Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Hoàn thiện pháp luật bảo hiểm thất nghiệp ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (772.24 KB, 84 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
-----***-----

NGÔ THỊ THUỶ

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử Nhà nước và Pháp luật
Mã số: 60.38.01.01

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. ĐINH XUÂN THẢO

HÀ NỘI - 2013


LỜI CAM ĐOAN
Đề tài luận văn “Hoàn thiện pháp luật Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt
Nam hiện nay” được thực hiện từ tháng 12/2012 đến tháng 5/2013. Luận văn sử
dụng những thông tin từ nhiều nguồn khác nhau. Các thông tin này đã được chỉ
rõ nguồn gốc, có một số thông tin thu thập từ thực tế ở địa phương, một số số
liệu đã được phân tích, tổng hợp và xử lý với mục đích nghiên cứu khoa học
trong phạm vi đề tài luận văn.
Tôi xin cam đoan:


1. Số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này hoàn toàn trung thực và
có nguồn trích dẫn rõ ràng, đảm bảo.
2. Mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này hoàn toàn vì mục tiêu
khoa học, cống hiến, không có mục đích vụ lợi hoặc làm sai lệch thông tin ảnh
hưởng đến đường lối chính trị của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước.
3. Cam kết đã nghiêm túc nghiên cứu, minh bạch trong sử dụng thông tin,
không làm ảnh hưởng đến uy tín của bất cứ nhà nghiên cứu nào có liên quan đến
đề tài của luận văn.
Hà Nội, tháng 5 năm 2013
Học viên

Ngô Thị Thuỷ


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
- BHTN :

Bảo hiểm thất nghiệp

- BHXH:

Bảo hiểm xã hội

- NLĐ:

Người lao động

- ILO:

Tổ chức lao động quốc tế



MỤC LỤC

MỞ ĐẦU

1

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

1

2. Tình hình nghiên cứu

2

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

4

4. Phạm vi nghiên cứu

4

5.Phương pháp nghiên cứu

4

6. Đóng góp của luận văn


5

7. Kết cấu của luận văn

5

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP

6

LUẬT VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP
1.1. Khái quát chung về Bảo hiểm thất nghiệp

6

1.1.1. Khái niệm thất nghiệp và người thất nghiệp

6

1.1.2. Khái niệm Bảo hiểm xã hội và Bảo hiểm thất nghiệp

8

1.1.3. Các nguyên tắc của Bảo hiểm thất nghiệp

12

1.2. Khái niệm, Nội dung pháp luật Bảo hiểm thất nghiệp

14


1.2.1. Khái niệm pháp luật Bảo hiểm thất nghiệp

14

1.2.2. Nội dung Pháp luật Bảo hiểm thất nghiệp

15

1.3. Khái niệm hoàn thiện pháp luật về Bảo hiểm thất nghiệp

22

1.3.1. Các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện pháp luật về Bảo hiểm

23

thất nghiệp
1.3.2.Những nhân tố ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật Bảo hiểm

26

thất nghiệp
1.4. Kinh nghiệm thực hiện bảo hiểm thất nghiệp ở một số nước trên thế
giới

27


1.4.1. Bảo hiểm thất nghiệp ở Hàn Quốc


27

1.4.2. Hệ thống bảo hiểm thất nghiệp Thái Lan

31

1.4.3. Bài học kinh nghiệm rút ra từ kinh nghiệm quốc tế

33

Chương 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM THẤT

35

NGHIỆP Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
2.1. Đối tượng áp dụng BHTN, điều kiện hưởng BHTN

35

2.1.1. Đối tượng áp dụng BHTN

35

2.1.2. Điều kiện hưởng Bảo hiểm thất nghiệp

38

2.2. Các chế độ của BHTN


44

2.2.1. Trợ cấp thất nghiệp

44

2.2.2. Hỗ trợ học nghề

51

2.2.3. Hỗ trợ tìm việc làm

53

2.2.4. Bảo hiểm y tế

54

2.3. Quỹ Bảo hiểm thất nghiệp

55

Chương 3.YÊU CẦU, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

60

BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP Ở NƯỚC TA HIỆN NAY
3.1. Yêu cầu hoàn thiện pháp luật về Bảo hiểm thất nghiệp

60


3.1.1. Hoàn thiện pháp luật về BHTN xuất phát từ thực tế khách quan

60

3.1.2. Đảm bảo sự định hướng của Đảng trong quá trình hoàn thiện pháp

61

luật Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về Bảo hiểm thất nghiệp

63

3.2.1. Hoàn thiện các quy định pháp luật về Bảo hiểm thất nghiệp

63

3.2.2. Một số giải pháp hỗ trợ khác

69

KẾT LUẬN

75


1

LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Thất nghiệp là hiện tượng kinh tế - xã hội tồn tại ở hầu hết các quốc gia trên
thế giới, không phân biệt chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế khác nhau.
Trong nền kinh tế thị trường, thất nghiệp được thể hiện một cách rõ nét nhất và
được thừa nhận là hiện tượng kinh tế xã hội tất yếu. Từ đầu thế kỷ XXI trở lại
đây, suy thoái kinh tế tác động không nhỏ đến nền kinh tế toàn cầu, tình trạng
thất nghiệp gia tăng và trở thành một vấn nạn của nhiều quốc gia trên thế giới.
Việt Nam chúng ta ít chịu ảnh hưởng của suy thoái toàn cầu, tình trạng thất
nghiệp cũng chưa đến mức báo động, nhưng thất nghiệp cũng đã và đang gây
khó khăn cho sự phát triển kinh tế của đất nước.
Bảo hiểm thất nghiệp là chính sách mới và được quy định trong Luật Bảo
hiểm xã hội năm 2006, có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2009, là một chính sách
an sinh xã hội mới có ý nghĩa rất lớn đối với người lao động. Tuy mới thực hiện
nhưng Nhà nước ta đã tiến hành nhiều biện pháp tích cực nhằm đưa chính sách
mới vào cuộc sống, đưa ra các giải pháp hữu hiệu để Bảo hiểm thất nghiệp thực
sự phát huy được ý nghĩa an sinh xã hội. Nếu như trước khi có Bảo hiểm thất
nghiệp, người lao động sau khi mất việc làm gần như đơn độc trong quá trình tìm
công việc mới để trở lại thị trường lao động, thì nay họ được tư vấn, giới thiệu
việc làm mới, hỗ trợ học nghề và hưởng trợ cấp thất nghiệp, đặc biệt trong thời
gian hưởng trợ cấp thất nghiệp, người lao động còn được hưởng Bảo hiểm ý tế.
Là một chế độ mới, hoàn toàn không có tiền lệ nên trong quá trình thực
hiện không thể tránh khỏi những vướng mắc. Vì vậy, nghiên cứu các quy định
của pháp luật hiện hành về Bảo hiểm thất nghiệp và thực trạng thực hiện để từ
đó đưa ra các giải pháp hoàn hiện là rất cần thiết. Chính vì vậy tác giả luận văn
đã chọn đề tài “Hoàn thiện pháp luật Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam hiện
nay” với mong muốn góp phần cung cấp thông tin về thực trạng và cơ sở khoa
học để các cơ quan xây dựng pháp luật, cơ quan quản lý nhà nước tham khảo
nhằm nâng cao hiệu quả điều chỉnh và áp dụng pháp luật Bảo hiểm thất nghiệp ở
Việt Nam hiên nay.



