Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Pháp luật quản lý nợ thuế ở việt nam thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 73 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐỖ THU HỒNG

PHÁP LUẬT QUẢN LÝ NỢ THUẾ Ở VIỆT NAM –
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. NGUYỄN THỊ ÁNH VÂN

HÀ NỘI - 2013






1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã chứng minh rằng, thuế ra


đời là một tất yếu khách quan, gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển của
nhà nước. Để duy trì sự tồn tại của mình, nhà nước cần có nguồn tài chính để
chi tiêu, trước hết là chi cho việc duy trì và củng cố bộ máy cai trị từ trung
ương đến địa phương, thuộc phạm vi lãnh thổ mà nhà nước đó đang cai quản;
chi cho các công việc ban đầu thuộc chức năng của nhà nước như: quốc
phòng, an ninh, chi cho xây dựng và phát triển các cơ sở hạ tầng; chi cho các
vấn đề về phúc lợi công cộng, về sự nghiệp, về xã hội trước mắt và lâu dài.
Thuế là một nguồn thu quan trọng của NSNN do các thể nhân và pháp
nhân có nghĩa vụ luật định phải nộp cho Nhà nước nhưng Nhà nước không có
nghĩa vụ hoàn trả người nộp thuế một lợi ích tương ứng với số thuế đã nộp.
Khoản thu từ thuế vào NSNN là nhằm trang trải các chi phí để duy trì sự tồn tại,
hoạt động của bộ máy nhà nước và trang trải các chi phí công cộng phục vụ cho
lợi ích chung của cả cộng đồng. Hệ thống thuế của Việt Nam hiện nay gồm:
Thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, thuế
thu nhập doanh nghiệp, thuế thu nhập cá nhân, thuế sử dụng đất nông nghiệp,
thuế tài nguyên, thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, thuế môn bài … Bên cạnh
đó, pháp luật cũng quy định cách thức người nộp thuế thực hiện các thủ tục hành
chính để chuyển giao nguồn lực tài chính này vào quỹ NSNN, các chế tài xử lý
trong trường hợp không chấp hành nghĩa vụ thuế; trách nhiệm và quyền hạn của
các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quá trình chấp hành chính sách thuế… Các
quy định này thuộc phạm vi quản lý thuế.
Trong quá trình quản lý thuế, nợ thuế là hiện tượng không thể tránh
khỏi, vì vậy đặt ra yêu cầu, ngoài việc thu đúng thu đủ các khoản thuế đến
hạn cần phải có các quy định để quản lý các khoản nợ thuế. Nói cách khác, để
đảm bảo thu đủ số thuế phải nộp từ người nộp thuế vào NSNN cần phải làm
công tác quản lý nợ thuế. Theo đây, quản lý nợ thuế là công việc theo dõi,


2


nắm bắt thực trạng nợ thuế và các khoản thu khác do cơ quan thuế quản lý và
thực hiện các biện pháp đôn đốc thu hồi số thuế nợ của người nộp thuế.
Thời gian qua do hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu và
khu vực đã ảnh hưởng nặng nề tới các tổ chức và cá nhân trong nước. Nhiều
doanh nghiệp, hộ kinh doanh gặp khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh
doanh, phải giải thể, phá sản nên không có khả năng thực hiện nghĩa vụ nộp
thuế vào NSNN dẫn đền nợ thuế ngày càng tăng cao. Bên cạnh nguyên nhân
khách quan đó, còn có những nguyên nhân chủ quan như về chính sách thuế,
hiện vẫn chưa có chế tài xử lý mạnh và có tính khả thi cao đối với các trường
hợp vi phạm pháp luật về thuế, khiến các doanh nghiệp cố tình không thực
hiện nghĩa vụ nộp thuế, lợi dụng chiếm dụng tiền thuế phục vụ cho hoạt động
sản xuất kinh doanh của mình. Mặt khác, kiến thức pháp luật còn hạn chế và ý
thức chấp hành pháp luật của người nộp thuế chưa cao cũng là một trong
những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên. Người nộp thuế vẫn có thái độ
chây ỳ trong việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế; không có ý thức chấp hành các
biện pháp đôn đốc của cơ quan thuế; thậm chí, có không ít người nộp thuế
được mời đến trụ sở cơ quan thuế làm việc nhưng đã không đến.
Để công tác quản lý nợ thuế thực sự phát huy được vai trò quan trọng
của mình trong hệ thống pháp luật quản lý thuế, cần nghiên cứu, chỉ ra những
bất cập trong các quy định của pháp luật quản lý nợ thuế và từ đó tìm hướng
hoàn thiện mảng pháp luật này.
Với những lý do trên, việc lựa chọn và nghiên cứu đề tài “Pháp luật
quản lý nợ thuế ở Việt Nam hiện nay – Thực trạng và giải pháp hoàn
thiện” là việc làm có ý nghĩa thiết thực.
2. Mục đích nghiên cứu
- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về quản lý nợ thuế và pháp luật
quản lý nợ thuế;
- Phân tích và làm rõ một số nội dung cơ bản của pháp luật Việt Nam về
quản lý nợ thuế từ đó chỉ ra những hạn chế của hiện trạng mảng pháp luật này;



3

- Trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm xây dựng pháp luật quản lý nợ
thuế của một số nước trên thế giới, luận văn sẽ đưa ra một số đề xuất nhằm
hoàn thiện pháp luật quản lý nợ thuế ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
3. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu pháp luật Quản lý nợ thuế ở Việt Nam hiện nay;
- Nghiên cứu thực tiễn quản lý nợ thuế của Cơ quan quản lý thuế;
- Tham khảo kinh nghiệm của một số nước trên thế giới trong lĩnh vực
điều chỉnh bằng pháp luật đối với quản lý nợ thuế.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện
chứng, theo tư tưởng và quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về phương
hướng xây dựng và quản lý vấn đề xử lý nợ thuế; đồng thời luận văn cũng sử
dụng phương pháp tổng hợp, phân tích, so sánh, đối chiếu…
5. Tình hình nghiên cứu đề tài
Quản lý nợ thuế mới được tách ra thành một hoạt động riêng trong
công tác quản lý thuế vì vậy pháp luật quản lý nợ thuế cũng còn khá non trẻ
trong hệ thống các văn bản pháp luật về quản lý thuế. Hiện vẫn chưa có nhiều
công trình khoa học pháp lý nghiên cứu riêng về vấn đề này. Chủ yếu những
nghiên cứu về pháp luật quản lý nợ thuế được lồng ghép trong các đề tài
nghiên cứu về pháp luật quản lý thuế nói chung. Gần đây nhất là công trình
nghiên cứu “Pháp luật Quản lý thuế trong nền kinh tế thị trường ở Việt nam những vấn đề lý luận và thực tiễn” - Luận án tiến sĩ Luật học của thạc sĩ Vũ
Văn Cương. Luận án đã phân tích khá rõ một số vấn đề lý luận cũng như
thực tế áp dụng pháp luật quản lý thuế đặc biệt luận văn đã chỉ ra những bất
cập cơ bản trong pháp luật quản lý thuế. Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu của
công trình rất rộng, nghiên cứu tổng thể các bộ phận cấu thành của pháp luật
quản lý thuế bao gồm: Tuyên truyền hỗ trợ người nộp thuế; kê khai và kế toán
thuế; quản lý nợ và cưỡng chế nợ thuế; thanh tra và kiểm tra thuế. Có lẽ vì

