Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Nguyên tắc pháp chế trong thực hành quyền công tố, kiểm soát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự của viện kiểm sát nhân dân ở tỉnh nghệ an hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (587.49 KB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN THÚY HẰNG

NGUYÊN TẮC PHÁP CHẾ TRONG THỰC HÀNH
QUYỀN CÔNG TỐ, KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP
TRONG LĨNH VỰC HÌNH SỰ CỦA VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN Ở TỈNH NGHỆ AN HIỆN NAY

Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật
Mã số: 60 38 01 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. Nguyễn Minh Đoan

HÀ NỘI - 2013


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung
thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng
được công bố trong bất cứ công trình nào.

Tác giả luận văn




LỜI CẢM ƠN
Tác giả xin gửi lời cảm ơn trân trọng và sâu sắc nhất đến Phó
Giáo sư, Tiến sĩ, Thầy giáo Nguyễn Minh Đoan - người hướng dẫn
thực hiện luận văn này, đến các thầy cô giáo của Trường Đại học
Luật Hà Nội, đến gia đình và bạn bè - những người đã giúp đỡ hết
sức mình cho luận văn này hoàn thành!
Tác giả luận văn


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

Cơ quan điều tra

HĐTP

hoạt động tư pháp

KSND


Kiểm sát nhân dân

KSV

Kiểm sát viên

NXB

nhà xuất bản

QCT

quyền công tố

TA

Tòa án

TAND

Tòa án nhân dân

THQCT

thực hành quyền công tố

VKS

Viện kiểm sát


VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

XHCN

xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 1

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài............................................................. 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ................................................................................. 2
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài .................................................................................... 5
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài ........................................................................ 6
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài................................................... 6
6. Cơ cấu của luận văn ............................................................................................. 7
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC PHÁP CHẾ
TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG
TƯ PHÁP TRONG LĨNH VỰC HÌNH SỰ CỦA VKSND ...................................... 8

1.1. Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam với chức năng thực hành quyền công
tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự ......................................... 8
1.2. Khái niệm, đặc điểm của nguyên tắc pháp chế trong thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự của VKSND .......... 16
1.3. Những nội dung cơ bản của nguyên tắc pháp chế trong thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự của VKSND .......... 21
1.4. Các yếu tố bảo đảm nguyên tắc pháp chế trong thực hành quyền công tố

và kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự của VKSND ....................... 25
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC PHÁP CHẾ
TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG
TƯ PHÁP TRONG LĨNH VỰC HÌNH SỰ CỦA VKSND Ở TỈNH NGHỆ AN ..... 29

2.1 Những nhân tố có ảnh hưởng đến việc thực hiện nguyên tắc pháp chế
trong thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt đông tư pháp trong lĩnh vực
hình sự của VKSND ở tỉnh Nghệ An ...................................................................... 29
2.2. Những thành tích, ưu điểm đã đạt được và nguyên nhân ................................. 32
2.3. Những hạn chế, thiếu sót và nguyên nhân ........................................................ 38


CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM NGUYÊN TẮC
PHÁP CHẾ TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ, KIỂM SÁT HOẠT
ĐỘNG TƯ PHÁP TRONG LĨNH VỰC HÌNH SỰ CỦA VKSND Ở TỈNH
NGHỆ AN ................................................................................................................. 49

3.1. Phương hướng bảo đảm nguyên tắc pháp chế trong thực hành quyền công
tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự của VKSND ở tỉnh
Nghệ An ................................................................................................................... 49
3.2. Giải pháp bảo đảm nguyên tắc pháp chế trong thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự của VKSND ở tỉnh Nghệ
An ............................................................................................................................. 52
KẾT LUẬN CHUNG............................................................................................. 69


