Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

SKKN một số giải pháp giúp học sinh hứng thú học phân môn thường thức mĩ thuật ở trường trung học cơ sở thắng quân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.81 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
I.

MỞ

ĐẦU

2

................................................................................................
1. Lý do chọn đề tài: ...........................................................................
2.
Mục
đích
nghiên
cứu:

2
3

.....................................................................
3.
Đối
tượng

nghiên

cứu:

3


....................................................................
4.
Kế
hoạch

nghiên

cứu:

3

cứu:

4

..............................................................
II. NỘI DUNG ..........................................................................................
1.

sở

luận.

4
4

.....................................................................
5.
Phương
pháp


nghiên

...................................................................................
2. Thực trạng chất lượng học sinh học phân môn Thường thức


thuật

cuối

năm

học

2016-2017.

4

.........................................................
2.1. Thuận lợi. .................................................................................
2.2. Những hạn chế khi giảng dạy phân môn thường thức mĩ

4

thuật. ..........................................................................................................

4

.

2.3. Định hướng chung của đề tài. .................................................
3. Các giải pháp giúp học sinh hứng thú học phân môn Thường

6

thức mĩ thuật năm học 2017-2018. ........................................................
3.1.
Đổi
mới
phương
pháp
dạy.

7
7

......................................................
3.2. Đưa ra cách thức tổ chức một tiết dạy. ..................................
3.3.
Giáo
viên
tự
bồi
dưỡng
kiến
thức.

9
11


...........................................
3.4. Sử dụng có hiệu quả phương pháp tổ chức trò chơi trong
dạy học phân môn thường thức mỹ thuật. ................................................
3.5. Khai thác có hiệu quả kênh hình trong sách giáo khoa và sách

12

giáo viên. ....................................................................................................
4. Hiệu quả của sáng kiến. .................................................................
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ..........................................................
1.
Kết
luận.

12
13
14
14

1


...........................................................................................
2.
Kiến
.........................................................................................
TÀI
LIỆU
THAM


nghị.

15

KHẢO

16

.......................................................................
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Mĩ thuật là một nghệ thuật tạo ra cái đẹp nhằm phục vụ nhu cầu vật chất và
tinh thần của con người (Mĩ là đẹp, thuật là cách thức, là phương pháp). Những
gì trong giới tự nhiên và trong đời sống xã hội đem lại sự thích thú, sự khoái
cảm đều được coi là cái đẹp: như cảnh đẹp chùa Bút tháp, cảnh đẹp chùa Tây
Phương, kim tự tháp Kê-ốp..., một tác phẩm hội hoạ đẹp, một công trình kiến
trúc, điêu khắc đẹp...
Ngay từ buổi bình minh của nhân loại, khi con người phát hiện ra vẻ đẹp
của thiên nhiên và sự nhận thức thế giới thực được mở rộng, thì con người đã
biết ngưỡng mộ và đưa cái đẹp vào phục vụ cuộc sống với ý thức tự giác.
Cũng từ đó mĩ thuật luôn gắn bó khăng khít với lịch sử phát triển của con
người và ngày càng đạt tới mức độ nghệ thuật cao. Từ những văn hoá trang trí
đơn sơ, mộc mạc, đến những hoạ tiết tinh vi, phong phú như trên mặt trống
đồng Đông Sơn... Từ những công trình kiến trúc đơn giản đến những công
trình kiến trúc đồ sộ như kim tự tháp... Hay những tác phẩm nghệ thuật dân
gian đến những tác phẩm hội hoạ hiện đại.... Trải qua nhiều thời đại cho ta thấy
những nền nghệ thuật đặc sắc, độc đáo của Mĩ thuật Việt Nam nói riêng và thế
giới nói chung.

Ngày nay, theo đà phát triển mạnh mẽ về kinh tế, thì nhu cầu của xã hội
chúng ta về kiến thức văn hoá - nghệ thuật ngày càng trở nên cần thiết. Để đáp
ứng yêu cầu học tập nâng cao trình độ học vấn, nâng cao trình độ văn hoá - thẩm
mĩ của học sinh, góp phần thực hiện đường lối giáo dục, đào tạo có hiểu biết
rộng, tay nghề cao và đời sống tinh thần phong phú.
Nhưng hiện nay việc giảng dạy mĩ thuật nói chung và phân môn thường
thức mĩ thuật nói riêng chưa được phát huy bởi nhiều nguyên nhân đó là trình độ
2


của giáo viên, cơ sở vật chất, đồ dùng dạy học, trường lớp thiết bị dạy học còn
nhiều hạn chế và bất cập. Do vậy, tình trạng chung của giờ thường thức mĩ thuật
là đơn điệu nhàm chán, học sinh thường có thái độ thờ ơ với giờ học này. Điều
đó cho thấy việc đổi mới phương pháp dạy – học trong trường THCS đối với
phân môn này còn chậm chạp, chưa đáp ứng được yêu cầu của ngành giáo dục
đào tạo hiện nay.
Để khắc phục vấn đề này các giáo viên mĩ thuật cần phải đưa ra các
phương án thích hợp làm cho giờ học thường thức mĩ thuật trở nên sinh động,
tạo sự hứng thú cho học sinh khi học phân môn này. Muốn đạt được mục đích
đó, trước hết những người làm công tác giảng dạy phải là những con người
yêu nghề có tinh thần nhiệt tình trong công tác giảng dạy, có lòng nhiệt huyết
với thế hệ trẻ, quan tâm đến các em học sinh, bồi dưỡng cho học sinh tinh
thần ham hiểu biết, đức tính hiếu học, ý thức trân trọng các tác phẩm công
trình mĩ thuật.
Trước những vấn đề nêu trên, tôi đã chọn đề tài "Một số giải pháp giúp
học sinh hứng thú học phân môn Thường thức Mĩ thuật ở trường trung học
cơ sở Thắng Quân”.
2. Mục đích nghiên cứu.
Nghiên cứu, đề xuất các giải pháp giúp học sinh hứng thú học phân môn
Thường thức mĩ thuật nhằm nâng cao chất lượng của môn học.

