Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Pháp luật về chống trợ cấp trong hoạt động thương mại ở việt nam những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (630.87 KB, 68 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LA VĂN THÁI

PHÁP LUẬT VỀ CHỐNG TRỢ CẤP TRONG HOẠT ĐỘNG
THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM – NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. BÙI NGỌC CƯỜNG

HÀ NỘI – 2013


1

LỜI MỞ ĐẦU

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.



TÁC GIẢ LUẬN VĂN

La Văn Thái


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU

1

Chương 1: Những vấn đề lý luận về chống trợ cấp hàng hóa nhập

5

khẩu và pháp luật về chống trợ cấp hàng hóa nhập khẩu
1.1 Lý luận về chống trợ cấp hàng hóa nhập khẩu

5

1.2 Pháp luật về chống trợ cấp

13

Chương 2: Nội dung của pháp luật chống trợ cấp hàng hóa nhập khẩu
của Việt Nam

24

2.1 Nhóm quy định nhằm xác định hành vi chống trợ cấp


24

2.2 Nhóm quy định về việc điều tra hành vi trợ cấp

29

2.3 Nhóm quy định về việc áp dụng các biện pháp chống trợ cấp

43

2.4 Một số nhận xét qua thực tiễn áp dụng

49

Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả thi hành pháp luật chống trợ cấp hàng hóa nhập khẩu vào Việt

53

Nam
3.1 Đánh giá

53

3.2 Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật

57

3.3 Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về

chống trợ cấp

60

KẾT LUẬN

62

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

63


BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

GATT

: Hiệp định chung về thuế quan và thương mại

HS

: Công ước Quốc tế về hệ thống điều hòa mô tả và mã hóa hàng hóa

SCM

: Hiệp định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng

WTO

: Tổ chức thương mại Thế giớ



1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong thương mại quốc tế, các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp và
tự vệ được coi là ba cột trụ của hệ thống các biện pháp phòng vệ thương mại
(trade remedies) và được áp dụng để bảo vệ thị trường nội địa trước sự thâm
nhập của hàng hoá nước ngoài. Về bản chất, biện pháp chống bán phá giá và
chống trợ cấp được áp dụng để đối phó với hành vi cạnh tranh không lành mạnh
hay không công bằng của hàng hóa nhập khẩu. Trong khi biện pháp chống bán
phá giá là để đối phó với hành vi bán sản phẩm với giá thấp nhằm chiếm lĩnh thị
trường và tiến tới loại bỏ dần các đối thủ cạnh tranh thì biện pháp chống trợ cấp
lại được áp dụng để loại bỏ tác động tiêu cực gây ra cho ngành sản xuất hàng hóa
trong nước, xuất phát từ các chính sách trợ cấp của chính phủ nước xuất khẩu.
Trong xu thế toàn cầu hóa, và nhất là khi Việt Nam tham gia sâu hơn vào thị
trường thế giới để bảo vệ các nghành sản xuất trong nước chống lại sự “xâm lấn”
của hàng hóa nhập khẩu và việc bảo vệ được quyền lợi cho các doanh nghiệp có
hàng hóa xuất khẩu đòi hỏi Việt Nam phải có các biện pháp đối ứng phù hợp mà
biện pháp cụ thể là phải ban hành các văn bản pháp luật về chống trợ cấp phù
hợp với tình hình thực tế trong nước và đồng thời phù hợp với luật pháp quốc tế
(WTO). WTO đã ban hành khung tiêu chuẩn về trợ cấp, nhưng việc trợ cấp vẫn
có xu hướng gia tăng, đặc biệt trong thương mại quốc tế vẫn đang xảy ra một
nghịch lý là các nước càng giàu thì trợ cấp càng nhiều mà các nước nghèo về
tiềm lực tài chình như Việt Nam phải chấp nhận thua thiệt.
Hiện nay, Việt Nam chưa có vụ điều tra chống trợ cấp nào đối với hàng hóa
nhập khẩu. Nhưng chúng ta đã và đang bị một số nước điều tra về chống trợ cấp
đối với một số mặt hàng ví dụ như Tôm, thép ống Các bon……Chúng ta chưa bị
kiện nhiều là do chúng ta là nước đang phát triển và có lượng nhập khẩu sản

phẩm liên quan ít hơn 4% tổng nhập khẩu hàng hoá tương tự vào nước nhập
khẩu. Nhưng trong tương lai khi nền kinh tế chúng ta phát triển thì chúng ta sẽ
phải đối mặt nhiều vụ kiện chống trợ cấp hơn, hiện tại chúng ta đang phải đối


2

mặt với vấn đề chống bán phá giá và phần thua thiệt đang ở phía Việt Nam. Nếu
ngay từ giờ chúng ta không nhanh chóng nghiên cứu, tìm hiểu kỹ và ban hành
các quy định pháp luật về chống trợ cấp trong hoạt động thương mại ở Việt Nam
phù hợp với xu thế hội nhập thì sẽ có một ngày chúng ta sẽ bị động và lại thua
thiệt trên bàn cờ thế giới về vấn đề chống trợ cấp.
Mặc dù Việt Nam đã ban hành pháp lệnh về chống trợ cấp hàng hóa nhập
khẩu vào Việt Nam năm 2004 và một số nghị định thông tư khác kèm theo,
nhưng với tình hình phức tạp của nền kinh tế thế giới và sự hội nhập ngày càng
sâu sắc của nền kinh tế Việt Nam trên thị trường thế giới, thiết nghĩ việc nghiên
cứu pháp luật về chống trợ cấp trong hoạt động ở Việt Nam để làm sáng tỏ cơ sở
lý luận, thực tiễn và hướng hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này trong quá
trình hội nhập là vấn đề vô cùng cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong hoạt động thương mại thế giới vấn đề pháp luật về chống trợ cấp được
đề cập từ rất sớm, những năm 1980 của thế kỷ XX, WTO và một số các nước
thành viên đã ban hành bộ tiêu chuẩn, thuế về chống trợ cấp và pháp luật về
chống trợ cấp. Nhưng ở Việt Nam mãi đến năm 2004 mới ban hành pháp lệnh về
chống trợ cấp chống nhập khẩu hàng hóa vào Việt Nam và một số nghị định,
thông tư kèm theo nhưng hầu như chỉ “dừng lại” ở quy định khung…Vì vậy, có
thể nói đề tài về chống trợ cấp ở Việt Nam còn khá mới mẻ trong khoa học pháp
lý và trong thực tế. Ở các phạm vi và mức độ khác nhau, có một số công trình đã
được công bố, đề cập đến một vài khía cạnh liên quan đến nội dung của đề tài.
Đáng chú ý có một số công trình nghiên cứu đề cập đến pháp luật về chống

trợ cấp của WTO và Việt Nam như: Trợ cấp và các biện pháp đối kháng theo
quy định của WTO của tác giả Nguyễn Thị Hải Yến đăng trên Website của Ủy
ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế, Phân tích thuế quan, nghành và trợ cấp
của nhóm tác giả Montague Lord, Malcolm Bosworth, Đỗ Trọng Khanh và
Nguyễn Trường Sơn NXB Tài chính 2005, điều chỉnh chính sách thuế và trợ cấp
sau khi gia nhập WTO của tác giả Lê Xuân Sáng và Nguyễn Xuân Trình chủ


