Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh tra xây dựng ở nước ta trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (887.83 KB, 79 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐỖ THỊ KHÁNH LY

TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN THANH TRA
XÂY DỰNG Ở NƢỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính

Mã số: 60 38 01 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN QUANG

HÀ NỘI - 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Đỗ Thị Khánh Ly



LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới các thầy, cô đang giảng dạy và
công tác tại trường Đại học Luật Hà Nội đã dạy dỗ tận tình, chia sẻ và truyền
đạt rất nhiều kiến thức quý báu trong suốt quá trình học tập tại trường.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến Thầy giáo, Tiến Sĩ
Nguyễn Văn Quang, người đã tận tình hướng dẫn và động viên tôi hoàn thành
luận văn này.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Đỗ Thị Khánh Ly


BẢNG CHỮ CÁI VIẾT TẮT

CP

Chính phủ



Nghị định

NXB

Nhà xuất bản



Quyết định


SL

Sắc lệnh

TTg

Thủ tướng

UBND

Ủy ban nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA THANH TRA XÂY DỰNG Ở NƢỚC TA .................................................... 7
1.1 Khái quát chung về thanh tra, thanh tra chuyên ngành ở nƣớc ta ................ 7
1.1.1 Thanh tra ............................................................................................................ 7
1.1.2 Thanh tra chuyên ngành ................................................................................... 16
1.2 Thanh tra xây dựng ở nƣớc ta ......................................................................... 18
1.2.1 Khái niệm thanh tra xây dựng .......................................................................... 18
1.2.2 Vai trò của thanh tra xây dựng trong quản lý nhà nước ................................... 19
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA CƠ QUAN

THANH TRA XÂY DỰNG Ở NƢỚC TA HIỆN NAY ....................................... 22
2.1 Khái quát sự hình thành và phát triển về tổ chức và hoạt động của cơ quan
thanh tra xây dựng ở nƣớc ta................................................................................. 22
2.2 Tổ chức của cơ quan thanh tra xây dựng ở nƣớc ta theo quy định của pháp
luật hiện hành .......................................................................................................... 29
2.2.1 Thanh tra Bộ Xây dựng .................................................................................. 30
2.2.2 Thanh tra Sở Xây dựng................................................................................... 32
2.2.3 Thanh tra xây dựng quận, huyện .................................................................... 34
2.2.4 Thanh tra xây dựng xã, phường, thị trấn ....................................................... 36
2.3 Hoạt động của cơ quan thanh tra xây dựng theo quy định của pháp luật
hiện hành.................................................................................................................. 38
2.3.1 Hoạt động thanh tra hành chính ..................................................................... 38
2.3.2 Hoạt động thanh tra chuyên ngành xây dựng................................................ 40
2.4 Đánh giá về tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh tra xây dựng ........... 43
2.4.1 Một số kết quả tích cực trong tổ chức và hoạt động thời gian qua .................. 43
2.4.2 Những nhược điểm còn tồn tại trong tổ chức và hoạt động của thanh tra xây
dựng ở nước ta........................................................................................................... 45


CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA
CƠ QUAN THANH TRA XÂY DỰNG Ở NƢỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN
HIỆN NAY ............................................................................................................... 54
3.1 Định hƣớng hoàn thiện tổ chức và hoạt động của thanh tra xây dựng ở
nƣớc ta ...................................................................................................................... 54
3.1.1 Định hướng chung ............................................................................................ 54
3.1.2 Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh tra xây dựng trong cơ chế
kinh tế thị trường định hướng XHCN ....................................................................... 57
3.2 Đề xuất hoàn thiện tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh tra xây dựng ở
nƣớc ta ...................................................................................................................... 60
3.2.1 Hoàn thiện pháp luật về thanh tra xây dựng đang là yêu cầu “cấp thiết” trong

giai đoạn hiện nay ..................................................................................................... 60
3.2.2 Nên tiếp tục duy trì cơ quan thanh tra xây dựng cấp quận và phường ........ 62
3.2.3 Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dững cán bộ công chức là nhiệm vụ thường
xuyên, lâu dài ............................................................................................................ 63
3.2.4 Khắc phục kịp thời và nhanh chóng xóa bỏ những bất cập về thanh tra xây
dựng.. ........................................................................................................................ 65
3.2.5 Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về thanh tra xây dựng tạo điều
kiện cho hoạt động thanh tra xây dựng được thuận lợi ............................................. 66
3.2.6 Đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị, tạo ra môi trường làm việc tốt nhất và
hiệu quả nhất ............................................................................................................. 66
3.2.7 Kiểm tra, xử lý quá trình thanh tra xây dựng ................................................... 66
3.2.8 Thiết lập cơ chế xử lý nhanh những vi phạm pháp luật về xây dựng .............. 67
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 68
TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

MỞ ĐẦU
1.

Tính cấp thiết của đề tài

Sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Nhà nước ta đã thu được nhiều
thành tựu quan trọng, khẳng định được vai trò của mình trong việc đưa nền kinh tế
tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Song hành với điều này, việc đảm bảo tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà
nước phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế là một trong những nhiệm vụ quan
trọng đặt ra cho các nhà nghiên cứu, hoạch định chính sách, các nhà làm luật và
những người tổ chức và thực hiện pháp luật. Trong việc thực hiện nhiệm vụ quan

trọng này, xây dựng và tổ chức thực hiện các cơ chế kiểm soát việc thực thi và tuân
thủ pháp luật trên tất cả các lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội là một trong
những nội dung được đặc biệt chú trọng. Thanh tra nói chung và thanh tra chuyên
ngành xây dựng nói riêng nằm trong số những cơ chế kiểm soát thực thi, tuân thủ
pháp luật nêu trên.
Xây dựng là ngành kinh tế - kỹ thuật có vai trò quan trọng trong sự nghiệp xây
dựng và phát triển kinh tế xã hội, trực tiếp góp phần nâng cao đời sống cho người
dân và toàn xã hội. Cùng với việc mang lại nhiều kết quả tích cực đáng khích lệ,
hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực xây dựng những năm qua đang phải đối
mặt với nhiều thách thức phức tạp. Tình trạng vi phạm pháp luật trong lĩnh vực xây
dựng xảy ra ngày càng nhiều, với những phương thức và thủ đoạn vô cùng tinh vi.
Trong giai đoạn kinh tế phát triển như hiện nay, với việc xuất hiện ngày càng nhiều
các khu đô thị lớn, những công trình tầm cỡ và đặc biệt sự gia tăng nhanh chóng của
các công trình xây dựng dân dụng, vi phạm pháp luật trong lĩnh vực xây dựng đã trở
thành vấn đề “nóng” được xã hội đặc biệt chú ý.
Qua công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát các dự án xây dựng lớn cho thấy có
nhiều dự án vi phạm quy định về thẩm định dự án; vi phạm quy chế đấu thầu; thi
công sai thiết kế, sai chủng loại vật tư, thiết bị, không phê duyệt khối lượng phát
sinh, vi phạm các quy định về trình tự thủ tục trong quản lý đầu tư xây dựng, về
quản lý chất lượng, nghiệm thu, thanh toán công trình; vi phạm về thiết kế, khảo sát;
vi phạm quy định trong giai đoạn đưa công trình vào khai thác, sử dụng. Hơn nữa,