3. Đối tượng nghiên cứu.
Đề tài này có áp dụng cho học sinh khối 6,7,8,9 trường THCS Thắng Quân
huyện Yên Sơn tỉnh Tuyên Quang.
4. Kế hoạch nghiên cứu.
T
T

Thời gian

Nội dung công việc

Sản phẩm

1

Từ 02/5 đến
25/5/2017

Chọn đề tài, viết đề cương nghiên cứu

Bản đề cương chi tiết

2

Từ 25/5 đến
30/5/2017

3

Từ 30/5/2017


- Đọc tài liệu lý thuyết về cơ sở lý luận - Tập tài liệu lý thuyết
- Khảo sát thực trạng, tổng hợp số - Số liệu khảo sát đã
liệu thực tế
xử lý
- Trao đổi với đồng nghiệp đề xuất - Tập hợp ý kiến đóng
3


đến 10/10/2017

các biện pháp, các sáng kiến.

góp của đồng nghiệp

- Áp dụng thử nghiệm

- Hoạt động cụ thể

4

Từ 10/10 đến
14/10/2017

- Hệ thống hóa tài liệu, viết báo cáo

5

Từ 14/10 đến
15/10/2017


Hoàn thiện báo cáo, nộp Sáng kiến
Bản báo cáo chính thức
tại trường THCS Thắng Quân

- Xin ý kiến của đồng nghiệp

Bản nháp báo cáo

5. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp lý thuyết: Nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến đề tài
- Phương pháp thực hành: Điều tra khảo sát thực tế, thu thập thông tin, xử
lý số liệu.
II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận.
Mĩ thuật ở trường phổ thông nói chung và trung học cơ sở nói riêng chủ
yếu là giáo dục thẩm mĩ; tạo điều kiện cho học sinh tiếp xúc, làm quen và
thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên, của con người tạo ra. Qua đó vận dụng
những hiểu biết về cái đẹp vào sinh hoạt và học tập hàng ngày. Phân môn
thường thức mĩ thuật ở trung học cơ sở cung cấp cho học sinh một lượng kiến
thức cơ bản nhất định giúp các em hiểu được cái đẹp của đường nét, hình mảng,
đậm nhạt, màu sắc và bố cục thông qua các tác phẩm, các công trình mĩ thuật.
Yêu thích phân môn này các em sẽ tìm thấy vai trò to lớn của mĩ thuật trong đời
sống và xã hội.
Để đạt được mục đích trên, người dạy mỹ thuật cần sử dụng linh hoạt các
phương pháp dạy học tích cực nhằm chuyển tải nội dung, ý nghĩa của các tác
phẩm mỹ thuật đến với học sinh để học sinh biết rung động, cảm xúc trước cái
đẹp. Qua đó tạo cho học sinh sự phát triển cân đối, toàn diện về tâm hồn, trí tuệ,
óc thẩm mỹ, sự hiểu biết để đạt đến mục đích cuối cùng là hoàn thiện nhân cách
con người.

2. Thực trạng chất lượng học sinh học phân môn Thường thức mĩ
thuật ở trường trung học cơ sở Thắng Quân cuối năm học 2016-2017.
2.1. Thuận lợi:

4


Nhà trường luôn quan tâm và tạo điều kiện về cơ sở vật chất và tài liệu
chuyên môn cho việc giảng dạy bộ môn, bản thân luôn tìm tòi nghiên cứu tài
liệu tự nâng cao trình độ chuyên môn, luôn cố gắng đầu tư soạn giảng theo
phương phương pháp mới để hướng học sinh học một cách tích cực, chủ động
và sáng tạo. Sau đó tự rút kinh nghiệm của bản thân để có giải pháp thích hợp
cho tiết dạy sau được tốt hơn.
2.2. Những hạn chế khi giảng dạy phân môn thường thức mĩ thuật.
- Lịch sử Việt Nam và thế giới vô cùng phong phú và đa dạng. Từ xã hội
nguyên thuỷ cho đến ngày nay, mĩ thuật phát triển liên tục, không ngừng, loài
người đã chứng kiến sự ra đời của nhiều trào lưu, nhiều phong cách nghệ thuật
trải qua các thời kỳ khác nhau. Các tác phẩm mĩ thuật đa dạng được lưu giữ rất
nhiều ở các bảo tàng mĩ thuật trên thế giới. Phần lớn chúng ta mới chỉ đựơc xem
tranh, tượng đó qua các phiên bản, các ảnh chụp đen trắng hoặc màu rất nhỏ bé
trong các tuyển tập tranh tượng ( ví dụ: tác phẩm Mô - na – li – da của Lê - ô –
na đờ – Vanh xi).
Tôi cũng như các giáo viên mĩ thuật khác không tránh khỏi các hạn chế đó.
Do vậy chưa thể nói rằng mình đã hiểu biết một cách đầy đủ về nghệ thuật Việt
Nam và thế giới. Hơn nữa, có những nền nghệ thuật cổ đã bị mai một hoặc chỉ
còn tồn tại trên sách vở, thơ, văn.....đó là một khó khăn rất lớn khi giảng dạy
phân môn này.
- Cái hạn chế nữa của phân môn này là đồ dùng dạy học, tài liệu liên quan
đến bài dạy. Đồ dùng dạy học có một ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với việc
dạy và học môn mĩ thuật nói chung và phân môn thường thức mĩ thuật nói riêng.