phạm vi nghiên cứu của luận án quá rộng nên mảng pháp luật Quản lý nợ thuế


4

chưa được đề cập sâu. Các nghiên cứu riêng về pháp luật quản lý nợ thuế
được biết đến nhiều nhất là qua các bài viết đăng trên tạp chí luật học hay các
bài viết đăng tải trên báo mạng như: “Bất cập trong xử lý vi phạm hành chính
ở lĩnh vực thuế” – bài viết của tác giả Văn Tân đăng trên Tạp chí dân chỉ và
pháp luật số 11/2006; “Quản lý nợ thuế - nhiều bất cập cần sửa đổi” – Tác giả
Nhựt Thanh đăng trên website ngành thuế tháng 11/2011; “Luật thuế và
những vấn đề cần bàn thêm”- bài viết của TS Nguyễn Thị Thương Huyền
đăng trên Tạp chí nghiên cứu lập pháp số 19/2008. Trong các bài viết này,
một số đề cập đến pháp luật quản lý nợ thuế nhưng đều ở mức độ và phạm vi
hạn hẹp, chưa mang tính hệ thống (chỉ giới hạn ở các quy định về quản lý nợ
thuế trong từng mảng cụ thể), số khác chỉ đi sâu vào một vài khía cạnh về nội
dung của pháp luật bởi vây chưa cụ thể và chưa hoàn thiện.
Có thể nói, việc hệ thống hoá một cách toàn diện pháp luật Quản lý nợ
thuế cũng như đưa ra các phân tích chi tiết về thực trạng pháp luật hiện hành
về quản lý nợ thuế tại Việt Nam chưa được giải quyết triệt để trong các công
trình nghiên cứu trước đây.
6. Cơ cấu luận văn
Luận văn gồm 3 chương:
PHẦN MỞ ĐẦU
Chương 1: Khái quát về quản lý nợ thuế và pháp luật quản lý nợ thuế
Chương 2: Thực trạng pháp luật quản lý nợ thuế ở Việt Nam
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật quản lý nợ thuế ở Việt Nam
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO



5

CHƢƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ QUẢN LÝ NỢ THUẾ VÀ PHÁP LUẬT
QUẢN LÝ NỢ THUẾ
1.1. Khái quát về nợ thuế và quản lý nợ thuế
1.1.1. Khái quát về nợ thuế
1.1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của nợ thuế
Trước hết, khái niệm “Nợ”, nói chung, là một thuật ngữ được dùng để
hàm chỉ một nghĩa vụ mà một chủ thể (con nợ hay người mắc nợ) phải thực
hiện hoặc sẽ phải thực hiện trong hiện tại hoặc trong tương lai đối với một
chủ thể khác (chủ nợ). Thuật ngữ “nợ” chủ yếu được sử dụng để nói về các
nghĩa vụ tài sản mà một chủ thể phải thực hiện trong các giao dịch dân sự,
thương mại như trong các quan hệ vay, mượn tài sản, mua, bán…
Theo định nghĩa tại Từ Điển tiếng Việt năm: “Nợ là một thuật ngữ
thường được sử dụng trong trường hợp nợ về tài sản. Tuy nhiên, nợ cũng có
thể được sử dụng để chỉ các nghĩa vụ khác. Trong trường hợp nợ tài sản thì nợ
là một cách sử dụng sức mua trước khi kiếm đủ tổng số tiền để trả cho sức
mua đó”.
Nợ là một phần của tổng tài sản mà người mượn phải trả cho người cho
mượn ở một hay nhiều thời điểm trong tương lai. Nợ như vậy bao gồm: Nợ
vay ngân hàng, nợ qua việc bán trái phiếu, nợ tiền trả trước của khách hàng
hoặc nợ từ bổn phận phải chi trả khác chẳng hạn, Nhà nước nợ công chức tiền
hưu trí hứa hẹn sau khi về hưu. Nợ như vậy không bao gồm cổ phiếu hay
phần hùn vốn vào các tổ chức kinh tế.
Tuy nhiên, khi nói đến nợ thuế thì lại không hoàn toàn như vậy. Nợ
thuế ở đây không phải là phần tài sản của cá nhân hay tổ chức đã vay mà đó là
phần tài sản cá nhân hay tổ chức (thuộc diện phải đóng thuế theo quy định của
pháp luật) phải nộp vào NSNN khi phát sinh nghĩa vụ đó trong quá trình sản
xuất kinh doanh theo quy định của pháp luật.



