinh doanh, cũng có nghĩa là Nhà
nước phải thừa nhận các chủ thể được làm những gì mà pháp luật không cấm để thực
hiện tốt hoạt động kinh doanh của mình, trong đó có quyền tự do cạnh t ranh. Thế
nhưng phải hiểu rằng, quyền tự do cạnh tranh của các nhà kinh doanh là cạnh tranh
lành mạnh. Đó là hình thức cạnh tranh tích cực, trong sáng, các doanh nghiệp có thể
sử dụng bất cứ chiêu thức nào để phát triển doanh nghiệp của mình, nếu không trá i
pháp luật và làm ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống xã hội.
Quan niệm về quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp phải được nhìn nhận,
xem xét một cách toàn diện trên những khía cạnh cơ bản sau:
M ột là, quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp trước hết phải được nhìn
nhận như là một giá trị tự thân của doanh nghiệp, mà Nhà nước phải thừa nhận và
bảo vệ.. Quyền này là của bản thân m ỗi doanh nghiệp, không phải là sự ban phát hay
trao tặng của Nhà nước. Nó là một phần hợp thành và đóng vai trò quan trọng trong
hệ thống các quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp.
Hai là, quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp có trở thành hiện thực và
phát huy tác dụng trong thực tiễn hay không, tùy thuộc vào việc Nhà nước có đáp
ứng được những đòi hỏi mà quyền tự do cạnh tranh đặt ra để kịp thời thể chế hóa và
bảo vệ bằng pháp luật.
Ba là, quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp tồn tại như một nhu cầu tất
yếu của sự phát triển kinh tế - xã hội. Vì vậy, nó phải là m ục tiêu mà Nhà nước
hướng tới nếu như m uốn thực hiện địa vị hợp pháp, tính nhân văn tiến bộ trong quá
trình thực hiện quyền thống trị của mình.
Tóm lại có thể hiểu, Q uyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp là quyền của
các doanh nghiệp có thể sử dụng bất cứ biện pháp, chiêu thức nào để phát triển
doanh nghiệp của mình trong khuôn khổ quy định pháp luật nhằm cạnh tranh với các
đối thủ cạnh tranh khác.
1.2. Cơ sở hình thành quyền tự do cạnh tranh



8

Cạnh tranh là một trong những quy luật của nền kinh tế thị trường. Do đó có
vai trò quan trọng không những với tư cá ch là động lực của sự phát triển, mà còn với
tư cách là yếu tố quan trọng làm lành mạnh các quan hệ kinh doanh. Trong cơ chế thị
trường, nếu lợi nhuận thúc đẩy các nhà kinh doanh thì cạnh tranh đòi hỏi họ phải
điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh, cũng như sử dụ ng các nguồn lực (vốn, lao
động, kỹ thuật… ) có hiệu quả nhất nhằm duy trì sự tồn tại và phát triển sự nghiệp
kinh doanh của mình. Cạnh tranh có vai trò quan trọng không chỉ với bản thân từng
nhà kinh doanh mà còn có ý nghĩa đối với cả nền kinh tế nói chung . Xuất phát từ đặc
điểm của nền kinh tế thị trường và ý nghĩa to lớn mà cạnh tranh mang lại, quyền tự
do cạnh tranh của doanh nghiệp được hình thành một cách tất yếu và được bảo đảm
thực hiện.
1.2.1. Đ ặc điểm của nền kinh tế thị trường
Ngày nay, cạnh tranh được thừa nhận như là một đặc trưng cơ bản của cơ chế
thị trường, không có cạnh tranh thì không có nền kinh tế thị trường theo đúng nghĩa
của nó. Nền kinh tế thị trường khi vận hành phải tuân theo những quy luật khách
quan, trong đó có quy luật cạnh tranh. Theo quy luật này các doanh nghiệp phải cạnh
tranh với nhau để giành được ưu thế so với đối thủ của mình trên thị trường. C hính vì
thế, ở nước ta cạnh tranh được coi là một trong những động lực thúc đẩy của sự phát
triên kinh tế - xã hội, trong nền kinh tế có sự điều tiết của N hà nước.
Kinh tế thị trường là kinh tế hàng hóa phát triển ở trình độ xã hội hóa cao. Nó
là hình thức, phương thức vận hành kinh tế, trong đó các quy luật của thị trường chi
phối việc phân bổ các tài nguyên, quy định: sản xuất cái g ì? sản xuất như thế nào? và
sản xuất cho ai?
Xuất phát từ đặc điểm của nền kinh tế thị trường: nơi mà cung cầu là cốt vật
chất, giá cả là diện mạo và cạnh tranh là linh hồn sống của thị trường. Thị trường là
nơi gặp gỡ giữa sở thích của người tiêu dùng v à khả năng đáp ứng về trình độ công

nghệ của người sản xuất. Trong cơ chế thị trường các doanh nghiệp gia nhập thị
trường theo ý m uốn và tồn tại bằng việc tạo ra lợi nhuận và phải cạnh tranh nhau.
Với sự ganh đua để đáp ứng nhu cầu của thị trường, các doan h nghiệp tìm m ọi cách
để cạnh tranh với nhau bằng cách nâng cao chất lượng sản phẩm , hạ giá thành sản
phẩm… Để các doanh nghiệp thực hiện các hành vi cạnh tranh của mình, pháp luật
cần ghi nhận cho họ quyền được cạnh tranh, quyền tự do thực hiện các hành vi nhằm
phát triển doanh nghiệp, duy trì sự cạnh tranh bền vữ ng với các doanh nghiệp khác.
Cạnh tranh là sản phẩm riêng có của nền kinh tế thị trường, là linh hồn và là
động lực cho sự phát triển của thị trường. Kinh tế thị trường đòi hỏi phải có sự tồn tại
của tự do, có như thế các nguồn lực thị trường mới có thể vận hành tốt và đem lại
hiệu quả cho sự phát triển. Chỉ có trong nền kinh tế thị trường với những đặc trưng
cơ bản của nó quyền tự do cạnh tranh m ới được hình thành:
M ột là, tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao. Các chủ thể kinh tế tự bù
đắp nhữ ng chi phí và tự chịu trách nhiệm đối với kết quả sản xuất và kinh doanh của