Bởi nó là sự hiện diện của kiến thức – các đường nét, hình mảng, hình khối, đậm
nhạt, màu sắc, bố cục, các công trình, các tác phẩm mĩ thuật nổi tiếng của các
họa sĩ...... Nếu thiếu đồ dùng dạy học, học sinh khó có thể lĩnh hội đầy đủ kiến
thức ngôn ngữ mĩ thuật nhất là phân môn này. Thế nhưng đây lại là mặt hạn chế
lớn đối với các giáo viên khi giảng dạy phân môn này như việc sưu tầm tài liệu,
tranh ảnh liên quan đến bài học là rất khó và tốn kém. Bởi vì có rất nhiều công
trình, tác phẩm mĩ thuật, kiến trúc chỉ còn lại trong sách vở nên việc cho học
sinh xem các tranh ảnh liên quan là điều khó thực hiện. Ngay cả việc các tác
phẩm hội hoạ, điêu khắc, kiến trúc còn tồn tại được in trên sách báo bán trong
các nhà sách thì giáo viên cũng không dễ sưu tầm được bởi vì: Tài liệu được in
một cách rải rác không tập, mỗi cuốn sách lại in một tác phẩm hay một công
trình nào đó. Ví dụ: giáo viên muốn sưu tầm tài liệu tranh ảnh về nhà Lý thì phải
5


tìm và mua tới hơn 10 cuốn sách, tranh mới đủ cho một tiết dạy. Mỗi cuốn chỉ
nhắc tới một công tình hoặc một tác phẩm nghệ thuật trong một mục lục nhỏ còn
lại là những tài liệu không liên quan. Chính vì thế nếu mua thì người giáo viên
phải bỏ ra một số lượng tiền không nhỏ để có thể giảng một tiết dạy mĩ thuật
thời Lý. Như vậy muốn giảng hay, tốt và đầy đủ của phân môn này trong trường
THCS thì người giáo viên hay nhà trường đó phải bỏ ra một số tiền lớn. Hơn
nữa, có những tài liệu được in từ rất lâu khiến cho việc sưu tầm trở nên khó
khăn.
Vì vậy giáo viên thường bỏ qua, coi nhẹ phân môn này. Giáo viên thường
cho rằng các phân môn trang trí, vẽ theo mẫu, vẽ tranh mới thực sự quan trọng,
giúp cho các em cảm thụ thẩm mĩ và vẽ đựơc một bức tranh đẹp. Còn phân môn
thường thức mĩ thuật chỉ nhằm giới thiệu một số công trình, tác phẩm mĩ thuật
cho học sinh. Do vậy tình trạng chung hiện nay của giờ thường thức mĩ thuật là
đơn điệu nhàm chán, học sinh thường có thái độ thờ ơ với giờ học này. Với
những giờ học, giáo viên chỉ cung cấp một số lượng kiến thức bằng lý thuyết mà

không cho học sinh xem hay chỉ xem một số ít hình ảnh nhỏ bé trong sách giáo
khoa nên đa số học sinh sau khi học thường không nhớ đựơc những tác phẩm,
công trình mĩ thuật của Việt Nam và thế giới. Nhưng cũng có rất nhiều giáo viên
chịu khó quan tâm và sưu tầm tranh ảnh liên quan đến bài học. Tuy nhiên đa
phần là những tranh ảnh trong sách báo, tạp chí có khung hình nhỏ bé chỉ phù
hợp cho giáo viên tham khảo còn nếu dùng làm trực quan giảng dạy thì không
phù hợp. Hiện nay công nghệ thông tin phát triển internet hỗ trợ rất nhiều cho
việc tìm kiếm tài liệu minh họa nhưng một số tranh lại không có trên mạng hoặc
là do trình độ sử dụng của giáo viên còn hạn chế hoặc là nếu tìm có thì cũng khó
bởi giáo viên không thể in tranh màu khổ lớn để dạy được vì rất tốn kém.
- Về phía học sinh đa phần là con em nhà nông kinh tế gia đình còn khó
khăn, chưa có điều kiện tiếp xúc với công nghệ thông tin nhiều, sách báo còn
hạn chế nên không có cơ hội tìm hiểu sâu hơn các tác phẩm, tác giả trong phân
môn thường thức mĩ thuật nên khó khăn trong tiết học thường thức mĩ thuật.
Trước tình trạng trên, là một giáo viên giảng dạy bộ môn Mĩ thật để thực
hiện một tiết dạy Thường thức mĩ thuật và học sinh thích học phân môn Thường
thức mĩ thuật là điều quan trọng.
2.3. Định hướng chung của đề tài.