6

Hiện nay chưa có văn bản pháp luật nào định nghĩa cụ thể về “nợ thuế”.
Hiến pháp 1992, Điều 80 quy định: “Công dân có nghĩa vụ đóng thuế và lao
động công tích theo quy định của pháp luật”. Khoản 3 Điều 7 Luật Quản lý
thuế năm 2006 có quy định: “Người nộp thuế có nghĩa vụ nộp tiền thuế đầy
đủ, đúng thời hạn, đúng địa điểm…”.
Nợ thuế nếu hiểu theo nghĩa rộng: là nghĩa vụ tài chính phải thực hiện
của tổ chức, cá nhân đối với Nhà nước. Thời điểm xác định một chủ thể có
nghĩa vụ2nộp thuế (có nợ thuế Nhà nước) được tính từ khi sự kiện pháp lý đã
được pháp luật dự liệu phát sinh. Chẳng hạn, trong pháp luật thuế Giá trị gia
tăng quy định: “Thời điểm xác định thuế giá trị gia tăng đối với hàng hóa là
thời điểm chuyển giao quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng hàng hóa cho người
mua không phân biệt đã thu được tiền hay chưa thu được tiền. Thời điểm xác
định thuế giá trị tăng đối với hàng hóa dịch vụ là thời điểm hoàn thành cung
ứng dịch vụ hoặc thời điểm lập hóa đơn cung ứng dịch vụ, không phân biệt đã
thu được tiền hay chưa thu được tiền”.(1)
Theo như quy định trên thời điểm chuyển giao hàng hóa đến người tiêu
dùng hoặc thời điểm hoàn thành việc cung ứng dịch vụ, cá nhân (hoặc tổ
chức) cung ứng hàng hóa, dịch vụ đó đã phát sinh nghĩa vụ nộp thuế đối với
Nhà nước và họ cần phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, khi đó đối tượng nộp
thuế phải đến các địa điểm nộp thuế để nộp thuế Tuy nhiên để tránh làm mất
thời gian, công sức và tiền bạc làm ảnh hưởng đến quá trình sản xuất, kinh
doanh và hoạt động của cơ quan quản lý thuế, Nhà nước đã quy định kỳ tính
thuế, kê khai thuế, kỳ nộp thuế.
Kỳ tính thuế: là khoảng thời gian để xác định số tiền thuế phải nộp vào
NSNN theo quy định của pháp luật thuế mà người nộp thuế phải thực hiện.
Chẳng hạn, kỳ tính thuế giá trị gia tăng đối với hàng hóa, dịch vụ kinh doanh

trong nước tính thu hàng tháng.(2)

(1) Điều 5 Nghị định 123/2008 ngày 08/12/2008.
(2) Mục IV Quyết định 477QĐ-TCT ngày 15/5/2008 về quy trình quản lý thu nợ thuế.


7

Kỳ kê khai, nộp thuế: là khoảng thời gian mà người nộp thuế phải thực
hiện kê khai số thuế phải nộp theo kỳ tính thuế và phải nộp tờ khai cho cơ
quan thuế và nộp thuế vào NSNN theo quy định của pháp luật quản lý thuế.
Chẳng hạn, Luật thuế giá trị gia tăng quy định cơ sở kinh doanh kê khai, tính
thuế và nộp số tiền thuế phát sinh trong tháng chậm nhất không quá 20 ngày
của tháng tiếp theo.
Như vậy, thời điểm phát sinh nghĩa vụ nộp thuế và thời điểm nộp thuế
vào NSNN không trùng nhau. Bởi vậy, nợ thuế có thể hiểu theo nghĩa hẹp
hơn như sau: “Nợ thuế là số tiền thuế mà người có nghĩa vụ nộp thuế phải nộp
trong kỳ tính thuế, đã quá thời hạn phải nộp thuế mà chưa nộp hoặc nộp chưa
đủ số tiền thuế phải nộp trong kỳ tính thuế”.
Điểm 4.5 mục IV của quy trình quản lý thu nợ thuế ban hành kèm theo
Quyết định số 477/QĐ-TCT ngày 15/5/2008 của Tổng cục trưởng Tổng cục
thuế quy định: “Tiền nợ thuế là số tiền thuế được xác định phải nộp vào
NSNN nhưng đã quá thời hạn theo quy định của pháp luật mà chưa nộp vào
NSNN”
Thời điểm bắt đầu tính nợ thuế đối với một khoản nợ thuế: Là ngày tiếp
theo ngày hết hạn nộp thuế theo quy định của pháp luật về thuế. Thời điểm
kết thúc tính nợ đối với một khoản nợ thuế: Là ngày tiếp theo ngày khoản nợ
được nộp vào NSNN; hoặc ngày có hiệu lực thi hành của văn bản xóa nợ,
miễn nộp hoặc xử lý bằng các hình thức khác.
Tuổi nợ thuế: là khoảng thời gian liên tục tính từ thời điểm bắt đầu tính

nợ đến thời điểm khoản nợ đó được xác định tuổi. Tuổi nợ được tính theo
ngày bao gồm cả ngày nghỉ, ngày lễ.
Như vậy, hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về nợ thuế, trong luận
văn này, tác giả xin được sử dụng khái niệm nợ thuế theo nghĩa hẹp để có
được cách hiểu thống nhất với các văn bản pháp luật quản lý thuế hiện hành ở
Việt Nam hiện nay. Theo đó, nợ thuế được hiểu là những khoản tiền mà thể
nhân hoặc pháp nhân (thuộc đối tượng phải nộp thuế theo quy định của pháp


8

luật) chưa nộp hoặc chưa nộp đủ vào NSNN sau khi hết hạn nộp thuế hoặc
hết thời hạn gia hạn nộp thuế.
Căn cứ theo định nghĩa trên, nợ thuế có một số Đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, chủ thể trong quan hệ nợ thuế: Chủ nợ là Nhà nước, người
mắc nợ thuế là các tổ chức, cá nhân thuộc diện phải thực hiện nghĩa vụ nộp
thuế cho Nhà nước.
Thứ hai, quan hệ nợ thuế là quan hệ phát sinh trên cơ sở luật định, quan
hệ quyền và nghĩa vụ hay quan hệ hành chính.
Thứ ba, nợ thuế là quan hệ được điều chỉnh bằng pháp luật thuế chứ
không phải là quan hệ được điều chỉnh bằng pháp luật dân sự hay thương mại.
Thứ tư, nợ thuế là quan hệ nghĩa vụ tài sản được xác định bằng một số
tiền nhất định. Điều 43 Luật Quản lý thuế 2006 cũng quy định: “Đồng tiền
nộp thuế là đồng Việt Nam, trừ trường hợp nộp thuế bằng ngoại tệ theo quy
định của Chính phủ”. Như vậy, đối tượng nợ thuế phải thực hiện nghĩa vụ của
mình bằng một số tiền mặt nhất định (tùy thuộc vào loại thuế và thuế suất
theo quy định của pháp luật).
Thứ năm, nợ thuế là số tiền nợ của người nộp thuế đối với NSNN đã
quá thời hạn phải nộp mà chưa nộp (tương tự quá hạn trong quan hệ kinh tế,
dân sự)

1.1.1.2. Phân loại nợ thuế
Phân loại nợ thuế là việc phân chia nợ thuế thành những nhóm khác
nhau theo những tiêu thức nhất định. Việc phân loại nợ thuế là phương pháp
quan trọng nhằm giúp cơ quan thuế xác định được rõ đặc điểm, tính chất,
nguyên nhân, tình trạng, tuổi nợ của từng khoản nợ thuế, qua đó có thể áp
dụng các biện pháp quản lý thu nợ thuế có hiệu quả. Có nhiều tiêu chí khác
nhau để phân loại các khoản nợ thuế của người nộp thuế.
Thứ nhất, căn cứ vào thời gian nợ, nợ thuế được chia thành nợ trong
hạn và nợ quá hạn.