2

2. Tình hình nghiên cứu
Bảo hiểm thất nghiệp là một chế độ kinh tế - pháp lý đã được các nước phát
triển trên thế giới thực hiện từ những năm đầu của thế kỷ 20. Ở các nước có nền
kinh tế thị trường, việc phải đương đầu với vấn đề thất nghiệp luôn là một trong
những ưu tiên hàng đầu. Một xã hội phát triển là xã hội có hệ thống chính sách,
chế độ an sinh xã hội hoàn chỉnh và đồng bộ. Ở Việt Nam, từ khi chuyển sang
nền kinh tế thị trường, vấn đề thất nghiệp đã trở thành một vấn đề xã hội.
Năm 2000, trong luận văn thạc sĩ Luật học “ Thất nghiệp và việc xây dựng
chế độ Bảo hiểm thất nghiệp trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” của tác
giả Đỗ Năng Khánh đã nghiên cứu về mặt lý luận vấn đề thất nghiệp và sự điều
chỉnh pháp luật đối với Bảo hiểm thất nghiệp trong cơ chế thị trường. Luận văn
đã phân tích tình hình giải quyết việc làm và thất nghiệp ở Việt Nam và các chế
độ hỗ trợ người thất nghiệp của Nhà nước từ trước đến nay, cũng như những
kinh nghiệm điều chỉnh pháp luật của các nước và quốc tế trong lĩnh vực này
nhằm đưa ra những ý kiến có tính chất bước đầu về việc xây dựng chế độ Bảo
hiểm thất nghiệp ở Việt Nam. Tuy nhiên, thời điểm này Luật Bảo hiểm Xã hội
chưa được ban hành, nội dung của đề tài này chỉ dừng lại ở những vấn đề mang
tính định hướng.
Năm 2004, trong Luận án tiến sĩ Luật học “Chế độ Bảo hiểm thất nghiệp
trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam”, tác giả Lê Thị Hoài Thu đã đưa ra
những kinh nghiệm thực hiện Bảo hiểm thất nghiệp ở một số nước trên thế giới
cũng như quy định về Bảo hiểm thất nghiệp của tổ chức Lao động quốc tế từ đó
chỉ ra những nội dung cần thiết của chế độ Bảo hiểm thất nghiệp khi được triển
khai ở Việt Nam.
Năm 2008, trong Luận án tiến sĩ Luật học “Cơ sở lý luận và thực tiễn cho
việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật an sinh xã hội ở Việt Nam”, tác giả Lê
Hiền Phương cũng đã đề cập đến Bảo hiểm thất nghiệp như là một chế độ của

Bảo hiểm xã hội bắt buộc. Vì vậy, nội dung đề cập đến Bảo hiểm thất nghiệp
mới dừng lại ở việc khái quát một nội dung chính của Bảo hiểm thất nghiệp.


3

Gần đây nhất, vào năm 2012 trong Luận văn Thạc sĩ Luật học “ Pháp luật
Bảo hiểm thất nghiệp và thực tiễn thực hiện ở Nghệ An” của tác giả Ngô Thị
Thu Hoài cũng đã tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam
hiện hành về Bảo hiểm thất nghiệp và thực tiễn áp dụng ở Nghệ An từ thời điểm
bắt đầu triển khai Bảo hiểm thất nghiệp.
Bên cạnh các Luận văn thạc sĩ Luật học và Luận án tiến sĩ Luật học đã kể ở
trên, còn nhiều bài viêt với các nội dung liên quan đến Bảo hiểm thất nghiệp đã
được đăng trên các báo và tạp chí chuyên ngành như: “Một số vấn đề về Bảo
hiểm thất nghiệp” của Thạc sĩ Trần Thuý Lâm đăng trên Tạp chí Luật học số
03/2004; “Vấn đề quản lý Bảo hiểm thất nghiệp ở nước ngoài” của Tiến sĩ Lê
Thị Hoài Thu đăng trên tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 04/2005; “Bảo hiểm
thất nghiệp chỉ nên quy định về nguyên tắc và định hướng” của Tiến sĩ Nguyễn
Thị Kim Phụng đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 03/2006; “Hoàn thiện
chế độ Bảo hiểm thất nghiệp trong dự thảo Luật Bảo hiểm xã hội” của Tiến sĩ
Lê Thị Hoài Thu đăng trên tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 05/2006; “Quy định
về Bảo hiểm thất nghiệp trong Công ước của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) và
một số nước trên thế giới” của Tiến sĩ Lê Thị Hoài Thu đăng trên Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật số 06/2006; “Bảo hiểm thất nghiệp trong Luật Bảo hiểm xã
hội Việt Nam – Đôi điều cần biết” của Tiến sĩ Lê Thị Hoài Thu đăng trên tạp chí
Nhà nước và Pháp luật số 11/2008…
Như vậy, theo những tài liệu mà tác giả ghi nhận được, cho đến nay chưa
có công trình tập trung nghiên cứu và đánh giá kết quả thực hiện Bảo hiểm thất
nghiệp kể từ khi triển khai thực hiện và đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện và
nâng cao hiệu quả thực hiện Pháp luật Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam. Vì

vậy, đề tài “Hoàn thiện pháp luật Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam hiện nay”
không trùng với các công trình khoa học đã được công bố.


4

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của đề tài là tìm hiểu về cơ sở lý luận của Bảo hiểm thất nghiệp,
nghiên cứu thực trạng thực hiện pháp luật Bảo hiểm thất nghiệp kể từ khi pháp
luật Bảo hiểm thất nghiệp được chính thức áp dụng ở Việt Nam đến nay; trên cơ
sở đó đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Bảo hiểm thất nghiệp
và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về Bảo hiểm thất nghiệp như: Các khái
niệm về thất nghiệp; người thất nghiệp; Bảo hiểm thất nghiệp; Nội dung cơ bản
của Pháp luật bảo hiểm thất nghiệp làm cơ sở để đánh giá hệ thống pháp luật
Bảo hiểm thất nghiệp hiện hành ở nước ta.
- Nghiên cứu các quy định cơ bản của Bảo hiểm thất nghiệp như đối tượng
tham gia, điều kiện hưởng và các chế độ của Bảo hiểm thất nghiệp.
- Nghiên cứu thực trạng thực hiện pháp luật Bảo hiểm thất nghiệp từ kết
quả thực hiện sau 3 năm triển khai ở Việt Nam, đưa ra những đánh giá về những
mặt tích cực, hạn chế để từ đó kiến nghị những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật Bảo hiểm thất nghiệp và nâng cao hiệu quả thực hiện ở Việt Nam.
4. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật Bảo hiểm thất
nghiệp hiện hành của Việt Nam và thực tiễn thực hiện kể từ khi chính sách Bảo
hiểm thất nghiệp chính thức có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2009 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn thực hiện dựa trên phương pháp luận của triết học Mác – Lênin

về duy vật biện chứng, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và Pháp luật; Các
quan điểm mang tính nguyên tắc của Đảng và Nhà nước về chính sách an xinh
xã hội, đảm bảo cuộc sống ổn định cho người lao động trong quá trình tham gia
vào thị trường lao động.
Bên cạnh đó, Luận văn còn sử dụng các phương pháp logic, phân tích, tổng
hợp, so sánh để thực hiện mục đích và các nhiệm vụ nghiên cứu đã đề ra.


