Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Trách nhiệm của cơ quan điều tra trong việc thực hiện các yêu cầu và quyết định của viện kiểm sát nhân dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (593.86 KB, 71 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ THU HÀ

TRÁCH NHIỆM CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA
TRONG VIỆC THỰ C HIỆN CÁC YÊU CẦU VÀ QUY ẾT ĐỊNH
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂ N DÂN

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
M ã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN TH ẠC SĨ LUẬ T H ỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS HOÀNG THỊ MINH SƠN

HÀ NỘI - 2013


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong Luận văn là trung thực, chính xác và được thu thập
một cách hợp pháp.

Hà Nội, ngày 24 tháng 5 năm 2013
Tác giả Luận văn


Nguyễn Thị Thu Hà


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

Danh m ục

1. BLHS

Bộ luật Hình sự

2. TTHS

Tố tụng hình sự

3. BLTTHS

Bộ luật TTHS

4. CQĐT

Cơ quan điều tra

5. ĐTV

Điều tra viên

6. KSV


Kiểm sát viên

7. VKS

Viện kiểm sát

8. VKSNDTC

Viện kiểm sát nhân dân tối cao

9. VKSND

Viện kiểm sát nhân dân


MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU

1

Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤ N ĐỀ CHUNG VÀ QUY Đ ỊNH CỦ A PHÁ P LUẬT

6

TỐ TỤNG H ÌNH SỰ VỀ TRÁCH NHIỆM CỦ A CƠ QUAN ĐIÊU TRA
TRONG VIỆC THỰC HIỆN C ÁC YÊU C ẦU VÀ QUYẾT ĐỊNH CỦA VIỆN

KIỂM SÁT

Khái niệm, bản chất, ý nghĩa của việc quy định trách nhiệm của Cơ
quan điều tra trong việc thực hiện các yêu cầu và quyết định của Viện
kiểm sát trong tố tụng hình sự
1.1.1 Khái niệm trách nhiệm của Cơ quan điều tra trong việc thực hiện các yêu
cầu và quyết định của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự
1.1.2 Bản chất, ý nghĩa của việc quy định trách nhiệm của Cơ quan điều tra trong
việc thực hiện các yêu cầu và quyết định của Viện kiểm sát
1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về trách nhiệm của Cơ quan
điều tra trong việc thực hiện các yêu cầu và quyết định của Viện kiểm
sát
1.2.1. Các yêu cầu, quyết định của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự Cơ quan điều
tra bắt buộc phải thực hiện
1.2.2. Các yêu cầu, quyết định của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự, Cơ quan
điều tra tùy nghi thực hiện
Kết luận chƣơng 1
1.1.

Chƣơng 2: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG C A O
TRÁCH NHIỆM C ỦA CƠ QUA N ĐIỀU TRA TRONG V IỆC THỰC HIỆN
CÁC YÊU CẦU VÀ QUYẾT ĐỊNH CỦ A VIỆN KIỂM SÁT

2.1.
2.1.1
2.1.2
2.1.3
2.2.
2.2.1
2.2.2

2.2.3
2.3.4

Thực trạng C ơ quan điều tra thực hiện các yêu cầu và quyết định của
Viện kiểm sát
Những kết quả đạt được trong việc Cơ quan điều tra thực hiện các yêu cầu
và quyết định của Viện kiểm sát
Những tồn tại trong việc Cơ quan điều tra thực hiện các yêu cầu và quyết định
của Viện kiểm sát
Nguyên nhân của những tồn tại
Một số giải pháp nhằm nâng cao trách nhiệm của C ơ quan điều tra
trong việc thực hiện các yêu cầu và quyết định của V iện kiểm sát
Giải pháp về pháp luật
Nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, phẩm chất của đội ngũ cán bộ
Kiểm sát viên, Điều tra viên
Đổi mới công tác tổ chức, quản lý, chỉ đạo điều hành
M ột số giải pháp khác
Kết luận chƣơng 2
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI L IỆU T HAM KHẢO

6

6
8
11

11
18
25

27

27
27
33
43
51
51
56
57
60
60
62
64


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo quy định của BLTTHS thì VKS có hai chức năng đó là thực hành
quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Một trong những cách
thức để VKS thực hiện chức năng của mình đó là đề ra các yêu cầu và ban
hành quyết định. Trong đó các yêu cầu và quyết định của VKS đối với CQĐT
trong quá trình điều tra vụ án hình sự có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đảm bảo
cho mọi hành vi phạm tội được xử lý kịp thời, việc khởi tố, điều tra cũng như
việc áp dụng biện pháp ngăn chặn có căn cứ và đúng pháp luật, đồng thời phát
hiện kịp thời và loại trừ việc vi phạm pháp luật của CQĐT trong quá trình giải
quyết vụ án hình sự.
Tuy nhiên trên thực tế không phải bất cứ yêu cầu hay quyết định nào của

VKS đều được CQĐT nghiêm túc thực hiện. Quy định của pháp luật về trách
nhiệm của CQĐT khi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các yêu
cầu, quyết định của VKS còn hạn chế. Thực tiễn cũng cho thấy, việc ban hành
yêu cầu và quyết định của VKS ở một số trường hợp còn bộc lộ nhiều thiếu
sót, tồn tại, không ít các trường hợp do nhận thức không thống nhất giữa
CQĐT và VKS dẫn đến việc CQĐT không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng các yêu cầu và quyết định của VKS, làm cho việc giải quyết vụ án bị
kéo dài, gây tốn kém các chi phí tố tụng , ít nhiều ảnh hưởng và hạn chế đến
chất lượng giải quyết các vụ án hình sự cũng như ảnh hưởng sâu sắc đến quan
hệ phối hợp giữa CQĐT và VKS .
Từ lý luận và thực tiễn trên đây đã đặt ra yêu cầu cần thiết nghiên cứu
và nhận thức một cách đúng đắn về việc ban hành yêu cầu, quyết định của
VKS đối với CQĐT cũng như trách nhiệm thực hiện của CQĐT đối với các
yêu cầu và quyết định của VKS, đồng thời tìm ra cơ sở khoa học để sửa đổi,
bổ sung và hoàn thiện các quy định của pháp luật TTHS về vấn đề này.