3

biên NXB Tài chính 2007…Tuy nhiên, trong những công trình này các tác giả
mới chỉ dừng lại ở việc phân tích những quy định của pháp luật WTO hoặc đánh
giá chính sách trợ cấp của Việt Nam và đưa ra những giải pháp hiệu chỉnh…
Qua nghiên cứu cho thấy rằng ở Việt Nam tính đến nay chưa có công trình
nào đi sâu nghiên cứu một cách cơ bản, toàn diện và có hệ thống những vấn đề lý
luận và thực trạng pháp luật về chống trợ cấp trong hoạt động thương mại ở Việt
Nam.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Đề tài nghiên cứu chỉ tập trung nghiên cứu về pháp luật chống trợ cấp trong
hoạt động thương mại ở Việt Nam nói chung, không đề cập và giải quyết các
khía cạnh pháp lý liên quan đến pháp luật trong lĩnh vực cụ thể.
Đề tài nghiên cứu tập trung làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản pháp luật về
chống trợ cấp trong hoạt động thương mại ở Việt Nam. Nhận diện, phân tích,
đánh giá tác động của chống trợ cấp đối với nguyên tắc tự do hóa thương mại,
các quy định về chống trợ cấp của WTO, một số nước thành viên WTO, đi sâu
phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về chống trợ cấp. Đồng thời , đưa ra
một số kiến nghị nhằm đáp ứng tình hình thực tế và giải pháp hoàn thiện thiện
pháp luật về chống trợ cấp trong hoạt động thương mại ở Việt Nam để bảo vệ
quyền lợi của các doanh nghiệp trong nước, đồng thời phù hợp với luật pháp
quốc tế (WTO).

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Cơ sở phương pháp luận của việc nghiên cứu đề tài dựa trên lý luận của học
thuyết Mác – Lê nin về chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng. Đồng thời, đề tài
còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Thu thập tài liệu, phân
tích, tổng hợp, so sánh, giải thích pháp luật…để đánh giá và làm sáng tỏ vấn đề
nghiên cứu.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Tìm hiểu và làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận cơ bản pháp luật về chống trợ


4

cấp.
Phân tích, đánh giá những nội dung cơ bản của pháp luật về chống trợ cấp
trong hoạt động thương mại ở Việt Nam, đồng thời nghiên cứu quan điểm và
cách tiếp cận của WTO, một số nước thành viên WTO về vấn đề chống trợ cấp,
so sánh với pháp luật Việt Nam về vấn đề này.
Trên cơ sở đánh giá tình hình thực tế và thực trạng pháp luật Việt Nam về
chống trợ cấp trong hoạt động thương mại, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm
hoàn thiện pháp luật về chống trợ cấp trong hoạt động thương mại ở Việt Nam
trong xu hướng toàn cầu hóa và nhất là khi Việt Nam tham gia sâu hơn vào
thương mại Quốc tế.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của đề tài
Đề tài sẽ tìm hiểu một cách toàn diện và đầy đủ nhất pháp luật về chống trợ
cấp trong hoạt động thương mại ở Việt Nam. Thông qua việc phân tích, đánh giá
làm sáng tỏ vấn đề pháp luật về chống trợ cấp trong hoạt động thương mại ở Việt
Nam đồng thời so sánh với các quy định của WTO và một số nước thành viên.
Ngoài ra tác giả cũng đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật, một số
biện pháp nhằm nâng cao tính khả thi trên thực tế và một số biện pháp nhằm
nâng cao hiệu quả thi hành trong lĩnh vực này để bảo vệ các doanh nghiệp, các

nghành sản xuất trong nước, đồng thời phù hợp với luật pháp quốc tế.
7. Cơ cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, phần nội
dung của đề tài gồm ba chương chính chi tiết như sau:


5

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỐNG TRỢ CẤP HÀNG HÓA NHẬP
KHẨU VÀ PHÁP LUẬT VỀ CHỐNG TRỢ CẤP HÀNG HÓA
NHẬP KHẨU
1.1.
1.1.1

Lý luận về chống trợ cấp hàng hóa nhập khẩu.
Quan niệm về chống trợ cấp và phân loại trợ cấp hàng hóa nhập

khẩu.
1.1.1.1 Quan niệm về chống trợ cấp
Trong thương mại quốc tế, tranh chấp là một hiện tượng song hành với sự gia
tăng các luồng giao thương trên phạm vi toàn cầu. Tranh chấp diễn ra khi một
nước cho rằng một nước khác vi phạm thỏa thuận đã cam kết gây thiệt hại cho
nước mình. Các tranh chấp thương mại đưa ra giải quyết tại WTO thông thường
xoay quanh ba nội dung chính là các biện pháp chống bán phá giá, chống trợ cấp
và tự vệ.
Trợ cấp hàng hóa nhập khẩu được hiểu là sự hỗ trợ trực tiếp hoặc gián tiếp
của chính phủ nước xuất khẩu hàng hóa đó cho thương nhân hoặc ngành sản xuất
hàng xuất khẩu của nước mình mà sự hỗ trợ đó đã giúp cho thương nhân, ngành
sản xuất hàng xuất khẩu đó được hưởng một khoản lợi ích tài chính nhất định

nhằm tào lợi thế cạnh tranh trên thị trường nước nhập khẩu.
Chống trợ cấp hàng hóa nhập khẩu là các biện pháp mà WTO cho phép
chính phủ nước nhập khẩu áp dụng nhằm chống lại các tác động tiêu cực do có
sự trợ cấp của chính phủ nước ngoài đối với hàng hóa gây ra cho thị trường nước
nhập khẩu với mục đích đảm bảo công bằng trong thương mại, qua đó bảo vệ lợi
ích chính đáng của các doanh nghiệp, ngành sản xuất sản phẩm tương tự trong
nước.
Chống trợ cấp (hay còn gọi là biện pháp đối kháng) là một biện pháp bảo hộ
hợp pháp đối với hàng hóa sản xuất trong nước trước các hiện tượng cạnh tranh
không lành mạnh của hàng hóa nhập khẩu có sự trợ cấp của chính phủ nước