5

6. Đóng góp của Luận văn
Luận văn góp phần làm rõ hơn các vấn đề lý luận về pháp luật Bảo hiểm
thất nghiệp; Nêu rõ kết quả đã đạt được trên phạm vi toàn quốc sau 3 năm kể từ
khi triển khai chính sách Bảo hiểm thất nghiệp ở Việt Nam, đưa ra những số liệu
cụ thể làm căn cứ đánh giá thực trạng thực hiện pháp luật Bảo hiểm thất nghiệp.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng thực hiện, Luận văn chỉ ra những bất cập,
hạn chế trong các quy định của pháp luật để từ đó đưa ra những giải pháp hoàn
thiện pháp luật Bảo hiểm thất nghiệp và nâng cao hiệu quả thực hiện Bảo hiểm
thất nghiệp ở Việt Nam.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được
kết cấu thành 3 chương
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về Bảo hiểm thất nghiệp
Chương 2. Thực trạng pháp luật về Bảo hiểm thất nghiệp ở nước ta hiện nay
Chương 3: Yêu cầu, giải pháp hoàn thiện pháp luật Bảo hiểm thất nghiệp ở
nước ta hiện nay


6


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP
1.1. Khái quát chung về Bảo hiểm thất nghiệp
1.1.1. Khái niệm thất nghiệp và người thất nghiệp
Thất nghiệp là hiện tượng kinh tế xã hội tồn tại ở hầu hết các quốc gia khi
phát triển theo mô hình kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, thất
nghiệp được biểu lộ một cách rõ nét nhất và được thừa nhận là hiện tượng kinh
tế xã hội. Mỗi quốc gia trên thế giới, tuỳ vào cách tiếp cận mà có quan điểm
khác nhau về thất nghiệp
Theo Luật về hỗ trợ lao động ngày 25/6/1969 của Cộng hoà liên bang Đức,
thất nghiệp được hiểu là người lao động tạm thời không có quan hệ việc làm
hoặc chỉ thực hiện công việc ngắn hạn. Còn theo Luật về trợ cấp chờ việc của
Trung Quốc năm 1995 thì thất nghiệp là hiện tượng người đang làm việc bị mất
việc làm vì những lý do khác nhau.
Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã đưa ra khái niệm thất nghiệp tại Điều
20, Công ước số 102 (1952) như sau: “Thất nghiệp là hiện tượng người lao động
bị ngừng thu nhập do không có khả năng tìm được việc làm thích hợp trong
trường hợp người đó có khả năng làm việc và sẵn sàng làm việc”.
Ở nước ta, dưới góc độ pháp lý thì thuật ngữ “thất nghiệp” cũng đã được đề
cập ở hai văn bản, đó là: Sắc lệnh số 29/SL ngày 12/3/1947 (Điều 76) và Nghị
định số 233/HĐBT ngày 22/6/1990 của Hội đồng bộ trưởng ban hành quy chế
lao động đối với các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (khoản 1 Điều 46). Tuy
nhiên hai văn bản này mới chỉ đề cập thuật ngữ thất nghiệp mà không đưa ra
một định nghĩa về thất nghiệp
Nếu ‘thất nghiệp” là một hiện tượng xã hội, chỉ trạng thái chung của những
người không có việc làm thì “người thất nghiệp” dùng để chỉ những cá nhân


7


đang trong tình trạng đi tìm việc làm và đảm bảo một số tiêu chí khác (như trong
độ tuổi lao động, có khả năng làm việc ngay…)
Việc xác định các tiêu chí để được coi là “người thất nghiệp” ở các quốc
gia có thể không giống nhau. Cộng hoà liên bang Đức quan niệm người thất
nghiệp là người lao động tạm thời không có quan hệ lao động hoặc chỉ thực hiện
công việc ngắn hạn. Cộng hoà Pháp cho rằng người thất nghiệp là người có đủ
điều kiện để làm việc nhưng không có việc làm và đang tìm việc. Nhật bản quan
niệm người thất nghiệp là người không có việc làm trong tuần lễ điều tra thất
nghiệp, có khả năng làm việc, đang tích cực tìm việc làm… Nhìn chung, dù còn
chưa hoàn toàn thống nhất quan điểm về người thất nghiệp nhưng đa số các
quốc gia đều cho rằng để được coi là người thất nghiệp phải đảm bảo các tiêu
chí sau đây:
- Có khả năng lao động.
- Không có việc làm.
- Đang tích cực tìm kiếm việc làm.
Ngoài ra, để phù hợp với cơ chế quản lý nguồn lao động của từng quốc gia,
thực hiện việc chi trả chế độ bảo hiểm thất nghiệp, khuyến khích người lao
động chủ động tìm kiếm việc làm, các nước có thể đưa ra các điều kiện bổ sung
để được công nhận là người thất nghiệp như:
- Đã đăng ký tìm việc làm ở cơ quan quản lý lao động.
- Không có nguồn thu nhập dưới dạng tiền hưu trí, tiền mất sức lao động
hay các nguồn thu nhập khác do người sử dụng lao động trả.
- Giới hạn về độ tuổi.
- Sẵn sàng làm việc theo sự giới thiệu của cơ quan lao động dưới mọi hình
thức (việc làm công cộng, việc làm tạm thời, việc làm phù hợp hoặc không phù
hợp với chuyên môn).
Trên cơ sở quan điểm về thất nghiệp của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) ở
trên, Văn phòng lao động quốc tế (BTI) đã đưa ra khái niệm về người thất
nghiệp như sau: “Người thất nghiệp là người trong độ tuổi lao động, có khả