6


Sau khi học xong phân môn Thường thức mĩ thuật năm học 2016-2017 tôi
làm trắc nghiệm nhỏ như sau:
* Em hãy nêu suy nghĩ của mình qua tiết học vừa rồi?
* Em có thích học phân môn này không?
* Hãy nêu tên một số công trình tiêu biêu hoặc tác giả tác phẩm tiêu biểu
của Việt Nam và thế giới đã được học?
Đa số các em không thích học phân nôn này, với các em thích học chỉ
khoảng 40% học sinh. Bảng khảo sát trắc nghiệm kết quả cuối năm học 20162017 cụ thể như sau:

Hứng
Tổng
thú
Khối số
học
lớp
học
tập (tỷ
sinh
lệ %)

6

94

7

94

8

9

102

92

Đạt yêu cầu (tỷ lệ %)
Ghi nhớ
các nội

dung bài
học

Ghi nhớ
Ghi nhớ
50% đến
60% đến
dưới
dưới 80%
60% bài
bài học
học

Chưa đạt (tỷ lệ %)
Ghi nhớ
30% đến
dưới
50% bài
học

Ghi nhớ
dưới
30% bài
học

34

5

12


72

4

1

(36,3)

(5,1%)

(12,9%)

(75,3%)

(5,1%)

(1,2%)

40

8

16

66

3

1


(42,2)

(7%)

(15,4%)

(71,8%)

(4,2%)

(1,4%)

40

7

15

76

3

1

(39,1)

(7,2%)

(13,1%)


(75,3%)

(4,3%)

(1,4%)

39

8

12

70

2

0

(42)

(8,4%)

(11,8%)

(76,2%)

(3,3%)

(0%)


Với kết quả như thế tôi quyết định thử áp dụng một vài giải pháp để giúp
học sinh học tốt hơn phân môn này. Cuối cùng lấy kết quả điều tra so sánh với
kết quả ban đầu.
3. Các giải pháp giúp học sinh hứng thú học phân môn Thường thức
mĩ thuật ở trường trung học cơ sở Thắng Quân năm học 2017-2018.
Nội dung cơ bản của phân môn thường thức mĩ thuật: Giới thiệu, phân tích
tác phẩm mĩ thuật Việt Nam, thế giới: Sơ lược về mĩ thuật Việt Nam thời kì cổ
7


đại, thời Lý, thời Trần, thời Lê, thời Nguyễn và thời hiện đại, mĩ thuật thế giới
thời cổ đại (Ai Cập, Hy Lạp, La Mã); Mĩ thuật thời Phục hưng , mĩ thuật hiện
đại phương tây, mĩ thuật một số nước ở vùng Châu Á (Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật
Bản, Lào, Campuchia), Các bài thường thức mĩ thuật SGK thường tập trung vào
giới thiệu các nền mĩ thuật tiêu biểu, nêu những đặc điểm cơ bản.
Để bài dạy có hiệu quả tôi thực hiện một số giải pháp sau:
3.1. Đổi mới phương pháp dạy:
Đổi mới là một khái niệm dễ hiểu mà khó làm, mỗi một giáo viên phải tự
tìm ra cho mình một cách dạy như thế nào để phù hợp với điều kiện, khả năng
của mình mà vẫn tạo ra được một giờ học sôi nổi thiết thực? Trong quá trình
giảng dạy tại trường trung học cơ sở tôi đã tự rút ra một số giải pháp mà giáo
viên mĩ thuật có thể thực hiện đựơc trong điều kiện hiện nay đáp ứng được yêu
cầu đổi mới của ngành giáo dục và đào tạo.
- Sử dụng tốt đồ dùng dạy học: Đối với phân môn thường thức mĩ thuật
việc sử dụng đồ dùng dạy học là một phần quan trọng trong một tiết dạy. Vì
ngôn ngữ của mĩ thuật là hình ảnh, là trực quan sinh động cụ thể. Do đó phát
huy tối đa hiệu quả đồ dùng dạy học là một trong những phương pháp đổi mới
tốt nhất.
- Sử dụng tranh ảnh minh hoạ: Việc sử dụng tranh ảnh minh hoạ trong giờ

thường thức mĩ thuật là thường xuyên và không thể thiếu. Tuy nhiên bộ đồ dùng
dạy học trong các trường trung học cơ sở mới chỉ có một số ít tranh, ảnh của lớp 6
và lớp 8 ( thậm chí lớp 8 chỉ có một bài thường thức mĩ thuật). Tất cả những tranh
ảnh trên chỉ là hình ảnh phóng to trong sách giáo khoa. Nên tính hiện thực và trực
quan cụ thể là không cao. Giáo viên cần phải sưu tầm các tài liệu có liên quan tới
tiết dạy có thể sưu tầm trong sách báo, tuyển tập hay tạp chí .... Từ đó tập hợp
thành quyển, bộ theo trình tự cho từng tiết dạy và từng thời kỳ lịch sử mĩ thuật
Ví dụ: Mĩ thuật Việt Nam có thể chia thành Mĩ thuật cổ đại và Mĩ thuật
hiện đại như: - Mĩ thuật thời nguyên thuỷ - Mĩ thuật thời Lý - Mĩ thuật thời Trần
- Mĩ thuật thời Lê – Mĩ thuật Việt Nam giai đoạn 1945-1975. Việc sưu tầm tranh
ảnh và tập hợp thành bộ, quyển cho riêng mình giúp giáo viên cung cấp được
nhiều kiến thức mĩ thuật cho học sinh mà không cần phải thuyết trình giảng giải
quá nhiều, hơn nữa còn giúp giáo viên định lượng được thời gian cho tiết học
một cách khoa học và hợp lý. Ngoài ra tập hợp thành bộ, quyển giáo viên có thể
bổ sung theo từng năm và sử dụng được nhiều năm liên tiếp.
8