2

tiêu cực, tham nhũng trong đầu tư xây dựng cơ bản xảy ra ở hầu hết các khâu, từ lập
dự án, khảo sát, thiết kế, đầu tư đến thi công, nghiệm thu, quyết toán công trình, diễn
biến rất phức tạp và ngày càng nghiêm trọng. Công tác cấp phép xây dựng và quản lý
trật tự xây dựng vẫn còn nhiều tồn tại, một số địa phương tự đặt thêm các thủ tục
ngoài quy định, việc kiểm tra thực hiện xây dựng theo giấy phép và quản lý trật tự

xây dựng còn bị buông lỏng, xử lý chưa kịp thời, chưa nghiêm minh; tình trạng xây
dựng sai phép, không phép vẫn diễn ra phức tạp và có chiều hướng gia tăng cả về số
lượng và quy mô xây dựng gây ảnh hưởng tới cảnh quan, môi trường đô thị, thậm
chí đã xảy ra các sự cố nghiêm trọng gây thiệt hại cả về người và của nhưng kết quả
phát hiện, điều tra, xử lý của các cơ quan chức năng còn thấp.
Những bất cập nêu trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau và cần được
lý giải thấu đáo từ nhiều góc độ. Trong số những nguyên nhân này nổi bật phải kể
đến là sự tác động từ mặt trái của nền kinh tế thị trường, sự yếu kém trong quản lý
nhà nước, sự bất cập và thiếu đồng bộ của các quy định pháp luật về quản lý, kiểm
tra, thanh tra, giám sát trong hoạt động xây dựng, sự hạn chế của cơ quan chủ quản
trong việc bảo đảm thực thi, tuân thủ pháp luật, năng lực quản lý yếu kém và việc
chấp hành kỷ cương, pháp luật chưa nghiêm của một bộ phận người dân và các cơ
quan, tổ chức cũng như chưa đề cao trách nhiệm, đạo đức nghề nghiệp của những
người làm công tác thanh tra xây dựng.
Xuất phát từ những vấn đề nêu trên, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra
trong lĩnh vực xây dựng là một trong những nhiệm vụ quan trọng đặt ra đối với
quản lý hành chính nhà nước ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Việc nghiên cứu tổ
chức và hoạt động của cơ quan thanh tra xây dựng ở nước ta trong giai đoạn hiện
nay có ý nghĩa thiết thực cho việc hoàn thiện pháp luật và việc tổ chức thực hiện
pháp luật về thanh tra nói chung và thanh tra xây dựng ở nước ta hiện nay nói riêng.
Vì vậy, đề tài "Tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh tra xây dựng ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay" có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng đáp ứng yêu
cầu bức xúc hiện nay.


3

2.

Tình hình nghiên cứu đề tài


Ở Việt Nam, trong thời gian qua, việc nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của
thanh tra xây dựng nhìn chung chưa được quan tâm đầy đủ, do trên thực tế những
công trình khoa học nghiên cứu tổ chức và hoạt động thanh tra xây dựng còn rất ít.
Nghiên cứu các tài liệu hiện hành cho thấy, các công trình khoa học nghiên cứu chủ
yếu tập trung vào những vấn đề chung của thanh tra và thanh tra chuyên ngành;
trong khi đó hầu như không có công trình nghiên cứu khoa học chuyên sâu nào về
thanh tra xây dựng.
Các công trình nghiên cứu về những vấn đề chung của hoạt động thanh
tra và thanh tra chuyên ngành tiêu biểu phải kể đến:
-

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước: “Đổi mới tổ chức và hoạt

động của ngành thanh tra trong cơ chế kinh tế thị trường định hướng XHCN – Luận
cứ khoa học và hoàn thiện pháp luật về thanh tra” do thanh tra Chính phủ chủ trì
[2007].
-

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: “Trách nhiệm pháp lý của chủ tịch

UBND các cấp trong công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại tố cáo và phòng
chống tham nhũng” do Th.S Nguyễn Tuấn Khanh, Phó Viện trưởng Viện Khoa học
Thanh tra làm Chủ nhiệm [2011];
-

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: “Tổ chức, hoạt động và mối quan hệ

giữa Thanh tra Bộ và Thanh tra chuyên ngành”, Nguyễn Khắc Hường [2004]
-


Luận án tiến sĩ Luật học: “Những vấn đề pháp lý cơ bản của việc đổi mới

tổ chức và hoạt động thanh tra nhà nước Việt Nam”, Phạm Tuấn Khải [1998].
-

Luận văn thạc sĩ Luật học: “Vai trò của các cơ quan thanh tra nhà nước

trong giải quyết khiếu nại hành chính ở Việt Nam”, Nguyễn Văn Kim [2004].
-

Thanh tra Nhà nước (2007): "Những nội dung cơ bản của Luật thanh

tra" - Sách hướng dẫn nghiệp vụ.
-

Các bài viết trên tạp chí chuyên ngành về những vấn đề chung của thanh

tra và thanh tra chuyên ngành như:
+ Nguyễn Ngọc Tản "Một số vấn đề hoàn thiện hệ thống pháp luật về thanh
tra”, Tạp chí Thanh tra số 1/2007


4

+ Nguyễn Xuân Hào (2010), “Đôi điều rút ra từ công tác thanh tra chuyên
ngành trong lĩnh vực Giao thông vận tải”, Tạp trí Thanh tra 05/2010
+ Nguyễn Văn Thâm (2002), “Một số vấn đề về thanh tra và tổ chức, hoạt
động của thanh tra trong tình hình hiện nay”, Kỷ yếu nghiên cứu khoa học thanh tra,
tập IV