năng lao động nhưng không có việc làm. Họ có thể là người chưa có việc làm


8

hoặc đã có việc làm nhưng đã thôi việc và đang cần tìm việc làm có thu nhập”.
[11, tr 207]
Tại Việt Nam, theo quy định tại khoản 4, Điều 3 Luật Bảo hiểm xã hội năm
2006, khái niệm người thất nghiệp được hiểu như sau: “Người thất nghiệp là
người đang đóng bảo hiểm thất nghiệp mà bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp
đồng lao động, hợp đồng làm việc nhưng chưa tìm được việc làm”.
Theo quan điểm của Tác giả, người thất nghiệp là người trong độ tuổi lao
động, có khả năng lao động, có nhu cầu việc làm nhưng không có việc làm. Vì
vậy, tác giả không hoàn toàn đồng tình với khái niệm về người thất nghiệp được
quy định tại khoản 4, Điều 3 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006. Tuy nhiên, tại
thời điểm chúng ta thực hiện chính sách Bảo hiểm thất nghiệp, ngân sách Nhà
nước còn hạn hẹp, Quỹ bảo hiểm thất nghiệp chỉ giới hạn thực hiện các chế độ
cho những người tham gia Bảo hiểm thất nghiệp, nên khái niệm về người thất
nghiệp được quy định tại khoản 4, Điều 3 Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006 là
hợp lý.
1.1.2. Khái niệm Bảo hiểm xã hội và Bảo hiểm thất nghiệp
1.1.2.1. Khái niệm Bảo hiểm xã hội
Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn, mặc, ở… Để thỏa
mãn nhu cầu tối thiểu này, con người phải lao động làm ra những sản phẩm cần
thiết. Của cải xã hội càng nhiều, mức độ thoả mãn nhu cầu càng cao, có nghĩa là
việc thoả mãn nhu cầu phụ thuộc vào khả năng lao động của con người. Trong
thực tế cuộc sống, không phải người lao động nào cũng có đủ điều kiện về sức
khỏe, khả năng lao động hoặc những may mắn khác để hoàn thành nhiệm vụ lao
động, công tác hoặc tạo nên cho mình và gia đình một cuộc sống ấm no hạnh
phúc. Ngược lại, người nào cũng có thể gặp phải những rủi ro, bất hạnh như ốm

đau, tai nạn, hay già yếu, chết hoặc thiếu công việc làm do những ảnh hưởng của
tự nhiên, của những điều kiện sống và sinh hoạt cũng như các tác nhân xã hội
khác… Khi rơi vào các trường hợp đó, các nhu cầu thiết yếu của con người
không vì thế mà mất đi. Trái lại, có cái còn tăng lên, thậm chí còn xuất hiện


9

thêm nhu cầu mới. Bởi vậy, muốn tồn tại, con người và xã hội loài người phải
tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau. Để khắc phục những
rủi ro, bất hạnh giảm bớt khó khăn cho bản thân và gia đình thì ngoài việc tự
mình khắc phục, người lao động phải được sự bảo trợ của cộng đồng và xã hội.
Bảo hiểm xã hội đã xuất hiện và phát triển cùng với quá trình phát triển
kinh tế -xã hội của nhân loại. Hệ thống bảo hiểm xã hội hình thành đầu tiên trên
thế giới ở Đức dưới thời thủ tướng Bismark với cơ chế ba bên (Nhà nước, giới
chủ, giới thợ) cùng đóng góp nhằm bảo hiểm cho người lao động trong một số
trường hợp rủi ro. Đến nay, hầu hết các nước trên thế giới đã thực hiện chính
sách bảo hiểm xã hội và coi nó là một trong những chính sách quan trọng nhất
trong hệ thống an sinh xã hội.
Có thể nói, qua nhiều thời kỳ, cùng với sự tranh chấp giữa nhiều vấn đề của
giới chủ và giới thợ, cùng với sự đổi mới quá trình phát triển kinh tế xã hội,
cùng với trình độ chuyên môn và nhận thức về BHXH của người lao động ngày
càng được nâng cao, cách thức chủ động khắc phục khi có những sự kiện hoặc
không may gặp những rủi ro xảy ra ngày càng hoàn thiện. Sự xuất hiện của
BHXH là một tất yếu khách quan khi mà mọi thành viên trong xã hội đều cảm
thấy sự cần thiết phải tham gia hệ thống BHXH và sự cần thiết được BHXH. Vì
vậy, BHXH đã trở thành nhu cầu và quyền lợi của người lao động và được thừa
nhận là một nhu cầu tất yếu khách quan, một trong những quyền lợi của con
người như trong Tuyên ngôn nhân quyền của Đại hội đồng Liên hợp quốc đã nêu.
Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đã đưa ra khái niệm về BHXH như sau:

BHXH là sự bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành viên của mình thông qua
một loạt các biện pháp công cộng, nhằm chống lại những khó khăn về kinh tế và
xã hội dẫn đến việc ngừng hoặc giảm sút đáng kể về thu nhập gây ra bởi ốm
đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, tàn tật, tuổi già, và chết; đồng thời
bảo đảm chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con.
Từ điển giải thích từ ngữ Luật học xác định: BHXH là bảo hiểm cho thu
nhập của người lao động trong một số trường hợp, do Nhà nước tổ chức quản lý.


10

Đặc trưng cơ bản để phân biệt BHXH với các loại hình bảo hiểm khác là sự kết
hợp nghĩa vụ của người sử dụng lao động, việc thực hiện chính sách bảo đảm xã
hội của nhà nước với sự tương trợ cộng đồng giữa những người lao động để ổn
định cho họ và gia đình họ trong và sau quá trình lao động [12, tr85].
Theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật BHXH năm 2006 thì bảo hiểm xã
hội được định nghĩa như sau: “ Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm thay thế hoặc bù
đắp một phần thu nhập của người lao động khi họ bị giảm sút hoặc mất thu nhập
do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao
động hoặc chết, trên cơ sở đóng vào quỹ bảo hiểm xã hội”.
Định nghĩa về bảo hiểm xã hội theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Luật
BHXH ở trên tương đối đầy đủ khi nêu lên được bản chất của bảo hiểm xã hội
đồng thời khái quát toàn bộ các chế độ mà người tham gia bảo hiểm xã hội
được hưởng nếu xảy ra những rủi ro như: ốm đau, thai sản, tai nạn lao động,
thất nghiệp…
Ở nước ta hiện nay thực hiện một số chế độ bảo hiểm sau: Chế độ bảo hiểm
ốm đau và nghỉ dưỡng sức; Chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp; Chế độ bảo hiểm thai sản; Chế độ hưu trí; Chế độ tử tuất và chế độ bảo
hiểm thất nghiệp
1.1.2.2. Khái niệm Bảo hiểm thất nghiệp

Cùng với xu thế toàn cầu hoá, tình trạng thất nghiệp là điều không tránh
khỏi và xảy ra tại hầu hết quốc gia phát triển theo nền kinh tế thị trường. Để ổn
định đời sống người lao động cũng như trật tự an toàn xã hội, nhiều biện pháp
đã được đưa ra để hỗ trợ người lao động trong thời gian không có việc làm, học
nghề và tìm kiếm một công việc khác. Một trong số các biện pháp đó là xây
dựng và thực hiện chế độ bảo hiểm thất nghiệp.
Bảo hiểm thất nghiệp xuất hiện lần đầu ở Châu Âu, trong một nghề khá phổ
biến và phát triển: nghề sản xuất các mặt hàng thuỷ tinh ở Thuỵ Sĩ. Nghề này có
tính chất rủi ro cao, năm 1983 các chủ doanh nghiệp ở Thuỵ Sĩ đã lập ra quỹ
doanh nghiệp để trợ cấp cho những người thợ phải nghỉ việc vì lý do thời vụ sản
xuất. Sau đó, nhiều nghiệp đoàn ở Châu Âu cũng đã lập ra quỹ công đoàn để trợ