- Tận dụng tối đa các phương tiện hiện đại: Đổi mới trong dạy - học bộ môn
mĩ thuật nói chung và phân môn thường thức mĩ thuật nói riêng có một phần
được nhắc tới rất nhiều đó là việc hiện đại hoá trong giảng dạy. Như đã phân tích
ở phần II, việc sưu tầm tranh ảnh đối với giáo viên là rất khó nhưng sử dụng nó
như thế nào để phát huy hết tác dụng của những tài liệu đó lại khó hơn. Vì tranh
ảnh sưu tầm có nhược điểm chung là rất bé chỉ phù hợp cho giáo viên tham khảo
còn nếu cho học sinh xem thì cần hỗ trợ rất nhiều các phương tiện hiện đại đó là
máy chiếu (máy lập thể Projector cùng với việc khai thác hình ảnh trên mạng
Internet). Sử dụng nó giáo viên có thể cho các em thấy rõ hơn, chính xác hơn về
vẻ đẹp của từng công trình nghệ thuật, tác phẩm mĩ thuật. Tận dụng tối đa các
phương tiện này giáo viên sẽ bớt đi rất nhiều những hoạt động không cần thiết
trong giờ dạy.

- Sử dụng và khai thác có hiệu quả mạng Internet của nhà trường vào phân
môn thường thức mĩ thuật: Sử dụng và khai thác mạng Internet trong dạy học mĩ
thuật là một phương tiện ít người nhắc tới do nhiều nguyên nhân đó là để thực
hiện được trước hết phải có đủ phương tiện vật chất (máy tình xách tay có kết
nối wifi tốc độ ổn định, điện thoại thông minh, máy chiếu, ...) và người sử dụng
phải thành thạo, linh hoạt trong mở hình ảnh trên mạng Internet hoặc có thể lưu
hình ảnh về máy tính trước khi sử dụng. Sự hiện diện hình ảnh trực tiếp trên
mạng Internet giúp cho học sinh và giáo viên gần như trực tiếp quan sát các
công trình, tác phẩm nghệ thuật nên tạo được hứng thú cho học sinh.
+ Kết quả: Nếu giáo viên biết sử dụng phương pháp đổi mới kết hợp đồ
dùng dạy học mĩ thuật phong phú và đa dạng sẽ tránh được việc học một chiều
nghĩa là giáo viên thuyết trình học sinh nghe và tưởng tượng một cách mơ hồ về
kiến thức đã học, không tạo được giờ học sôi nổi và hứng thú cho học sinh.
Ngược lại nếu có nhiều đồ dùng dạy học, học sinh sẽ phát huy tính tích cực, tự
giác có thể đưa ra nhận xét, cảm xúc của mình về từng giai đoạn mĩ thuật, cuộc
đời sáng tác và các tác phẩm nghệ thuật một cách khách quan và tổng hợp.
3.2. Đưa ra cách thức tổ chức một tiết dạy:
Có nhiều cách dạy, cách học thường thức mĩ thuật nhưng “Dạy học như thế
nào để có hiệu quả” là câu hỏi luôn đặt ra cho người giáo viên nói chung và giáo
viên mĩ thuật nói riêng. Trước hết, phải xác định rõ công việc của giáo viên và
học sinh.

9


- Vai trò của giáo viên khi dạy thường thức mĩ thuật: Chuẩn bị tranh ảnh,
mẫu, băng hình. Nghiên cứu chương trình môn lịch sử, tìm ra những nội dung có
liên quan về hoàn cảnh lịch sử, về sự phát triển kinh tế, văn hoá, các công trình,
các tác phẩm mĩ thuật. Chuẩn bị trước những tài liệu có liên quan đến các tác
phẩm mĩ thuật, tìm xuất xứ – tác phẩm – tác giả, hoàn cảnh ra đời, sự nghiệp

sáng tác..., tìm những tư liệu địa phương có liên quan đến bài học. Hình dung
cách tổ chức bài dạy, chuẩn bị đồ dùng dạy học, chuẩn bị phiếu học tập cho các
nhóm theo từng nội dung cụ thể.
- Nhiệm vụ của học sinh: Sưu tầm các tài liệu, tranh ảnh có liên quan đến
bài học. Đọc bài ở sách giáo khoa, xem các hình minh hoạ trước để nắm sơ bộ
nội dung bài. Chuẩn bị những ý kiến cá nhân về nội dung tác phẩm, hình thức
thể hiện… Xác định nhóm cùng học.
- Sử dụng các phương pháp dạy và học: Chúng ta đã biết mỗi tác phẩm nghệ
thuật là tổng hợp các kiến thức của nhiều phân môn, trong đó có cả âm nhạc, thơ
ca, văn học, lịch sử … Vì vậy phương pháp dạy học hiệu quả tốt nhất là:
- Phương pháp phân tích
- Phương pháp gợi mở
- Phương pháp trực quan
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp tích hợp
- Phương pháp làm việc theo nhóm
- Phương pháp liên hệ với thực tiễn cuộc sống.
Những phương pháp này sẽ có lợi thế hơn vì nó đảm bảo cho học sinh được
thảo luận trên cơ sở hiểu biết riêng của mình, vận dụng các kiến thức liên môn
đồng thời tiếp nhận ý kiến của học sinh làm cho nhận thức của các em sâu rộng
hơn, kiến thức không rời rạc, được móc nối liên kết giữa các môn học với nhau,
giữa kiến thức sách vở và thực tiễn sinh động bên ngoài. Đây chính là tinh thần
cơ bản của dạy tích hợp mà chúng ta đang đề cập. Dùng các phương pháp này,
giáo viên sẽ là người tổ chức điều hành, học sinh vừa là người tổ chức vừa là
người thực hiện. Ví dụ: Giáo viên chia nhóm, yêu cầu mỗi nhóm chuẩn bị một
nội dung cùng câu hỏi gợi ý. Học sinh đọc tài liệu, xem hình ảnh minh hoạ sau
đó các nhóm thảo luận tìm ra kiến thức, tìm ra cách giải quyết bài tập, cử người
ghi chép và thảo luận trước lớp. Các nhóm khác trao đổi tiếp. Giáo viên tóm tắt
10