2

Chính vì vậy, là một cán bộ hiện đang công tác trong ng ành Kiểm sát,
tác giả chọn nghiên cứu đề tài “Trách nhiệm của CQĐT trong việc thực hiện
các yêu cầu và quyết định của VKSND” làm luận văn Thạc sỹ luật học nhằm
góp phần giải quyết một số vấn đề về lý luận và thực tiễn công tác đề ra.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm qua, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về
chức năng của CQĐT, chức năng của VKS, mối quan hệ giữa CQĐT và VKS
trong TTHS. Tuy nhiên các công trình nghiên cứu khoa học về những vấn đề
này ở phạm vi và mức độ nghiên cứu khác nhau:
Công trình nghiên cứu mang tính đại cương có Giáo trình Luật TTHS
Việt Nam (Trường Đại học Luật Hà Nội); cuốn Bình luận khoa học BLTTHS

Việt Nam năm 2003, Nhà xuất bản Công an nhân dân năm 2 004 do tác giả Võ
Khánh Vinh chủ biên; cuốn Một số vấn đề mới của BLTTHS năm 2003, cuốn
Sổ tay KSV hình sự tập 1 của VKSNDTC... Các tài liệu này đã phân tích nội
dung các quy định của BLTTHS trong đó có các quy định về chức năng của
CQĐT, chức năng của VKS và đề cập đến nội dung trách nhiệm của CQĐT
trong việc thực hiện các yêu cầu, quyết định của VKS.
Ngoài ra, một số tạp chí cũng đề cập đến mối quan hệ phối hợp giữa
CQĐT và VKS, vấn đề tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều
tra như bài “Tăng cường quan hệ phối hợp giữa VKS với CQĐT, nâng cao
trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp ”
- Tạp chí kiểm sát số 19, năm 2012 của tác giả Đỗ Văn Thắng; bài “Hoàn
thiện quy định về mối quan hệ giữa CQĐT và VKS trong TTHS Việt Nam”Tạp chí kiểm sát số 8, năm 2012 của tác giả Nguyễn Tiến Sơn; bài “Những
vấn đề lý luận và thực tiễn về trách nhiệm công tố trong việc đề ra yêu cầu
điều tra theo yêu cầu cải cách tư pháp” - Tạp chí kiểm sát số 13, năm 2012
của tác giả Vũ Việt Hùng; bài “Sửa đổi bổ sung BLTTHS nhằm thực hiện chủ
trương của Đảng - Tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra,


3

thực hiện cơ chế công tố gắn với điều tra”- Tạp chí kiểm sát số 21 năm 2012
của tác giả Nguyễn Thị Thủy … Hay nhiều đề tài khoa học nghiên cứu chuyên
sâu về quan hệ phối hợp giữa CQĐT và VKS, về chức năng công tố của VKS
như luận án tiến sĩ năm 1996 “Mối quan hệ giữa CQĐT và VKS trong TTHS
Việt Nam” của tiến sỹ Nguyễn Tiến Sơn; Luận văn thạc sĩ năm 1994 “Mối
quan hệ giữa CQĐT và VKS khi thực hiện kiểm sát điều tra ” của thạc sỹ
Hoàng Công Khôi; luận văn thạc sĩ năm 2012 “Quyền công tố của VKS trong
giai đoạn điều tra vụ án hình sự” của thạc sĩ Phạm Thị Thùy Linh ... Những
bài viết trên tạp chí, công trình nghiên cứu khoa học trên đã tập trung nghiên
cứu làm rõ một số vấn đề lý luận, căn cứ và thực tiễn áp dụng các quy định

của BLTTHS về chức năng thực hành quyền công tố của VKS, về mối quan
hệ giữa CQĐT và VKS, về yêu cầu điều tra của VKS... qua đó đánh giá thực
trạng trong việc áp dụng pháp luật đồng thời đưa ra giải pháp hoàn thiện pháp
luật cùng một số giải pháp, kiến nghị khác để nâng cao hiệu quả áp dụng trên
thực tiễn các vấn đề này. Các nghiên cứu trên đã có những đóng góp khoa học
nhất định và đáng trân trọng cả về lý luận và thực tiễn.
Tuy nhiên, hiện nay chưa có đề tài khoa học nào nghiên cứu một cách
chuyên sâu, trực tiếp, toàn diện về mặt lý luận, cũng như đưa ra các g iải pháp
toàn diện để nâng cao trách nhiệm của CQĐT trong việc thực hiện các yêu
cầu và quyết định của VKS. Xuất phát từ tình hình nghiên cứu như trên ch o
thấy cần phải có nghiên cứu về mặt lý luận, đánh giá thực trạng áp dụng các
quy định của pháp luật TTHS và đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao trách
nhiệm của CQĐT trong việc th ực hiện các yêu cầu và quyết định của VKS .
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đây là đề tài chủ yếu liên quan đến việc thực hiện pháp luật nên luận
văn chỉ tập trung nghiên cứu nh ững vấn đề lý luận cơ bản cũng như quy định
của pháp luật TTHS về trách nhiệm của CQĐT trong việc thực hiện các yêu
cầu và quyết định của VKS, từ đó đánh giá thực tiễn thực hiện quy định của


4

pháp luật liên quan đến vấn đề này . Do thời gian và khuôn khổ có hạn, luận
văn tập trung vào việc nghiên cứu những vấn đề sau:
- Những vấn đề chung về trách nhiệm của CQĐT trong việc thực hiện
các yêu cầu và quyết định của VKSND theo Điều 114 BLTTHS và một số
quy định khác của BLTTHS liên quan đến nội dung này ;
- Thực trạng áp dụng Điều 114 BLTTHS về trách nhiệm của CQĐT
trong việc thực hiện một số yêu cầu và quyết định của VKSND những năm
gần đây (từ năm 2008 đến 2012) của cơ quan Cảnh sát điều tra và VKSND là

hai chủ thể trực tiếp thực hiện.
- Luận văn không nghiên cứu về trách nhiệm của CQĐT trong việc
thực hiện các yêu cầu và quyết định của VKS quân sự.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở phương pháp luận của luận văn là những quan điểm của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan
điểm của Đảng và Nhà nước về công tác đấu tranh chống và phòng ngừa tội
phạm.
Luận văn được hoàn thành dựa trên cơ sở các phương pháp nghiên cứu
khoa học cụ thể như nghiên cứu tài liệu, phân tích, tổng hợp, so sánh, thống
kê, khảo sát thực tế, chuyên gia.
5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu quy định của pháp luật về trách nhiệm của
CQĐT trong việc thực hiện các yêu cầu và quyết định của VKS, luận văn đề
xuất một số kiến nghị hoàn thiện quy định của BLTTHS năm 2003 về vấn đề
này và đề ra một số giải pháp khác để nâng cao hiệu quả cũng như trách
nhiệm thực hiện của CQĐT đối với các yêu cầu và quyết định của VKS.
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là:
- Phân tích bản chất, ý nghĩa của việc quy định trách nhiệm của CQĐT
trong việc thực hiện các yêu cầu và quyết định của VKSND trong TTHS;


5

- Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành về các yêu
cầu, quyết định của VKS đối với CQĐT và trách nhiệm của CQĐT trong việc
thực hiện các yêu cầu và quyết định này ;
- Khảo sát để đánh giá thực trạng áp dụng những quy định của pháp
luật về trách nhiệm của CQĐT trong việc thực hiện một số yêu cầu và quyết
định của VKSND trong TTHS trong những năm gần đây (2008 -2012).