+ Huỳnh Phong Tranh (2012), “Đổi mới phương pháp, nâng cao hiệu lực, hiệu
quả Thanh tra”, Tạp chí Thanh tra 01/2012
+ Hoàng Văn Vy (2010), “Luật Thanh Tra cần có những quy định linh hoạt
cho Thanh tra chuyên ngành”, Tạp chí Thanh tra 03/2010
Nhìn chung các công trình nghiên cứu nêu trên đã nghiên cứu, phân tích lý giải
nhiều vấn đề liên quan đến tổ chức và hoạt động thanh tra, thực trạng của thanh tra
và pháp luật về thanh tra nói chung. Tuy nhiên, các công trình đó chưa đề cập cụ thể
đến những vấn đề của hoạt động thanh tra chuyên ngành trong lĩnh vực xây dựng
vốn được coi là một trong những vấn đề bức xúc của công tác thanh tra hiện nay.
Mặc dù vậy, những công trình khoa học đã được công bố nêu trên là tài liệu tham
khảo có giá trị cho việc nghiên cứu và hoàn thiện đề tài của luận văn.
Xuất phát từ thưc tế nêu trên, trên cơ sở kế thừa các kết quả của các công trình
nghiên cứu liên quan, luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực
tiễn trong tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh tra xây dựng ở nước ta hiện nay
để từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật về thanh tra xây dựng, góp phần
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực thanh tra xây dựng.
3.

Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

Mục đích của luận văn
Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về tổ chức và hoạt động của cơ
quan thanh tra xây dựng.
Đề xuất phương hướng đổi mới về tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh tra
xây dựng và đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về tổ chức
và hoạt động của cơ quan thanh tra xây dựng.
Nhiệm vụ
Luận văn hướng tới giải quyết những nhiệm vụ cụ thể sau:



5

-

Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của cơ quan

thanh tra xây dựng.
-

Đánh giá thực trạng tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh tra xây dựng.

-

Đề xuất phương hướng và giải pháp đổi mới góp phần hoàn thiện pháp

luật về tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh tra xây dựng.
4.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu



Đối tượng nghiên cứu:

-

Nghiên cứu cơ sở lý luận về tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh tra

xây dựng.
-


Nghiên cứu thực trạng tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh tra xây

dựng.
-

Định hướng đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh tra xây

dựng. Một số giải pháp cụ thể góp phần nâng cao hiệu quả tổ chức và hoạt động của
cơ quan thanh tra xây dựng.


Phạm vi nghiên cứu:

-

Trong khuôn khổ một luận văn thạc sĩ luật học, đề tài nghiên cứu trước

hết tập trung vào vấn đề tổ chức bộ máy của cơ quan thanh tra chuyên ngành xây
dựng bao gồm: Thanh tra Bộ xây dựng, Thanh tra Sở xây dựng, Thanh tra xây dựng
cấp quận và Thanh tra xây dựng cấp phường.
-

Bên cạnh đó, dù trên thực tế cơ quan thanh tra chuyên ngành xây dựng

thực hiện nhiều hoạt động khác nhau, nhưng đề tài nghiên cứu chỉ tập trung vào các
hoạt động thanh tra, kiểm tra chứ không nghiên cứu hoạt động giải quyết khiếu nại,
tố cáo và phòng chống tham nhũng trong lĩnh vực xây dựng cũng như hoạt động tổ
chức, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ ngành.
5.


Phƣơng pháp nghiên cứu luận văn

Luận văn được triển khai trên cơ sở phương pháp luận và các phương pháp
nghiên cứu cụ thể, trong đó:


Phương pháp luận: phương pháp luận Mác – Lê nin về chủ nghĩa duy vật

biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và
pháp luật.


6



Phương pháp nghiên cứu cụ thể:

Vận dụng phương pháp mô tả, phân tích, tổng hợp, so sánh, điều tra xã hội
học, logic, lịch sử cụ thể, tổng kết thực tiễn để nghiên cứu xem xét, giải quyết từng
vấn đề cụ thể trong tổ chức và hoạt động thanh tra của chuyên ngành xây dựng.
6.

Những nội dung mới của luận văn

Thông qua việc nghiên cứu một cách toàn diện, trực tiếp trên phương diện lý
luận, thực tiễn về tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh tra chuyên ngành xây
dựng, tác giả khẳng định rõ hơn về những thành tựu cũng như những tồn tại và hạn
chế của cơ quan thanh tra xây dựng. Từ đó đưa ra những giải pháp nhằm đổi mới về

tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh tra xây dựng, đóng góp xây dựng quy định
pháp luật cho phù hợp với thực tiễn, tăng cường hiệu quả của hoạt động hành chính
nhà nước.
7.

Ý nghĩa của luận văn



Góp phần bổ sung thêm cơ sở lý luận và thực tiễn trong tổ chức và hoạt

động của cơ quan thanh tra xây dựng.


Chỉ ra những điểm bất cập và nguyên nhân dẫn đến những bất cập đó về

tổ chức và hoạt động thanh tra xây dựng.


Từ kết quả nghiên cứu, kiến nghị những giải pháp cụ thể, góp phần hoàn

thiện pháp luật về tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh tra xây dựng để nâng cao
hiệu lực và hiệu quả trong hoạt động thanh tra.
8.

Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của thanh tra xây
dựng ở nước ta

Chương 2: Thực trạng tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh tra xây dựng ở
nước ta hiện nay
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện tổ chức và hoạt động của cơ quan thanh tra
xây ở nước ta trong giai đoạn hiện nay


7

CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ
HOẠT ĐỘNG CỦA THANH TRA XÂY DỰNG Ở NƢỚC TA

1.1

Khái quát chung về thanh tra, thanh tra chuyên ngành ở nƣớc ta

1.1.1 Thanh tra
a. Khái niệm chung về thanh tra
Thanh tra xuất phát từ nguồn gốc Latinh (Inspectare) có nghĩa là “nhìn vào bên
trong”, chỉ một sự xem xét từ bên ngoài đối với hoạt động của một số đối tượng
nhất định. Theo Từ điển pháp luật Anh - Việt động từ “inspect” có nghĩa là “thanh
tra” và được giải thích là hoạt động kiểm tra, kiểm soát, kiểm kê đối với đối tượng
bị thanh tra1. Theo từ điển tiếng Việt “thanh tra” (người thuộc cơ quan có thẩm
quyền) kiểm tra, xem xét tại chỗ việc làm của địa phương, cơ quan, xí nghiệp2”;
thanh tra thường đi kèm với một chủ thể nhất định: “Người làm nhiệm vụ thanh
tra”, “đoàn thanh tra” và “đặt trong phạm vi quyền hành của một chủ thể nhất định”.
Từ những nghĩa như vậy, thanh tra với vai trò là danh từ chung có thể được
hiểu là một thực thể pháp lý, một thiết chế nhà nước về thanh tra để chỉ cơ quan, tổ
chức thanh tra hoặc bộ phận, lĩnh vực thanh tra nhất định. Tùy thuộc vào chế độ
chính trị, cấu trúc nhà nước hoặc quan niệm về quyền lực mà các quốc gia hiện đại
đã sử dụng thiết chế thanh tra theo những cách khác nhau. Đồng thời, thanh tra với