6

ngoài. Nó nhằm vào các nhà sản xuất xuất khẩu nước ngoài được trợ cấp (thông
qua thủ tục điều tra chống trợ cấp do nước nhập khẩu tiến hành) chứ không nhằm
vào chính phủ nước ngoài đã thực hiện việc trợ cấp (WTO quy định các cơ chế
xử lý khác mang tính đa phương cho trường hợp này). Mục đích của biện pháp
chống trợ cấp được áp dụng để loại bỏ tác động tiêu cực gây ra cho ngành sản
xuất hàng hóa trong nước xuất phát từ các chính sách trợ cấp của chính phủ nước
xuất khẩu.
Biện pháp chống trợ cấp nó khác với hai biện pháp còn lại, thể hiện ở chỗ
Biện pháp chống bán phá giá là để đối phó với hành vi bán sản phẩm với giá thấp
nhằm chiếm lĩnh thị trường và tiến tới loại bỏ dần các đối thủ cạnh tranh và Biện
pháp tự vệ, biện pháp tự vệ thường được nói đến như một công cụ bảo vệ ngành
sản xuất hàng hóa tương tự hoặc cạnh tranh trực tiếp trong nước trong trường
hợp khẩn cấp do tình trạng gia tăng bất thường của hàng hóa nhập khẩu nhằm
hạn chế những tác động không thuận lợi gây thiệt hại nghiêm trọng cho sản xuất
trong nước. Như vậy, biện pháp tự vệ có thể được áp dụng kể cả khi các đối tác
thương mại thực hiện kinh doanh một cách chính đáng, không có tình trạng bán

phá giá hoặc trợ cấp. Chính vì vậy, biện pháp tự vệ được áp dụng một cách khắt
khe hơn so với hai biện pháp còn lại.
Ở Việt Nam khi áp dụng biện pháp chống trợ cấp người ta hay gọi là “vụ
kiện” chống trợ cấp. Đây thực chất là một quy trình Kiện - Điều tra - Kết luận Áp dụng biện pháp chống trợ cấp (còn gọi là biện pháp đối kháng) mà nước nhập
khẩu tiến hành đối với một loại hàng hoá nhập khẩu từ một nước nhất định khi
có những nghi ngờ rằng hàng hoá được trợ cấp (trừ trợ cấp đèn xanh) và gây
thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước nhập khẩu.
Trên thực tế, đây không phải thủ tục tố tụng tại Toà án mà là một thủ tục hành
chính và do cơ quan hành chính nước nhập khẩu thực hiện. Thủ tục này liên quan
đến một bên là ngành sản xuất nội địa và một bên là các nhà sản xuất, xuất khẩu
nước ngoài. Khác với thủ tục kiện chống bán phá giá, kiện chống trợ cấp liên
quan đến cả Chính phủ nước xuất khẩu (vì liên quan đến khoản trợ cấp). Thủ


7

tục, trình tự kiện chống trợ cấp gần tương tự với thủ tục, trình tự kiện chống bán
phá giá. Thủ tục này được quy định gần giống thủ tục tố tụng tại toà án (nên
thường được gọi là “vụ kiện”) [2]. Khi cơ quan hành chính ra quyết định cuối
cùng về việc áp dụng hay không áp dụng biện pháp chống trợ cấp, các bên không
đồng ý với quyết định này có thể kiện cơ quan này ra Toà án có thẩm quyền của
nước nhập khẩu hoặc khởi kiện tại cơ quan có thẩm quyền của WTO.
Có quan niệm cho rằng: chống trợ cấp là một trong ba cột trụ phòng vệ
thương mại, thông thường được sử dụng để “đối phó” với hành vi thương mại
hoàn toàn bình thường (không có hành vi vi phạm pháp luật hay cạnh tranh
không lành mạnh) nên về hình thức, việc áp dụng biện pháp tự vệ bị coi là đi
ngược lại chính sách tự do hoá thương mại của WTO.
Tuy vậy, đây là biện pháp được thừa nhận trong khuôn khổ WTO (với các
điều kiện chặt chẽ để tránh lạm dụng). Lý do là trong hoàn cảnh buộc phải mở
cửa thị trường và tự do hoá thương mại theo các cam kết WTO, các biện pháp tự

vệ là một hình thức “van an toàn” mà hầu hết các nước nhập khẩu là thành viên
WTO đều mong muốn. Với chiếc van này, nước nhập khẩu có thể ngăn chặn tạm
thời luồng nhập khẩu để giúp ngành sản xuất nội địa của mình tránh những đổ vỡ
trong một số trường hợp đặc biệt khó khăn.
1.1.1.2

Phân loại trợ cấp hàng hóa nhập khẩu

Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau, người ta phân loại trợ cấp thành trợ cấp
chung và trợ cấp riêng; trợ cấp trong nước và trợ cấp xuất khẩu; trợ cấp trực tiếp
và trợ cấp gián tiếp; trợ cấp nông nghiệp và trợ cấp phi nông nghiệp.
Theo quy định của SCM, chia trợ cấp thành 3 loại dựa trên mức độ ảnh
hưởng đến thương mại của chúng: Trợ cấp bị cấm sử dụng, trợ cấp không bị cấm
nhưng có thể bị khiếu kiện, trợ cấp không bị khiếu kiện, với quy chế áp dụng
khác nhau:
*/Trợ cấp bị cấm (Trợ cấp đèn đỏ) bao gồm:
o

Trợ cấp xuất khẩu (trợ cấp căn cứ vào kết quả xuất khẩu, ví dụ thưởng xuất

khẩu, trợ cấp nguyên liệu đầu vào để xuất khẩu, miễn thuế/giảm thuế cao hơn


8

mức mà sản phẩm tương tự bán trong nước được hưởng, ưu đãi bảo hiểm xuất
khẩu, ưu đãi tín dụng xuất khẩu…); hoặc
o

Trợ cấp nhằm ưu tiên sử dụng hàng nội địa so với hàng nhập khẩu


Đây là những hình thức trợ cấp mà hiện tất cả các thành viên WTO đều bị cấm
áp dụng.
*/ Trợ cấp không bị cấm nhưng có thể bị khiếu kiện (Trợ cấp đèn vàng)
bao gồm tất cả các loại trợ cấp có tính cá biệt (trừ các loại trợ cấp đèn xanh). Các
nước thành viên có thể áp dụng các hình thức trợ cấp này nhưng nếu gây thiệt hại
cho nước thành viên khác hoặc ngành sản xuất sản phẩm tương tự của nước
thành viên khác thì có thể bị kiện ra WTO.
*/ Trợ cấp không bị khiếu kiện (Trợ cấp đèn xanh) bao gồm:
o

Trợ cấp không cá biệt: Tức là các loại trợ cấp không hướng tới một (một

nhóm) doanh nghiệp/ngành/khu vực địa lý nào. Tiêu chí để hưởng trợ cấp là
khách quan; không cho cơ quan có thẩm quyền cấp khả năng tuỳ tiện xem xét và
không tạo ra hệ quả ưu đãi riêng đối với bất kỳ đối tượng nào; hoặc
o Các trợ cấp sau (dù cá biệt hay không cá biệt):
-

Trợ cấp cho hoạt động nghiên cứu do các công ty, tổ chức nghiên cứu tiến

hành (với một số điều kiện về loại trợ cấp và mức trợ cấp cụ thể);
-

Trợ cấp cho các khu vực khó khăn (với các tiêu chí xác định cụ thể về mức

thu nhập bình quân hoặc tỷ lệ thất nghiệp)
-

Trợ cấp để hỗ trợ điều chỉnh các điều kiện sản xuất cho phù hợp với môi


trường kinh doanh mới.
Các nước thành viên có thể áp dụng các hình thức này mà không bị thành viên
khác khiếu kiện (tức là loại trợ cấp được phép vô điều kiện).
1.1.2 Các biện pháp chống trợ cấp.
Thông thường có hai biện pháp chống trợ cấp là:
Áp dụng thuế chống trợ cấp và thực hiện cam kết của tổ chức, cá nhân hoặc
của Chính phủ nước hoặc vùng lãnh thổ sản xuất, xuất khẩu về biện pháp loại trừ
trợ cấp.