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

Công cuộc đổi mới của đất nước ta đã đi được chặng đường hơn hai mươi
lăm năm, chặng đường đầy cam go, thử thách, đến nay đã đạt được những thành
quả rất đáng tự hào. Bộ mặt đất nước, đời sống dân sinh được đổi thay từng
ngày. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã và đang
đứng vững trước những thử thách thời đại, dần từng bước đi lên xây dựng chủ
nghĩa xã hội dựa trên nền tảng một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa (XHCN).
Thực tế đã chứng minh rằng, muốn thành công trong quá trình tăng
trưởng, hội nhập và phát triển, nhất thiết cần phải có sự phát huy đồng bộ của
Nhà nước trên cả ba lĩnh vực: Lập pháp, hành pháp và tư pháp. Pháp luật là công
cụ hữu hiệu để Nhà nước quản lý xã hội. Ở nước ta, quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp, bảo đảm quá trình thực hiện quyền lực nhà nước
- quyền lực nhân dân một cách đúng đắn. Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) là
một trong các hệ thống cơ quan cấu thành nên bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam, có chức năng thực hành quyền công tố (THQCT) và
kiểm sát hoạt động tư pháp (HĐTP). Cùng với các cơ quan khác trong bộ máy
nhà nước, thời gian qua ngành Kiểm sát nhân dân (KSND) đã không ngừng
trưởng thành và lớn mạnh, phát huy được vị trí, vai trò và thực hiện tốt chức
năng của mình, góp phần vào công cuộc bảo vệ nền pháp chế XHCN.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, công tác THQCT, kiểm
sát HĐTP trong lĩnh vực hình sự còn bộc lộ nhiều hạn chế, chưa đáp ứng
được yêu cầu của xã hội cũng như đòi hỏi của công cuộc cải cách tư pháp
hiện nay. Vẫn còn xảy ra tình trạng bỏ lọt tội phạm hoặc các trường hợp oan
sai, phải đình chỉ điều tra do không phạm tội; nhiều trường hợp vi phạm


2

pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong

hoạt động điều tra, truy tố, xét xử án hình sự chưa được phát hiện, khắc
phục, xử lý kịp thời. Trong đó, một phần nguyên nhân là do công tác
THQCT, kiểm sát HĐTP trong lĩnh vực hình sự của Viện kiểm sát (VKS) có
nơi, có lúc chưa được thực hiện chặt chẽ và có hiệu quả. Những hạn chế đó
một mặt ảnh hưởng trực tiếp đến danh dự, nhân phẩm và các quyền cơ bản
của công dân, mặt khác làm ảnh hưởng đến uy tín của ngành kiểm sát, các cơ
quan tư pháp nói chung và ở tỉnh Nghệ An nói riêng.
Có thể thấy, đòi hỏi của việc thực hiện nguyên tắc pháp chế trong
THQCT và kiểm sát HĐTP trong lĩnh vực hình sự của VKSND ở tỉnh Nghệ
An là cấp thiết, nhằm để ngành kiểm sát hoàn thành tốt chức năng của mình,
xứng đáng là một công cụ sắc bén của Đảng và Nhà nước trong việc bảo vệ nền
pháp chế XHCN. Tuy nhiên, hiểu về nguyên tắc này như thế nào, thực hiện
nguyên tắc trên cơ sở lý luận và thực tiễn như thế nào, từ đó đề ra những giải
pháp gì nhằm bảo đảm thực hiện nguyên tắc - đó là những vấn đề cần phải
được phân tích thấu đáo, với cách nhìn toàn diện, đa chiều.
Vì lý do trên, tôi chọn đề tài: “Nguyên tắc pháp chế trong thực hành
quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự của
VKSND ở tỉnh Nghệ An hiện nay”, làm luận văn thạc sĩ luật, với mong
muốn góp phần nâng cao chất lượng, bảo đảm pháp chế trong hoạt động của
ngành kiểm sát Nghệ An, cũng chính là quê hương và là nơi tác giả đang
công tác.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp chế là phạm trù pháp lý cơ bản, có nội dung phong phú bao quát
toàn bộ đời sống chính trị, kinh tế, xã hội. Tăng cường pháp chế XHCN là
chủ trương nhất quán của Đảng và là nguyên tắc hiến định của Nhà nước ta.
Vì vậy pháp chế đã trở thành một nội dung khoa học quan trọng trong các