9

- Nợ trong hạn, nợ thuộc nhóm này bao gồm các khoản nợ thuế vẫn còn
trong thời hạn nộp thuế. Chẳng hạn như, nợ thuế đối với hàng hóa xuất khẩu
trong thời gian ân hạn thuế. Ngoài ra, còn có nợ thuế do được gia hạn nộp
thuế theo quy định của Luật Quản lý thuế. Đối với khoản nợ thuế trong hạn
thì việc nợ thuế là đương nhiên, không đáng lo ngại trong quản lý thuế. Tuy
nhiên, nợ thuế trong hạn cũng cần theo dõi nắm bắt, thu nộp kịp thời khi đến
thời hạn nộp thuế.
- Nợ quá hạn, nợ trong nhóm này được phân loại như các khoản nợ
thông thường theo tiêu thức phân loại theo khả năng thu hồi nợ. Có nghĩa là
những khoản nợ đến hạn phải trả theo quy định của pháp luật hoặc theo thông
báo hoặc được ghi trên quyết định của cơ quan thuế đến hạn nộp mà chưa nộp
thì được coi là nợ quá hạn. Tùy theo yêu cầu quản lý, nợ quá hạn có thể phân
loại chi tiết hơn nữa theo mức độ quá hạn có biện pháp quản lý và đôn đốc thu
hồi nợ thuế phù hợp.
Thứ hai, căn cứ vào nội dung nợ, nợ thuế được chia thành nợ thuế
thông thường, nợ do phạt thuế và nợ thuế truy thu phải nộp sau thanh tra,
kiểm tra.

- Nợ thuế thông thường: Nợ trong nhóm này thường bao gồm các
khoản nợ phát sinh từ số thuế phải nộp do người nộp thuế kê khai với cơ quan
thuế mà không bao gồm số thuế bị truy thu, bị phạt chậm nộp do cơ quan thuế
thanh tra, kiểm tra phát hiện. Xét theo những tiêu chí khác, trong nhóm nợ
thuế này cũng bao gồm nhiều khoản nợ có tuổi nợ, mức nợ khác nhau do
người nộp thuế kê khai với cơ quan thuế và các khoản nợ có tuổi được theo
dõi trên hồ sơ quản lý đối tượng nộp thuế lưu tại cơ quan thuế.
- Nợ phạt thuế: Theo Luật Quản lý thuế hiện nay thì việc cơ quan thuế
xử phạt thuế đối với người nộp thuế vi phạm về thuế thì sẽ có nhiều loại vi
phạm tương ứng với từng nội dung vi phạm, tương ứng với đó là các khoản
nợ phát sinh cho từng lần vi phạm. Do đó, trong nhóm nợ phạt thuế này còn


10

có thể chia ra thành các khoản mục nợ như: nợ do phạt nộp chậm; nợ phạt
thiếu thuế phải nộp; nợ phạt vi phạm thủ tục về thuế.
- Nợ thuế truy thu phải nộp sau thanh tra, kiểm tra: Đây là khoản nợ
thuế mà cơ quan thuế sau quá trình kiểm tra, thanh tra đã phát hiện thêm số
thuế phải nộp mà đơn vị bỏ ngoài sổ sách, không kê khai hoặc khai không
chính xác ở tất cả các loại hồ sơ khai thuế trong năm tính thuế. Ở thời điểm cơ
quan thuế tiến hành thanh tra, kiểm tra thì theo quy định số thuế này phải
được nộp vào NSNN nhưng có thể đơn vị do vô tình hoặc cố ý đã kê sai để
trốn thuế. Số nợ thuộc nhóm nợ này phản ánh được số thuế phát hiện thêm
được coi là nợ thuế của người nộp thuế được thanh tra, kiểm tra. Tuy nhiên,
nó cũng có ý nghĩa quan trọng giúp cơ quan thuế có những biện pháp quản lý
thích hợp với những khoản nợ này.
Thứ ba, căn cứ vào khả năng thu hồi nợ thuế dựa trên những thông tin
về người nợ thuế như: Mức nợ, tuổi nợ, tình trạng hoạt động kinh doanh của
người nợ thuế thì nợ thuế được phân thành nợ có khả năng thu, nợ khó thu và

nợ không có khả năng thu:
- Nợ có khả năng thu: là số tiền nợ thuế của người nợ thuế được xác
định phải nộp vào NSNN nhưng còn trong thời hạn nộp thuế hoặc đã hết hạn
nộp theo quy định của pháp luật mà chưa nộp và không thuộc các trường hợp
nọ thuộc nhóm nợ khó thu và nợ không có khả năng thu hồi. Thuộc vào nhóm
này là nợ thuế của những người nộp thuế vẫn đang hoạt động hoặc tiến hành
hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường. Nợ có khả năng thu được chia
thành khoản nợ thuế dưới 30 ngày, nợ thuế từ trên 30 ngày đến dưới 90 ngày
và nợ thuế trên 90 ngày.
- Nợ khó thu: Là nợ thuế của người nộp thuế đang rất khó khăn về tài
chính. Chẳng hạn, bị đình trệ sản xuất, kinh doanh trong một thời gian dài,
đang tạm ngừng kinh doanh do gặp khó khăn, đang lâm vào tình trạng phá
sản, bị thua lỗ kéo dài… Thuộc nhóm này còn có khoản nợ của các đối tượng
nợ thuế thực tế còn tồn tại nhưng lại không làm các thủ tục chấm dứt hoạt