9

Thuế chống trợ cấp (còn gọi là thuế đối kháng) là khoản thuế bổ sung (ngoài
thuế nhập khẩu thông thường) đánh vào sản phẩm nước ngoài được trợ cấp vào
nước nhập khẩu gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất
trong nước.
Biện pháp áp dụng thuế và thực hiện cam kết được pháp luật Việt Nam áp
dụng tương thích với quy định của các nước trên thế giới và quy định của WTO.
Nhưng khái niệm về thuế chống trợ cấp của Việt Nam không giống với khái
niệm về thuế chống trợ cấp của SCM, khái niệm về thuế chống trợ cấp theo pháp
luật Việt Nam dễ bị hiểu nhầm là khoản thuế bổ sung thuế nhập khẩu.
1.1.3 Điều kiện áp dụng biện pháp chống trợ cấp
Khi hàng hóa được trợ cấp nhập khẩu vào nước nhập khẩu gây thiệt hại hoặc
đe dọa gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước, Chính phủ nước nhập khẩu
có thể sử dụng biện pháp chống trợ cấp để bảo vệ ngành sản xuất trong nước.
Tuy nhiên, việc áp dụng biện pháp chống trợ cấp phải đáp ứng được 03 điều kiện
sau đây:
Một là, có trợ cấp và mức trợ cấp cụ thể (“xác định trợ cấp”)
Hai là, ngành công nghiệp sản xuất hàng hóa tương tự trong nước nhập khẩu

bị thiệt hại một cách đáng kể hoặc bị đe dọa gây thiệt hại một cách đáng kể (“xác
định thiệt hại”)
Ba là, thiệt hại mà ngành sản xuất trong nước phải gánh chịu xảy ra hoặc bị
đe dọa xảy ra là do hàng hóa nhập khẩu được trợ cấp gây ra (“xác định mối quan
hệ nhân quả”)
Như vậy là chỉ khi phát hiện có trợ cấp và thiệt hại xảy ra, hoặc đe dọa xảy ra
Chính phủ nước nhập khẩu mới có thể áp dụng các biện pháp chống trợ cấp như
đưa ra một cơ quan giải quyết tranh chấp quốc tế hoặc tiến hành điều tra đánh
thuế chống trợ cấp với hàng nhập khẩu được trợ cấp.


10

1.1.4 Tác động của chống trợ cấp đối với tự do hóa thương mại
Trong thương mại quốc tế nói chung và trong chính sách thương mại của các
nước nói riêng, vấn đề tự do hóa thương mại và bảo hộ thương mại luôn luôn đi
liền với nhau. Nghịch lý này được tất cả các nước chấp nhận như một thực tế
khách quan, vì một mặt nước nào cũng muốn tự do hoá thương mại, nhưng mặt
khác bất cứ nước nào cũng có nhu cầu phải bảo hộ một số ngành sản xuất trong
nước của mình. Tuy nhiên, mục tiêu bảo hộ của các nước lại khác nhau, tuỳ theo
từng giai đoạn phát triển của nền kinh tế và những biện pháp bảo hộ thương mại
trên thế giới ngày càng trở nên tinh vi hơn. Do đó, chống trợ cấp có tác động hai
mặt đối với tự do hóa thương mại.
*/ Chống trợ cấp làm hạn chế tự do hóa thương mại
Chống trợ cấp thực chất là một biện pháp phi thuế quan nhằm bảo hộ
ngành sản xuất trong nước
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) được thành lập trên cơ sở kế thừa
Hiệp định chung về thuế quan và thương mại (GATT 1947) đánh dấu sự phát
triển cực kỳ quan trọng của thương mại quốc tế hiện đại. Sứ mệnh quan trọng
nhất của WTO là đề ra các định chế, các quy định luật pháp nhằm điều chỉnh hệ

thống thương mại đa phương và làm cho tiến trình tự do thương mại toàn cầu đi
đúng hướng. Với 16 hiệp định đa phương và 2 hiệp định nhiều bên (2 hiệp định
nhiều bên đã hết hiệu lực) cùng với các văn bản pháp lý liên quan khác (các
Quyết định, các Tuyên bố cấp Bộ trưởng, các Nghị định thư gia nhập, các Nghị
định thư về dịch vụ, các sửa đổi bổ sung...) WTO đã điều tiết hầu hết các khía
cạnh của thương mại quốc tế hiện đại.
Tuy nhiên, trên thực tế, trình độ phát triển kinh tế của các nước chênh lệch
nhau khá nhiều và sức ép đòi bảo hộ của các ngành sản xuất trong nước nên
thông thường các nước trên thế giới đều cố gắng duy trì những biện pháp bảo hộ
thương mại ở mức độ khác nhau. Do đó, điều chớ trêu là rất nhiều biện pháp bảo
hộ thương mại lại được dựa trên ngay chính các định chế luật pháp của WTO.


11

Biện pháp bảo hộ thương mại cổ điển nhất là thuế quan thì đã được WTO yêu
cầu phải cắt giảm. Các thành viên WTO đều phải cam kết không tăng thuế vượt
mức đã cam kết đối với phần lớn các mặt hàng trong biểu thuế nhập khẩu. Cam
kết này được gọi là cam kết "ràng buộc thuế quan".
Chính sức ép phải giảm thuế đó đã khiến các nước lợi dụng chính những định
chế luật pháp của WTO để đề ra các biện pháp bảo hộ thương mại tinh vi, hiện
đại khác không phải là thuế, đó là các biện pháp phi thuế quan hay gần đây
chúng ta hay gọi đó là các rào cản thương mại phi thuế quan, nếu các biện pháp
đó gây cản trở một cách bất hợp lý cho hoạt động thương mại quốc tế.
Biện pháp phi thuế quan được hiểu là tất cả các biện pháp không phải là thuế
quan, được qui định cụ thể trong hệ thống chính sách luật pháp hay phát sinh từ
thực tiễn quản lý hoạt động thương mại, có ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu
thì được gọi là các biện pháp phi thuế quan.
Trong khuôn khổ WTO, trong một chừng mực nào đó, các biện pháp phi thuế
quan có thể được phép áp dụng, nếu nó tuân theo những tiêu chí của WTO và

không được gây cản trở hay bóp méo thương mại. Đó được gọi là những biện
pháp phi thuế quan phổ thông (NTM). Tuy nhiên, về mặt nguyên tắc, WTO yêu
cầu phải chuẩn mực hoá lại các biện pháp phi thuế quan phổ thông theo các qui
định chung của WTO hoặc các thông lệ quốc tế và khu vực khác và phải giảm
thiểu, tiến tới loại bỏ các rào cản phi thuế quan (NTB) gây cản trở đối với thương
mại.
Khi một biện pháp phi thuế quan được áp dụng gây cản trở cho thương mại
mà không giải thích được theo bất kỳ một định chế hay nguyên tắc nào của WTO
thì biện pháp đó được coi là một rào cản phi thuế quan gây cản trở hay bóp méo
thương mại.
Trên thực tế, một biện pháp phi thuế quan có thể được coi là hợp pháp trong
giai đoạn này, nhưng lại bị coi là một rào cản phi thuế quan trong giai đoạn khác.
Hoặc nếu áp dụng một biện pháp phi thuế quan quá mức cần thiết hay quá thời