3


giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và Pháp luật của các trung tâm đào tạo
Chính trị - Pháp lý của Nhà nước ta, như: Học viện Chính trị - Hành chính
quốc gia Hồ Chí Minh, Đại học Quốc gia Hà Nội (khoa Luật), Đại học Luật
Hà Nội…. Đồng thời, đó cũng là vấn đề thu hút được đông đảo các học giả
trong nước quan tâm nghiên cứu.
Các công trình nghiên cứu về pháp chế có thể chia thành hai nhóm:
nhóm một là các công trình nghiên cứu lý luận chung về pháp chế và nhóm
hai là các công trình nghiên cứu pháp chế trong từng lĩnh vực cụ thể.
Những công trình khoa học nghiên cứu về pháp chế thuộc nhóm một đề
cập đến những vấn đề như: khái niệm, nguyên tắc, nội dung, bản chất, các
mối quan hệ của pháp chế, các yêu cầu, bảo đảm để xây dựng và củng cố nền
pháp chế ở nước ta; hoặc phân tích pháp chế trên các khía cạnh, góc độ khác
nhau để làm rõ hơn những luận điểm của chủ nghĩa Mác - Lê Nin về mục
tiêu, vai trò, cơ sở, bản chất, các thuộc tính của pháp chế. Tiêu biểu là một số
công trình sau:
- Hồ Chủ tịch và pháp chế, Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Hội Luật gia
Việt Nam, 1985, 266 trang. Sách giới thiệu những nội dung tư tưởng và yêu
cầu của pháp chế của Hồ Chí Minh;
- Võ Khánh Vinh, Pháp chế xã hội chủ nghĩa - một phương thức thể
hiện và thực hiện quyền lực của nhân dân, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số
1/1991;
- Hoàng Văn Hảo, Vấn đề giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân
chủ và pháp chế trong quá trình đổi mới ở nước ta, Tạp chí Nhà nước và pháp
luật, số 2/1992;
- Đào Trí Úc, Tăng cường tính thống nhất của pháp chế, nghiêm chỉnh
tuân theo và chấp hành pháp luật, Tạp chí Cộng sản, số 3/1995.


4


- Đỗ Ngọc Hải (Học viện Chính trị - Hành chính khu vực I), Bàn về
pháp chế XHCN trong điều kiện xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp
quyền XHCN Việt nam.
- Hoàng Thị Kim Quế, Chế độ pháp chế thống nhất, hợp lý và áp dụng
chung, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 9 (162) năm 2005.
Những công trình nghiên cứu thuộc nhóm hai dựa trên lý luận chung về
pháp chế, từ đó xây dựng khái niệm, nội dung cụ thể của pháp chế trong từng
lĩnh vực. Bằng cách đó các công trình nghiên cứu thuộc nhóm này đã làm cho
quan niệm về pháp chế thêm phong phú, thể hiện sinh động trong từng lĩnh
vực của đời sống xã hội, đồng thời làm rõ mối liên hệ giữa cái chung và cái
đặc thù của phạm trù pháp chế. Có rất nhiều công trình nghiên cứu pháp chế
trên từng lĩnh vực quản lý nhà nước như: Pháp chế trong thi hành án, pháp chế
trong hợp đồng kinh tế, pháp chế doanh nghiệp, pháp chế trong bảo vệ và phát
triển rừng, pháp chế trong bảo tồn di tích, di sản văn hoá, pháp chế trong đất
đai... Trực tiếp liên quan đến đề tài có các công trình sau:
+ Luận văn Thạc sĩ luật học của Bùi Thanh Hằng về "Tăng cường pháp
chế trong giải quyết án dân sự ở nước ta hiện nay", Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh năm 2003.
+ Luận văn Thạc sĩ luật học của Phương Lan về "Tăng cường pháp chế
XHCN trong hoạt động giải quyết các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân
cấp huyện ở Hà Nội", Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh năm 2004.
+ Luận văn Thạc sĩ luật học của Trịnh Duy Tám về "Áp dụng pháp luật
trong thực hành quyền công tố ở giai đoạn điều tra của VKSND", Học viện
Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh năm 2005.
+ Luận văn Thạc sĩ luật học của Đỗ Văn Phương về "Pháp chế XHCN
trong kiểm sát điều tra các tội phạm về trật tự xã hội ở tỉnh Thanh Hóa ", Học
viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh năm 2008.