9

mình. Các chủ thể kinh tế được tự do liên kết, liên doanh, tự do tổ chức quá trình sản
xuất theo luật định. Đây là đặc trưng rất quan trọng của kinh tế thị trường. Đặc trưng
này xuất phát từ những điều kiện khách quan của việc tồn tại nền kinh tế hàng hóa.
Đồng thời cũng là biểu hiện và là yêu cầu nội tại của kinh tế hàng hóa. Kinh tế hàng
hóa không bao dung hành vi bao cấp, nó đối lập với bao cấp và đồng nghĩa với tự
chủ, năng động.
Hai là, trên thị trường hàng hóa rất phong phú. Người ta tự do m ua bán, hàng
hóa. Trong đó người mua chọn người bán, người bán tìm người m ua. Họ gặp nhau ở
giá cả thị trường. Đặc trưng này phản ánh tính ưu việt hơn hẳn của kinh tế thị trường
với kinh tế tự nhiên.
Ba là, giá cả được hình thành ngay trên thị trường. Giá cả thị trường vừa là sự
biểu hiện bằng tiền của giá trị thị trường, vừa chịu sự tác động của quan hệ cạnh

tranh và quan hệ cung cầu hàn g hóa và dịch vụ. Trên cơ sở giá trị thị trường, giá cả là
kết quả của sự thương lượng và thỏa thuận giữa người mua và người bán. Đặc trưng
này phản ánh yêu cầu của quy luật lưu thông hàng hóa. Trong quá trình trao đổi mua
bán hàng hóa, người bán luôn luôn m uốn bán với giá cao, người mua lại luôn muốn
mua với giá thấp. Đối với người bán, giá cả phải đáp ứ ng nhu cầu bù đắp được chi
phí và có lợi nhuận. Chi phí sản xuất là giới hạn, là phần cứng của giá cả, còn lợi
nhuận càng nhiều càng tốt. Đối với người m ua , giá cả phải phù hợp với lợi ích giới
hạn của họ. G iá cả thị trường dung hòa được cả lợi ích của người mua lẫn lợi ích của
người bán. Tất nhiên, trong cuộc giằng co giữa người m ua và người bán để hình
thành giá cả thị trường, lợi thế sẽ nghiêng về người b án, nếu như cung ít, cầu nhiều
và ngược lại, lợi thế sẽ nghiêng về phía người mua nếu như cung nhiều, cầu ít. Đ ó là
quy luật của nền kinh tế thị trường.
Bốn là, cạnh tranh là tất yếu của kinh tế thị trường. Nó tồn tại trên cơ sở
những đơn vị sản xuất hàng hóa độc lập và khác nhau về lợi ích kinh tế. Theo yêu
cầu của quy luật giá trị tất cả các đơn vị sản xuất hàng hóa đều phải sản xuất và kinh
doanh trên cơ sở hao phí lao động, xã hội cần thiết. Trong điều kiện đó, m uốn có
nhiều lợi nhuận các đơn vị sản xuấ t và kinh doanh phải đua nhau cải tiến kỹ thuật, áp
dụng kỹ thuật mới vào sản xuất để nâng cao năng suất lao động cá biệt, giảm hao phí
lao động cá biệt nhằm thu lợi nhuận siêu ngạch.
Xuất phát từ đặc điểm của nền kinh tế thị trường mà cạnh tranh là một tr ong
những quy luật vận động cũng vì thế các chủ thể trực tiếp kinh doanh cạnh tranh với
nhau cần thiết phải được quy định quyền tự do cạnh tranh. Có như vậy, thì trong nền
kinh tế thị trường các chủ thể mới có thể có đủ điều kiện thực hiện kinh doanh và
cạnh tranh với nhau. Việc ghi nhận quyền tự do cạnh tranh của các doanh nghiệp
trong nền kinh tế thị trường là một tất yếu khách quan.
1.2.2. Ý nghĩa của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường
Sau vài thế kỷ thăng trầm của kinh tế thị trường và với sự chấm dứt của cơ
chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, con người ngày càng nhận thức đúng hơn về bản



10

chất và ý nghĩa của cạnh tranh đối với sự phát triển chung của đời sống kinh tế. Với
ý nghĩa là động lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, cạnh tranh luôn là đối
tượng được pháp luật và các chính sách kinh tế quan tâm. Xuất phát từ ý nghĩa to lớn
mà cạnh tranh mang lại cho nền kinh tế và xã hội, cạnh tranh cần phải được bảo vệ
và duy trì. Để cạnh tranh có thể tồn tại và phát huy được giá trị to lớn của mình đố i
với xã hội, Nhà nước và pháp luật cần ghi nhận quyền tự do cạnh tranh cho các
doanh nghiệp – các chủ thể trực tiếp thực hiện các hành vi cạnh tranh. Có thể nói, với
những ý nghĩa mà cạnh tranh mang lại chính là m ột trong những cơ sở quan trọng
góp phần hình thành quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp.
Cạnh tranh là cơ chế vận hành chủ yếu của kinh tế thị trường, là động lực thúc
đẩy phát triển kinh tế. Cạnh tranh có thể đưa đến lợi ích cho người này và thiệt hại
cho người khác, song xét dưới góc độ toàn xã hội, cạnh tranh có ý nghĩa xã hội lớn
lao.
Đối với nền kinh tế, cạnh tranh làm sống động nền kinh tế, thúc đẩy tăng
trưởng và tạo ra áp lực buộc các doanh nghiệp phải có nhiều biện pháp, giải pháp
nhằm sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, qua đó góp phầ n tiết kiệm các nguồn lực
chung của nền kinh tế. M ặt khác, cạnh tranh cũng tạo ra áp lực buộc các doanh
nghiệp phải đẩy nhanh tốc độ quay vòng vốn, sử dụng lao động có hiệu quả, tăng
năng suất lao động, góp phần thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế quốc dân.
Cạnh tranh có vai trò điều phối các hoạt động kinh doanh trên thị trường, đảm
bảo phân phối thu nhập và các nguồn lực kinh tế tập trung vào tay những doanh
nghiệp giỏi, có khả năng và bản lĩnh trong kinh doanh. Sự tồn tại của cạnh tranh sẽ
loại bỏ những khả năng lạm dụng quyền lực thị trường để bóc lột đối thủ cạnh tranh
và bóc lột khách hàng. Vai trò điều phối của cạnh tranh thể hiện thông qua các chu
trình của quá trình cạnh tranh. Dẫu biết rằng, cạnh tranh là một chuỗi các quan hệ và
hành vi liên tục khôn g có điểm dừng diễn ra trong đời sống của thương trường, song
được các lý thuyết kinh tế mô tả bằng hình ảnh phát triển của các chu trình theo hình
xoắn ốc. T heo đó, chu trình sau có mức độ cạnh tranh và khả năng kinh doanh cao