12

gian quy định của WTO thì biện pháp đó được coi là rào cản phi thuế quan. */
Chống trợ cấp tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh hơn tạo điều kiện
thúc đẩy tự do hóa thương mại.
Trong hoạt động thương mại trợ cấp tạo ra lợi thế cạnh tranh không lành
mạnh (bóp méo thương mại) – là rào cản của tự do hóa thương mại.Trợ cấp làm
biến dạng nguyên tắc xác định giá cả của một loại hình hàng hóa, tức là trong
trường hợp có trợ cấp, giá cả sẽ không được hạch toán theo các nguyên lý của
kinh tế thị trường [15]. Thông qua các khoản hỗ trợ tài chính, các chính phủ đã
trực tiếp hoặc gián tiếp điều tiết “đồ thị” giá cả của một loại hình hàng hóa. Vượt
ra khỏi biên giới của quốc gia, sự điều tiết này có thể sẽ ảnh hưởng đến quyền tự
do thương mại của quốc gia khác. Theo cách tiếp cận của tổ chức thương mại thế
giới mức độ ảnh hưởng đến tự do hóa thương mại của các loại hình trợ cấp có sự
khác nhau tùy thuộc vào mức độ bóp méo thương mại. Ở mức độ cao nhất

thường là loại trợ cấp “đèn đỏ” đây là hình thức trợ cấp gây cản trở xu hướng tự
do hóa thương mại trong WTO nhiều nhất, các hình thức trợ cấp khác không có
tác động hoặc có tác động nhưng không đáng kể.
Các nước thành viên của WTO, mặc dù họ ủng hộ tự do hóa thương mại
nhưng ngược lại họ vẫn bị cám dỗ bởi các biện pháp bảo hộ dưới hình thức trợ
cấp. Thực tiễn đã chứng minh rằng các biện pháp trợ cấp làm biến dạng sự phân
bổ nguồn lực kinh tế của các nước phát triển, là nguyên nhân chủ yếu đẩy lùi các
sản phẩm nhập khẩu đến từ các nước đang phát triển ra khỏi thị trường nội địa
thông qua cơ chế kìm giá. Trong môi trường cạnh tranh gay gắt, các nước phát
triển đã phải áp dụng những biện pháp hỗ trợ tài chính, giữ giá nông sản trên thị
trường nội địa nhằm tránh sự xâm nhập của làn song nông sản có lợi thế giá rẻ
đến từ các nước đang phát triển do chi phí nguyên liệu và nhân công luôn ở mức
thấp hơn nhiều và như vậy hệ quả là, mặc dù hàng rào thuế quan có thể giảm
xuống khi các nước thực thi các cam kết trong khuôn khổ WTO, nhưng sự di
chuyển tự do của các luồng hàng vẫn bị ảnh hưởng. Theo một số tài liệu nghiên
cứu cho thấy các hình thức trợ cấp trong nước làm sai lệch giá trị thực tế trên thị


13

trường nông sản thế giới ở mức 31%. Hỗ trợ xuất khẩu làm sai lệch giá trị thực
trên thị trường thế giới 13% [9]. Điều này chứng tỏ tự do hóa thương mại khó có
thể tạo dựng được một lối đi bền vững trong điều kiện các hình thức trợ cấp vẫn
còn tồn tại làm sai lệch giá trị thực tế của hàng hóa trên thị trường thế giới.
Trợ cấp trong nước có thể dẫn đến kích thích sản xuất dư thừa. hệ quả là giá
sản phẩm có nguy cơ bị giảm nếu bán sản phẩm đó trong nước. Vì vậy các quốc
gia mong muốn tìm kiếm cơ hội mở rộng thị trường ra bên ngoài lãnh thổ nước
mình. Để bán được lượng hàng hóa dư thừa trong nước ra thị trường thế giới, nơi
giá cả vốn thấp hơn thì cần phải có trợ cấp xuất khẩu. Do đó, kết quả là các nước
có chính sách trợ cấp lại có thể sản xuất và xuất khẩu hàng hóa nhiều hơn mức

bình thường. Điều này khẳng định rằng tự do hóa thương mại đã không được vận
hành theo đúng nghĩa của nó khi các nguyên lý cạnh tranh trong thương mại
quốc tế đã không được tuân thủ.
Trợ cấp đã tác động đến hai chiều của thương mại đó là xuất và nhập khẩu.
Nó có thể mở rộng thị trường của một nước, đồng thời cũng có thể hạn chế việc
tiếp cận thị trường của nước khác. Cả hai tác động này đều có xu hướng đẩy lùi,
làm chậm, thậm chí làm biến dạng tiến trình tự do hóa thương mại.
Do đó, chống trợ cấp triệt tiêu lợi thế của hàng nhập khẩu được chính phủ
nước xuất khẩu trợ cấp, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa hàng sản xuất
nội địa và hàng nhập khẩu tạo điều kiện thúc đẩy tự do hóa thương mại phát triển
mạnh mẽ hơn.
1.2 Pháp luật về chống trợ cấp
1.2.1 Pháp luật của WTO và của một số nước về chống trợ cấp hàng hóa
nhập khẩu.
1.2.1.1 Cách tiếp cận của WTO về trợ cấp và chống trợ cấp.
WTO tiếp cận về trợ cấp và chống trợ cấp theo các khía cạnh sau:
Thứ nhất, WTO dựa trên tiêu chí thiệt hại khi tiếp cận trợ cấp. Theo đó là sự
thừa nhận thực tiễn trong nhiều trường hợp trợ cấp là công cụ cần thiết được
chính phủ sử dụng để thực hiện chính sách chính đáng của mình. Mặc dù vậy khi