11

động và quyết toán thuế đối với cơ quan thuế. Đó là nợ thuế của các doanh
nghiệp bỏ trốn. Hầu hết đây là các trường hợp cố tình nợ để trốn thuế.
- Nợ không có khả năng thu: Việc phân loại nợ trong nhóm này chủ
yếu căn cứ vào tình trạng tồn tại của người nộp trong nhóm này. Nợ thuế của
loại này thuộc nợ thuế của người nợ thuế đã lâm vào tình trạng giải thể, phá
sản nhưng không có tài sản để thực hiện nghĩa vụ với cơ quan thuế và cũng
chưa làm các thủ tục để xóa nợ theo quy định của pháp luật. Thuộc nhóm này
còn có nợ thuế của người nộp thuế là các cá nhân đã chết, đã bị mất tích, mất
năng lực hành vi dân sự nhưng chưa được xóa nợ theo quy định của pháp luật.
Việc phân loại nợ thuế theo tiêu thức này không chỉ giúp cơ quan thuế có biện
pháp đôn đốc thu nợ thuế hoặc tổ chức cưỡng chế thuế mà còn có biện pháp
xử lý phù hợp, chẳng hạn như khoanh nợ, gia hạn nộp thuế hoặc xóa nợ theo

quy định của pháp luật.
Thứ tư, căn cứ vào tính chất nợ, nợ thuế được chia ra thành nợ thông
thường và nợ chờ xử lý.
- Nợ thông thường: là số tiền nợ thuế của người nộp thuế mà khoản
thuế nợ đã được xác định rõ ràng, không có sai sót, không có nhầm lẫn, không
có khiếu nại, không thuộc diện xét miễn giảm thuế.
- Nợ chờ xử lý: là khoản nợ thuế xác định chưa thật chính xác cần điều
chỉnh lại hoặc nợ thuế đang có khiếu nại, đang thuộc diện xét miễn, giảm
thuế. Cụ thể bao gồm các nhóm sau:
+ Nợ đang chờ điều chỉnh: là số tiền nợ thuế do có sai sót của người
nộp thuế hoặc cơ quan thuế khi kê khai thuế, tính thuế, đang là thủ tục để điều
chỉnh lạo hoặc do tạm tính số thuế phải nộp cao hơn số phát sinh, tức là số
tiền nợ do người nộp thuế đã kê khai số thuế tạm nộp hàng kỳ theo quy định
nhưng thực tế phát sinh phải nộp thấp hơn so với số thuế đã kê khai tạm nộp,
đang làm thủ tục để điều chỉnh lại. Ngoài ra, trong nhóm này còn có số tiền
nộp chứng từ luân chuyển chậm hoặc thất lạc, tiền thuế đã nộp vào tài khoản


12

thu NSNN nhưng do chứng từ luân chuyển chưa kịp thời hoặc thất lạc nên
trên sổ thuế vẫn ghi nợ.
+ Nợ đang chờ xử lý miễn, giảm, xóa nợ: Là số tiền nợ thuế của người
nợ thuế đang trong thời gian làm các thủ tục tại cơ quan thuế để được xử lý
miễn, giảm, xóa nợ theo quy định của pháp luật về thuế (bao gồm cả các
trường hợp đang làm thủ tục miễn giảm áp dụng các điều khoản miễn giảm
theo các hiệp định để tránh thuế hai lần); cá nhân được cơ quan pháp luật coi
là đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự mà không còn tài sản để nộp
tiền thuế, tiền phạt còn nợ; nợ của người nợ thuế bị tuyên bố phá sản đã thực
hiện các khoản thanh toán theo quy định của luật phá sản mà không còn tài

sản để nộp tiền thuế, tiền phạt. Khi người nợp thuế đang có nợ thuế do đến kỳ
phải thực hiện kê khai thuế đúng hạn nhưng theo quy định của pháp luật về
thuế họ sẽ được miễn giảm hoặc được xử lý cho ghi thu, ghi chi và đang làm
thủ tục thì tạm thời đưa vào nhóm nợ chờ xử lý này để theo dõi chứ không áp
dụng các biện pháp để cưỡng chế thu nợ.
+ Nợ trong quá trình tranh chấp thuế: Theo các quy định tại các văn
bản quy phạm pháp luật về thuế và xử lý khiếu nại tố cáo thì trong quá trình
khiếu nại khi cơ quan có thẩm quyền chưa ra quyết định xử lý thì người nộp
thuế vẫn phải nộp các khoản thuế vào NSNN. Do đó, phát sinh thêm khoản nợ
chờ xử lý do khiếu nại của người nộp thuế. Khi có quyết định chính thức của
cơ quan có thẩm quyền thì khoản nợ này được đưa vào một trong hai nhóm
nợ có khả năng thu hoặc nợ không có khả năng thu.
+ Nợ đang được khoanh nợ, giãn nợ: là số tiền thuế của đối tượng nộp
thuế đã được xử lý cho khoanh nợ, giãn nợ hoặc đang trong thời hạn làm các
thủ tục tại cơ quan thuế đã được xử lý giãn nợ theo quy định.
1.1.2. Khái quát về quản lý nợ thuế
1.1.2.1. Khái niệm quản lý nợ thuế
Trước hết, Quản lý thuế là hoạt động tổ chức, điều hành và giám sát
của cơ quan thuế nhằm đảm bảo người nộp thuế chấp hành nghĩa vụ nộp thuế


13

vào Ngân sách Nhà nước theo quy định của pháp luật. Trong quá trình quản
lý thuế, việc xảy ra nợ thuế là điều không thể tránh khỏi, đó có thể là do pháp
luật thuế cho phép người nộp thuế được nợ thuế trong những thời hạn nhất
định, cũng có thể do nhiều nguyên nhân khác nhau mà người nộp thuế chưa
nộp số thuế phải nộp trong thời hạn quy định. Điều này đặt ra yêu cầu để đảm
bảo thu đủ số thuế phải nộp của người nộp thuế vào NSNN thì phải làm công
tác quản lý nợ thuế. Theo đó, Quản lý nợ thuế là công việc theo dõi, nắm bắt

thực trạng nợ thuế và các khoản thu khác do cơ quan thuế quản lý và thực
hiện các biện pháp đôn đốc thu hồi số thuế nợ của người nộp thuế.
Quản lý nợ thuế là một bộ phận của quản lý thuế, là hoạt động của các
cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc quản lý các đối tượng nộp thuế có
nợ tiền thuế nhà nước nhằm thu đủ các khoản thuế quá hạn từ người nộp thuế
bảo đảm nguồn thu NSNN chống thất thoát chiếm dụng nguồn thu NSNN,
bảo đảm sự bình đẳng công bằng cho người nộp thuế, đồng thời để nâng cao ý
thức trách nhiệm của người nộp thuế trong thực hiện nghĩa vụ nôp thuế cho
NSNN.
Quản lý nợ thuế có đặc điểm như một quan hệ được pháp luật điều
chỉnh. Cụ thể như sau:
- Chủ thể quản lý nợ thuế là các cơ quan quản lý thuế của Nhà nước:
Cơ quan quản lý thuế ở nước ta bao gồm cơ quan thuế và cơ quan hải quan:
Cơ quan thuế gồm Tổng cục thuế, cục thuế, chi cục thuế. Cơ quan hải quan
gồm: Tổng cục Hải quan, Cục hải quan, Chi cục hải quan. (Tuy nhiên, trong
phạm vi luận văn sẽ chỉ nghiên cứu đến quan hệ quản lý nợ giữa cơ quan thuế
với các đối tượng nợ thuế).
- Đối tượng chịu sự quản lý nợ thuế là người nợ thuế Nhà nước và các
tổ chức cá nhân có liên quan.
- Khách thể của quản lý nợ thuế là các khoản tiền thuế quá hạn nộp mà
người nộp thuế chưa nộp cho NSNN.
- Bản chất quản lý nợ thuế là quản lý hành chính nhà nước về nợ thuế.