11

cấp cho đoàn viên trong những trường hợp phải nghỉ việc, mất việc. Tiền trợ cấp
được tính vào giá thành sản phẩm và người dùng hàng hoá phải gánh chịu. Khi
thấy rõ vai trò và tác dụng của trợ cấp nghỉ việc, mất việc đối với công nhân,
nhiều cấp chính quyền địa phương đã tổ chức liên kết các doanh nghiệp, các
nghiệp đoàn lao động để hình thành quỹ trợ cấp, thực chất đó là quỹ BHTN.
Tham gia đóng góp cho quỹ lúc này không chỉ có giới chủ và cả những người
lao động có công việc làm không ổn định. Để tăng mức trợ cấp thất nghiệp đòi
hỏi quy mô của quỹ phải lớn, cho nên đã có sự tham gia đóng góp của chính
quyền địa phương và trung ương.
Bảo hiểm thất nghiệp được hiểu là một chế độ trong hệ thống các chế độ
bảo hiểm xã hội, có mục đích hỗ trợ thu nhập cho người lao động bị mất thu
nhập do thất nghiệp. Việc thực hiện BHTN nhằm hỗ trợ cho người lao động bị
mất việc làm, giúp họ có điều kiện học nghề, tạo cơ hội để người lao động tiếp
tục tham gia thị trường lao động thông qua việc tạo lập và sử dụng một quỹ tiền
tệ tập trung. Quỹ này được hình thành do có sự đóng góp của người lao động và

người sử dụng lao động, có sự hỗ trợ của Nhà nước, được sử dụng để trả trợ cấp
cho người thất nghiệp, cũng như tiến hành các biện pháp nhằm nhanh chóng
giúp người thất nghiệp tìm được việc làm mới. Khoản tiền trợ cấp trích từ quỹ
bảo hiểm thất nghiệp nhằm đảm bảo cuộc sống cho người lao động trong thời
gian mất việc làm được gọi là trợ cấp thất nghiệp.
Từ những phân tích trên đây có thể hiểu khái niệm BHTN như sau: Bảo
hiểm thất nghiệp là một biện pháp hỗ trợ người lao động trong nền kinh tế thị
trường. Bên cạnh việc hỗ trợ một khoản tài chính đảm bảo ổn định cuộc sống
cho người lao động trong thời gian mất việc thì mục đích chính của bảo hiểm
thất nghiệp là thông qua các hoạt động đào tạo nghề, tư vấn, giới thiệu việc
làm, sớm đưa những lao động thất nghiệp tìm được một việc làm mới thích hợp
và ổn định.
Theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội thì BHTN là sự đảm bảo, thay
thế, bù đắp một phần thu nhập của người lao động trong trường hợp bị mất việc


12

làm, đang có nhu cầu tìm việc làm, đồng thời có một số biện pháp để họ nhanh
chóng quay lại thị trường lao động
1.1.3. Các nguyên tắc của Bảo hiểm thất nghiệp
1.1.3.1. Bảo hiểm thất nghiệp kết hợp chế độ trợ cấp tạm thời với chế
độ giải quyết việc làm cho người lao động
Bảo hiểm thất nghiệp có hai chức năng cơ bản là trả trợ cấp thất nghiệp và
xúc tiến việc làm cho người lao động. Kết hợp hài hoà và đảm bảo thực hiện hai
chức năng này được coi là nguyên tắc cơ bản chỉ đạo mọi hoạt động của bảo
hiểm thất nghiệp.
Để đảm bảo thực hiện nguyên tắc này, bên cạnh việc quy định các mức trợ
cấp thất nghiệp, điều kiện và thời gian hưởng trợ cấp thất nghiệp nhằm hỗ trợ
thu nhập cho người lao động bị mất việc làm, bảo hiểm thất nghiệp còn phải

thực hiện các biện pháp nhằm tạo cơ hội cho người lao động tiếp tục tham gia
quan hệ lao động. Cung cấp thông tin về thị trường lao động, đào tạo nghề, giới
thiệu việc làm… là những biện pháp được bảo hiểm thất nghiệp trực tiếp triển
khai trong thực tế nhằm tạo cơ hội việc làm cho người lao động, hạn chế tỷ lệ
thất nghiệp trong xã hội.
1.1.3.2. Bảo hiểm thất nghiệp phải vừa bù đắp thu nhập, vừa tạo động
lực tích cực cho người thất nghiệp chủ động tìm cơ hội trở lại làm việc
Một trong các vai trò quan trọng của bảo hiểm thất nghiệp là hỗ trợ cuộc
sống cho người lao động khi bị mất thu nhập do thất nghiệp. Giống như các chế
độ bảo hiểm xã hội khác, quỹ bảo hiểm thất nghiệp phải chi trả cho người đủ
điều kiện thụ hưởng một khoản tiền trợ cấp thay lương khi họ ở trong trường
hợp được hưởng bảo hiểm thất nghiệp.
Khi xác định mức trợ cấp thất nghiệp, ngoài việc căn cứ vào khả năng chi
trả của quỹ bảo hiểm thất nghiệp, còn phải khuyến khích người lao động chủ
động tìm kiếm việc làm để thoát khỏi tình trạng thất nghiệp. Đây là điểm khác
trong việc xác định mức trợ cấp thất nghiệp so với các loại trợ cấp của bảo hiểm
xã hội thông thường. Nếu quy định mức trợ cấp thất nghiệp cao, thời hạn hưởng


13

trợ cấp kéo dài sẽ gây tâm lý trông chờ vào sự trợ giúp của bảo hiểm thất
nghiệp, chấp nhận tình trạng thất nghiệp để hưởng trợ cấp. Nhằm hạn chế tình
trạng này, thời hạn trợ cấp thất nghiệp phải được quy định hợp lý, vừa đủ thời
gian để người lao động tìm việc và học nghề mới hoặc nâng cao tay nghề; mức
trợ cấp hàng tháng vừa đủ đảm bảo cuộc sống tạm thời cho người lao động
nhưng vẫn buộc họ phải tích cực tìm việc làm, sẵn sàng làm việc khi được giới
thiệu để có thu nhập ở mức cao hơn, ổn định hơn so với khoản tiền trợ cấp của
bảo hiểm thất nghiệp.
1.1.3.3. Quỹ bảo hiểm thất nghiệp phải được hình thành theo nguyên