hơn so với chu trình trước. D o đó, khi m ột chu trình cạnh tranh được giả định là kết
thúc, người chiến thắng sẽ có được thị phần lớn hơn điểm xuất phát. Thành quả này
được sử dụng làm khởi đầu cho giai đoạn cạnh tranh tiếp theo. Cứ thế, kết quả thực
hiện các chiến lược kinh doanh và cạnh tranh hiệu quả sẽ làm cho doanh nghiệp có
sự tích tụ dần trong quá trình kinh doanh để nâng cao dần vị thế của người chiến
thắng trên thương trường. Trong cuộc cạnh tranh dường như có sự hiện diện của một
bàn tay vô hình lấy đi m ọi nguồn lực kinh tế từ những doanh nghiệp kinh doanh kém
hiệu quả để trao cho những người có khả năng sử dụng m ột cách tốt hơn. Sự dịch
chuyển như vậy đảm bảo cho các giá trị kinh tế của thị trường được sử dụng một
cách tối ưu.
Cạnh tranh kích thích sự sáng tạo, là nguồn gốc c ủa sự đổi mới liên tục trong
đời sống kinh tế - xã hội. Nền tảng của quy luật cạnh tranh trên thị trường là quyền


11

tự do trong kinh doanh và sự độc lập trong sở hữu của hoạt động doanh nghiệp. Khi
sự tự do kinh doanh bị tiêu diệt thì m ọi sự thi đua chỉ là n hững cuộc tụ họp theo
phong trào, không thể là động lực đích thực thúc đẩy sự phát triển. Cạnh tranh đòi
hỏi Nhà nước và pháp luật phải tôn trọng tự do trong kinh doanh, tự do cạnh tranh.
Trong sự tự do cạnh tranh, quyền được sáng tạo trong khuôn khổ tôn t rọng lợi ích
của chủ thể khác và của xã hội luôn được đề cao như m ột kim chỉ nam của sự phát
triển. Sự sáng tạo làm cho cạnh tranh diễn ra liên tục theo chiều hướng gia tăng của
quy m ô và nhịp độ tăng trưởng của nền kinh tế. Sự sáng tạo không mệt m ỏi của c on
người trong cuộc cạnh tranh nhằm đáp ứng những nhu cầu luôn thay đổi qua nhiều
thế hệ liên tiếp là cơ sở thúc đẩy sự phát triển liên tục và đổi m ới không ngừng. Sự
đổi mới trong đời sống kinh tế được thể hiện thông qua nhữ ng thay đổi trong cơ cấu
thị trường, hình thành những ngành nghề m ới đáp ứng những nhu cầu của đời sống
hiện đại, sự phát triển liên tục của khoa học kỹ thuật là sự tiến bộ trong nhận thức
của tư duy con người về các vấn đề liên quan đến kinh tế - xã hội.

Đối với xã hội, cạnh tranh là động lực quan trọng nhất để huy động nguồn
lực của xã hội vào sản xuất kinh doanh hàng hóa, dịch vụ còn thiếu, qua đó nâng cao
năng lực sản xuất của toàn xã hội. Trong cạnh tranh các doanh nghiệp yếu kém bị
đào thảo, doanh nghiệp mới xuất hiện. D oanh nghiệ p làm ăn có hiệu quả sẽ tiếp tục
tồn tại và phát triển, nhờ đó nguồn lực xã hội được sử dụng một cách hợp lý.
Cạnh tranh điều chỉnh cung cầu hàng hóa trên thị trường. Khi cung m ột hàng
hóa nào đó thấp hơn cầu, hàng hóa đó trở nên khan hiếm thị trường, giá cả tăng lên
tạo ra lợi nhuận cao hơn mức bình quân. Khi đó, người kinh doanh sẽ đầu tư vốn xây
dựng thêm cơ sở sản xuất mới hoặc nâng cao năng lực sản xuất của những cơ sở sản
xuất sẵn có. Đ ó là động lực quan trọng nhất làm tăng thêm lượng vốn đầu tư cho s ản
xuất, kinh doanh, nâng cao năng lực sản xuất trong toàn xã hội.
Cạnh tranh tạo ra sự đa dạng của sản phẩm và dịch vụ cũng chính là tạo ra
nhiều lựa chọn cho khách hàng, cho người tiêu dùng. Cạnh tranh đáp ứng nhu cầu
của người tiêu dùng. Trong môi trường cạnh tranh, người tiêu dùng có vị trí trung
tâm, họ được cung phụng bởi các bên tham gia cạnh tranh. Nhu cầu của họ được đáp
ứng một cách tốt nhất mà thị trường có thể cung ứng, bởi họ là người có quyền bỏ
phiếu bằng đồng tiền để quyết định ai được tồn tại và ai phải ra khỏi cuộc chơi. Nói
khác đi, cạnh tranh đảm bảo cho người tiêu dùng có được cái mà họ muốn. M ột
nguyên lý của thị trường là ở đâu có nhu cầu, có thể kiếm được lợi nhuận thì ở đó có
mặt các nhà kinh doanh, người tiêu dùng không còn phải số ng trong tình trạng xếp
hàng chờ mua nhu yếu phẩm như thời kỳ bao cấp, mà ngược lại, nhà kinh doanh luôn
tìm đến để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng m ột cách tốt nhất.
Với sự ganh đua của môi trường cạnh tranh, các doanh nghiệp luôn tìm mọi
cách hạ giá thành sản phẩm nhằm lôi kéo khách hàng về phía mình. Sự tương tác
giữa nhu cầu của người tiêu dùng và khả năng đáp ứng của doanh nghiệp trong điều
kiện cạnh tranh đã làm cho giá cả hàng hóa và dịch vụ đạt được mức rẻ nhất có thể,