ý nghĩa là một động từ còn là khái niệm để chỉ hoạt động kiểm tra, kiểm soát của cơ
quan, tổ chức, người được giao nhiệm vụ, quyền hạn nhằm: “xem xét và phát hiện,
ngăn chặn với những gì trái với quy định3” của các tổ chức, cá nhân là đối tượng
của thanh tra.
Quan niệm về thanh tra hiện nay cũng như trong lịch sử nước ta được thể hiện
qua mô hình các cơ quan nhà nước, các quy định của Hiến pháp và pháp luật và
được đề cập ở các góc độ khác nhau. Trong Pháp lệnh Thanh tra năm 1990, hoạt
động thanh tra của các tổ chức thanh tra được xác định là một chức năng thiết yếu

1

Từ điển pháp luật Anh – Việt NXB Hồng Đức, TPHCM 2010
Từ điển tiếng Việt Viện ngôn ngữ học NXB TP.HCM, TP.HCM 2002
3
Từ điển tiếng Việt NXBKHXH, Hà Nội 1994
2


8

của cơ quan quản lý nhà nước. Điều 8 Pháp lệnh Thanh tra năm 1990 quy định
nhiệm vụ của các tổ chức thanh tra nhà nước là: “thanh tra việc thực hiện chính
sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch nhà nước của các cơ quan, tổ chức và cá nhân,
trừ hoạt động điều tra, truy tố, xét xử của các cơ quan Điều tra, Kiểm sát, Toà án và
việc giải quyết tranh chấp hợp đồng kinh tế, xử lý vi phạm hợp đồng kinh tế của cơ
quan trọng tài kinh tế”. Luật Thanh tra năm 2004 và Luật Thanh tra năm 2010
khẳng định và làm rõ hơn vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ
quan thanh tra nhà nước trong quản lý nhà nước.
Với tính chất là hoạt động của nhà nước, thanh tra có những đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, thanh tra gắn liền với quản lý nhà nước

Với tư cách là một chức năng, là một giai đoạn của chu trình quản lý nhà nước,
thanh tra gắn liền với quản lý nhà nước, tất cả các giai đoạn của chu trình quản lý
nhà nước đều phải thông qua thanh tra, kiểm tra để có thông tin đầy đủ, chính xác.
Việc xem xét, định hướng, đánh giá kết quả quản lý là một phương diện của quản lý
xã hội. Quản lý nhà nước là một bộ phận quản lý xã hội và ở đâu có quản lý nhà
nước thì ở đó có thanh tra.
Trong mối quan hệ giữa quản lý và thanh tra thì quản lý nhà nước giữ vai trò
chủ đạo, chi phối hoạt động của thanh tra (đề ra đường lối, chủ trương, quy định
thẩm quyền của cơ quan thanh tra, sử dụng các kết quả, các thông tin từ phía các cơ
quan thanh tra). Mặt khác, hoạt động chấp hành của quản lý nhà nước thường bao
hàm cả sự điều hành, cho nên trong quá trình thực hiện các văn bản pháp luật đòi
hỏi phải có sự kiểm tra nghiêm ngặt của các cơ quan có thẩm quyền.
Quản lý nhà nước và thanh tra có cái chung là nhân danh quyền lực nhà nước
thực hiện sự tác động lên các đối tượng bị quản lý. Song xem xét theo cơ cấu, chức
năng của quản lý thì thanh tra chỉ là những công cụ, phương tiện để quản lý nhà
nước.
Là một khâu trong chu trình quản lý, thanh tra bị ràng buộc, chế ước bởi quản
lý, nhưng đồng thời tác động trở lại, góp phần điều chỉnh cách thức, phương pháp
quản lý của chủ thể quản lý nhà nước. Trong chu trình đó, thanh tra phản ánh và bảo


9

vệ mục đích của quản lý. Một thể chế hành chính và cơ chế quản lý nhà nước sẽ
không đầy đủ nếu thiếu thanh tra. Trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước,
hoạt động có tính hiệu quả của thanh tra sẽ ngăn chặn được nguy cơ biến dạng, tuỳ
tiện, thiếu kỷ cương trong hoạt động quản lý nhà nước. Lê nin đã nhiều lần nhấn
mạnh: nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ hạn chế được nguy cơ tham nhũng, tệ quan
liêu, tăng cường được kỷ cương xã hội khi những người cộng sản thực hiện tốt công
tác thanh tra, kiểm soát.

Thứ hai, thanh tra luôn mang tính quyền lực nhà nước
Tính quyền lực nhà nước của hoạt động thanh tra có mối liên hệ chặt chẽ với
tính quyền uy - phục tùng của quản lý nhà nước. Là một chức năng của quản lý nhà
nước, thanh tra phải thể hiện như một tác động tích cực nhằm thực hiện quyền lực
của chủ thể quản lý đối với đối tượng quản lý. Không thể không có quyền lực mà
không gắn với một tổ chức. Nói về quyền lực nhà nước trong quá trình thanh tra
cũng có nghĩa là xác định về mặt pháp lý tính chất nhà nước của tổ chức thanh tra.
Vì vậy, Thanh tra phải được nhà nước sử dụng như một công cụ có hiệu quả trong
quá trình quản lý. Khi nhấn mạnh tính quyền lực của các tổ chức thanh tra, Lê nin
nói: “Thanh tra thiếu quyền lực là thanh tra suông”4.
Có thể nói thanh tra là một hoạt động luôn luôn mang tính quyền lực nhà nước.
Chủ thể tiến hành thanh tra luôn là cơ quan nhà nước. Thanh tra (với tư cách là một
danh từ chỉ cơ quan có chức năng này) luôn áp dụng quyền năng của nhà nước
trong quá trình hoạt động của mình và nó nhân danh nhà nước khi áp dụng quyền
năng đó. Nói cách khác, thanh tra là sản phẩm của nhà nước. Thanh tra chỉ xuất
hiện từ khi nhà nước ra đời trong lịch sử và nó cũng sẽ tiêu vong cùng với sự tiêu
vong của nhà nước.
Nói tóm lại, chủ thể duy nhất tiến hành thanh tra là nhà nước, thanh tra xuất
hiện, tồn tại và tiêu vong cùng với nhà nước. Ở các nước trên thế giới, dù mô hình
tổ chức, hoạt động thanh tra có khác nhau nhưng đều có chung đặc điểm này. Thậm