tắc ba bên cùng có trách nhiệm
Đối với người lao động và người sử dụng lao động, việc đóng góp vào quỹ
bảo hiểm thất nghiệp là nghĩa vụ bắt buộc, xuất phát từ tầm quan trọng và những
ý nghĩa to lớn mà bảo hiểm thất nghiệp đem lại cho các bên. Đây là sự cụ thể
hoá của nguyên tắc cùng nhau chia sẻ rủi ro khi thực hiện chế độ bảo hiểm thất
nghiệp. Với ưu thế của loại hình bảo hiểm bắt buộc, quỹ bảo hiểm thất nghiệp sẽ
có nguồn thu đều đặn và ổn định tính theo tỷ lệ phần trăm lương của người lao
động trích từ lương hàng tháng và doanh thu của các doanh nghiệp để chi trả cho
các trường hợp thụ hưởng bảo hiểm thất nghiệp, thực hiện các chức năng khác
của bảo hiểm thất nghiệp. Việc áp dụng hình thức bảo hiểm tự nguyện đối với
bảo hiểm thất nghiệp là không phù hợp do những bất cập của loại hình này như
nguồn thu không thường xuyên do công việc của người lao động không ổn định,
các trường hợp chi trả tăng do nguy cơ mất việc làm nguy cơ mất việc làm của
đối tượng tham gia bảo hiểm tự nguyện cao. Kết quả thu sẽ không đủ chi và quỹ
bảo hiểm thất nghiệp sẽ mất cân đối nghiêm trọng. Vì vậy, nguyên tắc chung
của quỹ bảo hiểm thất nghiệp là phải đảm bảo nghĩa vụ đóng góp của người lao
động và người sử dụng lao động theo hình thức bắt buộc.
Bên cạnh nghĩa vụ đóng góp bắt buộc của các bên trong quan hệ lao động,
nhà nước cũng cần có sự hỗ trợ cần thiết cho hoạt động của bảo hiểm thất
nghiệp. Sự hỗ trợ này có thể được thực hiện dưới dạng các khoản tiền cố định


14

được chuyển từ ngân sách nhà nước vào quỹ bảo hiểm thất nghiệp theo định kỳ
hoặc có thể là sự hỗ trợ nhất thời khi quỹ bảo hiểm thất nghiệp mất cân đối thu
chi tài chính. Việc đóng góp của nhà nước không đơn thuần chỉ mang ý nghĩa xã
hội mà còn liên quan đến trách nhiệm chung khi để xảy ra tình trạng thất nghiệp
do những nguyên nhân khách quan như suy thoái kinh tế, khủng hoảng xã hội
hay lạm phát… Ngoài ra, đảm bảo một lượng kết dư cần thiết trong quỹ bảo

hiểm thất nghiệp còn giúp nhà nước chủ động về tài chính để giải quyết vấn đề
thất nghiệp
1.2. Khái niệm, Nội dung Pháp luật Bảo hiểm thất nghiệp
1.2.1. Khái niệm pháp luật Bảo hiểm thất nghiệp
Pháp luật BHTN là tổng thể các quy phạm pháp luật quy định việc đóng
góp và sử dụng quỹ BHTN, chi trả trợ cấp thất nghiệp để bù đắp thu nhập cho
người lao động bị mất việc làm và thực hiện các biện pháp đưa người lao động
trở lại làm việc.
Giống như các chế độ bảo hiểm xã hội khác, bảo hiểm thất nghiệp cũng
xuất phát từ quan hệ lao động, có mục đích bù đắp thu nhập cho người lao động.
Bên cạnh đó, bảo hiểm thất nghiệp còn có một số điểm riêng như sau:
- Thứ nhất, việc thực hiện chi trả trợ cấp thất nghiệp luôn được gắn với vấn
đề giải quyết việc làm cho người lao động. Bảo hiểm thất nghiệp do đó vừa có
chức năng hỗ trợ khó khăn cho người thất nghiệp khi tạm thời mất thu nhập vừa
có chức năng xúc tiến những hoạt động tìm kiếm và tạo việc làm cho người thất
nghiệp.
- Thứ hai, bảo hiểm thất nghiệp không chỉ thực hiện chi trả trợ cấp thất
nghiệp mà còn thực hiện các biện pháp khác để đưa người lao động trở lại thị
trường lao động. Cụ thể như: hỗ trợ học nghề, tư vấn giới thiệu việc làm, đóng
góp bảo hiểm y tế cho người lao động trong thời gian bị thất nghiệp. Do đó, cơ
quan thựchiện bảo hiểm thất nghiệp vừa có trách nhiệm nhận đăng ký thất
nghiệp, kiểm tra các điều kiện của người lao động trước khi trả trợ cấp thất
nghiệp, vừa phải kịp thời nắm bắt các thông tin về thị trường lao động để giới
thiệu việc làm, đào tạo nghề phù hợp cho người thất nghiệp. Đây là điểm khác


15

biệt biệt của hoạt động quản lý quản lý bảo hiểm thất nghiệp so với các loại hình
bảo hiểm xã hội khác.

Thứ ba, đối tượng áp dụng chế độ bảo hiểm thất nghiệp là những người
trong độ tuổi lao động, có sức lao động nhưng bị mất việc làm, tạm thời không
có thu nhập và sẵn sàng trở lại làm việc. Như vậy, đối tượng hưởng bảo hiểm
thất nghiệp là những người lao động bị chấm dứt quan hệ lao động và vẫn có
khả năng lao động. Còn đối tượng của các chế độ bảo hiểm xã hội khác là những
người lao động vẫn đang tồn tại quan hệ lao động (chế độ trợ cấp ốm đau, thai
sản); hoặc chấm dứt quan hệ lao động do không có khả năng tiếp tục làm việc
(hưu trí, tử tuất).
Thứ tư, Bảo hiểm thất nghiệp không chỉ bó hẹp trong việc thực hiện các
nghiệp vụ bảo hiểm xã hội thuần tuý mà còn phải giúp người lao động tìm kiếm
việc làm và học nghề để tạo cơ hội tìm một công việc khác. Đây là là hai chức
năng cơ bản của bảo hiểm thất nghiệp và cũng là điểm khác biệt cơ bản của bảo
hiểm thất nghiệp so với các chế độ bảo hiểm xã hội khác.
Thứ năm, việc xác định điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp khó khăn hơn
so với các chế độ BHXH. Sở dĩ như vậy vì ranh giới để phân định giữa có việc
làm và không có việc làm, giữa có thu nhập và không có thu nhập không rõ
ràng, khó xác định và kiểm tra trong thực tế.[11, tr 211 – 213]
1.2.2. Nội dung Pháp luật Bảo hiểm thất nghiệp
Cùng với các chế độ bảo hiểm xã hội khác, BHTN đã góp phần ổn định đời
sống của người lao động khi họ bị mất việc làm, đồng thời thực hiện các biện
pháp hỗ trợ để thúc đẩy quá trình đưa họ trở lại thị trường lao động. Nội dung
của pháp luật BHTN thường gồm các quy định về đối tượng áp dụng; điều kiện
hưởng, mức hưởng và thời gian hưởng BHTN; các chế độ BHTN; quản lý và sử
dụng quỹ BHTN …
Hiện nay trên thế giới có 79 quốc gia và vùng lãnh thổ áp dụng chính sách
BHTN như Anh (bắt đầu thực hiện năm 1911), Mỹ (1935), Italia (1937), Trung
quốc (1986)…Tuy nhiên, quan điểm của các nước về vị trí của chế độ bảo hiểm