6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
- Nghiên cứu một cách có hệ thống các quy định của pháp luật về các
yêu cầu và quyết định của VKS đối với CQĐT cũng như các quy định liên
quan đến trách nhiệm của CQĐT trong việc thực hiện các yêu cầu và quyết
định của VKS;
- Phát hiện một số vướng mắc, bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp
luật TTHS về việc thực hiện của CQĐT đối với các yêu cầu, quyết định của
VKS;
- Đề xuất sửa đổi, bổ su ng một số quy định của BLTTHS năm 2003,
một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả cũng như trách nhiệm thực hiện của
CQĐT đối với các yêu cầu, quyết định của VKS.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu gồm 2 chương:
Chƣơng 1: M ột số vấn đề chung và quy định của Pháp luật TTHS về
trách nhiệm của CQĐT trong việc thực hiện các yêu cầu và quyết định của
VKS.
Chƣơng 2: Thực trạng và một số giải pháp nhằm nâng cao trách nhiệm
của CQĐT trong việc thực hiện các yêu cầu và quyết định của VKS.


6

Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ C HUNG VÀ QUY ĐỊN H C ỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ VỀ TRÁCH NHIỆ M CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA TRONG V IỆC
THỰC H IỆN CÁC YÊU CẦU VÀ QUYẾ T ĐỊNH CỦA VIỆN KIỂM SÁT

1.1 Khái niệm, bản chất, ý nghĩa của việc quy định trách nhiệm của
Cơ quan điều tra trong việc thực hiện các yêu cầu và quyết định của Viện

kiểm sát trong tố tụng hình sự.
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm của Cơ quan điều tra trong việc thực
hiện các yêu cầu và quyết định của Viện kiểm sát trong tố tụng hình sự.
Điều 23 BLTTHS quy định: VKS có chức năng thực hành quyền công
tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS. Điều 112 BLTTHS quy
định khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra, VKS có quyền
quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, đề ra yêu cầu điều tra đối với CQĐT,
khi xét thấy cần thiết trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra. VKS có
quyền áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn, có quyền phê
chuẩn hoặc không phê chuẩn một số quyết định của CQĐT; hủy các quyết
định không có căn cứ và trái pháp luật của CQĐT; quyết định việc truy tố bị
can, quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án. Điều 113 BLTTHS quy
định khi kiểm sát điều tra, VKS có nhiệm vụ và quyền hạn sau: Kiểm sát việc
khởi tố, các hoạt động điều tra, việc lập hồ sơ vụ án của CQĐT, việc tuân theo
pháp luật của người tham gia tố tụng; giải quyết các tranh chấp về thẩm quyền
điều tra; yêu cầu CQĐT khắc phục các vi phạm pháp luật trong quá trình điều
tra, cung cấp các tài liệu cần thiết về vi phạm pháp luật của ĐTV, yêu cầu thủ
trưởng CQĐT xử lý nghiêm minh ĐTV đã vi phạm pháp luật trong khi tiến
hành điều tra; Kiến nghị các cơ quan tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp
phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật.
CQĐT có nhiệm vụ tiến hành điều tra tất cả các tội phạm, áp dụng mọi
biện pháp do BLTTHS quy định để xác định tội phạm và người đã thực hiện


7

hành vi phạm tội, lập hồ sơ, đề nghị truy tố; tìm ra nguyên nhân, điều kiện
phạm tội và yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các b iện pháp
khắc phục và ngăn ngừa [29; Điều 3].
Tuy VKS và CQĐT là các cơ quan nhà nước khác nhau, đ ộc lập với

nhau và không có sự ràng buộc với nhau về quan hệ hành chính nhưng đều có
nhiệm vụ chung là chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính
xác, nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không
để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Chính nhiệm vụ chung này đã
gắn kết CQĐT và VKS trong quá trình điều tra. Đ ể bảo đảm VKS thực hiện
chức năng của mình, Điều 114 BLTTHS quy định trách nhiệm của CQĐT
trong việc thực hiện các yêu cầu và quyết định của VKS.
CQĐT là một trong ba cơ quan tiến hành tố tụng, là chủ thể chủ yếu
trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Theo quy định tại Điều 110 BLTTHS
thì CQĐT được tổ chức trong lực lượng Công an nhân dân, Q uân đội nhân
dân và ở VKSNDTC.
Theo Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự thì:
- Trong Công an nhân dân có hai loại CQĐT: Cơ quan an ninh điều tra
được tổ chức ở hai cấp là cấp trung ương và cấp tỉnh; Cơ quan cảnh sát điều
tra được tổ chức ở ba cấp là cấp trung ương, cấp tỉnh và cấp huyện.
- Trong Quân đội nhân dân có hai loại CQĐT: CQĐT hình sự trong
Quân đội nhân dân được tổ chức ở ba cấp bao gồm CQĐT hình sự Bộ Quốc
phòng, CQĐT hình sự quân khu và tương đương và CQĐT hình sự khu vực;
Cơ quan An ninh điều tra trong Quân đội nhân dân được tổ chức ở hai cấp,
bao gồm: Cơ quan An ninh điều tra Bộ Quốc phòng và Cơ quan An ninh điều
tra quân khu và tương đương .
- Tổ chức của CQĐT của VKSNDTC bao gồm: CQĐT VKSNDTC và
CQĐT VKS quân sự Trung ương.


8

Ngoài ra theo Điều 111 BLTTHS thì những Cơ quan sau được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, bao gồm: Bộ đội biên phòng,
Hải quan, Kiểm lâm, lực lượng Cảnh sát biển và các cơ quan khác của Công