12


các doanh nghiệp có thể thỏa mãn nhu cầu của người tiêu dùng trong khả năng chi
tiêu của họ. Với ý nghĩa đó, cạnh tranh góp phần loại bỏ khả năng bóc lột người tiêu
dùng từ phía nhà kinh doanh.
Thị trường là nơi gặp gỡ giữa sở thích của người tiêu dùng và khả năng đáp
ứng về trình độ công nghệ của người sản xuất. Trong mối quan hệ đó, sở thích của
người tiêu dùng là động lực chủ yếu của yếu tố cầu, công nghệ sẽ quyết định về yếu
tố cung của thị trường. Tùy thuộc vào khả năng tài chính và nhu cầu, người tiêu dùng
sẽ quyết định việc sử dụng loại hàng hóa, dịch vụ cụ thể. Phụ thuộc vào những tính
toán về công nghệ, về chi phí… nhà sản xuất sẽ quyết định mức độ đáp ứng nhu cầu
về loại sản phẩm, về giá và chất lượng của chúng. Thực tế cho thấy, mức độ thỏa
mãn nhu cầu của người tiêu dùng phụ thuộc vào khả năng tài chính, trình độ công
nghệ của doanh nghiệp. Nhữ ng gì mà doanh nghiệp chưa thể đáp ứng sẽ là các đề
xuất từ phía thị trường để doanh nghiệp lên kế hoạch cho tương lai. Do đó, có thể nói
nhu cầu và sở thích của người tiêu dùng có va i trò định hướng cho hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp.
Đối với mỗi chủ thể kinh doanh , cạnh tranh tạo áp lực buộc họ phải thường
xuyên tìm tòi sáng tạo, cải tiến phương pháp sản xuất và tổ chức quản lý kinh doanh,
đổi mới công nghệ, áp dụng tiến bộ k hoa học kỹ thuật, phát triển sản phẩm m ới, tăng
năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Qua đó nâng cao trình độ của công nhân
và các nhà quản lý các cấp trong doanh nghiệp. M ặt khác, cạnh tranh sàng lọc khách
quan đội ngũ nhữ ng người thực sự không có k hả năng thích ứ ng với sự thay đổi của
thị trường.
Cạnh tranh với các tín hiệu giá cả và lợi nhuận sẽ hướng người kinh doanh
chuyển nguồn lực từ nơi sử dụng có hiệu quả thấp hơn sang nơi sử dụng có hiệu quả
cao hơn. Cạnh tranh đảm bảo việc sử dụng các nguồn lực kinh tế một cách hiệu quả
nhất. N hững nỗ lực giảm chi phí để từ đó giảm giá thành của hàng hóa, dịch vụ đã
buộc các doanh nghiệp phải tự đặt mình vào những điều kiện kinh doanh tiết kiệm
bằng cách sử dụng một cách hiệu quả nhất các nguồn lực mà họ có được. M ọi sự
lãng phí hoặc tính toán sai lầm trong sử dụng nguyên vật liệu đều có thể dẫn đến
những thất bại trong kinh doanh. Nhìn ở tổng thể của nền kinh tế, cạnh tranh là động

lực cơ bản giảm sự lãng phí trong kinh doanh, giúp cho m ọi nguồn nguyên, nhiê n,
vật liệu được sử dụng tối ưu.
Cạnh tranh có tác dụng thúc đẩy việc ứng dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật
trong kinh doanh. Cạnh tranh điều chỉnh cung cầu hàng hóa trên thị trường. K hi cung
một hàng hóa nào đó lớn hơn cầu, cạnh tranh giữa những người b án làm cho giá cả
thị trường giảm xuống, chỉ nhữ ng cơ sở kinh doanh nào đủ khả năng cải tiến công
nghệ, trang bị kỹ thuật, phương thức quản lý và hạ được giá bán sản phẩm mới có thể
tồn tại. Với ý nghĩa đó, cạnh tranh là nhân tố quan trọng đòi hỏi việc ứng dụng khoa
học, công nghệ tiên tiến trong sản xuất. Nhu cầu tìm kiếm lợi nhuận đã thúc đảy các
doanh nghiệp không ngừng áp dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật tiên tiến nhằm


13

nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm chi phí sản xuất để đáp ứng ngày càng tốt hơn
đòi hỏi của thị trường, mong giành phần thắng về mình. Cứ như thế cuộc chạy đua
giữa các doanh nghiệp sẽ thúc đẩy sự phát triển không ngừng của khoa học, kỹ thuật
trong đời sống kinh tế và xã hội. Trên thực tế, sự thay đổi và phát triển liên tục của
các thế hệ máy vi tính và sự phát triển của hệ thống viễn thông quốc tế hiện đại cho
thấy rõ vai trò của cạnh tranh trong việc thúc đẩy tiến bộ khoa học, kỹ thuật.
Tóm lại xuất phát từ nền kinh tế thị trường với những đặc trưng cơ bản của nó
cùng với ý nghĩa của cạnh tranh mang lại đối với xã hội và nền kinh tế mà quyền tự
do cạnh tranh cần thiết được Nhà nước và pháp luật ghi nhận và có cơ chế bảo đảm
thực hiện trên thực tế.
1.3. Yếu tố đảm bảo quyền tự do cạnh tranh
M ặc dù, quyền tự do cạnh tranh là quyền tự nhiên của các doanh nghiệp
nhưng chỉ khi được pháp luật ghi nhận thì quyền tự do cạnh tranh mới có thể trở
thành thực quyền.. Tuy nhiên, dù được ghi nhận nhưng nếu không được sự tôn trọng
và tạo điều kiện thực hiện từ phía các cơ quan nhà nước, các tổ chức, c á nhân khác
thì nó mãi mãi chỉ là “cơ hội” mà không trở thành “hiện thực”. Do đó, cần đến một

vai trò khác nữa từ phía pháp luật là bảo đảm các điều kiện thực hiện quyền tự do
cạnh tranh.
Quyền tự do cạnh tranh một mặt bao gồm nhữ ng quyền mà họ được hưởng ,
mặt khác đó là trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước, công chức Nhà nước khi thực
hiện chức năng quản lý của mình phải tôn trọng, bảo vệ quyền tự do cạnh tranh của
doanh nghiệp. Hai mặt này tồn tại thống nhất trong chế định pháp lý tự do cạnh
tranh. Nếu chỉ thừa nhận quyền của chủ thể mà không đảm bảo cho nó những điều
kiện để thực hiện thì quyền tự do cạnh tranh cũng chi mang tính hình thức.
Ngày nay, hầu như tất cả các quốc gia trên Thế giới đều thừa nhận cạnh tranh
và đưa ra những đảm bảo pháp lý nhằm thúc đẩy tự do cạnh tranh lành mạnh. Để
đảm bảo quyền tự do cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp thì các yêu cầu sau
đây phải được đảm bảo:
1.3.1. Bảo đảm sự bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế
Cơ sở pháp lý quan trọng tạo điều kiện và bảo đảm cho cạnh tranh tồn tại là
các quy định về tự do kinh doanh và quyền được tồn tại bình đẳng của các doanh
nghiệp. C hỉ khi nào được tự do gia nhập thị trường, tự do hợp đồng và bảo đảm
quyền sở hữ u thì lúc đó các chủ thể tham gia thị trường m ới có đủ năng lực để quyế t
định phương thức kinh doanh. Lúc đó, cạnh tranh m ới có đất để tồn tại và phát huy
tác dụng. Sự bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế được đảm bảo như sau:
Trong thị trường tự do và lành mạnh, các doanh nghiệp tự quyết định việc
cung cấp hàng hóa và dịch vụ mà không chịu bất cứ sự chi phối nào từ phía Nhà
nước và các doanh nghiệp khác. Người tiêu dùng mua những hàng hóa mà họ cần.
Thị trường đưa các doanh nghiệp và người tiêu dùng đến với nhau. Cơ chế thị trường