5


+ Luận văn Thạc sĩ luật học của Hoàng Tùng về "Chất lượng thực hành
quyền công tố và kiểm sát xét xử sơ thẩm của Kiểm sát viên theo yêu cầu cải
cách tư pháp trên địa bàn tỉnh Bắc Giang", Học viện Chính trị quốc gia Hồ
Chí Minh năm 2008.
Và nhiều công trình khoa học của nhiều tác giả khác.
Như vậy, vấn đề pháp chế trong một số lĩnh vực cụ thể và hoạt động
của ngành kiểm sát đã được nhiều nhà khoa học nghiên cứu và làm sáng tỏ.
Tuy nhiên, tại địa bàn tỉnh Nghệ An, vấn đề pháp chế trong THQCT và kiểm
sát HĐTP trong lĩnh vực hình sự của Viện kiểm sát nhân dân chưa có một
công trình nào nghiên cứu chuyên sâu. Từ tình hình nghiên cứu trên cho
thấy đề tài “Nguyên tắc pháp chế trong thực hành quyền công tố, kiểm
sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự của Viện kiểm sát nhân
dân ở tỉnh Nghệ An hiện nay” không trùng lặp với bất kỳ công trình nào
đã được công bố. Mặc dù vậy, các công trình khoa học, các bài viết trên đây
là những tài liệu tham khảo có giá trị để tác giả nghiên cứu và hoàn thiện đề
tài luận văn của mình.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về nguyên tắc pháp
chế trong THQCT và kiểm sát HĐTP trong lĩnh vực hình sự, thực trạng thực
hiện nguyên tắc nhằm tạo cơ sở đề xuất và luận chứng các phương hướng,
giải pháp bảo đảm pháp chế trong lĩnh vực này của VKSND ở tỉnh Nghệ An
hiện nay. Hoạt động THQCT và kiểm sát HĐTP trong lĩnh vực hình sự của
VKSND được tiến hành ở các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử và thi hành
án. Trong đề tài này, tác giả chỉ nghiên cứu các vấn đề trên trong phạm vi các
giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử.
Luận văn giới hạn việc khảo sát thực tiễn từ năm 2008 đến nay, tại địa
bàn tỉnh Nghệ An.



6

4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa
Mác Lê Nin. Các phương pháp nghiên cứu được áp dụng gồm: phương pháp
tổng hợp tài liệu, phân tích để nghiên cứu các vấn đề lý luận; phương pháp
thống kê, tổng hợp, so sánh để thu thập, phân tích, đánh giá số liệu. Ngoài ra,
việc thực hiện luận văn liên quan đến thực tiễn hoạt động nghiệp vụ nên luận
văn còn sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp chứng minh thông qua
khảo sát tại VKSND tỉnh Nghệ An để có số liệu cụ thể.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
5.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề
lý luận chung và thực trạng thực hiện nguyên tắc pháp chế trong THQCT và
kiểm sát HĐTP trong lĩnh vực hình sự của VKSND ở tỉnh Nghệ An, từ đó đề
xuất các phương hướng, giải pháp nhằm bảo đảm pháp chế trong lĩnh vực này
của VKSND ở tỉnh Nghệ An trong thời gian tới.
5.2. Nhiệm vụ
Nhằm thực hiện mục đích nêu trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận chung về nguyên tắc pháp
chế trong THQCT và kiểm sát HĐTP trong lĩnh vực hình sự của VKSND ở
tỉnh Nghệ An.
- Đánh giá thực trạng thực hiện nguyên tắc pháp chế trong THQCT và
kiểm sát HĐTP trong lĩnh vực hình sự thông qua việc phân tích kết quả hoạt
động của VKSND ở tỉnh Nghệ An trong 5 năm (từ năm 2008 đến nay).
- Đề xuất những phương hướng và giải pháp nhằm bảo đảm pháp chế
trong THQCT và kiểm sát HĐTP trong lĩnh vực hình sự của VKSND ở tỉnh
Nghệ An.