16


thất nghiệp trong hệ thống pháp luật quốc gia không hoàn toàn giống nhau. Đa
số các nước cho rằng BHTN là một bộ phận của hệ thống BHXH và được quy
định trong Luật bảo hiểm xã hội của quốc gia (Anh, Mỹ, Canađa, Thuỵ Điển…).
Một số ít các quốc gia (như Ba Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc…) xuất phát từ quan
điểm không coi BHTN là biện pháp giải quyết hậu quả thất nghiệp một cách bị
động, nhấn mạnh vai trò chủ động của BHTN trong việc thúc đẩy sự chuyển
đổi cơ cấu ngành nghề, giảm thất nghiệp, tìm và tạo việc làm cho người lao
động…đã ban hành luật về việc làm, trong đó có quy định về trợ cấp thất
nghiệp. Tại các nước này, quy định về BHTN không thuộc hệ thống pháp luật
về BHXH mà là một chế định trong hệ thống pháp luật về việc làm.
Ở góc độ pháp luật quốc tế, vấn đề đảm bảo cuộc sống cho người thất
nghiệp đã được ILO đề cập đến trong các công ước:
- Công ước số 44 về về bảo đảm tiền trợ cấp cho những người thất nghiệp
không tự nguyện được Hội nghị toàn thể của Tổ chức lao động quốc tế thông
qua ngày 24/6/1934.
- Công ước số 102 (gọi tắt là “ Công ước về An toàn xã hội (quy phạm tối
thiểu), 1952) được Hội nghị toàn thể của Tổ chức Lao động quốc tế thông qua
ngày 28/6/1952
- Công ước số 168 được Hội nghị toàn thể của ILO thông qua ngày
21/6/1988
Từ các văn bản của ILO, pháp luật về BHTN ở một số nước trên thế giới,
có thể thấy chế độ bảo hiểm thất nghiệp gồm các nội dung cơ bản sau:
* Đối tượng tham gia/ hưởng BHTN
Đối tượng của BHTN là mối quan tâm hàng đầu của Tổ chức Lao động
quốc tế cũng như các quốc gia trên thế giới. ILO đã có nhiều công ước quy định
rõ đối tượng áp dụng bảo hiểm thất nghiệp. Trong Công ước số 44 quy định áp
dụng BHTN cho tất cả những người làm việc được trả tiền lương hoặc tiền công.
Khi cần thiết pháp luật của mỗi quốc gia có thể quy định những ngoại lệ đối với
những người giúp việc gia đình, làm việc tại nhà, những người làm dịch vụ công



17

ích của Nhà nước, những người lao động chưa đến tuổi quy định, những người
đã đến tuổi nghỉ hưu, có thu nhập đảm bảo tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Theo
công ước này những người thuộc diện được bảo hiểm bảo hiểm phải đảm bảo
các yếu tố sau: có khả năng làm việc và sẵn sàng làm việc; đã đăng ký tìm việc
làm tại một cơ sở dịch vụ việc làm công cộng hoặc các cơ sở khác có thẩm
quyền; và có thể quy định ngoại lệ đối với số lao động khi có điều kiện.
Tiếp đến Công ước số 102 năm 1952 quy định những đối tượng được
hưởng trợ cấp thất nghiệp bao gồm: Những người làm công ăn lương được quy
định, tổng số ít nhất chiếm 50% toàn bộ những người làm công ăn lương; Hoặc
mọi người thường trú mà phương tiện sinh sống trong khi trường hợp thất
nghiệp xảy ra không vượt quá giới hạn về mức trợ cấp được quy định tại Điều
67 của Công ước; Hoặc, nếu các quốc gia đã có bản tuyên bố về bảo lưu tạm
thời điều khoản trợ cấp thất nghiệp phải bao gồm những người làm công ăn
lương mà tổng số ít nhất chiếm 50% toàn bộ những người làm công ăn lương
làm việc trong các cơ sở công nghiệp đang sử dụng 20 người trở lên.
Từ hai Công ước trên, có thể thấy:
- Đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp là những người làm công ăn
lương. Tuy nhiên tuỳ vào điều kiện kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia có thể mở
rộng thêm đối tượng
- Đối tượng hưởng bảo hiểm thất nghiệp là những người đã tham gia
BHTN, có khả năng làm việc và sẵn sàng làm việc
Trước tình hình thất nghiệp trên thế giới ngày một gia tăng, đặc biệt là tầng
lớp thanh niên, những người lần đầu tìm kiềm việc làm, các nhà kinh tế của tổ
chức ILO cho rằng: các chính sách kinh tế xã hội cần đạt tới sự tăng trưởng bền
vững, ổn định, không lạm phát và có những biện pháp mềm dẻo để dễ dàng
thích ứng với những thay đổi của nền kinh tế, tạo được nhiều việc làm cho

người lao động nhằm chống lại tình trạng thất nghiệp ngoài mong muốn của
người lao động. Công ước số 168 “ Công ước về xúc tiến việc làm chống lại
thất nghiệp” được ILO thông qua năm 1988 nhằm bổ sung, hoàn chỉnh các


18

Công ước và khuyến nghị trước đó trong lĩnh vực việc làm và chống thất
nghiệp. Điều 11 quy định “ Những người được bảo vệ sẽ gồm những người làm
công ăn lương, kể cả những người làm công ăn lương khu vực công cộng và
những người học nghề. [31]
* Điều kiện, mức trợ cấp và thời gian hưởng hưởng trợ cấp BHTN
- Điều kiện hưởng trợ cấp thất nghiệp:
Rủi ro thuộc phạm vi bảo hiểm thất nghiệp là rủi ro nghề nghiệp, rủi ro việc
làm. Người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp bị mất việc làm sẽ được
hưởng trợ cấp thất nghiệp. Trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp là mức trợ cấp thay tiền
lương cho người mất việc làm để họ ổn định cuộc sống và có điều kiện tham gia
vào thị trường lao động.
Trên cơ sở quy định của các Công ước quốc tế, các quốc gia thành viên quy
định điều kiện để hưởng trợ cấp BHTN phù hợp với điều kiện nước mình.
Thông thường các điều kiện để người lao động được hưởng trợ cấp thất nghiệp
bao gồm: Người tham gia BHTN phải nộp phí bảo hiểm trong một thời gian
nhất định và tham gia đóng bảo hiểm trong một thời gian tối thiểu; Phải đăng ký
thất nghiệp, đăng ký tìm việc làm tại cơ quan lao động có thẩm quyền do nhà
nước quy định; Thất nghiệp không phải do lỗi của người lao động: trong trường
hợp này người lao động phải chứng minh được việc thất nghiệp không do lỗi
của bản thân họ; Có sổ bảo hiểm thất nghiệp
- Mức trợ cấp BHTN
Về nguyên tắc, mức trợ cấp BHTN phải thấp hơn mức thu nhập của người
lao động khi đang làm việc nhưng vẫn phải bảo đảm đời sống tối thiểu cho

người thất nghiệp. Công ước 102 quy định mức trợ cấp thất nghiệp là tỉ lệ % so
với tổng số tiền lương của một người lao động thất nghiệp có gánh nặng gia đình
giống như người được hưởng mẫu (người thụ hưởng mẫu là người có vợ và hai
con được hưởng tỷ lệ trợ cấp thất nghiệp là 45%)
Tại Nhật mức hưởng từ 60% đến 80% mức tiền công ngày (tỷ lệ này sẽ cao
hơn đối với người có thu nhập thấp; 50% đến 80% cho người thất nghiệp trong