14

trong đó giá cả thay đổi theo sự vận động của c ung cầu quyết định hành vi của các
doanh nghiệp và nhu cầu của người tiêu dùng.
Trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp gia nhập thị trường theo ý muốn,

tồn tại bằng việc tạo ra lợi nhuận, và phải cạnh tranh nhau. Kết quả là trong khi một
vài doanh nghiệp thành công thì sẽ có những doanh nghiệp phải gánh chịu tổn thất,
thậm chí là phải rời bỏ thị trường. Đây là quy tắc tự chịu trách nhiệm của các doanh
nghiệp và được tuân thủ theo nguyên tắc của thị trường
Pháp luật bảo đảm loại trừ những hành vi phản cạn h tranh trong việc đua
tranh giành lợi nhuận trên thị trường. Từ đó, việc bảo vệ quyền tự do cạnh tranh của
các thành viên thị trường, bảo vệ môi trường cạnh tranh, bảo vệ sự lành mạnh của
quan hệ thị trường là yêu cầu tất yếu hiện nay
1.3.2. Kiểm soát các hành vi cản trở cạnh tranh lành m ạnh: chống độc
quyền và kiểm soát hành vi cạnh tranh không lành mạnh.
Để quyền tự do cạnh tranh được tồn tại cần phải có m ột m ôi trường kinh
doanh, cạnh tranh lành mạnh, trong đó độc quyền và cạnh tranh không lành mạnh
phải được Nhà nước kiểm soát chặt chẽ bằng chính sách và pháp luật. Có như vậy,
quyền tự do cạnh tranh của các doanh nghiệp m ới thực sự được đảm bảo.
Độc quyền trong kinh doanh thường gây ra những hậu quả tiêu cực đối với sự
phát triển kinh tế. D oanh nghiệp đ ộc quyền có thể lạm dụng vị trí độc quyền thông
qua hạn chế sản lượng và tăng giá bán m ột cách độc đoán làm thiệt hại cho người
tiêu dùng. Độc quyền không tạo sức ép hoặc khuyến khích người sản xuất quan tâm
đến cải tiến kỹ thuật, công nghệ sản xuất và phư ơng thức quản lý. Không những thế
độc quyền còn ngăn chặn tự do cạnh tranh và cản trở cạnh tranh lành mạnh, do đó
giảm động lực phát triển của nền kinh tế. Độc quyền trong kinh doanh dù hình thành
và tồn tại bằng cách nào cũng thường gây ra những hậu quả t iêu cực đối với nền kinh
tế quốc dân. Vì những hậu quả của độc quyền trong kinh doanh, nhiều quốc gia trên
thế giới đã coi chống độc quyền là nhiệm vụ đặc biệt quan trọng của N hà nước. Nhà
nước phải kiểm soát và chống độc quyền.
Hành vi cạnh tranh không là nh mạnh có đối tượng xâm hại cụ thể là lợi ích
của Nhà nước, của các doanh nghiệp khác và người tiêu dùng. Bên cạnh đó, thiệt hại
mà hành vi gây ra có thể là hiện thực (đã xảy ra) nhưng cũng có thể là tiềm năng. Ở
đâu có tự do cạnh tranh là ở đó có khả năn g xảy ra hành vi cạnh tranh không lành
mạnh. Hành vi cạnh tranh không lành mạnh là kết quả tất yếu của một hệ thống kinh

tế thị trường tự do cạnh tranh. Tuy nhiên, nếu không có biện pháp hạn chế, kiểm soát
hành vi cạnh tranh không lành mạnh thì sẽ ảnh hưởn g không nhỏ đến quyền lợi của
người tiêu dùng và kìm hãm sự phát triển nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường,
các doanh nhân phần lớn hoạt động vì lợi nhuận của chính mình, cần phải có cạnh
tranh giữa các đơn vị kinh tế. Thông qua cạnh tranh người mua là người được hưởng
lợi và xã hội cũng phát triển. M ọi doanh nghiệp luôn nỗ lực cung cấp các sản phẩm
có ích, hiệu quả, tiết kiệm nhất, giá thành rẻ nhất và chất lượng tốt nhất nhằm được


15

người tiêu dùng lựa chọn. T uy nhiên, sự nỗ lực của m ột doanh nghiệp c hân chính sẽ
trở nên vô nghĩa nếu như có những hiện tượng không tuân thủ quy tắc cơ bản của
cạnh tranh, cố ý lừa dối người tiêu dùng và giành lợi thế bằng cách hạ thấp đối thủ
cạnh tranh.
Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh và pháp luật kiểm soát, chống
độc quyền đều có mục đích chung là bảo vệ môi trường cạnh tranh lành mạnh, bảo
đảm cho các hoạt động cạnh tranh được diễn ra bình thường và đúng quy luật. Nếu
không có các quy định pháp luật trong lĩnh vực này, các thỏa thuận, liên kết trái pháp
luật sẽ hạn chế cạnh tranh và độc quyền sẽ triệt tiêu cạnh tranh, ảnh hưởng trực tiếp
đến quyền tự do cạnh tranh của các doanh nghiệp. Việc thiết lập hệ thống pháp luật
chống cạnh tranh không lành mạnh, kiểm soát, chống độc quyền chính là một bảo
đảm pháp lý quan trọng bảo vệ môi trường cạnh tranh lành mạnh, quyền tự do cạnh
tranh của doanh nghiệp được tôn trọng.
1.3.3. H ạn chế, xoá bỏ các quy định, thủ tục hành chính cản trở đến tự do
cạnh tranh
Trong đời sống hàng ngày, người dân và doanh nghiệp phải tuân thủ rất nhiều
các quy định về thủ tục hành chính. Thủ tục hành chính trên nhiều lĩnh vực đang là
rào cản đối với hoạt động kinh doanh, gây tốn kém, ảnh hưởng đến quyền tự do cạnh
tranh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế.