an nhân dân, Quân đội nhân dân. Các cơ quan này chỉ là các cơ quan chuyên
môn, nghiệp vụ được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động đ iều tra với
quyền hạn và trách nhiệm hạn chế hơn nhiều so với CQĐT chuyên trách. Tuy
nhiên các cơ quan này cũng có quyền quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can,
tiến hành điều tra và chuyển hồ sơ cho VKS trong một số trường hợp do
BLTTHS và Pháp lệnh tổ chức điều tra hình sự quy định. Do vậy trong quá
trình khởi tố, điều tra vụ án hình sự, các cơ quan này cũng phải có trách
nhiệm thực hiện các yêu cầu và quyết định của VKS theo quy định tại Điều
114 BLTTHS.
Từ điển mở Wiktionary thể hiện Trách nhiệm là điều phải làm, phải
gánh vác hoặc phải nhận lấy về mình [48]. Theo Từ điển Tiếng Việt thì Trách
nhiệm là nhiệm vụ mình phải gánh vác lấy [27].
Từ các phân tích trên có thể hiểu trách nhiệm của CQĐT trong việc
thực hiện các yêu cầu và quyết định của VKS đó là: Những điều CQĐT, các
cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra phải làm ,
phải gánh vác trong việc thực hiện các yêu cầu và quyết định của VKS trong
TTHS nhằm chủ động phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm, phát hiện chính xác,
nhanh chóng và xử lý công minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt
tội phạm, không làm oan người vô tội.
1.1.2. Bản chất, ý nghĩa của việc quy định trách nhiệm của Cơ quan
điều tra trong việc thực hiện các yêu cầu và quyết định của Viện kiểm sát
trong tố tụng hình sự.
Từ trước đến nay trong lý luận và thực tiễn đã hình thành một số quan
điểm về mối quan hệ giữa VKS và CQĐT trong TTHS. Quan điểm thứ nhất
cho rằng CQĐT và VKS có quan hệ mật thiết với nhau và về tính chất quan


9

hệ này là quan hệ phối hợp và chế ước lẫn nhau [19; tr.12]. Quan điểm thứ hai

cho rằng, theo tinh thần cải cách tư pháp như hiện nay, chức năng công tố và
vai trò của VKS ngày càng được nâng cao, thì nội dung “chế ước lẫn nhau”
cũng không còn phù hợp mà quan hệ chế ước giữa VKS và CQĐT chỉ mang
tính một chiều, VKS là cơ quan chế ước, còn CQĐT là cơ quan bị chế ước
[23; tr.58]. Tác giả đồng ý với nội dung quan hệ chế ước chỉ mang tính một
chiều tức VKS chế ước CQĐT như quan điểm thứ hai. Bởi Điều 114
BLTTHS đã thể hiện rõ khẳng định trên: CQĐT có trách nhiệm thực hiện các
yêu cầu và quyết định của VKS. Cũng có ý kiến cho rằng theo Điều 114
BLTTHS thì trong trường hợp CQĐT không nhất trí với một số yêu cầu,
quyết định của VKS có quyền kiến nghị với VKS cấp trên trực tiếp, trong thời
hạn nhất định VKS cấp trên trực tiếp phải xem xét, giải quyết và thông báo
kết quả giải quyết cho CQĐT , điều này thể hiện nội dung CQĐT chế ước
VKS. Theo tác giả đây chỉ là quyền kiểm tra, giám sát của CQĐT đối với
VKS cùng cấp. Tính chất kiểm tra, giám sát của CQĐT đố i với VKS có mức
độ nhất định và không đầy đủ các yêu cầu của sự chế ước. Phân biệt khái
niệm “chế ước” và “giám sát” cho thấy nếu giám sát là việc kiểm tra, theo dõi
thì chế ước bao gồm cả kiểm tra, theo dõi và thực hiện các biện pháp khác
nhằm bảo đảm hoạt động được thực hiện đúng quy định của pháp luật, như
vậy giám sát chỉ là m ột phần của sự chế ước. Theo quy định của pháp luật
hiện hành, nếu CQĐT phát hiện hoạt động của VKS không có căn cứ thì chỉ
có quyền kiến nghị với VKS cấp trên xem xét không có qu yền yêu cầu hoặc
hủy bỏ các quyết định của VKS, việc giải quyết như thế nào là quyền của
VKS cấp trên [23; tr.58]. Trong khi chờ quyết định của VKS cấp trên thì
CQĐT vẫn phải chấp hành yêu cầu, quyết định bị kiến nghị đó. Như vậy, mối
quan hệ giữa CQĐT và VKS trong TTHS là sự phối hợp và chế ước của VKS
với CQĐT. Sự phối hợp được thể hiện ở nhiều chế định trong BLTTHS như
việc nắm, quản lý tin báo, tố giác về tội phạm và kiến nghị khởi tố, phối hợp


10


trong quá trình giải quyết những vụ án phức tạp, án trọng đ iểm… Như đã
phân tích ở trên VKS và CQĐT là các cơ quan nhà nước khác nhau, độc lập
với nhau và không có sự ràng buộc với nhau về quan hệ hành chính . Pháp luật
TTHS cũng không có những quy định và chế tài về chế độ trách nhiệm của
từng cơ quan, của người tiến hành tố tụng, của KSV, của ĐT V một cách cụ
thể, rõ ràng để đảm bảo thực hiện mối quan hệ này. Do đó, trong quá trình
điều tra, thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra thì khía cạnh phối hợp
giữa hai cơ quan là không thể thiếu. [30; tr.48]
Nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong giai đoạn điều tra được quy
định tập trung nhất ở hai đ iều luật của BLTTHS, đó là Điều 112 và Điều 113.
Hai điều luật đã gắn trách nhiệm của VKS vào qúa trình điều tra. Nếu như
trong kiểm sát điều tra thì VKS ở ngoài cuộc, chỉ “thổi còi” đưa ra các yêu
cầu, kiến nghị [31; tr.68] thì với chức năng thực hành quyền công tố, VKS
trực tiếp đi sâu vào ho ạt động điều tra, ban hành các q uyết định và đề ra các
yêu cầu trong quá trình thực hiện các chức năng này. Để VKS có thể thực
hiện đầy đủ và có hiệu quả hai chức năng trên BLTTHS đã xác lập một hệ
thống các quy định bảo đảm cho các yêu cầu và quyết định của VKS có hiệu
lực thực hiện trên thực tế. M ột trong các quy định như vậy được thể hiện tại
Điều 114 BLTTHS, điều luật quy định về trách nhiệm của CQĐT trong việc
thực hiện các yêu cầu và quyết định của VKS.
Từ các phân tích nêu trên có thể thấy việc quy định trách nhiệm của
CQĐT trong việc thực hiện các yêu cầu và quyết định của VKS trong TTHS
thể hiện sự chế ước một chiều của VKS đối với CQĐT trong quá trình điều
tra vụ án hình sự. Việc quy định này có những ý nghĩa:
- Bảo đảm cho các yêu cầu và quyết định của VKS có hiệu lực thực
hiện trên thực tế.
- Tạo cơ sở pháp lý để CQĐT, VKS thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
mình.