14

được thực hiện, chúng có thể mâu thuẫn với những mong muốn rất chính đáng
của chính phủ nước nhập khẩu. Điều này cho thấy rằng có sự xung đột giữa các
mục tiêu của chính sách cạnh tranh một mặt các chính phủ có lý do chính đáng
khi thực hiện chính sách trợ cấp, mặt khác các nước nhập khẩu cũng có lý do
chính đáng để lo ngại về việc nhập khẩu sản phẩm được trợ cấp vì những sản
phẩm này có thể gây ra thiệt hại cho ngành sản xuất của nước họ. Như vậy làm
thế nào để cân bằng được những lợi ích này? Theo quan điểm của WTO, điều

quan trọng nhất là kiểm tra thiệt hại. Đây là nguyên tắc trung gian giúp cho các
chính phủ có thể hài hòa những lợi ích cạnh tranh hoàn toàn đối lập đó. Vấn đề
đặt ra là nếu hàng hóa được trợ cấp không gây ra thiệt hại cho lợi ích của nước
nhập khẩu thì không cần phải áp dụng các biện pháp đối phó, biện pháp đối phó
chỉ được đặt ra khi hàng hóa được trợ cấp gây thiệt hại cho lợi ích của nước nhập
khẩu.
Thứ hai, WTO tiếp cận vấn đề trợ cấp và chống trợ cấp dựa theo tiêu chí về
mức độ “bóp méo thương mại”. Trong lĩnh vực TMHH, WTO sử dụng phương
pháp tiếp cận “ hệ thống đèn giao thông” để xây dựng các quy định điều chỉnh
việc sử dụng trợ cấp. Đối với sản phẩm phi nông nghiệp, trợ cấp bị SCM cấm sử
dụng trợ cấp “đèn đỏ”, trợ cấp “đèn đỏ” là trợ cấp bị coi là “bóp méo thương
mại” nhiều nhất và gây tổn hại đến lợi ích của các thành viên khác. Thông
thường có hai dạng trợ cấp bị cấm: Trợ cấp căn cứ theo thành tích xuất khẩu(
thưởng xuất khẩu, miễn các khoản thuế trực thu có liên quan tới hàng xuất khẩu,
phí vận tải chuyên chở trong nước đối với hàng xuất khẩu rẻ hơn so với hàng sản
xuất tiêu dùng nội địa,…) và trợ cấp khuyến khích sử dụng hàng nội địa thay cho
hàng nhập khẩu( còn được gọi là trợ cấp thay thế nhập khẩu). Theo SCM, trợ cấp
“đèn đỏ” có thể bị kiện ra cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO mà không cần
phải chứng minh tác động bất lợi của trợ cấp đối với thương mại hoặc bị nước
khác áp dụng biện pháp đối kháng( tức là bị điều tra đánh thuế chống trợ cấp).
Trợ cấp có thể dẫn tới hành động đối kháng( trợ cấp “đèn vàng”) là những trợ
cấp mang tính riêng biệt tuy không bị cấm sử dngj song lại có thể bị kiện ra cơ


15

quan giải quyết tranh chấp của WTO với điều kiện phải chứng minh có sự tác
động bất lợi của trợ cấp đối với thương mại hoặc bị nước khác áp dụng biện pháp
đối kháng. Trợ cấp không bị dẫn đến đối kháng( trợ cấp “đèn xanh”) là những trợ
cấp chung, phổ biến và ba loại trợ cấp mang tính riêng biệt nhưng được miễn trừ

có điều kiện( đó là hỗ trợ nghiên cứu phát triển, hỗ trợ vùng khó khăn, hỗ trợ cải
tiến trang thiết bị đang sử dụng để đáp ứng các quy định mới về môi trường).
Đây là những dạng trợ cấp được coi là ít gây “bóp méo thương mại” nhất nên
được cho phép sử dụng và không bị nước khác áp dụng biện pháp đối kháng để
chống lại. Tuy nhiên, loại này đến nay không còn được áp dụng(bỏ trợ cấp đèn
xanh).
Thứ ba, cách tiếp cận vấn đề trợ cấp và chống trợ cấp của WTO dựa trên tiêu
chí về “tính riêng biệt”. Theo điều 1 SCM yêu cầu khi chính phủ nước ngoài có
hành động trợ cấp có tác động đến hoạt động xuất, nước nhập khẩu muốn đối
phó lại bằng thuế đối kháng thì cần phải chứng minh được hành động trợ cấp đó
phải có tính “riêng biệt”, nghĩa là không phải một biện pháp đem lại lợi ích
chung cho mọi đối tượng tại nước xuất khẩu. Về mặt kinh tế, nếu có một chương
trình trợ cấp dành cho cả xã hội, người ta giả định rằng hành động trợ cấp đó
không làm biến dạng quan hệ thương mại do đó nó không thể dẫn đến hành động
đối kháng đơn phương của chính phủ nước nhập khẩu.
Thứ tư, cách tiếp cận vấn đề trợ cấp và chống trợ cấp của WTO dựa trên sự
khác biệt về trình độ phát triển kinh tế, thương mại giữa các nước. Với cách tiếp
cận này, WTO có một số ngoại lệ dành cho các nước chậm và đang phát triển,
các nước chuyển đổi trong việc điều chỉnh chính sách trợ cấp nông nghiệp và phi
nông nghiệp vì thách thức đối với các nước này sau khi gia nhập WTO rất đáng
kể. Để tạo điều kiện cho các nước thuộc nhóm này thực hiện chính sách kinh tế
có hiệu quả, tránh dẫn đến tình trạng “hội nhập thất bại”, nên WTO đã dành một
số ưu tiên trong chính sách trợ cấp trong lĩnh vực nông nghiệp và phi nông
nghiệp cho các nước chậm và đang phát triển.


16

Qua những phân tích, đánh giá ở trên chúng ta có thể rút ra những nhận xét
như sau:

Cách tiếp cận của WTO về trợ cấp và chống trợ cấp thể hiện quan điểm hài hòa
hóa mối quan hệ tự do hóa thương mại và lợi ích của các quốc gia thành viên.
Cách tiếp cận của WTO về trợ cấp và chống trợ cấp thể hiện quan điểm WTO
không hoàn toàn triệt tiêu trợ cấp mà hướng tới các quốc gia thành viên sử dụng
trợ cấp ít “bóp méo thương mại” nhằm phân bổ hợp lý nguồn lực kinh tế, phục
vụ cho mục đích phát triển và đảm bảo công bằng xã hội. Thực tiễn đàm phán trợ
cấp trong khuôn khổ WTO cho thấy, cách tiếp cận vấn đề trợ cấp, chống trợ cấp
của WTO bị chi phối bởi tương quan về vị thế kinh tế, chính trị giữa các quốc gia
thành viên, chính sự khác biệt về trình độ phát triển, sự phân hóa lợi ích giữa các
nước thành viên đặc biệt giữa hai nhóm các nước phát triển và các nước đang
phát triển trong nhiều trường hợp đã ảnh hưởng đến cách tiếp cận vấn đề trợ cấp
và chống trợ cấp của WTO. Các cuộc đàm phán về trợ cấp trong WTO thường
đem lại kết quả có lợi cho các nước phát triển.
1.2.1.2 Các Quy định của WTO về chống trợ cấp
Biện pháp chống trợ cấp là một biện pháp bảo hộ hợp pháp đối với hàng hóa
sản xuất trong nước trước các hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh của hàng
hóa nhập khẩu có sự trợ cấp của chính phủ nước xuất khẩu. Biện pháp này không
được đề cập đến trong các cam kết song phương mà chỉ được quy định trong
khuôn khổ WTO tại điều 16 GATT và SCM. Theo quy định SCM, trừ trường
hợp được quy định trong hiệp định nông nghiệp (đối với hàng nông sản), các
khoản trợ cấp bị cấm bao gồm trợ cấp xuất khẩu và trợ cấp thay thể hàng nhập
khẩu. Theo yêu cầu của hiệp định, các nước thành viên không được cấp hay duy
trì những khoản trợ cấp này để gây tác động có hại đến quyền lợi của các thành
viên khác. Trong trường hợp phát hiện biện pháp trợ cấp nêu trên, WTO công
nhận quyền của các thành viên áp dụng biện pháp chống trợ cấp. Tuy nhiên, việc
áp dụng các biện pháp chống trợ cấp phải phù hợp với các nguyên tắc, các khái