7

6. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận về nguyên tắc pháp chế trong THQCT
và kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự của VKSND.
Chương 2: Thực trạng thực hiện nguyên tắc pháp chế trong THQCT và
kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự của VKSND ở tỉnh Nghệ
An.
Chương 3: Phương hướng, giải pháp bảo đảm nguyên tắc pháp chế
trong thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực
hình sự của VKSND ở tỉnh Nghệ An.


8

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC PHÁP CHẾ
TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ VÀ KIỂM SÁT HOẠT ĐỘNG
TƯ PHÁP TRONG LĨNH VỰC HÌNH SỰ CỦA VKSND

1.1. Viện kiểm sát nhân dân ở Việt Nam với chức năng thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự
1.1.1. Sơ lược lịch sử hình thành, vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn
của VKSND trong bộ máy nhà nước ở Việt Nam
Tổ chức và hoạt động của VKSND ở nước ta trải qua nhiều giai đoạn phát
triển với những mô hình, phương thức tổ chức khác nhau nhằm đáp ứng yêu cầu
của từng giai đoạn cách mạng, đồng thời cũng phản ánh điều kiện khách quan,
chủ quan trong tổ chức bộ máy nhà nước ta.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, khai sinh ra nước Việt

Nam dân chủ cộng hòa, nhà nước công - nông đầu tiên ở Đông Nam Á. Ngay
từ những ngày đầu xây dựng đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương
xây dựng các cơ quan chuyên trách có nhiệm vụ trấn áp bọn phản cách mạng,
trừng trị và phòng ngừa các tội phạm hình sự nhằm mục tiêu bảo vệ Nhà
nước, bảo vệ các quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân. Tiền thân của
VKS là cơ quan Công tố thuộc Tòa án (TA), được hình thành và dần hoàn
thiện theo thời gian.
Trong giai đoạn 1958 đến 1959, chúng ta bắt đầu thực hiện mô hình
công tố trực thuộc Chính phủ. Mô hình tổ chức công tố trực thuộc Chính phủ ở
nước ta tồn tại rất ngắn (1958 - 1959) và có thể nói chỉ tồn tại trên pháp lý như
một bước quá độ về tổ chức theo hướng tạo thành một hệ thống riêng, độc lập
trong bộ máy nhà nước. Giai đoạn từ 1959 đến nay là giai đoạn thực hiện mô
hình VKSND như hiện nay.


9

Ngày 25/12/2001, tại kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa X đã thông qua
Nghị quyết về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992, thể
chế hóa chủ trương, quan điểm cải cách bộ máy nhà nước của Đảng, trong đó
Điều 137 quy định: "Viện kiểm sát nhân dân thực hiện chức năng thực hành
quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp
và pháp luật" [17, tr.97]. Trên cơ sở đó, Điều 1 Luật tổ chức VKSND năm
2002 quy định: “Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố và kiểm sát
các hoạt động tư pháp theo quy định của Hiến pháp và pháp luật” [18, tr.7-8].
Như vậy, VKSND là một trong các hệ thống cơ quan cấu thành nên bộ
máy Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, có chức năng THQCT và kiểm sát
các HĐTP theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, góp phần đảm bảo cho
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Về nhiệm vụ của
VKSND, tại Điều 2 Luật tổ chức VKSND năm 2002 quy định: “Trong phạm vi