19

khoảng độ tuỏi từ 60 đến 64. Thành phố Bắc Kinh (Trung Quốc) mức hưởng
bảo hiểm thất nghiệp được cấp phát từ 70% đến 90% mức lương tối thiểu trong
thành phố. Cộng hoà Séc quy định trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp được tính bằng
50% tiền lương tháng trong suốt 3 tháng làm việc đầu tiên; 40% cho 3 tháng tiếp
theo; 60 % trong trường hợp ngừơi lao động phải đào tạo lại. [31]
-Thời gian hưởng trợ cấp BHTN
Thời gian hưởng trợ cấp BHTN tối đa phụ thuộc chủ yếu vào yếu tố tài
chính, vào quỹ bảo hiểm và thời gian tham gia BHTN, ngoài ra còn phụ thuộc
vào các điều kiện kinh tế - xã hội khác.
Công ước số 102 của ILO quy định: “việc chi trả trợ cấp thất nghiệp có thể
giới hạn ở 13 tuần trong thời kỳ 12 tháng, nếu người được bảo vệ là người làm
công ăn lương; 26 tuần trong thời kỳ 12 tháng, nếu người được bảo vệ là người
thường trú mà các phương tiện sinh sống trong khi trường hợp bảo vệ xảy ra
không vượt ra không vượt quá giới hạn quy định”
Còn theo Công ước số 168 của ILO đã bổ sung Công ước 102, các quốc gia
thành viên có thể giới hạn thời gian chi trả trợ cấp thất nghiệp, hoặc tới 39 tuần
cho mỗi kỳ thất nghiệp, hoặc tới 39 tuần trong mỗi giai đoạn 24 tháng. Nếu quốc
gia thành viên đưa ra bản tuyên bố bảo lưu quy định này, thì thời gian chi trả trợ
cấp có thể giới hạn tới một tuần trong mỗi thời kỳ 13 tháng, hoặc trung bình 13
tuần nếu pháp luật nước đó quy định rằng thời gian đầu trả trợ cấp sẽ thay đổi

theo độ dài thời gian làm việc (Điều 19).
Trên cơ sở quy định của Công ước quốc tế, các nước quy định thời gian trả
trợ cấp là khác nhau. Thông thường ở các nước, thời hạn hưởng khoảng từ 12
tuần đến 52 tuần lễ như: Cộng hoà Liên bang Đức 13 tuần, Anh 24 tuần, Italia
180 ngày…Tuy nhiên, cũng có một số nước quy định thời gian để hưởng trợ cấp
bảo hiểm thất nghiệp rất chặt chẽ. Chẳng hạn như: Trung Quốc quy định: trợ cấp
bảo hiểm thất nghiệp sẽ được hưởng trong vòng 12 tháng nếu người bị thất
nghiệp đã đóng góp vào quỹ bảo hiểm thất nghiệp trong thời gian từ 1 đến 5
năm; những người đóng bảo hiểm thất nghiệp từ 5 đến 10 năm thì được hưởng


20

trợ cấp thất nghiệp tối đa là 18 tháng; những người đóng bảo hiểm thất nghiệp
trên 10 năm thì sẽ được nhận tối đa là 24 tháng. Khi người lao động lại bị thất
nghiệp sau khi đã tìm được việc làm thì thời gian đóng góp cho quỹ sẽ được tính
toán lại trên cơ sở xem xét khoảng thời gian họ đã nhận bảo hiểm thất nghiệp
trước đây, tuy nhiên mức tối đa cũng không được vượt quá 24 tháng. [31]
* Quỹ bảo hiểm thất nghiệp
Quỹ bảo hiểm thất nghiệp là một quỹ tiền tệ tập trung được hình thành từ
sự đóng góp của các bên tham gia quan hệ BHTN và dùng để chi trả trợ cấp cho
người lao động khi bị thất nghiệp theo quy định của pháp luật nhằm đưa người
thất nghiệp sớm trở lại thị trường lao động. Pháp luật điều tiết việc thành lập quỹ
bảo hiểm thất nghiệp bằng hai quy định: những quy định về đóng bảo hiểm và
những quy định về quản lý quỹ bảo hiểm. Đa số các nước đang phát triển, việc
lập quỹ bảo hiểm thất nghiệp gồm 3 bên: người sử dụng lao động, người lao
động và nhà nước. Tuỳ theo điều kiện kinh tế - xã hội của từng nước mà mỗi
quốc gia có quy định về mức độ đóng góp và cách thức đóng góp vào quỹ bảo
hiểm. Hầu hết các quốc gia quy định mức đóng góp BHTN trong luật tài chính
để đảm bảo an toàn và chắc chắn cho quỹ hoạt động. Mức độ đóng góp vào quỹ

BHTN của các nước trên thế giới là không giống nhau. Ở Đức, người lao động
và người sử dụng đóng cùng một mức là 3,25%, nhà nước sẽ cấp bù khi Quỹ
không đủ để chi trả. Ở Trung Quốc, người lao động đóng 1%, người sử dụng lao
động đóng 2% và trong trường hợp thiếu thì Nhà nước cấp bù. Tỷ lệ đóng bảo
hiểm thất nghiệp phụ thuộc vào nội dung sử dụng quỹ BHTN. Nếu cố định mức
hưởng và thời gian hưởng thì tỷ lệ đóng BHTN sẽ phụ thuộc trực tiếp vào tỷ lệ
thất nghiệp.
Qua kinh nghiệm thực hiện BHTN ở các nước phát triển cũng như đang
phát triển, có thể thấy BHTN là một nhánh của chế độ bảo hiểm xã hội nhưng
chế độ BHTN được tạo thành qũy riêng và gắn bó chặt chẽ với các biện pháp thị
trường lao động, việc quản lý quỹ BHTN thường do Bộ Lao động quản lý.
Để phù hợp với các Công ước của ILO, đảm bảo tính thống nhất và đồng
bộ của hệ thống pháp luật lao động, phù hợp với mục đích của BHTN, theo quy


×