Trong m ột số lĩnh vực, thủ tục hàn h chính vẫn còn bất cập, chồng chéo, không
hợp lý gây khó khăn cho các doanh nghiệp, vẫn còn tình trạng cán bộ, công chức,
viên chức giải quyết công việc chậm trễ, cửa quyền, chất lượng ban hành VBQPPL
chưa cao, vẫn còn một số quy định chưa sát thực tế, ch ưa cụ thể. Việc hiện đại hóa,
ứng dụng CNTT vào giải quyết TTHC còn hạn chế. Vì những tồn tại nêu trên, các
doanh nghiệp khi thực hiện thủ tục hành chính vẫn phải đi lại nhiều lần, tốn nhiều
thời gian, chi phí, làm chậm hoặc mất cơ hội đầu tư, kinh doanh, làm giảm khả năng
cạnh tranh, góp phần hạn chế quyền tự do kinh doanh nói chung, quyền tự do cạnh
tranh nói riêng.
Việc đặt ra nhiều loại giấy phép con là một trong những rào cản đối với doanh
nghiệp tham gia thị trường. Việc thực hiện quá nhiều thủ tục hà nh chính gây phiền
hà cho doanh nghiệp, làm mất thời gian, mất cơ hội đầu tư kinh doanh.
Vì thế một trong những yếu tố quan trọng bảo đảm cho quyền tự do cạnh
tranh được thực thi trên thực tế đó là cần thực h iện cải cách thủ tục hành chính. Xóa
bỏ về cơ bản các thủ tục hành chính mang tính quan liêu, rườm rà, gây phiền hà cho
doanh nghiệp và nhân dân, cản trở tự do cạnh tranh của doanh nghiệp, hoàn thiện các
thủ tục hành chính mới, theo hướng công khai; đơn giản và thuận tiện cho doanh
nghiệp.
Kết quả cải cách thủ tục hành chính những năm qua cho thấy, mối quan hệ
giữa cơ quan hành chính nhà nước với người dân và doanh nghiệp đã được cải thiện
một bước đáng kể, thông qua các biện pháp như cải cách thủ tục hành chính gắn với


16

thực hiện cơ chế một cửa liên thông, công khai hóa, minh bạch hóa các quy định về
thủ tục hành chính; thủ tục hành chính được rà soát, sửa đổi, bãi bỏ theo hướng đơn
giản hóa, tạo thuận tiện cho người dân và doanh nghiệp. Đơn giản thủ tục hành chính
là một trong những khâu quan trọng góp p hần gỡ bỏ những rào cản thực hiện quyền
tự do cạnh tranh của doanh nghiệp, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp được thực thi

quyền tự do cạnh tranh trên thực tế.
1.3.4. Xây dựng các chế tài nghiêm ngặt đối với các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh, hạn chế cạn h tranh.
Quyền tự do cạnh tranh của các doanh nghiệp luôn bị giới hạn bởi lợi ích hợp
pháp của N hà nước, lợi ích công cộng, lợi ích của người tiêu dùng và của các chủ thể
kinh doanh khác. Việc doanh nghiệp tuân thủ các quy định của Luật cạnh tranh được
coi là cơ sở pháp lý quan trọng bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể
nêu trên. Tuy nhiên, vì mục tiêu lợi nhuận mà các doanh nghiệp có thể sẵn sàng thực
hiện những hành vi cản trở cạnh tranh xâm phạm đến quyền và lợi ích của các chủ
thể khác, làm ảnh hưởng đến môi trường cạnh tranh lành mạnh.
Để ngăn ngừa các hành vi cản trở cạnh tranh lành mạnh, bên cạnh những quy
định xác lập khuôn khổ pháp lý cho việc thực hiện quyền cạnh tranh, Nhà nước cần
xây dự ng chế tài đối với những hành vi cạnh tranh khô ng lành mạnh, hạn chế cạnh
tranh, bảo vệ quyền lợi cho những chủ thể bị các hành vi đó xâm hại, thông qua đó
duy trì bảo vệ môi trường cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo quyền tự do cạnh tranh
được tôn trọng.
Sẽ là hình thức nếu như Nhà nước đặt ra cơ chế kiểm soát mà không có cơ chế
thực thi việc kiểm soát. Thật vậy, để đảm bảo việc kiểm soát các hành vi cản trở cạnh
tranh lành mạnh có hiệu quả, N hà nước đã quy định những chế tài nghiêm khắc đối
với những hành vi vi phạm quy định của pháp luật về cạnh tranh. Đâ y là một trong
những biện pháp mang tính răn đe cho những hành vi cạnh tranh bất hợp pháp, tạo
cơ sở để các doanh nghiệp thực hiện quyền tự do cạnh tranh bình đẳng, không xâm
phạm đến quyền tự do cạnh tranh của các doanh nghiệp khác.
1.4. Giới hạn của quyền tự do cạnh tranh
Trong cơ chế thị trường, các doanh nghiệp gia nhập thị trường theo ý muốn,
tồn tại bằng việc tạo ra lợi nhuận và phải cạnh tranh nhau. Kết quả là trong khi một
vài doanh nghiệp thành công thì sẽ có những doanh nghiệp phải gánh chịu tổn thất,
thậm chí là phải rời bỏ thị trường. Đây là quy tắc tự chịu trách nhiệm của các doanh
nghiệp và được tuân thủ theo nguyên tắc của thị trường. Tuy nhiên, thực tế thị trường
luôn nảy sinh những biểu hiện tiêu cực từ cạnh tranh. Do những thôi thúc tư nhu cầu

tìm kiếm lợi nhuận, bằng những toan tính không phù hợp với truyền thống kinh
doanh lành mạnh, những biểu hiện tiêu cực đó đã xâm hại trật tự kinh doanh, đe dọa
hoặc xâm hại trực tiếp đến lợi ích của đối thủ cạnh tranh hoặc của người tiêu dùng.
Các hành vi hạn chế cạnh tranh trực tiếp xâm hại trật tự kinh tế, hủy hoại cạnh tranh
và xâm phạm quyền tự do kinh doanh lành mạnh của các doanh nghiệp khác.