11

- Tạo tiền đề để xây dựng VKS trở thành cơ quan công tố thực thụ
trong tương lai theo tinh thần cải cách tư pháp: Nghiên cứu việc chuyển VKS
thành viện công tố, tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều
tra [3].
1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về trách nhiệm của C ơ
quan điều tra trong việc thực hiện các yêu cầu và quyết định của Viện
kiểm sát.
Điều 114 BLTTHS khẳng định CQĐT có trách nhiệm thực hiện các
yêu cầu và quyết định của VKS. Tuy nhiên việc chấp hành các yêu cầu và
quyết định của VKS có hai mức độ: bắt buộc phải thực hiện và tùy nghi thực
hiện.
1.2.1 Các yêu cầu, quyết định của Viện kiểm sát trong tố tụng hình
sự, Cơ quan điều tra bắt buộc phải thực hiện.
Theo quy định của pháp luật TTHS thì chức năng cơ bản của CQĐT là
khởi tố, điều tra tội phạm. Tuy CQĐT có quyền độc lập khi tiến hành điều tra,
có quyền áp dụng các biện pháp ngăn chặn, ra các quyết định khởi tố, đình
chỉ, tạm đình chỉ điều tra… nhưng trong hoạt động điều tra, các quyết định do
CQĐT ban hành đều nằm dưới sự kiểm sát chặt c hẽ của VKS. Với chức năng
thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động
tư pháp, VKS có quyền và trách nhiệm hủy các lệnh, quyết định không có căn
cứ và trái pháp luật của CQĐT. Thay vào đó, VKS ban hành các lệnh, quyết
định và yêu cầu CQĐT thực hiện. Trong nhiều trường hợp những lệnh, quyết
định liên quan đến việc hạn chế các quyền cơ bản của công dân được Hiến
pháp ghi nhận thì phải có sự phê chuẩn của VKS. Nếu không có sự phê chuẩn
thì các lệnh, quyết định của CQĐT không có hiệu lực thi hành. Theo quy định
tại Điều 114 của BLTTHS thì những yêu cầu và quyết định của VKS được
quy định tại các điểm 4, 5, 6 Điều 112 BLTTHS là những yêu cầu và quyết

định mà CQĐT dù không nhất trí vẫn phải chấp hành. CQĐT không có quyền


12

can thiệp vào hoạt động của VKS. Các kiến nghị của CQĐT đối với VKS đều
do VKS cấp trên giải quyết:
- Quyết định áp dụng, thay đổi, hoặc hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm
giam và các biện pháp ngăn chặn khác.
Biện pháp ngăn chặn là những biện phá p cưỡng chế trong TTHS được áp
dụng đối với bị can, bị cáo hoặc đối với ng ười chưa bị khởi tố (trong trường
hợp khẩn cấp hoặc phạm tội quả tang), nhằm ngăn chặn những hành vi nguy
hiểm cho xã hội của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật
hoặc có hành động gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
hình sự. [28; tr. 197]
Điều 79 BLTTHS quy định: CQĐT, VKS, Toà án trong phạm vi thẩm
quyền tố tụng của mình hoặc người có thẩm quyền theo quy định của Bộ luật
này có thể áp dụng một trong những biện pháp ngăn chặn sau đây: bắt, tạm
giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị
để bảo đảm. Điều 166 BLTTHS cũng quy định: Sau khi nhận hồ sơ vụ án,
VKS có quyền quyết định việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ biện ph áp ngăn
chặn. Điều 94 BLTTHS quy định về Huỷ bỏ hoặc thay thế biện pháp ngăn
chặn, có nêu: CQĐT, VKS huỷ bỏ biện pháp ngăn chặn khi thấy không còn
cần thiết hoặc có thể thay thế bằng một biện pháp ngăn chặn khác. Đối với
những biện pháp ngăn chặn do VKS phê chuẩn thì việc huỷ bỏ hoặc thay thế
phải do VKS quyết định. Theo quy định của các điều luật trên thì VKS có
thẩm quyền áp dụng, thay đổi, hoặc hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam
và các biện pháp ngăn chặn khác. Nhưng VKS không thể tự mình thi hành các
biện pháp ngăn chặn mang tính cưỡng chế như bắt, tạm giữ, tạm giam mà
phải yêu cầu CQĐT thực hiện bởi mỗi cơ quan tiến hành tố tụng đều có chức

năng, nhiệm vụ riêng, đồng thời có cơ cấu tổ chức và bộ máy phù hợp để thực
hiện chức năng, nhiệm vụ đó, chỉ có lực lượng công an mới được Nhà nước


13

trao quyền và có khả năng triển khai thực hiện trên thực tế các hoạt động
cưỡng chế như bắt, tạm giữ, tạm giam . Do vậy, để đảm bảo cho VKS có điều
kiện thực hiện chức năng của mình, trong mọi trường hợp các quyết định trên
đều phải được CQĐT tuyệt đối thực hiện.
- Quyết định phê chuẩn, không phê chuẩn cá c quyết định của CQĐT
theo quy định của BLTTHS.
Hoạt động thực hiện chức năng của CQĐT rất nhiều nhưng chỉ các hoạt
động sau mới cần có sự phê chuẩn của VKS, đó là: Lệnh bắt khẩn cấp, Quyết
định gia hạn tạm giữ, Quyết định đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm,
Lệnh khám xét, Lệnh thu giữ thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm tại bưu
điện, Lệnh kê biên tài sản, Quyết định khởi tố bị can, Quyết định thay đổi
quyết định khởi tố bị can, Quyết định bổ sung quyết định khởi tố bị can, Lệnh
tạm giam, Lệnh bắt bị can để tạm giam.
Đây là những trường hợp mà nếu thực hiện sẽ hạn chế quyền tự do cá
nhân của đối tượng áp dụng, tác động trực tiếp đến các quyền cơ bản của công
dân được Hiến pháp, pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện. Nếu áp dụng
không đúng sẽ xâm phạm đến quyền con người như quyền bất khả xâm phạm
về thân thể, quyền tự do đi lại… Vì vậy việc áp dụng, thay đổi hoặc hủy bỏ
phải do VKS quyết định. Phê chuẩn hay không phê chuẩn các lệnh, quyết
định nêu trên là hoạt động thể hiện sự đồng ý hay không đồng ý với quyết
định, hành vi của CQĐT sau khi nghiên cứu quyết định hành vi đó và các tài
liệu có liên quan. Nếu VKS quyết định phê chuẩn có ng hĩa là VKS nhận thấy
quyết định, hành vi của CQĐT là hợp pháp và cần thiết; ngược lại không phê
chuẩn nghĩa là VKS nhận thấy quyết định, hành vi của CQĐT không đảm bảo

tính hợp pháp hoặc không cần thiết. Hậu quả pháp lý của việc phê chuẩn là
xác nhận tính hợp pháp và làm phát sinh hiệu lực thi hành hoặc làm cho quyết
định, hành vi của CQĐT tiếp tục có hiệu lực thi hành (nếu đã được thi hành).