chức năng của mình, VKSND có nhiệm vụ góp phần bảo vệ pháp chế xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân,
bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tài sản,
tự do, danh dự và nhân phẩm của công dân, bảo đảm để mọi hành vi xâm
phạm lợi ích của Nhà nước, của tập thể, quyền và lợi ích hợp pháp của công
dân đều phải được xử lý theo pháp luật” [18, tr.8].
VKSND thực hiện chức năng, nhiệm vụ bằng những công tác sau đây:
- Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
việc điều tra các vụ án hình sự của các cơ quan điều tra và các cơ quan khác
được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra;
- Điều tra một số loại tội xâm phạm hoạt động tư pháp mà người phạm
tội là cán bộ thuộc các cơ quan tư pháp;
- Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
việc xét xử các vụ án hình sự;


10

- Kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình, hành
chính, kinh tế, lao động và những việc khác theo quy định của pháp luật;
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc thi hành bản án, quyết
định của Tòa án nhân dân;
- Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam, quản
lý và giáo dục người chấp hành án phạt tù.
1.1.2. Quyền công tố và thực hành quyền công tố của VKSND
1.1.2.1. Quyền công tố (QCT)
Quyền công tố là khái niệm pháp lý gắn liền với chức năng của VKS,
trong hệ thống pháp luật thực định đến nay chưa có định nghĩa chính thức về
QCT. Tuy nhiên, khái niệm QCT đã được đề cập và tiếp cận ở nhiều góc độ
khác nhau tại các bài báo, tạp chí chuyên ngành và các công trình nghiên cứu,

với nhiều cách tiếp cận khác nhau:
Công tố, theo từ điển tiếng Việt có nghĩa là: “điều tra, truy tố, buộc tội
kẻ phạm pháp trước Tòa án” [22, tr.204].
Từ điển Luật học định nghĩa QCT: “Quyền công tố là quyền buộc tội
nhân danh nhà nước đối với người phạm tội” [1, tr.188].
Một số nhà nghiên cứu tiếp cận khái niệm QCT dưới góc độ rất rộng,
có tác giả cho rằng, mọi hoạt động kiểm sát tuân theo pháp luật đều là
THQCT, coi công tố không phải là chức năng độc lập của VKSND, mà chỉ là
một quyền năng, một hình thức thực hiện chức năng kiểm sát tuân theo pháp
luật [21, tr 85-87]. Đây là quan điểm khá phổ biến trước khi luật tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân năm 2002 được ban hành. Cơ sở lập luận của những quan
điểm này là các điều luật quy định trong Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân năm 1981, 1992 và một số điều luật trong BLTTHS năm 1988. Trong
giai đoạn này, các văn bản pháp luật nói trên quy định chưa rõ ràng, chưa


11

phân định được chức năng công tố và chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật. Chúng tôi cho rằng, nhận thức về QCT như trên là chưa thật sự
chính xác, bởi đã đồng nhất QCT với chức năng kiểm sát tuân theo pháp luật
(nay là kiểm sát các hoạt động tư pháp), không phù hợp với quy định tại
Điều 137 Hiến pháp 1992 và Điều 1 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
năm 2002. Dù có mối liên hệ mật thiết với nhau, đan xen nhau, nhưng đây là
hai chức năng riêng biệt của VKS, có nội hàm khác nhau. “Trong quá trình
thực hiện, dù giữa hai chức năng này có một số nội dung đan xen, liên hệ
chặt chẽ và tác động qua lại với nhau, nhưng không thể vì thế mà phủ nhận
được tính độc lập của chúng cả về nội dung lẫn phạm vi áp dụng” [38, tr.10].
Một số tác giả khác lại cho rằng, QCT là quyền của VKS khi xuất hiện
các hành vi vi phạm pháp luật và nhu cầu bảo vệ lợi ích của nhà nước, xã hội