17

Với quyền tự do cạnh tranh của mình các doanh nghiệp có thể tự do thực hiện
các hoạt động như: tự do đầu tư tiền vốn để thành lập doanh nghiệp, tự do lựa chọn
mô hình tổ chức kinh doanh, tự do lựa chọn đối tác để thiết lập các quan hệ kinh
tế… .Những khả năng xử sự này là thuộc tính tự nhiên của các doanh nghiệp chứ
không phải do Nhà nước ban tặng. Song những khả năng xử sự đó muốn trở thành
hiện thực thì phải được N hà nước thể chế hóa bằng pháp luật và khi đó nó mới trở
thành “thực quyền”. C ũng chính vì vậy mà quyền tự do cạnh tranh với tư cách là
quyền năng của chủ thể cũng có giới hạn nhất định, ví như Lê ni n từng chỉ rõ: “Sống
trong m ột xã hội mà lại thoát khỏi xã hội ấy để được tự do, đó là điều không thể
được” [5].
Tư tưởng về sự tự do không đồng nghĩa với tự do vô Chính phủ. Theo đó mọi
sự tự do quá trớn tạo ra nguy cơ tiêu diệt tự do. Bởi hành vi tự do q uá trớn của một
người có thể xâm phạm tự do của người khác và cuối cùng cả hai đều bị mất tự do.
Tự do cạnh tranh không phải là tự do vô nguyên tắc, vô điều kiện mà là sự tự do
trong khuôn khổ của pháp luật. Các doanh nghiệp thực hiện các biện pháp nhằm
cạnh tranh với nhau phải không được trái quy định của pháp luật.
Với mục đích bất chính và với những thủ pháp không đàng hoàng, tất cả các
hành vi bất chính trong cạnh tranh đều là những biến tướng của cạnh tranh, lợi dụng
tự do để xâm hại đến trật tự cạnh tranh trên thị trường. M ặt khác, trong nền kinh tế
thị trường, tự do cạnh tranh có thể dẫn tới tình trạng chèn ép, tìm cách loại bỏ lẫn
nhau, lừa đảo, gian lận thương mại… . Vì vậy, trách nhiệm đảm bảo thực hiện quyền

tự do cạnh tranh ở đây của pháp luật còn là đặt ra những giới hạn trong việc thực
hiện quyền tự do cạnh tranh, tức là xác định những hành vi mà các chủ thể phải thực
hiện hoặc cần phải tránh thực hiện để không làm tổn hại đến quyền, lợi ích hợp pháp
của các chủ thể khác và của N hà nước. Sự can thiệp này là cần thiết vì nó giúp cho
nền kinh tế- xã hội không bị hủy hoại bởi chính động lực “tự do” lợi nhuận và đảm
bảo sự phát triển của một xã hội tiến bộ, một N hà nước pháp quyền.
Nhận thức về sự tự do luôn gắn liền với nhu cầu phải gạt bỏ các biểu hiện
nhân danh tự do để hủy hoại sự tự do. Sự xuất hiện của Nhà nước và pháp luật sẽ giải
phóng m ọi sự kiềm tỏa của các biểu hiện bất chính đối với tự do của những chủ thể
đang bị xâm hại [6]. Nhà nước bằng các chính sách và công cụ pháp luật can thiệp
vào đời sống thị trường để điều tiết, hướng các quan hệ cạnh tranh vận động và phát
triển trong một trật tự, đảm bảo sự phát triển công bằng và lành mạnh. Với sự giục
giã của lợi nhuận và khả năng sáng tạo những thủ pháp cạnh tranh trong kinh doanh,
các doanh nghiệp khi tham gia thương trường không ngừng tiến hành cải tiến và
nâng cao trình độ công nghệ, trình độ quản lý lao động, quản lý sản xuất kinh doanh
để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của khách hàng. Bên cạnh nhữ ng tính toán để
nâng cao khả năng kinh doanh m ột cách chính đáng, còn phát sinh nhiều toan tính
không lành mạnh nhằm tiêu diệt đối thủ để chiếm lĩnh vị trí thống trị thị trường, giảm
bớt sức ép của cạnh tranh, nhiều thủ đoạn chiếm đoạt thị phần của người khác một


18

cách bất chính, lừa dối khách hàng để trục lợi...N hững biểu hiện không lành mạnh ấy
ngày càng phát triển cả về số lượng lẫn độ phức tạp trong biểu hiện làm ô nhiễm môi
trường kinh doanh của thị trường. Sự hỗn loạn của thị trường từ những hành vi bất
chính trong cạnh tranh buộc pháp luật và Nhà nước vào cuộc để sắp xếp lại trật tự thị
trường cho phù hợp với những nguyên tắc vốn có của nó, mang lại sự công bằng,
bình đẳng cho các doanh nghiệp.
Với tư cách là nội dung quan trọng trong chính sách cạnh tranh, pháp luật

cạnh tranh ngăn chặ n các doanh nghiệp thu lợi nhuận bằng việc thực hiện hành vi
cạnh tranh không lành mạnh, nâng cao nhận thức của xã hội về truyền thống kinh
doanh, khích lệ sự năng động, tự chủ, bảo vệ quyền lợi chính đáng của các doanh
nghiệp.
Như vậy, có thể đánh giá rằng, chính nhữ ng giới hạn của tự do cạnh tranh góp
phần đảm bảo quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp được tôn trọng và thực thi
trên thực tế. Nếu không có sự ghi nhận và bảo đảm thực hiện của pháp luật đối với
quyền tự do cạnh tranh thì không tồn tại quyề n tự do cạnh tranh thực sự.


19

Chương 2: C ác biện pháp pháp lý bảo đảm quyền tự do cạnh tranh của các
doanh nghiệp
Cạnh tranh là m ột trong những quy luật của nền kinh tế thị trường, nó có vai
trò quan trọng không những với tư cách là động lực của sự ph át triển, mà còn với tư
cách là yếu tố quan trọng làm lành mạnh các quan hệ kinh doanh. Và để đảm bảo
một m ôi trường pháp lý cho cạnh tranh lành mạnh, pháp luật hiện hành đã ghi nhận
quyền tự do cạnh tranh tại Điều 4 Luật Cạnh tranh năm 2004 “ 1. Doanh nghiệp được
tự do cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật. N hà nước bảo hộ quyền cạnh tranh hợp
pháp trong kinh doanh. 2. Việc cạnh tranh phải được thực hiện theo nguyên tắc
trung thực, không xâm phạm đến lợi ích của N hà nư ớc, lợi ích công cộng, quyền và
lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp, của ngư ời tiêu dùng và phải tuân theo các quy
định của Luật này”. Đây chính là cơ sở pháp lý đảm bảo cho các chủ thể kinh doanh
được tự do cạnh tranh, được thực hiện các hành vi cạnh tranh lành mạnh trong khuôn
khổ pháp luật.
Để tạo một m ôi trường cạnh tranh lành mạnh trước hết quyền bình đẳng của
các chủ thể tham gia môi trường kinh doanh đó phải được tôn trọng. M ột môi trường
cạnh tranh lành mạnh với những thủ tục hành chính thông thoáng sẽ tạo điều kiện
cho quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp được thực hiện tối đa đến mức có thể.