4

Lênin: Toàn tập – Tập 31, NXB Tiến Bộ, Hà Nội 1976


10

chí, kể cả ở những nước theo hệ thống pháp luật Anh - Mỹ vốn có xu hướng “khế
ước hoá” các mối quan hệ, kể cả quan hệ giữa nhà nước với công dân cũng hoàn

toàn không có một loại hình thanh tra nào ngoài những tổ chức thanh tra của nhà
nước, mang uy danh nhà nước.
Tính quyền lực nhà nước của hoạt động thanh tra thể hiện ở chỗ các cơ quan
thanh tra nhà nước đều có quyền hạn được xác định và khả năng thực hiện những
quyền hạn đó:
-

Ra các quyết định bắt buộc thi hành đối với các đối tượng bị thanh tra trong

việc sửa chữa những thiếu sót đã bị Thanh tra phát hiện.
-

Yêu cầu có thẩm quyền giải quyết đề nghị của Thanh tra, yêu cầu truy cứu

trách nhiệm đối với những người có lỗi gây ra những vi phạm được phát hiện, kể cả
việc chuyển hồ sơ sang cơ quan điều tra để truy tố trước pháp luật.
-

Trong một số trường hợp, trực tiếp áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà

nước.
Không nên cho rằng, hoạt động thanh tra là hoạt động mang tính cưỡng chế, vì
như thế là đồng nhất quyền lực với cưỡng chế. Cưỡng chế chỉ là một yếu tố đặc biệt
và chỉ trong những trường hợp cần thiết khi sử dụng quyền lực nhà nước mà thôi.
Thanh tra lại là hoạt động thường xuyên, thiết thực, có tính sáng tạo, ngày càng được
mở rộng và trở nên rộng khắp, mang tính dân chủ sâu sắc. Do đó, nói đến tính quyền
lực nhà nước trong hoạt động thanh tra không có nghĩa là trong hoạt động thanh tra
chỉ sử dụng các biện pháp cưỡng chế.
Tính quyền lực nhà nước trong quá trình thanh tra phải được cụ thể hoá trong
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của hệ thống thanh tra, phương thức tiến hành

thanh tra, xử lý kết quả thanh tra, quan hệ giữa cơ quan thanh tra với đối tượng bị
thanh tra, sự phối hợp giữa các tổ chức thanh tra nhà nước và thanh tra chuyên
ngành. Nếu cụ thể hoá một mặt nào đó mà không thực hiện đồng bộ tính quyền lực
nhà nước trên các lĩnh vực đều dẫn đến hạ thấp vai trò và hiệu quả hoạt động thanh
tra, hạn chế hiệu lực thanh tra.


11

Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhân
dân sử dụng quyền lực của mình thông qua các cơ quan nhà nước do mình bầu ra
(trực tiếp hoặc gián tiếp). Do đó, nói tính chất nhân dân của thanh tra, kiểm tra là
xác định vai trò to lớn của quần chúng tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá
trình thanh tra. Đây cũng là điều kiện đảm bảo thắng lợi của chủ nghĩa xã hội.
Thứ ba, thanh tra có tính độc lập tương đối
Đây là đặc điểm vốn có, xuất phát từ bản chất của thanh tra. Đặc điểm này
phân biệt thanh tra với các loại hình cơ quan chức năng khác của bộ máy quản lý
nhà nước. Khác với hoạt động kiểm tra thường do bản thân các cơ quan quản lý nhà
nước tiến hành, hoạt động thanh tra thường được tiến hành bởi một cơ quan chuyên
trách. Ngoài những nhiệm vụ như những cơ quan quản lý nhà nước khác, cơ quan
thanh tra có nhiệm vụ chủ yếu là xem xét, đánh giá một cách khách quan việc thực
hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ, kế hoạch nhà nước của các cơ quan, tổ chức,
cá nhân.
Tính độc lập tương đối trong quá trình thanh tra được thể hiện trên các điểm
sau:
-

Chỉ tuân theo pháp luật.

-


Tự mình tổ chức thực hiện các cuộc thanh tra trong các lĩnh vực kinh tế -

xã hội theo thẩm quyền đã được pháp luật quy định.
-

Ra các kết luận, kiến nghị, quyết định xử lý theo các quy định của pháp

luật về thanh tra, chịu trách nhiệm về quyết định thanh tra của mình.
Mọi hoạt động tài phán đều mất tính công minh nếu xa rời cơ sở pháp luật,
nếu chịu ảnh hưởng của những quyền lực khác, kể cả quyền lực về phía cơ quan
nhà nước cấp trên không chịu trách nhiệm trực tiếp về kết quả thanh tra.
Như vậy, xuất phát từ cách nhìn nhận thanh tra như đã nêu trên có thể hiểu
khái quát thuật ngữ thanh tra theo hai nghĩa như sau:


Một là, thanh tra với tư cách là một thực thể pháp lý, một thiết chế nhà

nước về thanh tra hay nói cách khác là các cơ quan, tổ chức thực thực hiện chức
năng thanh tra. Thiết chế đó phụ thuộc vào chế độ chính trị, cấu trúc nhà nước hoặc


12

quan niệm về quyền lực của mỗi quốc gia khác nhau. Ở nước ta theo Luật Thanh tra
năm 2010, thiết chế thanh tra thuộc hệ thống cơ quan hành pháp và bao gồm: các cơ
quan thanh tra nhà nước và cơ quan được giao thực hiện chức năng thanh tra chuyên
ngành, cụ thể :
-


Cơ quan thanh tra nhà nước, bao gồm: Thanh tra Chính phủ; Thanh tra

bộ, cơ quan ngang bộ (gọi chung là Thanh tra bộ); Thanh tra tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương (gọi chung là Thanh tra tỉnh); Thanh tra sở; Thanh tra huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung là Thanh tra huyện);
-

Cơ quan thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành được giao cho các

tổng cục, cục thuộc Bộ và chi cục thuộc Sở do Chính phủ quy định.