14

Ngược lại nếu VKS không phê chuẩn thì đối với quyết định chưa được thi
hành thì nó không có hiệu lực pháp lý và không được phép thi hành trê n thực
tế; đối với quyết định, hành vi mà CQĐT đã thực hiện rồi thì phải chấm dứt
ngay việc thi hành và khắc phục những hậu quả mà việc thi hành quyết định,
hành vi đó đã gây ra trên thực tế [8; tr.16,17].
M ục đích của việc phê chuẩn trong TTHS là nhằm kiểm soát chặt chẽ
các hoạt động mang tính cưỡng chế bất lợi về quyền tự do đối với công dân
của CQĐT; đảm bảo việc áp dụng các biện pháp này là hợp pháp và cần thiết.
Thông qua việc phê chuẩn, VKS có thể ngăn chặn những hoạt động xâm
phạm các quyền của công dân không được pháp luật cho phép ; ngăn ngừa sự
lạm quyền, lạm dụng các biện pháp cưỡng chế của CQĐT [8; tr.32]. Do vậy
trong mọi trường hợp CQĐT phải tuyệt đối chấp hành việc phê chuẩn, không
phê chuẩn của VKS, điều này không chỉ khẳng định ở Điều 114 BLT THS mà
còn khẳng định ở một số điều luật khác của BLTTHS như quy định tại Khoản
4 Điều 81 BLTTHS: Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị xét
phê chuẩn và tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp, VKS phải ra quyết định
phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Nếu VKS quyết định không phê
chuẩn thì người đã ra lệnh bắt phải trả tự do ngay cho ngư ời bị bắt. Hay
khoản 4 Điều 126 BLTTHS quy định: Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra
quyết định khởi tố bị can, CQĐT phải gửi quyết định khởi tố và tài liệu liên
quan đến việc khởi tố bị can đó cho VKS cùng cấp để xét phê chuẩn việc khởi
tố. Trong thời hạn ba ngày, kể từ ngày nhận được quyết định khởi tố bị can,
VKS phải quyết định phê chuẩn hoặc quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố bị

can và gửi ngay cho CQĐT…
- Hủy bỏ các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của CQĐT.
Các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của CQĐT trong quá
trình giải quyết vụ án hình sự có thể là Quyết định khám xét, thu giữ, tạm giữ,


15

kê biên tài sản, xử lý vật chứng; Quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can;
Quyết định không khởi tố vụ án; Quyết định nhập hoặc tách vụ án; Quyết
định truy nã bị can; Quyết định trưng cầu giám định, quyết định khai quật tử
thi; Quyết định tạm đình chỉ điều tra, quyết định đình chỉ điều tra, quyết định
phục hồi điều tra… Các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật nếu
không được can thiệp kịp thời sẽ làm cho việc giải quyết vụ án thiếu khách
quan, toàn diện và đầy đủ , xâm phạm đến các quyền và lợi ích hợp pháp của
Nhà nước, của tổ chức và công dân, làm mất niềm tin của nhân dân đối với
các cơ quan tiến hành tố tụng... Chính vì vậy, khi phát hiện vi phạm và VKS
có văn bản hủy các quyết định của CQĐT thì đương nhiên các quyết định của
CQĐT trở lên vô hiệu và dù muốn hay không CQĐT cũng phải thực hiện
ngay. Trong nhiều trường hợp, BLTTHS quy định rõ các trình tự tiếp theo mà
CQĐT phải tiến hành khi VKS hủy bỏ các quyết định không hợp pháp của
CQĐT. Điển hình như khoản 2 Điều 109 BLTTHS quy định: Trong trường
hợp Quyết định khởi tố vụ án hình sự của CQĐT, các cơ quan được giao
nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra không có căn cứ thì VKS ra
quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố đó; nếu Quyết định không khởi tố vụ án
hình sự của các cơ quan đó không có căn cứ, thì VKS ra quyết định hủy bỏ
quyết định đó và ra quyết định khởi tố vụ án. Hoặc khoản 4 Điều 164
BLTTHS quy định: Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được
quyết định đình chỉ điều tra của CQĐT, nếu thấy quyết định đình chỉ điều tra
có căn cứ thì VKS phải trả lại hồ sơ vụ án cho CQĐT để giải quyết theo thẩm

quyền; nếu thấy quyết định đình chỉ điều tra không có căn cứ thì huỷ bỏ quyết
định đình chỉ điều tra và yêu cầu CQĐT phục hồi điều tra; nếu thấy đủ căn cứ
để truy tố thì hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra và ra quyết định truy tố.
Khi phát hiện các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của Phó
Thủ trưởng CQĐT và ĐTV thì VKS ban hành văn bản yêu cầu Thủ trưởng


16

CQĐT ra quyết định thay đổi hoặc huỷ bỏ hoặc trực tiếp ra quyết định thay
đổi hoặc huỷ bỏ. Đối với các quyết định không có căn cứ và trái pháp luật của
Thủ trưởng CQĐT thì VKS ra quyết định thay đổi hoặc huỷ bỏ. Đối với các
quyết định của CQĐT đã được VKS phê chuẩn mà phát hiện không có căn cứ
và trái pháp luật thì VKS ra quyết định thay đổi hoặc huỷ bỏ. Qu yết định thay
đổi hoặc huỷ bỏ các quyết định của CQĐT phải được gửi ngay cho CQĐT để
thực hiện.
Tuy các quy định của BLTTHS đều khẳng định rõ thẩm quyền hủy các
quyết định không có căn cứ của CQĐT nhưng trong một số trường hợp các
văn bản dưới luật hướng dẫn trước khi hủy bỏ các quyết định không có căn cứ
của CQĐT thì VKS phải thực hiện một bước trung gian đó là yêu cầu CQĐT
hủy bỏ, VKS chỉ quyết định hủy bỏ nếu đã yêu cầu mà CQĐT không nhất trí.
Điều này được thể hiện rõ ở Thông tư liên tịch số 05/2005/TTL T-VKSTCBCA-BQP ngày 7/9/2005 của VKSNDTC, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng về
quan hệ phối hợp giữa CQĐT và VKS trong việc thực hiện một số quy định
của BLTTHS năm 2003 (từ đây gọi là Thông tư 05), đây là văn bản pháp luật
hết sức quan trọng mà CQĐT, VKS thường xuyên áp dụng trong quá trình
giải quyết vụ án hình sự. Ví dụ như Mục 7.2 Thông tư 05 (hướng dẫn về thực
hiện Điều 109 BLTTHS) quy định: Trường hợp đủ căn cứ chứng tỏ rằng
quyết định khởi tố hoặc quyết định không khởi tố vụ án hình sự rõ ràng là
không có căn cứ thì VKS có văn bản yêu cầu CQĐT ra quyết định hủy bỏ;
nếu CQĐT không nhất trí thì VKS căn cứ Khoản 2 Điều 109 của BLTTHS ra

quyết định hủy bỏ.
Việc quy định như hướng dẫn tại Thông tư 05, sẽ tạo điều kiện để CQĐT
có điều kiện tự xem xét, đánh giá lại các quyết định của mình, từ đó tự
nguyện tiến hành việc hủy bỏ. Điều này sẽ giúp CQĐT nâng cao trách nhiệm
thực hiện và hạn chế tối đa việc VKS hủy bỏ quyết định của CQĐT, ảnh
hưởng đến quan hệ phối hợp giữa CQĐT và VKS.