bổ sung vừa có tính chất nhắc lại, gói lại, vừa mở rộng thêm làm cho nhận thức
của học sinh sâu sắc và phong phú hơn. Ngoài tranh ảnh giới thiệu ở sách giáo
khoa, ở bộ đồ dùng dạy học, giáo viên còn yêu cầu học sinh sưu tầm thêm và gợi
ý học sinh phân tích, tự ghi chép nội dung theo cảm nhận riêng.
+ Kết quả: Cách học này có nhiều điều bổ ích vì:
- Học sinh có ý thức tìm tòi tự nhiên để học tập, gắn kết giữa học và hành,
nhà trường và xã hội.
- Hình thành ở học sinh tính tự giác trong học tập, phát triển khả năng độc
lập tư duy, suy nghĩ sáng tạo.
- Bồi dưỡng năng lực ghi chép theo cảm nhận riêng không quá lệ thuộc vào
sách và các tài liệu có sẵn. Tự học, tự tìm tài liệu, tự tìm phương pháp học và tổ
chức học tập, đánh giá dưới sự điều hành của giáo viên.
3.3. Giáo viên tự bồi dưỡng kiến thức:
Như chúng ta đã biết, kết quả học tập của học sinh phụ thuộc rất nhiều vào
sự giàu có kiến thức, vào nghệ thuật truyền đạt của giáo viên. Việc nâng cao và
tự bồi dưỡng trình độ của giáo viên là việc làm cần thiết và phải được làm liên
tục có hệ thống. Trước hết giáo viên phải hiểu sâu về mĩ thuật Việt Nam và thế
giới, đánh giá các tác phẩm một cách khách quan và chính xác tự tìm được đối
với phân môn này. Muốn vậy người giáo viên phải tìm hiểu kỹ hơn qua các tài
liệu có liên quan như:
- Lược sử mĩ thuật học (Chu Quang Trứ – Phạm Thị Chỉnh – Nguyễn Thái
Lai) giáo trình đào tạo giáo viên THCS hệ cao đẳng sư phạm, NXB Giáo dục
năm 1998;
- Phương pháp giảng dạy mĩ thuật (Nguyễn Quốc Toản) – NXB Giáo dục tái
bản năm 2001. - Nét đẹp đình làng (Lê Thanh Đức) – NXB Giáo dục năm 2001;
- Giáo trình lịch sử mĩ thuật thế giới (Nguyên Trân) – NXB Mỹ thuật 1996;
- Lịch sử mĩ thuật thế giới (Phạm Thị Chỉnh) – 1998;
- Nghệ thuật phục hưng – NXB 1998 - Mĩ thuật thời Lê – NXB 1998 - Mĩ
thuật của người Việt (Nguyễn Quân, Phan Cẩm Thượng) – NXB Mĩ thuật 1989;

- Tạp chí mĩ thuật (Hội mĩ thuật Việt Nam). - Hội họa ấn tượng – NXB
Giáo dục 2001;
- Danh nhân thế giới (Tủ sách nghệ thuật) – NXB Kim Đồng 2001
11


Người giáo viên phải nắm bắt một cách sâu rộng kiến thức lịch sử mĩ thuật
Việt Nam và thế giới, hiểu rõ được giá trị nghệ thuật của các tác giả, tác phẩm từ
đó xây dựng cho mình một tiết dạy phong phú, sinh động tạo sự tin tưởng và
ngưỡng mộ của học sinh đối với giáo viên.
Giáo viên phải biết đặt học sinh vào vị trí trung tâm của giờ học, phải
hướng cho các em những hoạt động cụ thể.
Ví dụ: Trong giờ học "Một số công trình tiêu biểu của Mĩ thuật thời Lê" tôi
đã xây dựng một tiết học như sau:
* Chuẩn bị ở tiết trước các em đã được tìm hiểu về sơ lược Mĩ thuật thời
Lê. Do vậy ngoài việc chuẩn bị của mình giáo viên yêu cầu học sinh chuẩn bị
trước các tài liệu nói về các công trình liên quan đến bài học. Giáo viên có thể
giới thiệu học sinh tìm tài liệu trên mạng Internet:
+ Hình tượng con rồng qua các giai đoạn thời kỳ nhà Lê
+ Hình ảnh về tổng thể kiến trúc chùa Keo
+ Hình ảnh về tượng Phật Bà Quan Âm nghìn mắt nghìn tay
+ Hình ảnh các hoa văn chạm khắc khác nhau trên bia đá
* Xây dựng hệ thống câu hỏi trong bài học để các em tìm hiểu, giáo viên
làm mẫu bài thường thức mĩ thuật đầu tiên sau đó những bài tiếp theo giao
nhiệm vụ cho học sinh thực hiện và trong quá trình học giáo viên xây dựng thêm
câu hỏi để mở rộng kiến thức cho học sinh.
3.4. Sử dụng có hiệu quả phương pháp tổ chức trò chơi trong dạy học
phân môn thường thức mỹ thuật.
Trong phân môn này, giáo viên cần tạo cho các em có thêm những hiểu
biết về Mỹ thuật của Việt Nam và trên thế giới, tuỳ thuộc vào từng nội dung bài