Bên cạnh đó, để đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh, pháp luật còn đặt ra
những quy định nhằm ngăn chặn và loại trừ những hành vi cạnh tranh thiếu lành
mạnh, cũng như kiểm soát tình trạng độc quyền. Điều này có ý nghĩa to lớn trong
việc đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp hoạt động
thương mại. Có như vậy, các chủ thể kinh doanh mới có thể tích cực tiến hành các
hoạt động cạnh tranh lành mạnh theo đúng quy định của pháp luật, vì lợi ích người
tiêu dùng và xã hội.
M ặt khác, để ngăn chặn và xử lý những hành vi cạnh tranh không lành mạnh,
pháp luật hiện hành đã đặt ra rất nhiều quy phạm, chế tài nhằm áp dụng đối với
những chủ thể có hành vi cản trở cạnh tranh lành mạnh. Có thể nói, quyền tự do cạnh
tranh của doanh nghiệp được tôn trọng và thực hiện trên thực tế hay không phụ thuộc
vào chính những bảo đảm pháp lý mà Nhà nước ghi nhận.
Để quyền tự do cạnh tranh thực hiện được thì cần phải thể chế hóa các nội
dung đòi hỏi khác nhau của quyền tự do cạnh tranh bằng những quy định pháp luật
cụ thể. M ặc dù, quyền tự do cạnh tranh là quyền tự nhiên của các doanh nghiệp
nhưng chỉ khi được pháp luật ghi nhận thì quyền tự do cạnh tranh mới có thể trở
thành thực quyền. Tuy nhiên, dù đượ c ghi nhận nhưng nếu không được sự tôn trọng
và tạo điều kiện thực hiện từ phía các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân khác
thì nó mãi mãi chỉ là “cơ hội” mà không trở thành “hiện thực”. Do đó, cần đến một
vai trò khác nữa từ phía pháp luật là bảo đảm các điều kiện thực hiện quyền tự do
cạnh tranh. Như vậy, có thể nhận thấy, nếu không có sự ghi nhận và bảo đảm thực
hiện của pháp luật đối với quyền tự do cạnh tranh thì không tồn tại quyền tự do cạnh


20

tranh trên thực tế. Những bảo đảm pháp lý để thực hiện quyền tự do cạnh tranh của
doanh nghiệp bao gồm:
2.1. Pháp luật bảo đảm quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp
Các doanh nghiệp cùng tồn tại trong m ột nền kinh tế của mỗi quốc gia, quyền

tự do cạnh tranh của họ là ngang nhau. Tuy nhiên, để đảm bảo quyền tự do cạnh
tranh của các doanh nghiệp được thực thi trên thực tế, cần thiết phải có cơ chế bảo
đảm thực thi mà trước hết pháp luật cần bảo đảm quyền bình đẳng giữa các doanh
nghiệp thuộc m ọi thành phần kinh tế. Thật vậy, quyền tự do cạnh tranh chỉ được đảm
bảo thực hiện khi nền kinh tế đó tồn tại sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế. Không có sự thiên vị hay ưu ái, phân biệt đối xử nào giữa
các thành phần kinh tế. Tất cả các doanh nghiệp tồn tại bình đẳng với nhau, cùng
được thực hiện quyền tự do cạnh tranh ngang nhau.
Nhận thức được ý nghĩa quan trọng của quyền bình đẳng giữa các thành phần
kinh tế, Hiến pháp 1992 cùng các Văn bản QPPL đã ghi nhận điều này là một
nguyên tắc cơ bản, bảo đảm pháp lý quan trọng để doanh nghiệp thực hiệ n quyền tự
do cạnh tranh của mình.
Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung vào năm 2001) đã thừa nhận
quyền bình đẳng của các doanh nghiệp thuộc m ọi thành phần kinh tế là một nguyên
tắc hiến định, tạo cơ sở pháp lý vững chắc để các doanh nghiệp thực hiện quyền tự
do cạnh tranh của mình m ột cách bình đẳng. Trong nền kinh tế thị trường Việt Nam
hiện nay tồn tại nhiều thành phần kinh tế, bên cạnh hai thành phần kinh tế Nhà nước
và tập thể, còn có kinh tế cá thể và tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản
Nhà nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Theo quy định của Hiến pháp 1992
và một số văn bản pháp luật khác, thì trong quan hệ sản xuất kinh doanh , các chủ thể
kinh tế thuộc các thành phần kinh tế không phân biệt quy m ô, hình thức lĩnh vực và
phạm vi kinh doanh đều có quyền và nghĩa vụ như nhau, bình đẳng trước pháp luật.
Các biện pháp khuyến khích đầu tư, bảo hộ đầu tư, căn cứ tính thuế để áp dụng pháp
luật về thuế, chế độ sử dụng lao động, bảo hiểm, giải quyết tranh chấp… đều phải tôn
trọng nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của các chủ thể kinh doanh thuộc mọi
thành phần kinh tế.
Điều 22 Hiến pháp 1992 quy định: “Các cơ sở sản xuất, kinh doanh thuộc
mọi thành phần kinh tế phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đối với N hà nước, đều
bình đẳng trước pháp luật, vốn và tài sản hợp pháp được N hà nước bảo hộ. Doanh
nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được liên doanh, liên kết với cá nhân, tổ chức

kinh tế trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật.”
Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật của các doanh n ghiệp thuộc m ọi thành
phần kinh tế còn được ghi nhận tại các văn bản QPPL khác. Luật Thương mại 2005
cũng dành riêng m ột điều khoản ghi nhận quyền bình đẳng thực hiện hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp thuộc m ọi thành phần kinh tế khác nhau là một n guyên
tắc cơ bản trong hoạt động thương mại. Điều đó đã được cụ thể hóa tại Điều 10 Luật


×