17

- Quyết định việc truy tố bị can, quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ
án
Điều 166 BLTTHS quy định: Khi nhận được hồ sơ vụ án và bản kết luận
điều tra, VKS phải ra một trong những quyết định sau đây: Truy tố bị can
trước Tòa án bằng bản cáo trạng; Trả hồ sơ để điều tra bổ sung; Đình chỉ hoặc
tạm đình chỉ vụ án. Như vậy quyết định việc truy tố bị can, quyết định đình
chỉ hoặc tạm đình chỉ của VKS đều là những quyết định được VKS ban hành
khi hồ sơ vụ án đã được CQĐT kết thúc điều tra, chuyển VKS đề nghị truy tố.
Đây là giai đoạn quan trọ ng mà chức năng thực hành quyền công tố của VKS
thể hiện rõ nét nhất. Để đảm bảo các quyết định của VKS có hiệu lực thi hành
Điều 114 đã quy định trong mọi trường hợp CQĐT bắt buộc phải thực hiện ba
quyết định nêu trên . Việc CQĐT bắt buộc phải thực hiện các quyết định này
của VKS là một tất yếu bởi lúc này hồ sơ vụ án đã được kết thúc điều tra,
chuyển cho VKS. M ọi hoạt động điều tra đã được CQĐT tiến hành ở giai
đoạn trước đó, CQĐT cũng không có thẩm quyền can thiệp vào hoạt động của
VKS. Điều luật quy định như vậy là để giải quyết trường hợp quan điểm giữa
CQĐT và VKS mâu thuẫn, không thống nhất như trường hợp quy định tại
khoản 4 Điều 164 BLTTHS: Nếu thấy quyết định đình chỉ điều tra không có
căn cứ thì VKS hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra và yêu cầu CQĐT phục
hồi điều tra; nếu thấy đủ căn cứ truy tố thì hủy bỏ quyết định đình chỉ điều tra

và ra quyết định truy tố . Bên cạnh đó nhiều trường hợp cần đến sự thực hiện
của CQĐT đó là những hậu quả phát sinh từ các quyết định trên của VKS.
- Yêu cầu CQĐT truy nã bị can
Điểm b khoản 2 Điều 169 BLTTHS quy định: VKS quyết định tạm đình
chỉ vụ án khi bị can bỏ trốn mà không biết rõ bị can đang ở đâu; trong trường
hợp này phải yêu cầu CQĐT truy nã bị can. Như vậy, trong giai đoạn truy tố,
bị can tại ngoại không có mặt theo giấy triệu tập của VKS mặc dù đã được
triệu tập hợp lệ nhiều lần và có căn cứ xác định bị can đã trốn khỏi địa


18

phương hoặc bị can đang bị tạm giam nhưng trốn khỏi nơi giam mà không
biết rõ bị can đang ở đâu nên không thể tống đạt quyết định truy t ố được.
Trong trường hợp này VKS phải yêu cầu CQĐT truy nã bị can. VKS chỉ ra
quyết định tạm đình chỉ vụ án khi đã hết thời hạn truy tố mà không bắt được
bị can. Cũng giống như ở trường hợp nêu trên, CQĐT phải đảm bảo thực hiện
yêu cầu truy nã của VKS bởi VKS không thể tự mình thực hiện được việc
truy nã bị can chỉ CQĐT với bộ máy tổ chức và đủ lực lượng đủ mạnh mới có
điều kiện để tiến hành việc truy bắt bị can . Bên cạnh đó Điều 161 BLTTHS
quy định chỉ CQĐT mới có thẩm quyền truy nã bị can.
Tóm lại theo Điều 114 BLTTHS thì các quyết định và yêu cầu nêu trên
của VKS, CQĐT phải tuyệt đối chấp hành. Việc quy định như vậy đảm bảo
việc điều tra khách quan, toàn diện, chính xác, đúng pháp luật; những vi phạm
pháp luật trong quá trình điều tra được kịp thời phát hiện, khắc phục và xử lý
nghiêm minh. Tuy nhiên cũng theo Điều 114 BLTTHS và hướng dẫn tại mục
9 Thông tư 05 thì: Đối với các yêu cầu và quyết định nêu trên, nếu không nhất
trí, CQĐT vẫn phải chấp hành, nhưng có quyền báo cáo CQĐT cấp trên trực
tiếp và kiến nghị với VKS cấp trên trực tiếp xem xét, quyết định; nếu là
CQĐT ở cấp Trung ương thì kiến nghị với Viện trưởng VKSNDTC xem xét,

quyết định. Trong thời hạn hai mươi ngày, kể từ khi nhận được kiến nghị của
CQĐT, nếu nhất trí thì VKS cấp trên trực tiếp hủy bỏ quyết định của VKS
cấp dưới; nếu không đồng ý thì thông báo bằng văn bản nêu rõ lý do cho
CQĐT đã kiến nghị và VKS cấp dưới. Kết quả giải quyết của VKS cấp trên
trực tiếp, quyết định của Viện trưởng VKSNDTC là quyết định cuối cùng.
1.2.2. Các yêu cầu, quyết định của Viện kiểm sát trong tố tụng hình
sự, Cơ quan điều tra tùy nghi thực hiện
Điều 114 BLTTHS không quy định mang tính liệt kê đối với các yêu
cầu, quyết định của VKS trong TTHS CQĐT tùy nghi thực hiện. Tuy nhiên
có thể xác định được bằng việc loại trừ, tức là trừ các yêu cầu và quyết định


19

được quy định tại khoản 4, 5, 6 Điều 112 BLTTHS thì đối với các yêu cầu và
quyết định của VKS còn lại CQĐT tùy nghi thực hiện. Đó có thể là các yêu
cầu, quyết định sau:
Các yêu cầu, quyết định của VKS khi thực hành quyền công tố
trong giai đoạn điều tra bao gồm:
- Quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; quyết định thay đổi
hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can; yêu cầu CQĐT
khởi tố hoặc thay đổi quyết định khởi tố vụ án hình sự , khởi tố bị can:
Theo quy định của BLTTHS thì VKS ra quyết định khởi tố vụ án hình
sự trong trường hợp VKS huỷ bỏ quyết định không khởi tố vụ án của CQĐT
và một số cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra và
trong trường hợp Hội đồng xé t xử yêu cầu khởi tố vụ án. Trong trường hợp
phát hiện có người đã thực hiện hành vi phạm tội chưa bị khởi tố thì VKS yêu
cầu CQĐT ra quyết định khởi tố bị can. Sau khi nhận hồ sơ và kết luận điều
tra mà VKS phát hiện có người khác đã thực hiện hành vi phạ m tội trong vụ
án chưa bị khởi tố thì VKS ra quyết định khởi tố bị can. Khi có căn cứ xác