học mà giáo viên có thể chọn những hình thức chơi phù hợp.
Ví dụ như trong bài 8 lớp 7: “Giới thiệu về một số công trình tiêu biểu của
Mĩ thuật thời Trần”. Mục tiêu của bài học là giúp các em có thêm những hiểu
biết về những công trình tiêu biểu của Mĩ thuật thời Trần, cùng với những đóng
góp to lớn của triều đại nhà Trần với nền nghệ thuật ở nước ta.
Chính từ bài học này, học sinh sẽ cảm nhận được vẻ đẹp của những công
trình Mĩ thuật thời Trần, xây dựng thái độ, tình cảm yêu mến, trân trọng những
giá trị của lịch sử của nền mỹ thuật Việt Nam.
12


3.5. Khai thác có hiệu quả kênh hình trong sách giáo khoa và sách giáo viên:
- Giáo viên chia nhóm, yêu cầu học sinh đọc sách giáo khoa, xem tranh
trong sách giáo khoa và thảo luận theo phiếu bài tập mà giáo viên đã chuẩn bị,
sau đó học sinh trình bày kết quả thảo luận, giáo viên chốt lại phần học sinh vừa
trình bày, cuối giờ học yêu cầu học sinh thi vẽ hoặc viết, ví dụ:
+ Em hãy vẽ lại mặt trống đồng Đông Sơn (bài 2 lớp 6)
+ Em hãy viết một đoạn văn ngắn miêu tả vẻ đẹp của tượng phật Bà Quan
Âm nghìn mắt nghìn tay (bài 5 lớp 8)
Như vậy giờ học không kém phần hấp dẫn đối với học sinh mà giáo viên
thoát ra khỏi tâm lí nặng nề về thiếu tranh ảnh tài liệu minh họa. Tóm lại nếu
giáo viên biết sử dụng sách giáo khoa và sách giáo viên chúng ta vẫn có thể có
giờ học tích cực và hiệu quả.
4. Hiệu quả của sáng kiến
Qua quá trình nghiên cứu và dạy thử nghiệm áp dụng giải pháp, bản thân
tôi nhận thấy sự phù hợp và mang lại hiệu quả đáng kể. Cụ thể đó là:
- Giờ học phân môn Thường thức mĩ thuật đã không gây nhàm chán cho
học sinh do các em đã có được hứng thú hơn trong việc khai thác những nội
dung mới của bài học qua sự chuẩn bị chi tiết của giáo viên.
- Thông tin tiếp nhận được của học sinh về bài học phong phú, đa dạng và

hình thành ghi nhớ rõ hơn về lượng kiến thức đã nhận được.
- Học sinh thích thú và tích cực tham gia các hoạt tìm hiểu động chung về
nội dung bài học, không còn chán nản, mệt mỏi và mất tập trung vào bài học.
Bằng phương pháp điều tra thông qua bảng tổng hợp tình hình học tập học
sinh trong nhà trường sau khi áp dụng sáng kiến vào đầu năm học 2017-2018 đã
thu được kết quả khả quan. Có thể thấy rõ điều này qua những số liệu như sau:
Hứng
Tổng
thú
Khối số
học
lớp
học
tập (tỷ
sinh
lệ %)
6

96

63

Đạt yêu cầu (tỷ lệ %)
Ghi nhớ
các nội
dung bài
học
17

Ghi nhớ

Ghi nhớ
50% đến
60% đến
dưới
dưới 80%
60% bài
bài học
học
33
13

46

Chưa đạt (tỷ lệ %)
Ghi nhớ
30% đến
dưới
50% bài
học

Ghi nhớ
dưới
30% bài
học

3

1



7

94

8

94

9

102

(61,6)

(12,3%)

(19,1%)

(76,7%)

(4,1%)

(1,3%)

57

12

22


57

2

1

(61,2)

(12,5%)

(22,5%)

(61,2%)

(2,5%)

(1,2%)

57

12

22

58

2

(60,8)


(11,5%)

(23,1%)

(62,3%)

67

17

36

49

(65,7)

(17,1%)

(34,2%)

(48,5%)