và công dân. QCT không chỉ xuất hiện trong lĩnh vực hình sự mà còn xuất
hiện trong các lĩnh vực dân sự, kinh tế, hành chính, lao động.
Việc tiếp cận QCT dưới góc độ như trên là quá rộng, theo đó, chủ thể
của QCT không chỉ là VKS mà còn có cả CQĐT, Tòa án (TA), Cơ quan thi
hành án… Như vậy, theo quan điểm này, chức năng giữa các cơ quan tiến
hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử không được phân định rõ.
Ngược lại, một số tác giả lại có xu hướng thu hẹp khái niệm QCT. Có
quan điểm cho rằng, QCT là việc truy tố kẻ phạm tội ra trước Toà án, thực
hiện sự buộc tội tại phiên Toà [38, tr.11]. Quan điểm này nhấn mạnh vai trò
duy nhất của VKS trong việc thực hiện QCT trong tố tụng hình sự và ở giai
đoạn duy nhất đó là giai đoạn xét xử.
Tuy nhiên, lý luận và thực tiễn cho thấy, hoạt động truy tố, buộc tội tại
phiên tòa chỉ là một trong số các quyền hạn của VKS khi thực hành QCT, bên
cạnh việc truy tố và buộc tội tại phiên toà, QCT còn được thực hiện trong suốt


12

quá trình giải quyết vụ án hình sự, ngay từ giai đoạn khởi tố vụ án. Việc nhận
thức QCT như trên đã quá thu hẹp khái niệm, nội dung, phạm vi của QCT và
không phản ánh được đầy đủ bản chất của quyền này.
Chúng tôi cho rằng, QCT trước hết là quyền lực công, quyền lực nhà
nước. QCT xuất hiện gắn liền với sự xuất hiện nhà nước và pháp luật, gắn liền
với bản chất của nhà nước và là một bộ phận không thể tách rời với quyền lực
nhà nước, được nhà nước sử dụng nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người phạm tội. QCT gắn liền với sự buộc tội của nhà nước, phát sinh khi có
tội phạm - tức hành vi nguy hiểm xâm phạm tới các quan hệ xã hội được pháp
luật hình sự bảo vệ xảy ra. Đó là quan hệ giữa một bên là nhà nước (bên có
quyền lực và đứng ra buộc tội) và người phạm tội (là người bị truy cứu trách
nhiệm hình sự). Vì vậy, QCT chỉ xuất hiện trong lĩnh vực hình sự, bởi nó gắn

liền với chức năng buộc tội của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và vấn đề
truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội. QCT xuất hiện từ khi có
hành vi phạm tội xảy ra, đó là cơ sở để cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực
hiện các hoạt động tố tụng nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự, chứng minh
hành vi phạm tội và tiến hành buộc tội trước TA. Do đó, QCT chỉ chấm dứt
khi vụ án được xét xử và bản án có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, không phải
mọi trường hợp QCT đều kéo dài cho đến khi bản án có hiệu lực pháp luật,
theo quy định của BLTTHS, QCT có thể bị triệt tiêu ở các giai đoạn tố tụng
sớm hơn, ví dụ như các trường hợp đình chỉ vụ án.
Như vậy, quyền công tố là một loại quyền lực nhà nước, do cơ quan có
thẩm quyền (ở Việt Nam là Viện kiểm sát) thực hiện, nhằm truy cứu trách
nhiệm hình sự người phạm tội ra trước Toà án để xét xử và bảo vệ sự buộc tội
đó tại phiên toà.