định tội phạm đã khởi tố không đúng với hành vi phạm tội xảy ra hoặc còn có
tội phạm khác thì VKS ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố
vụ án hình sự. Khi tiến hành điều tra, nếu có căn cứ xác định hành vi phạm tội
của bị can không phạm vào tội đã bị khởi tố hoặc còn hành vi phạm tội khác
thì VKS ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can.
Tuy BLTTHS quy định cho VKS có quyền ban hành các quyết định
nêu trên nhưng theo hướng dẫn tại Thông tư 05 thì trước khi ra các quyết định
nêu trên, VKS phải yêu cầu CQĐT tự mình thực hiện, chỉ khi CQĐT không
thực hiện theo yêu cầu của VKS thì VKS mới tự mình ban hành các quyết
định nêu trên. Khi CQĐT tự nguyện ra các quyết định thì CQĐT sẽ có trách
nhiệm cao hơn trong việc tiến hành điều tra. Sẽ hạn chế được trường hợp khi


20

VKS ra quyết định, CQĐT có thể không thực hiện hoặc thực hiện không đầy
đủ vì lúc này nếu điều tra dẫn đến việc oan, sai thuộc t rách nhiệm của VKS.
Trường hợp có căn cứ thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án
hình sự, VKS có văn bản yêu cầu CQĐT ra quyết định; nếu đã yêu cầu mà
CQĐT không nhất trí thì VKS ra quyết định thay đổi hoặc bổ sung q uyết
định khởi tố vụ án hình sự. Trong quá trình điều tra vụ án hình sự, nếu có căn
cứ xác định hành vi phạm tội của bị can không phạm vào tội đã bị khởi tố
hoặc bị can còn có hành vi phạm tội khác thì Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng
CQĐT, Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS cùng cấp có quyền ra quyết định
thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can, nhưng VKS chỉ thực hiện
thẩm quyền này khi đã yêu cầu mà CQĐT không thực hiện. Sau khi nhận hồ
sơ vụ án và bản kết luận điều tra, phát hiện thấy có người đã thực hiện hành vi
phạm tội trong vụ án chưa bị khởi tố hoặc có căn cứ xác định hành vi phạm
tội của bị can không phạm vào tội đã bị khởi tố hoặc còn hành vi phạm tội
khác thì VKS trả hồ sơ và yêu cầu CQĐT ra quyết định khởi tố bị can, quyết

định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố bị can và tiến hành các hoạt
động điều tra theo thủ tục chung. Nếu đã có yêu cầu mà CQĐT không thực
hiện thì VKS ra quyết định khởi tố bị can, quyết định thay đổi hoặc bổ sung
quyết định khởi tố bị can và gửi cho CQĐT để tiến hành điều tra.[47]
Trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra các quyết định trên, VKS phải gửi
các quyết định đến CQĐT để tiến hành điều tra. Tuy BLTTHS chỉ quy định
chung chung về việc CQĐT có trách nhiệm thực hiện nhưng trong trường hợp
này dù muốn hay không CQĐT vẫn buộc phải thực hiện bởi các quyết định
này là cơ sở pháp lý đầu tiên để tiến hành việc điều tra, làm phát sinh tư cách
tham gia tố tụng của người bị nghi thực hiện tội phạm, từ đây phát sinh quan
hệ tố tụng giữa các cơ quan tiến hành tố tụng và giữa những người tham gia tố
tụng. Bên cạnh đó CQĐT không có quyền hủy bỏ mà chỉ có VKS m ới có
quyền hủy các quyết định trên của chính mình.


21

- Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT tiến hành điều tra
Đề ra yêu cầu điều tra và yêu cầu CQĐT tiến hành điều tra là một
quyền năng quan trọng và cơ bả n, đồng thời nó cũng thể hiện trình độ năng
lực của KSV khi thực hành quyền công tố trong giai đoạn điều tra vụ án hình
sự. Thông qua yêu cầu điều tra, KSV thể hiện rõ quan điểm của mình trong
việc thu thập, củng cố chứng cứ, hoàn thiện thủ tục tố tụng của vụ án hình sự.
Hoạt động điều tra có đúng hướng, đầy đủ hay không, có kịp thời, hiệu quả
hay không một phần rất lớn phụ thuộc vào việc đề ra các yêu cầu điều tra của
KSV [12; tr. 23]. Do vậy, KSV phải kịp thời trao đổi với ĐTV được phân
công điều tra vụ án về những vấn đề cần điều tra ngay từ khi kiểm sát việc
khởi tố vụ án, khám nghiệm hiện trường và trong quá trình điều tra, bảo đảm
phối hợp để CQĐT nhanh chóng thu thập đầy đủ các tài liệu, chứng cứ của vụ
án. KSV có thể trực tiếp đề ra yêu cầu điều tra bằng lời trong quá trình kiểm

sát khám nghiệm hiện trường, khám xét, hỏi cung bị can, lấy lời khai người
làm chứng, người bị hại, đối chất, thực nghiệm điều tra. Đối với các trường
hợp khác khi đề ra yêu cầu điều tra, KSV phải có văn bản nêu rõ những vấn
đề cần điều tra để củng cố chứng cứ hoặc để làm rõ những tình tiết liên quan
đến những vấn đề phải chứng minh trong vụ án hình sự được quy định tại
Điều 63 của BLTTHS, đó là: Có hành vi phạm tội xảy ra hay không, thời
gian, địa điểm và những tình tiết khác của hành vi phạm tội; ai là người thực
hiện hành vi phạm tội; có lỗi hay không có lỗi, do cố ý hay vô ý; có năng lực
trách nhiệm hình sự hay không; mục đích, động cơ phạm tội; n hững tình tiết
tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can và những đặc
điểm về nhân thân của họ; Tính chất và mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội
gây ra. Đối với những vụ án trọng điểm, phức tạp thì KSV phải xin ý kiến chỉ
đạo của Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKS trước khi ký văn bản yêu cầu
điều tra. ĐTV được phân công điều tra vụ án phải nghiên cứu để tiến hành
điều tra những vấn đề mà KSV yêu cầu; nếu thấy cần thì trao đổi với KSV để


×