14

- Biện pháp quản lý nợ thuế bao gồm, tuyên truyền, hỗ trợ, giáo dục
thuyết phục kết hợp với các biện pháp cưỡng chế hành chính để đạt được mục
tiêu quản lý.
1.1.2.2. Vị trí, vai trò của công tác quản lý nợ thuế

* Vị trí của quản lý nợ thuế:
- Quản lý nợ thuế và cưỡng chế nợ thuế là một trong bốn chức năng cơ
bản của quản lý thuế theo mô hình chức năng, bao gồm: Tuyên truyền, hỗ trợ
người nộp thuế; Kê khai và kế toán thuế; Quản lý nợ và cưỡng chế nợ thuế;
Thanh tra, kiểm tra thuế.
- Là khâu tiếp theo của chức năng kê khai và kế toán thuế nhằm thực
hiện quản lý, theo dõi, đôn đốc người nộp thuế nộp số tiền đã kê khai vào
ngân sách nhà nước.
- Có mối quan hệ chặt chẽ với chức năng tuyên truyền, hỗ trợ nâng cao
ý thức tuân thủ pháp luật thuế và thanh tra, kiểm tra việc thực hiện tuân thủ
đúng quy định pháp luật thuế của người nộp thuế.
* Vai trò của quản lý nợ thuế:
Quản lý nợ thuế là khâu tiếp theo của quá trình kê khai và tính thuế.
Quản lý nợ thuế có vai trò quan trọng trong công tác quản lý thuế. Cụ thể là:
Thứ nhất, thông qua quản lý nợ thuế, cơ quan thuế nắm bắt được chính
xác tình hình thực hiện nghĩa vụ của người nộp thuế, thúc đẩy người nộp thuế
nộp các khoản thuế đầy đủ kịp thời vào NSNN, bảo đảm thu hồi tối đa số nợ
cũ, hạn chế số nợ mới phát sinh, hoàn thành chỉ tiêu thu nợ mà Nhà nước
giao, đảm bảo thực hiện nghiêm túc pháp luật thuế. Thông qua đó, quản lý nợ
thuế góp phần nâng cao ý thuế tuân thủ pháp luật của người nộp thuế.
Thứ hai, quản lý nợ thuế góp phần đảm bảo công bằng xã hội khi các
cơ sở kinh doanh cùng phát sinh nghĩa vụ thuế thì phải nộp vào NSNN theo
quy định của pháp luật. Chẳng hạn, trong trường hợp hai công ty cùng nợ một
khoản nợ thuế tương đương nhau, một công ty đã thực hiện nộp thuế vào
NSNN công ty còn lại chây ỳ không nộp thuế, biện pháp cưỡng chế nợ thuế


15

trong quản lý nợ thuế sẽ thực hiện chức năng thu thuế đối với công ty cố tình

không nộp thuế đúng hạn. Như vậy, đã tạo ra sự công bằng không chỉ đối với
nguồn thu vào NSNN mà còn tạo sự cân bằng đối với các doanh nghiệp
nghiêm túc thực hiện các quy định của Luật thuế.
Thứ ba, quản lý nợ thuế đảm bảo quản lý tất cả các khoản thu của Nhà
nước, chống thất thoát NSNN. Quản lý nợ tốt sẽ nâng cao hiệu quả của công
tác quản lý thuế, góp phần nâng cao hiệu quả của công tác quản lý thu thuế,
góp phần nâng cao hiệu quả của các hoạt động chức năng khác trong quản lý
thuế như: Quản lý kê khai thuế, thanh tra, kiểm tra thuế, vì thông qua quản lý
kê khai thuế và thanh tra, kiểm tra thuế xác định chính xác nghĩa vụ thuế.
Thứ tư, quản lý nợ thuế tốt cũng tạo ra một kênh thông tin đúng đắn để
xử lý các khoản nợ thuế của người nộp thuế một cách kịp thời. Thông qua đó,
có biện pháp xử lý phù hợp nợ thuế để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động
sản xuất, kinh doanh của người nộp thuế.
Thứ năm, quản lý nợ thuế thể hiện rõ tính quyền lực nhà nước của thuế,
tính chất bắt buộc phải tuân thủ pháp luật thuế của người nộp thuế. Vai trò
này được thể hiện tõ trong việc cưỡng chế thuế được thực hiện trong quản lý
nợ thuế cụ thể: Cưỡng chế thuế đảm bảo thực hiện nghiêm túc pháp luật thuế,
chống thất thu có hiệu quả. Bằng các hình thức và biện pháp phù hợp tác động
đến lợi ích của người nộp thuế buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho
Nhà nước, không để xảy ra tình trạng cố tình dây dưa, chây ỳ không nộp thuế.
Cưỡng chế thuế trong công tác quản lý nợ thuế đóng vai trò cảnh báo qua đó
thúc đẩy sự tuân thủ tự nguyện của người nộp thuế. Việc cưỡng chế thuế
thành công đối với những đối tượng cố tình chây ỳ không thực hiện nghĩa vụ
thuế sẽ phát đi một tín hiệu cảnh báo đối với những đối tượng này rằng, trong
tương lai ý đồ cố tình không tuân thủ của họ sẽ không thực hiện được và còn
bị thiệt hại hơn là tuân thủ tự giác. Đồng thời, cũng phát đi một tín hiệu cho
người nộp thuế khác biết về khả năng không thành công của sự cố tình không