Hai là, thanh tra là khái niệm để chỉ hoạt động thanh tra của các cơ quan

thực hiện chức năng thanh tra. Đây là một chức năng thiết yếu của quản lý nhà
nước, là hoạt động kiểm tra, xem xét việc làm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá
nhân theo một trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, nhằm kết luận đúng sai, đánh
giá ưu, khuyết điểm, phát huy nhân tố tích cực, phòng ngừa xử lý các vi phạm, góp
phần hoàn thiện cơ chế quản lý, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi
ích của nhà nước, các quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Xuất phát từ quan niệm coi thanh tra là chức năng thiết yếu của nhà nước, do đó,
các hoạt động này bao gồm:
-

Hoạt động thanh tra hành chính (hướng vào bản thân bộ máy quản lý);

-

Hoạt động thanh tra chuyên ngành (hướng vào xã hội, các đối tượng quản


lý);
Bên cạnh đó, hoạt động này cũng bao gồm các hoạt động thanh tra giải quyết
khiếu nại, tố cáo và thanh tra trách nhiệm thực hiện pháp luật phòng, chống tham
nhũng.
b. Vị trí, vai trò của hoạt động thanh tra trong quản lý nhà nước
Ngay từ những ngày đầu lập nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã rất chú ý tới việc
sử dụng, phát huy vai trò công tác thanh tra. Tại cuộc họp Chính phủ ngày
13/11/1945, Hồ Chủ tịch đề nghị “các Bộ trưởng có thể chia nhau đi thanh tra một


13

khu vực gần Hà Nội. Bộ Nội Vụ sẽ khảo cứu và lập một chương trình về việc này”5.
Ngày 23/11/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 64/SL thành lập Ban
Thanh tra đặc biệt, có nhiệm vụ giám sát tất cả công việc và các nhân viên của Uỷ
ban nhân dân và các cơ quan của Chính phủ.
Vị trí, vai trò quan trọng của công tác thanh tra được thể hiện trong nhiều bài
viết, bài nói, chỉ thị của Hồ Chủ tịch ở nhiều lúc, nhiều nơi. Tại Hội nghị tổng kết
thanh tra toàn miền Bắc tháng 4 năm 1957, Hồ Chủ tịch căn dặn “cán bộ thanh tra
giúp trên hiểu biết tình hình địa phương và cấp dưới, đồng thời cũng giúp cho các
cấp địa phương kịp thời sửa chữa, uốn nắn nếu làm sai, hoặc làm chậm. Cho nên
trách nhiệm của công tác thanh tra là quan trọng”6.
Vai trò của các cơ quan thanh tra được thể hiện ngay từ Sắc lệnh số 64/SL
ngày 23 tháng 11 năm 1945 thành lập Ban Thanh tra đặc biệt. Tại Sắc lệnh này quy
định Ban Thanh tra đặc biệt có toàn quyền “nhận các đơn khiếu nại của nhân dân;
điều tra, hỏi chứng, xem xét các tài liệu giấy tờ của Ủy ban hành chính hoặc các cơ
quan của Chính phủ cần thiết cho công việc giám sát; đình chức, bắt giam bất cứ
nhân viên nào trong Ủy ban hành chính hay của Chính phủ đã phạm lỗi”7.
Công tác thanh tra cũng là một biện pháp quan trọng trong việc ngăn ngừa,
phát hiện và xử lý những hành vi vi phạm pháp luật. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo,

điều hành, quản lý mà thiếu sự kiểm tra, thanh tra thì sẽ dẫn đến bệnh quan liêu,
tham ô, lãng phí và chỉ có tăng cường kiểm tra, kiểm soát thì mới chống được các tệ
nạn này. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói “muốn chống bệnh quan liêu, bệnh bàn
giấy; muốn biết các nghị quyết có được thi hành không, thi hành có đúng không;
muốn biết ai ra sức làm, ai làm cho qua chuyện, chỉ có một cách là khéo kiểm
soát”8.
Cùng với việc phát hiện và xử lý các vi phạm pháp luật, thanh tra còn đóng vai

5

Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác thanh tra, Bản tin ĐHQG Hà Nội, số 210 tháng 8/2008
Một số văn kiện chủ yếu của Đảng và Chính phủ về công tác thanh tra. Uỷ Ban Thanh tra của Chính phủ,
1977.
7
Hồ Chí Minh: Toàn tập – tập 5, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995
8
Hồ Chí Minh: Toàn tập – tập 5, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995
6


14

trò như một biện pháp phòng ngừa hữu hiệu các vi phạm pháp luật. Thanh tra cùng
với các phương thức kiểm tra, giám sát luôn là hiện thân của kỷ cương pháp luật;
công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát dù được thực hiện dưới bất cứ hình thức nào,
cũng luôn có tác dụng hạn chế, răn đe những hành vi vi phạm pháp luật của các đối
tượng quản lý. Mặt khác, các giải pháp được đưa ra từ hoạt động thanh tra không
chỉ hướng vào việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, mà còn có tác dụng khắc
phục các kẽ hở của chính sách, pháp luật, ngăn ngừa tận gốc mầm mống phát sinh
những vi phạm pháp luật.

Tại Hội nghị cán bộ thanh tra toàn miền Bắc lần thứ nhất ngày 19/4/1957, Chủ
tịch Hồ Chí Minh nói “nếu Trung ương Đảng, Chính phủ có nghị quyết, chỉ thị đưa
về các ngành, các địa phương, kết quả thế nào không có thanh tra khó mà biết được
địa phương nào làm tốt, làm vừa, làm xấu; có làm hay không làm trên không biết; địa
phương nhiều khi tự mình cũng không biết; trên không thấu dưới; dưới không thấu
trên. Thanh tra là để theo dõi xem các kế hoạch, chỉ thị, chính sách đó, các địa
phương đã chấp hành thế nào”9.
Xuất phát từ vị trí, vai trò của công tác thanh tra là một nội dung, một phương
thức thực hiện sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng và sự chỉ đạo, điều hành của chính
quyền các cấp, do vậy sự lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên của các cơ quan lãnh đạo
Đảng và nhà nước có ý nghĩa quyết định đến hiệu lực, hiệu quả thanh tra. Thực tiễn
công tác thanh tra thời gian qua cho thấy, địa phương nào, ngành nào chú trọng đến
công tác thanh tra thì địa phương đó, ngành đó thực hiện tốt công tác quản lý nhà
nước, ít có khiếu nại, tố cáo; ngược lại nơi nào không chú trọng đúng mức đến công
tác thanh tra, kiểm tra thì nơi đó không thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của mình.
Thanh tra là công tác quan trọng, vì vậy Đảng và nhà nước phải chú trọng đến
công tác xây dựng tổ chức và bố trí cán bộ làm công tác thanh tra, nhằm đáp ứng
được yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra. Cần phải quán triệt sâu sắc các quan điểm của Chủ