17


niệm của WTO về xác định trợ cấp, trình tự thủ tục điều tra, tham vấn, hòa giải
và áp dụng thuế đối kháng để giải quyết tranh chấp.
Trong SCM quy định biện pháp chống trợ cấp có thể được áp dụng thông qua
các cơ chế sau:
Thứ nhất, thông qua cơ chế giải quyết tranh chấp đa phương ( khiếu kiện ra
cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO) về hành vi trợ cấp của nước khác gây
tổn hại tới quyền lợi xuất khẩu của nước mình hoặc gây ra thiệt hại cho ngành
sản xuất nội địa của nước mình.
Thứ hai, thông qua cơ chế giải quyết tranh chấp đơn phương, theo quy định
của WTO, việc áp dụng biện pháp chống trợ cấp theo cơ chế đơn phương thông
qua điều tra để áp dụng thuế chống trợ cấp đối với hàng hóa nước ngoài được trợ
cấp gây thiệt hại cho nước nhập khẩu.
SCM quy định chỉ được phép áp dụng biện pháp đối kháng khi đã xác định
được rằng hàng nhập khẩu được trợ cấp là nguyên nhân gây thiệt hại hoặc đe dọa
gây thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu.
Thuế chống trợ cấp được áp dụng theo nguyên tắc: Một là, mức thuế chống
trợ cấp không được cao hơn giá trị trợ cấp tính theo đơn vị sản phẩm nhập khẩu
được trợ cấp. Hai là, thuế trợ cấp phải được áp dụng trên cơ sở không phân biệt
đối xử với hàng nhập khẩu từ tất cả các nước bị xác định là có trợ cấp gây ra
thiệt hại cho ngành sản xuất của nước nhập khẩu.
Thuế chống trợ cấp được áp dụng chừng nào nào còn cần thiết để đối phó với
trợ cấp của nước ngoài gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước. Tuy nhiên,
để ngăn chặn việc lạm dụng thuế chống trợ cấp, SCM quy định thời hạn áp dụng
thuế chống trợ cấp là 5 năm kể từ ngày bắt đầu áp dụng. Trong trường hợp muốn
kéo dài thời hạn trên thì cơ quan điều tra bắt buộc phải tiến hành rà soát việc áp
dụng thuế chống trợ cấp theo các thủ tục như điều tra mới trước khi thời hạn áp
dụng 5 năm kết thúc. Cơ quan điều tra có thể chủ động tiến hành rà soát hoặc
tiến hành rà soát theo đề nghị của đại diện ngành sản xuất trong nước.



18

Trong trường hợp khiếu kiện ra cơ quan giải quyết tranh chấp, nếu nước áp
dụng trợ cấp không thực hiện khuyến nghị của ban hội thẩm thì nước khiếu kiện
có thể yêu cầu WTO cho phép biện pháp trả đũa. Mặc dù nước nhập khẩu bị tổn
hại có thể đồng thời khởi kiện ra cơ quan giải quyết tranh chấp của WTO và điều
tra đánh thuế chống trợ cấp đối với hàng nhập khẩu được trợ cấp gây ra thiệt hại
cho ngành sản xuất trong nước nhưng cuối cùng chỉ được áp dụng hoặc thuế
chống trợ cấp hặc biện pháp trả đũa được WTO cho phép chứ không được áp
dụng đồng thời cả hai biện pháp này.
1.2.1.3


Quy định của một số nước về chống trợ cấp

Hoa kỳ
Pháp luật về trợ cấp và các biện pháp đối kháng của Hoa Kỳ về cơ bản được

xây dựng dựa trên các quy định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng của WTO
(cụ thể là Hiệp định về Trợ cấp và Các biện pháp đối kháng của WTO - SCM).
Nét đặc trưng của pháp luật về chống trợ cấp của Hoa kỳ thể hiện ở chỗ:
Một là về thẩm quyền, cơ quan có thẩm quyền để tiến hành điều tra và áp
dụng các biện pháp chống trợ cấp là Bộ thương mại (DOC) chịu trách nhiệm
điều tra trợ cấp và đưa ra quyết định áp dụng các biện pháp chống trợ cấp. Ủy
ban thương mại Quốc tế (ITC) chịu trách nhiệm điều tra thiệt hại, còn Bộ trưởng
Thương mại ra quyết định áp thuế chống trợ cấp (tạm thời, cuối cùng và rà soát
lại.
Hai là về thời hạn điều tra, Pháp luật về chống trợ cấp của Hoa Kỳ đưa ra rất
nhiều loại thời hạn điều tra để áp dụng các biện pháp chống trợ cấp như là thời
hạn khởi xướng để điều tra là 20 ngày kể từ ngày nhận được đơn kiện, thời hạn

kết luận sơ bộ của ITC là 45 ngày kể từ ngày nhận được đơn kiện, thời hạn để ra
kết luận sơ bộ của DOC là 85 ngày kể từ ngày khởi xướng điều tra (trong trường
hợp được ra hạn thêm thì thời gian gia hạn là 150 ngày), thời hạn kết luận cuối
cùng của DOC là 160 ngày kể từ ngày khởi xướng điều tra (trong trường hợp
được gia hạn thêm thì thời gian gia là 225 ngày), thời hạn để ra kết luận cuối
cùng của ITC là 205 ngày kể từ ngày khởi xướng điều tra (trong trường hợp