(2,8%)
0

0

0

Qua kết quả điều tra (sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm) học sinh

thích học phân môn Thường thức mĩ thuật lên đến trên 60% học sinh.
So sánh kết quả của 2 lần khảo sát ta thấy rõ ngay sự tiến bộ. Qua thời gian
áp dụng sáng kiến cho thấy đó là một tín hiệu đáng mừng, khẳng định rằng: Giải
pháp giúp học sinh hứng thú học phân môn Thường thức mĩ thuật trong môn Mĩ
thuật tại trường trung học cơ sở Thắng Quân là giải pháp tiến bộ, phù hợp và
đúng đắn. Hy vọng đây sẽ là một giải pháp được áp dụng lâu dài và sâu rộng.
Giúp giáo viên ngày càng hoàn thiện và tổ chức giờ học thường thức mĩ thuật
học có hiệu quả, giảm bớt gánh nặng nhàm chán của học sinh, nâng cao chất
lượng giảng dạy, đúng với tinh thần về việc đổi mới mà Bộ Giáo dục đã đề ra.
* Bài học kinh nghiệm:
Với một số giải pháp trên, nếu giáo viên sử dụng tốt, linh hoạt, hài hòa thì
giờ học sẽ sôi nổi, học sinh tiếp thu nhanh hơn, hiệu quả hơn, dần dần cảm nhận
được cái đẹp, cái hay trong tác phẩm cũng như trong cuộc sống.
Trong thời gian nghiên cứu và áp dụng sáng kiến tôi đã tìm ra những
phương pháp và kinh nghiệm giúp học sinh hứng thú trong học phân môn
“Thường thức mĩ thuật” nhằm giúp học sinh học tập tích cực, chủ động chiếm
lĩnh tri thức, nâng cao khả năng tích hợp, quan sát, vận dụng các kỹ năng vào tìm
hiểu nội dung bài học. Từ đó học sinh cũng hứng thú học bộ môn Mĩ thuật hơn.
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận.
Thường thức mỹ thuật là phân môn khó, đòi hỏi cả giáo viên và học sinh
cần có sự đầu tư, chuẩn bị chu đáo về mọi mặt, phải không ngừng sự tư duy và
sáng tạo để truyền đạt nhanh, tiếp thu nhanh, liên hệ thực tiễn tốt.
14


Tất cả các bộ môn khi giảng dạy đòi hỏi người giáo viên phải chuẩn bị tốt
các thao tác lên lớp, sử dụng hài hòa, linh hoạt các phương pháp dạy học, tự tìm
tòi, sưu tầm tư liệu tham khảo để làm phong phú nội dung bài giảng, giúp học
sinh có sự cảm nhận "Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng", kích thích

óc sáng tạo và khả năng liên hệ thực tiễn. Trong quá trình giảng dạy giáo viên
phải vừa giảng dạy vừa học hỏi, vừa rút kinh nghiệm để truyền đạt hiệu quả,
giúp học sinh nắm bắt, hiểu vấn đề nhanh hơn. Mỹ thuật cũng không nằm ngoài
mục đích trên.
Với kết quả đạt được (sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm) học sinh hướng
thú học phân môn Thường thức mĩ thuật đã tăng lên rõ rệt. Vì vậy trong năm học
sáng kiến tiếp tục được thực hiện sẽ nâng cao chất lượng bộ môn hơn nữa.
Trên đây là một vài kinh nghiệm giúp học sinh học tốt phân môn thường
thức mỹ thuật. Trong trường chỉ có một giáo viên mĩ thuật, việc học hỏi kinh
nghiệm phân môn mĩ thuật còn hạn chế nên quá trình viết sáng kiến kinh
nghiệm sẽ không tránh khỏi những thiếu sót, hạn chế. Rất mong sự góp ý chân
thành của đồng nghiệp để sáng kiến kinh nghiệm đạt hiệu quả hơn; để môn mỹ
thuật càng đi sâu hơn vào tâm hồn học sinh, từ đó đi vào cuộc sống.
2. Kiến nghị.
* Đối với nhà trường: Dùng nguồn chi khác trong chuyên môn, đầu tư
trang cấp cho bộ môn Mĩ thuật một số tranh, ảnh phóng to ở khối lớp 7 và
lớp 9 (hai khối này chưa được trang cấp trang, ảnh trong môn Mĩ thuật) để
phục vụ cho việc dạy và học phân môn Mĩ thuật được tốt hơn.
* Đối với chính quyền địa phương: Thường xuyên quan tâm, chỉ đạo, phối
hợp tốt công tác xã hội hóa giáo dục trên địa bàn xã.
* Đối với Phòng GD&ĐT Yên Sơn: Quan tâm tạo điều kiện hỗ trợ đồ dùng
dạy học môn Mĩ thuật ở các khối về tranh ảnh tham khảo trong chương trình
nhất là tranh của các họa sĩ để tham khảo.
Thắng Quân, ngày 15 tháng 10 năm 2017
Giáo viên thực hiện

ĐẶNG VIỆT THẮNG
15



TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bài giảng Mĩ thuật phương pháp giảng dạy mĩ thuật - Hồ Văn Thùy Nhà xuất bản giáo dục - 2002.
2. Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Mĩ thuật trung học
cơ sở - Nguyễn Lãng Bình, Nguyễn Hải Châu, Triệu Khắc Lễ, Đàm Luyện - Nhà
xuất bản giáo dục Việt Nam.
3. Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học môn Mĩ Thuật trung học cơ
sở - Đàm Luyện, Nguyễn Quốc Toản, Bạch Ngọc Diệp - viện khoa học giáo dục
Việt Nam - Bộ giáo dục và đào tạo. Dự án phát triển Giáo dục trung học cơ sở II
- Bộ Giáo dục và Đào tạo.
4. Sách giáo khoa Âm nhạc và Mĩ Thuật; Sách giáo viên Mĩ Thuật khối
6,7,8,9 - Bộ giáo dục và Đào tạo - Nhà xuất bản giáo dục.

16


17



×