16


tuân thủ. Qua đó, cưỡng chế thuế thúc đẩy sự tuân thủ tự nguyện của người
nộp thuế.
1.1.2.3. Nội dung của công tác quản lý nợ thuế
Để đạt được mục tiêu nêu trên, công tác quản lý nợ thuế phải thực hiện
các nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, thống kê và nắm bắt đầy đủ tình hình nợ thuế của người nộp
thuế, số thuế phải nộp, số thuế đã nộp của người nộp thuế. Với nội dung này,
công tác quản lý nợ thuế phải theo dõi được toàn bộ số thuế ghi thu, số thuế
đã thu, số thuế còn nợ tại một cơ quan thuế trong một thời kỳ nhất định. Nội
dung này cũng đòi hỏi bộ phận quản lý nợ thuế phải phản ánh được danh mục
nợ thuế của một thời kỳ nhất định và lũy kế số thuế nợ của toàn bộ người nộp
thuế và từng người nộp thuế đối với những khoản thu và tất cả các khoản thu
tại một cơ quan thuế ở một thời điểm nhất định.
Thứ hai, phân tích và đánh giá thực trạng nợ thuế thông qua việc phân
loại nợ thuế, phân tích các nguyên nhân nợ thuế… Nội dung này đòi hỏi bộ
phận quản lý nợ của cơ quan thuế phải đánh giá được thực trạng nợ bằng cách
chỉ rõ diễn biến nợ trong những thời kỳ nhất định để thấy được công tác quản
lý nợ tốt lên hay xấu đi; thấy được tuổi nợ, mức nợ, loại nợ theo từng tiêu chí
phân loại. Đặc biệt công tác này cần làm rõ được nguyên nhân chủ quan và
khách quan của tình hình nợ thuế nói chung và lý do nợ thuế trong những
trường hợp cụ thể để có biện pháp cải tiến quản lý và đôn đốc thu nợ phù hợp.
Thứ ba, thực hiện các biện pháp đôn đốc, nhắc nhở đôn đốc nộp tiền
thuế và các khoản thu khác do cơ quan thuế quản lý. Mục tiêu của giai đoạn
này là phải nhắc nhở, đôn đốc bằng các hình thức cụ thể để người nộp thuế
thực hiện nghĩa vụ của mình như nhắc nhở qua điện thoại, mời người nộp
thuế đến cơ quan thuế làm việc hoặc ra các thông báo bằng văn bản về việc
đôn đốc thu thuế…
Thứ tư, thực hiện các biện pháp cưỡng chế thuế. Cưỡng chế thuế là việc
cơ quan quản lý thuế và các cơ quan bảo vệ pháp luật áp dụng các biện pháp



17

buộc người nợ thuế phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế. Theo quy định hiện
hành, cống tác cưỡng chế nợ thuế có nội dung cơ bản là thông báo cho người
nộp thuế biết trách nhiệm phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế và những hậu quả
có thể phải chịu nếu không thực hiện nghĩa vụ thuế. Đồng thời, cưỡng chế nợ
thuế bằng các biện pháp như: Trích tiền từ tài khoản của đối tượng bị cưỡng
chế tại Ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng khác; Khấu trừ một phần tiền
lương hoặc thu nhập; kê biên tài sản, bán đấu giá tài sản kê biên theo quy định
của pháp luật để thu đủ tiền thuế, tiền phạt; Thu tiền, tài sản khác của đối
tượng bị cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế do tổ chức, cá nhân
khác đang năm giữ; Dừng làm thủ tục hải quan đối với hàng hóa nhập khẩu;
Thu hồi mã số thuế, đình chỉ việc sử dụng hóa đơn; Thu hồi giấy chứng nhận
kinh doanh, giấy phép thành lập và hoạt động, giấy phép hành nghề.
1.2. Vài nét về Pháp luật quản lý nợ thuế ở Việt Nam
1.2.1. Khái niệm và cấu trúc của pháp luật quản lý nợ thuế ở Việt Nam
hiện nay
Pháp luật quản lý nợ thuế là một bộ phận pháp luật trong pháp luật
quản lý thuế, là tổng hợp các quy phạm pháp luật do cơ quan có thẩm quyền
ban hành theo trình tự, thủ tục luật định nhằm điều chỉnh quan hệ phát sinh
trong quá trình quản lý các khoản nợ thuế của người nộp thuế đối với NSNN.
Pháp luật quản lý nợ thuế được hợp thành bởi nhiều bộ phận pháp luật
khác nhau:
- Bộ phận pháp luật quy định về chủ thể, quyền và trách nhiệm của các
chủ thể trong quan hệ quản lý nợ thuế.
- Bộ phận pháp luật quy định về nội dung, trình tự, thủ tục quản lý nợ
thuế. Theo đó, pháp luật quản lý nợ thuế được chia ra thành hai mảng lớn:
Các quy định về nộp thuế và xử lý nợ thuế và các quy định về cưỡng chế nợ

thuế. Trong đó, các quy định về nộp thuế và xử lý nợ thuế bao gồm: Các quy
định về kê khai, nộp thuế, các quy định về gia hạn nộp thuế, các quy định về
xóa nợ tiền thuế, các quy định về xử phạt chậm nộp thuế, các quy định khác


18

có liên quan như xác nhận nghĩa vụ thuế, miễn thuế, giảm thế, thứ tự thanh
toán, bù trừ tiền thuế; khiếu nại, tố cáo, giải quyết các tranh chấp phát sinh
trong quản lý nợ thuế… Bên cạnh đó, các quy định về cưỡng chế nợ thuế
được hiểu bao gồm các bước: Ban hành quyết định cưỡng chế nợ thuế, các
quy định về các biện pháp cưỡng chế, thẩm quyền ban hành quyết định cưỡng
chế nợ thuế và trách nhiệm của tổ chức, cá nhân có liên quan đến việc cưỡng
chế nợ thuế.
1.2.2. Vai trò của pháp luật trong công tác quản lý nợ thuế ở Việt Nam
Công tác quản lý nợ thuế có vai trò hết sức quan trọng trong việc
đảm bảo thu đúng, thu đủ, thu kịp thời tiền thuế vào ngân sách nhà nước,
đảm bảo sự bình đẳng trong việc thực hiện nghĩa vụ thuế giữa các tổ
chức, cá nhân nộp thuế đồng thời đảm bảo người nộp thuế thực hiện nộp
các khoản thuế đến hạn phải nộp hoặc thu đủ tiền thuế nợ vào ngân sách
nhà nước. Để công tác quản lý nợ thuế phát huy vai trò trong tổng thể
công tác quản lý thuế nói chung, cần thiết phải có sự điều chỉnh bằng
pháp luật phù hợp đối với các biện pháp quản lý nợ.
Nếu có những quy định pháp luật phù hợp điều chỉnh công tác quản lý
nợ thuế sẽ tác động tích cực đến không chỉ việc tuân thủ pháp luật của người
nộp thuế mà cả số thu của ngành thuế đóng góp vào NSNN cũng như thúc đẩy
công tác quản lý thuế nói chung.
Đối với người nợ thuế, pháp luật quản lý nợ thuế sẽ tạo cơ sở pháp lý
đầy đủ và cần thiết để người nợ thuế tự giác thực hiện nghĩa vụ nộp thuế đối
với nhà nước. Bởi lẽ, khi hiểu được các quy định của pháp luật quản lý nợ