9

Một số văn kiện chủ yếu của Đảng và Chính phủ về công tác thanh tra, Uỷ ban Thanh tra của Chính phủ,
1977


15

tịch Hồ Chí Minh về bố trí cán bộ và về tổ chức đối với công tác thanh tra.
Tăng cường công tác tổ chức, cán bộ thanh tra cả về số lượng và chất lượng,
đặc biệt là chất lượng, là một yêu cầu cần thiết để công tác thanh tra phát huy được

vai trò của mình.
Củng cố tổ chức, đáp ứng đủ số lượng cán bộ làm công tác thanh tra là một
yêu cầu quan trọng. Vì thanh tra là công tác quan trọng của cơ quan lãnh đạo Đảng
và nhà nước, do đó phải được tiến hành thường xuyên. Công tác thanh tra nếu
không được tiến hành thường xuyên tất yếu sẽ dẫn tới bệnh quan liêu, mệnh lệnh và
từ đó sẽ tiếp tục gây ra những tác hại to lớn khác cho sự nghiệp cách mạng. Trên
thực tế có không ít lãnh đạo địa phương, đơn vị chưa coi trọng vai trò công tác
thanh tra, kiểm tra dẫn tới kỷ luật không được thi hành nghiêm túc, dân chủ không
được bảo đảm, khiếu kiện của nhân dân dai dẳng, phức tạp... làm tốn rất nhiều tiền
của và công sức của các cơ quan nhà nước để giải quyết.
Thanh tra thường xuyên là một yêu cầu không thể thiếu nhằm nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Muốn đảm bảo tính thường xuyên của công tác
thanh tra, yêu cầu cần thiết đặt ra là người lãnh đạo, quản lý phải tạo điều kiện cho
tổ chức thanh tra hoạt động theo đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn. Hoạt động
thanh tra phải được bảo đảm tính độc lập tương đối, thanh tra phải tuân theo pháp
luật, chỉ tuân theo pháp luật và không ai được cản trở hoạt động thanh tra. Tính
thường xuyên trong hoạt động thanh tra do chính đặc điểm, tính chất của hoạt động
chấp hành, điều hành trong quản lý hành chính nhà nước quyết định và có mối quan
hệ chặt chẽ với yêu cầu kịp thời của việc ra các quyết định lãnh đạo, quản lý. Thực tế
đã chứng minh trong nhiều tình huống, các biện pháp quản lý nếu được áp dụng kịp
thời thì sẽ giải quyết được những vấn đề, nhưng cũng với biện pháp đó, nếu chậm
được áp dụng thì sẽ không giải quyết được tình huống, thậm chí còn phản tác dụng.
Tóm lại, công tác thanh tra phục vụ thiết thực cho sự lãnh đạo của Đảng và sự
quản lý của nhà nước đối với đời sống xã hội, do vậy công tác thanh tra có vai trò
rất quan trọng và có tính chất thường xuyên của cơ quan lãnh đạo của Đảng và nhà
nước. Nó là chức năng thiết yếu của quản lý, là công cụ phục vụ sự lãnh đạo của


16


Đảng, sự quản lý của nhà nước. Thanh tra luôn luôn gắn liền với quản lý, là một nội
dung của quản lý. Thanh tra còn là một phương thức phát huy dân chủ, tăng cường
pháp chế, phát hiện và xử lý những biểu hiện quan liêu, tham ô, lãng phí và những
hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động quản lý. Xuất phát từ tính chất, vị trí và
vai trò của công tác thanh tra nên đòi hỏi sự quan tâm, giúp đỡ, sự trực tiếp chỉ đạo,
lãnh đạo của cấp uỷ và chính quyền các cấp. Đây là một trong những yếu tố quyết
định đến hiệu lực, hiệu quả công tác thanh tra.
1.1.2 Thanh tra chuyên ngành
a.

Khái niệm thanh tra chuyên ngành

Trước khi Luật Thanh tra 2010 ra đời và có hiệu lực, thì một trong những vấn
đề được quan tâm thảo luận nhiều nhất trong quá trình hoàn thiện pháp luật về thanh
tra là việc tồn tại và tổ chức của thanh tra chuyên ngành. Theo đó, Khoản 3 Điều 3
Luật thanh tra hiện hành (Luật thanh tra 2010) quy định: “Thanh tra chuyên ngành
là hoạt động thanh tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực
đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy
định về chuyên môn, kỹ thuật, quy tắc quản lý ngành, lĩnh vực đó”.
Bên cạnh những đặc điểm chung của thanh tra nhà nước như đã nêu trên, thanh
tra chuyên ngành còn có những đặc điểm riêng:
Thứ nhất, sự tác động bằng quyền lực của thanh tra chuyên ngành phải hướng
tới tất cả các lĩnh vực của quản lý nhà nước có liên quan đến lĩnh vực chuyên ngành
được thanh tra.
Thứ hai, tính chất nghiệp vụ của thanh tra chuyên ngành mang màu sắc chuyên
môn của ngành, lĩnh vực.
b.

Tổ chức và hoạt động của thanh tra chuyên ngành




Về tổ chức của hệ thống thanh tra chuyên ngành bao gồm: Thanh tra Bộ

và thanh tra Sở.
-

Thanh tra Bộ là cơ quan của Bộ, giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước về

công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng; tiến
hành thanh tra hành chính đối với cơ quan, cá nhân thuộc phạm vi quản lý của bộ;


17

tiến hành thanh tra chuyên ngành đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi
quản lý nhà nước theo ngành, lĩnh vực của bộ; giải quyết khiếu nại, tố cáo và
phòng, chống tham nhũng theo quy định của pháp luật. Thanh tra Bộ chịu sự chỉ
đạo trực tiếp của Bộ trưởng, đồng thời chịu sự chỉ đạo, hướng dẫn về công tác, tổ
chức, nghiệp vụ của thanh tra chính phủ.
-

Thanh tra Sở là cơ quan của Sở, giúp Giám đốc Sở tiến hành thanh tra

hành chính và thanh tra chuyên ngành, giải quyết khiếu nại, tố cáo, phòng, chống
tham những theo quy định của pháp luật.
Thanh tra Sở được thành lập ở những sở thực hiện nhiệm vụ quản lý nhà nước
theo ủy quyền của Ủy ban nhân dân cùng cấp hoặc theo quy định của pháp luật. Thanh
tra Sở chịu sự hướng dẫn về công tác, nghiệp vụ thanh tra hành chính của thanh tra tỉnh
và nghiệp vụ thanh tra chuyên ngành của thanh tra Bộ.