19

được gia hạn thì thời gian gia hạn là 270 ngày), thời hạn rà soát kết luận sơ bộ là
110 ngày kể từ ngày đăng thông báo tiến hành rà soát trên Công báo Liên bang,
thời hạn ra Kết luận rà soát cuối cùng là 240 ngày kể từ ngày đăng thông báo tiến
hành rà soát trên Công báo Liên bang.
Ba là, áp dụng pháp luật về chống trợ cấp của Hoa kỳ có những điểm khác
biệt thể hiện ở chỗ khi xem xét số phiếu tán thành/phản đối việc điều tra chống
trợ cấp của các nhà sản xuất trong nước thì vị thế của ban giám đốc và người
công nhân là ngang nhau tức là nếu một công ty mà ban giám đốc ủng hộ việc
điều tra chống trợ cấp trong khi công nhân lại phải đối thì công ty đó được coi
như không ủng hộ cũng không phản đối điều tra. Trong kết luận điều tra sơ bộ,
các nhà sản xuất, xuất khẩu mà được xác định là có mức trợ cấp bằng 0 hoặc
dưới mức tối thiểu vẫn không được lọa trừ ra khỏi cuộc điều tra. Tuy nhiên, các
nhà sản xuất, xuất khẩu này sẽ không phải chịu các biện pháp tạm thời. Pháp luật
về trợ cấp của Hoa Kỳ khá chi tiết, phức tạp và được sửa đổi nhiều lần. Do đó
cần phải đọc tất cả các văn bản sửa đổi bổ sung để nắm được chính xác các quy
định đó.
Bốn là, vấn đề công bố thông tin, các thông tin liên quan đến vụ kiện (trừ
thông tin mật) được đăng trên Công báo Liên bang để các bên liên quan có thể
tiếp cận được.



Trung Quốc
Pháp luật về trợ cấp và các biện pháp đối kháng của Trung Quốc về cơ bản

được xây dựng dựa trên các quy định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng của
WTO (cụ thể là HIệp định về Trợ cấp và Các biện pháp đối kháng của WTO SCM). Nét đặc trưng của pháp luật về chống trợ cấp của Trung Quốc thể hiện ở
chỗ:
Một là về thẩm quyền, cơ quan có thẩm quyền để tiến hành điều tra và áp
dụng các biện pháp chống trợ cấp là Bộ Thương mại Trung Quốc chịu trách
nhiệm tiến hành điều tra và xác định hành vi trợ cấp, thiệt hại đối với ngành sản
xuất trong nước và đề xuất các biện pháp áp dụng, Ủy ban Thuế quan Hội đồng


20

Nhà nước có quyền quyết định áp dụng các biện pháp đối kháng tạm thời/chính
thức dựa trên kết quả điều tra và đề xuất của Bộ Thương mại, quyết định tiếp tục
hay chấm dứt các biện pháp đối kháng dựa trên kết quả rà soát và đề xuất của Bộ
Thương mại.
Hai là về thời hạn điều tra, Pháp luật về chống trợ cấp của Trung Quốc đưa
ra 4 loại thời hạn điều tra cụ thể: Thời hạn quyết định khởi xướng điều tra là 60
ngày kể từ ngày nhận được đơn kiện. Trong trường hợp đặc biệt có thể gia hạn
thêm (nhưng không nói rõ thời hạn gia hạn thêm).
Ba là về vấn đề công bố thông tin, Quyết định khởi xướng điều tra, áp dụng biện
pháp tạm thời/chính thức sẽ được Bộ Thương mại thông báo bằng văn bản cho
các bên, các bên có thể tiếp cận các thông tin vụ kiện (trừ các thông tin mật).


Nhật Bản
Pháp luật về trợ cấp và các biện pháp đối kháng của Nhật Bản về cơ bản


được xây dựng dựa trên các quy định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng của
WTO (cụ thể là Hiệp định về Trợ cấp và Các biện pháp đối kháng của WTO SCM). Nét đặc trưng của pháp luật về chống trợ cấp của Nhật Bản thể hiện ở
chỗ:
Một là về thẩm quyền, cơ quan có thẩm quyền để tiến hành điều tra và áp
dụng các biện pháp chống trợ cấp là Bộ tài chính.
Hai là về thời hạn điều tra, Pháp luật về chống trợ cấp của Nhật Bản đưa ra
duy nhất một loại thời hạn điều tra để áp dụng các biện pháp chống trợ cấp đó là
1 năm kể từ ngày khởi xướng điều tra, trong trường hợp cần thiết có thể gia hạn
thêm 6 tháng.
Ba là, áp dụng pháp luật về chống trợ cấp của Hoa kỳ có những điểm khác
biệt thể hiện ở chỗ Công đoàn gồm các thành viên trực tiếp hoặc không trực tiếp
tham gia vào quá trình sản xuất ra sản phẩm tương tự với sản phẩm nhập khẩu bị
điều tra và tổng số những thành viên này chiếm không ít hơn 25% tổng số lao
động tham gia vào quá trình sản xuất trên được xem là bên liên quan. Các tổ


21

chức đại diện cho người tiêu dùng chỉ được trình bày quan điểm của mình/cung
cấp thông tin lên Bộ tài chính trong trường hợp các sản phẩm bị điều tra là các
sản phẩm được bán lẻ rộng rãi trên thị trường.
Bốn là, vấn đề công bố thông tin, các thông tin liên quan đến vụ kiện sẽ được
đăng Công báo để các bên có thể tiếp cận được.


Hàn Quốc
Pháp luật về trợ cấp và các biện pháp đối kháng của Hàn Quốc về cơ bản

được xây dựng dựa trên các quy định về trợ cấp và các biện pháp đối kháng của

WTO (cụ thể là HIệp định về Trợ cấp và Các biện pháp đối kháng của WTO –
SCM). Nét đặc trưng của pháp luật về chống trợ cấp của Hàn Quốc thể hiện ở
chỗ:
Một là về thẩm quyền, cơ quan có thẩm quyền để tiến hành điều tra và áp
dụng các biện pháp chống trợ cấp là Ủy ban Thương mại (thuộc Bộ Tài chính và
Kinh tế) tiến hành điều tra và đề xuất các biện pháp áp dụng, Bộ trưởng Tài
chính và Kinh tế có quyền quyết định áp dụng các biện pháp đối kháng tạm
thời/chính thức dựa trên đề xuất của Ủy ban Thương mại.
Hai là về thời hạn điều tra, Pháp luật của Hàn Quốc quy định rất chi tiết và
nhiều loại thời hạn điều tra như là thời hạn điều tra ban đầu là 2 tháng kể từ khi
nhận được đơn kiện, thời hạn báo cáo kết quả điều tra ban đầu của Ủy ban
Thương mại là 3 tháng kể từ khi công bố quyết khởi xướng điều tra. Thời hạn ra
quyết định áp dụng biện pháp đối kháng tạm thời của Bộ trưởng Tài chính và
Kinh tế là 1 tháng kể từ khi nhận được báo cáo kết quả điều tra ban đầu, có thể
gia hạn nhưng không quá 20 ngày. Thời hạn điều tra cuối cùng là 1 ngày sau khi
nộp báo cáo kết quả điều tra ban đầu, thời hạn báo cáo kết quả điều tra cuối cùng
của Ủy ban Thương mại là 3 tháng kể từ ngày khởi xướng điều tra cuối cùng.
Thời hạn tiến hành các biện pháp áp dụng thuế đối kháng là 1 năm kể từ ngày
thông báo khởi xướng điều tra, trong trương hợp cần thiết có thể kéo dài đến 18
tháng. Thời hạn yêu cầu rà soát là sau 1 năm áp dụng các biện pháp đối kháng và


×