thuế, người nộp thuế sẽ dự đoán trước được hậu quả nếu không nghiêm túc
thực hiện nghĩa vụ nộp thuế vào NSNN. Bên cạnh đó, pháp luật quản lý nợ
thuế còn có tác dụng thực hiện công bằng xã hội, đảm bảo các cơ sở kinh
doanh cùng phát sinh nghĩa vụ thuế đều phải nộp vào ngân sách nhà nước
đúng hạn. Phát hiện và xử lý kịp thời các trường hợp vi phạm về nộp thuế
nhằm nâng cao ý thức tuân thủ, tự nguyện của người nộp thuế.


19

Đối với cơ quản lý thuế: Pháp luật quản lý nợ thuế đầy đủ và đảm bảo
sẽ là khung pháp lý vững chắc để cơ quan quản lý thuế thực hiện công tác
quản lý nợ chặt chẽ, bài bản. Việc sử dụng các quy trình thủ tục đôn đốc thu
hồi nợ giúp theo dõi đầy đủ các khoản nợ thuế, hạn chế trường hợp bỏ xót các
khoản nợ đọng cũng như các đối tượng nợ thuế kéo dài, chây ỳ.
Đối với công tác quản lý thuế: Pháp luật quản lý nợ thuế hỗ trợ và nâng
cao hiệu quả công việc của các khâu quản lý khác như: thực hiện dự toán thu
thuế; đôn đốc thu và cưỡng chế nợ thuế đối với các khoản thuế nợ phát hiện
từ công tác thanh tra, kiểm tra thuế; góp phần nâng cao tính công bằng, dân
chủ của người nộp thuế trong việc thực hiện nghĩa vụ với ngân sách nhà nước.
Cuối cùng, kết quả quản lý nợ và cưỡng chế nợ thuế là một thước đo đánh giá
hiệu quả công tác quản lý thuế.
1.2.3. Vài nét về sự hình thành pháp luật Quản lý nợ thuế ở Việt Nam
Trước khi Luật Quản lý thuế ra đời, quản lý nợ thuế thuộc về mảng
hoạt động của công tác thanh tra kiểm tra thuế. Tuy nhiên, việc quy định như
vậy đã không làm rõ vai trò của công tác quản lý nợ thuế, gây thất thu NSNN
trong công tác thu nợ thuế. Luật Quản lý thuế năm 2006 ra đời đã tách biệt
quản lý nợ thuế thành một trong bốn chức năng của công tác quản lý thuế. Từ
đây công tác quản lý nợ thuế đã được quy định một cách bài bản và hệ thống
hơn trước. Quản lý nợ thuế đã khẳng định là tổ chức có vị trí quan trọng trong

mô hình quản lý thuế theo chức năng: là khâu quản lý trực tiếp theo sau chức
năng kê khai và kế toán thuế, thực hiện quản lý, theo dõi, đôn đốc người nộp
thuế nộp số tiền đã kê khai vào ngân sách nhà nước.
Trên cơ sở Luật Quản lý thuế các cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã
ban hành hệ thống các văn bản pháp luật quy định về quản lý nợ thuế cụ thể:
Nghị định số 85/2007/NĐ-CP của Chính phủ ngày 25 tháng 05 năm
2007 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế;


20

Nghị định số 106/2010/NĐ-CP ngày 28/10/2010 của Chính phủ sử đổi
một số điều của Nghị định số 85/2007/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều
của Luật Quản lý thuế;
Thông tư số 28/2011/TT-BTC ngày 28/02/2011 hướng dẫn thi hành
một số điều của Luật Quản lý thuế, hướng dẫn thi hành một số điều của Nghị
định số 85/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 và Nghị định số 106/2010/NĐ-CP
ngày 28/10/2010 của Chính phủ;
Trên cơ sở hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật đã ban hành,
Tổng cục thuế đã xây dựng và ban hành các quy trình về quản lý nợ thuế
chung, quy trình quản lý nợ thuế đối với hộ kinh doanh và cá nhân có nghĩa
vụ nộp thuế vào NSNN do chi cục thuế quản lý. Quy trình quản lý và cưỡng
chế nợ thuế, các quy trình này quy định chi tiết, đầy đủ và khoa học tạo ra
chuẩn mực thống nhất áp dụng đối với các chủ thể trong công tác quản lý nợ
thuế và từng công việc trong quản lý nợ thuế để cơ quan thuế mỗi cấp và từng
công chức quản lý nợ thuế triển khai thực hiện nhiệm vụ trên thực tế trong
toàn quốc. Kèm theo các quy trình có sự hỗ trợ của ứng dụng công nghệ
thông tin, phù hợp với mô hình quản lý thuế theo chức năng. Nhờ có quy
trình quản lý nợ thuế thống nhất, các công việc quản lý được vận hành
trôi chảy, có trật tự, có nề nếp. Cụ thể:

Quy trình quản lý nợ thuế ban hành kèm theo Quyết định số
477/QĐ-TCT ngày 15/05/2008 của Tổng cục trưởng Tổng cục thuế;
Quy trình cưỡng chế nợ thuế ban hành kèm theo Quyết định số
490/QĐ-TCT ngày 8/5/2009 của Tổng cục trưởng Tổng cục thuế; Quy
trình quản lý thuế đối với hộ kinh doanh và cá nhân có nghĩa vụ nộp
thuế vào NSNN do các Chi cục thuế quản lý ban hành kèm theo Quyết
định số 752/QĐ-TCT ngày 14/05/2010; Quy trình quản lý nợ thuế ban
hành kèm theo Quyết định số 1395/QĐ-TCT ngày 14/10/2011 của Tổng
cục trưởng Tổng cục thuế thay thế Quy trình 477 và Quy trình 752 trong
công tác Quản lý nợ thuế.


×