Nằm trong hệ thống các cơ quan thanh tra nói chung, các cơ quan thanh tra
chuyên ngành có tính độc lập tương đối với các cơ quan thanh tra chỉ thực hiện
chức năng thanh tra hành chính và các cơ quan thanh tra chuyên ngành có mối liên
hệ với nhau tạo thành một tiểu hệ thống trong hệ thống thanh tra.


Về hoạt động của thanh tra chuyên ngành:

Hoạt động của thanh tra chuyên ngành do Thanh tra Bộ và Thanh tra Sở tiến
hành, bao gồm hoạt động thanh tra hành chính và hoạt động thanh tra chuyên
ngành.
-

Thanh tra hành chính là hoạt động của cơ quan nhà nước có thẩm quyền

đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện chính sách, pháp
luật, nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Như vậy thanh tra hành chính là hoạt động
thanh tra nội bộ trong phạm vi quản lý trực tiếp của thủ trưởng cơ quan cùng cấp
đối với tổ chức, cá nhân trực thuộc trong việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn (hoạt
động công vụ). Nếu qua thanh tra, phát hiện có sai phạm thì kiến nghị xử lý, đảm
bảo hiệu lực, hiệu quả của bộ máy thuộc quyền quản lý của nhà quản lý.Vì vậy,
hoạt động thanh tra hành chính vừa gắn với cơ quan nhà nước có thẩm quyền chung


18

như: Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp, vừa gắn với cơ quan có thẩm quyền
chuyên môn như các Bộ, ngành hoặc các cơ quan chuyên môn của Sở, phòng ban.
-


Hoạt động thanh tra chuyên ngành là hoạt động của thanh tra đối với cơ

quan, tổ chức, cá nhân trong việc chấp hành pháp luật chuyên ngành, quy định về
chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc ngành, lĩnh vực đó. Hoạt động thanh
tra chuyên ngành được tiến hành thường xuyên, nếu phát hiện có vi phạm thì xử
phạt vi phạm hành chính theo quy định của phát luật về xử lý vi phạm hành chính.
Hoạt động thanh tra chuyên ngành cần phải linh hoạt, thích ứng kịp thời với
thực tiễn quản lý phong phú, đa dạng của ngành, lĩnh vực. Vì vậy, hoạt động thanh
tra chuyên ngành phải được tiến hành nhanh chóng, xem xét việc thực hiện nhiệm
vụ về chuyên môn, kỹ thuật, nghiệp vụ nhằm phát hiện, ngăn chặn, xử lý kịp thời
các hành vi vi phạm pháp luật.
Tóm lại, theo pháp luật hiện hành, thanh tra Bộ và thanh tra Sở đều được giao
thực hiện cả hai hoạt động thanh tra hành chính (mang tính nội bộ) và thanh tra
chuyên ngành.
1.2 Thanh tra xây dựng ở nƣớc ta
1.2.1 Khái niệm thanh tra xây dựng
Do thanh tra luôn gắn liền với hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước
và phục vụ cho quản lý nhà nước, là một trong ba khâu không thể thiếu được của
chu trình quản lý nhà nước nên tuỳ vào mỗi lĩnh vực, hoạt động thanh tra có
những yêu cầu, mục đích, nội dung hoạt động riêng phù hợp với từng lĩnh vực
quản lý nhà nước. Vì vậy, trong lĩnh vực xây dựng có thể hiểu: thanh tra xây
dựng là hoạt động thanh tra chuyên ngành do các cơ quan và cá nhân thanh tra
xây dựng có thẩm quyền tiến hành nhằm đảm bảo thực hiện nghiêm chỉnh các
quy định pháp luật trong lĩnh vực quản lý nhà nước về xây dựng, bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Sự ra đời của Thanh tra xây dựng được ghi dấu trong Nghị định
46/2005/NĐ-CP của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thanh tra xây dựng.
Theo đó, Điều 1 của Nghị định này quy định về vị trí, chức năng của Thanh tra



19

xây dựng như sau: Thanh tra xây dựng được tổ chức thành hệ thống ở Trung
ương là Thanh tra Bộ xây dựng và ở địa phương là Thanh tra Sở xây dựng; thực
hiện chức năng thanh tra hành chính và thanh tra chuyên ngành trong phạm vi
quản lý nhà nước về: xây dựng, vật liệu xây dựng, nhà ở và công sở, kiến trúc,
quy hoạch xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn, hạ tầng
kỹ thuật đô thị theo quy định của pháp luật.
Là một loại hoạt động thanh tra có tính chuyên ngành, hoạt động thanh tra
xây dựng có một số đặc điểm cơ bản sau:


Hoạt động thanh tra xây dựng được tiến hành trong phạm vi quản lý

nhà nước về: xây dựng, vật liệu xây dựng, nhà ở và công sở, kiến trúc, quy hoạch
xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn, hạ tầng kỹ thuật đô
thị theo quy định của pháp luật.


Hoạt động thanh tra xây dựng luôn gắn với hoạt động của cơ quan quản

lý nhà nước và phục vụ cho quản lý nhà nước trong lĩnh vực xây dựng.


Hoạt động thanh tra xây dựng do các cơ quan thanh tra chuyên ngành xây

dựng tiến hành, thực hiện quyền lực nhà nước trong các hoạt động thanh tra.


Đối tượng của thanh tra xây dựng là các tổ chức, cá nhân thuộc thẩm


quyền quản lý trực tiếp của cơ quan quản lý nhà nước về xây dựng và các tổ chức,
cá nhân tham gia hoạt động xây dựng.
1.2.2 Vai trò của thanh tra xây dựng trong quản lý nhà nước
Thứ nhất, thanh tra xây dựng góp phần đảm bảo thi hành nghiêm chỉnh các
quy định pháp luật và chính sách của nhà nước trong hoạt động xây dựng, vật
liệu xây dựng, nhà ở và công sở, kiến trúc, quy hoạch xây dựng đô thị, quy
hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn, hạ tầng kỹ thuật đô thị góp phần giữ gìn
trật tự, kỷ cương, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Trong hoạt động quản lý nhà nước, công tác thanh tra nói chung và thanh
tra xây dựng nói riêng có một ý nghĩa rất quan trọng. Thông qua hoạt động thanh
tra xây dựng, những quy định pháp luật về xây dựng được trở thành hiện thực,
đảm bảo trật tự văn minh đô thị. Thông qua các quy định cụ thể, chặt chẽ về


×