13

1.1.2.2. Thực hành quyền công tố (THQCT)
Ở nước ta, từ Hiến pháp 1959 cho đến Hiến pháp 1992 (được sửa đổi
bổ sung năm 2001), chức năng THQCT được giao cho VKS.
QCT chỉ là một dạng quyền năng, được quy định trong luật thực định,
nó chỉ phát huy hiệu quả trong thực tiễn khi được triển khai thực hiện bởi cơ
quan nhà nước có thẩm quyền. Để đảm bảo thực thi QCT trong thực tiễn, nhà
nước ban hành hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật quy định về quyền
năng pháp lý mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền được phép áp dụng để truy
cứu trách nhiệm hình sự đối với người thực hiện hành vi phạm tội và bảo vệ
sự buộc tội đó trước TA. Việc thực hiện quyền năng đó trong thực tiễn chính
là thực hành quyền công tố.
Từ quá trình phân tích như trên, có thể đưa ra khái niệm thực hành quyền
công tố như sau:

Thực hành quyền công tố là việc Viện kiểm sát sử dụng tổng hợp các
quyền năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để truy cứu trách nhiệm
hình sự đối với người thực hiện hành vi phạm tội trong các giai đoạn khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.
1.1.3. Kiểm sát hoạt động tư pháp
Hoạt động tư pháp là hoạt động của các cơ quan tư pháp hoặc cơ quan
có thẩm quyền thực hiện một số nhiệm vụ trong các giai đoạn tố tụng nhằm
giải quyết vụ án, các tranh chấp pháp luật một cách có căn cứ, đúng pháp luật,
bảo vệ lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá
nhân.
Thuật ngữ “kiểm sát các hoạt động tư pháp” đã được sử dụng rộng rãi
trong các văn bản pháp lý, các diễn đàn khoa học. Tuy nhiên, đến nay, chưa
có định nghĩa pháp lý chính thức cũng như khái niệm thống nhất về kiểm sát


14

các hoạt động tư pháp. Vấn đề này chủ yếu được đề cập qua các bài báo, tạp
chí và các công trình nghiên cứu của các học giả, nhà nghiên cứu với nhiều
quan điểm khác nhau.
Nhóm quan điểm thứ nhất cho rằng "kiểm sát các hoạt động tư pháp
chỉ bao gồm kiểm sát các hoạt động tố tụng như kiểm sát điều tra, truy tố, xét
xử và thi hành án” [37, tr.3].
Nhóm quan điểm thứ hai cho rằng: kiểm sát các hoạt động tư pháp bao
gồm việc kiểm sát điều tra, truy tố, xét xử (án hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình,
hành chính, kinh tế, lao động) và phần "tư pháp" trong thi hành án. Theo ý kiến
này, VKSND kiểm sát hoạt động thi hành án trên cơ sở một phần nội dung có
liên quan đến hoạt động tư pháp, nghĩa là kiểm sát việc ra quyết định thi hành,
còn tác nghiệp cụ thể của Cơ quan thi hành án để thi hành bản án đó lại thuộc
phạm trù hành chính chứ không phải là hoạt động tư pháp nữa [37, tr. 21-22].

Nhóm quan điểm thứ ba cho rằng: HĐTP phải do cơ quan tư pháp tiến
hành, nhưng không phải tất cả các hoạt động của cơ quan tư pháp đều được
gọi là HĐTP. Xuất phát từ nghĩa rộng của HĐTP, có thể hiểu HĐTP là hoạt
động liên quan tới giải quyết tranh chấp, hoạt động khởi kiện, khởi tố, truy tố
hoặc xét xử và thi hành các phán quyết của TA trong thực tiễn. Các hoạt động
khác tuy cũng do cơ quan tư pháp thực hiện nhưng không gắn với quá trình
giải quyết một vụ án cụ thể thì không được coi là HĐTP [8, tr.34].
Mỗi quan điểm trên đây đều có những hạt nhân hợp lý nhất định về
kiểm sát các HĐTP, nhưng chưa thật đầy đủ và toàn diện. Theo chúng tôi,
kiểm sát các HĐTP trước hết là chức năng hiến định của VKS, chủ thể thực
hiện chức năng này chỉ có thể là VKS. Đối tượng của hoạt động kiểm sát chủ
yếu là các cơ quan tư pháp nhưng không có nghĩa là chỉ có cơ quan tư pháp,
nó còn bao gồm cả các cơ quan khác được giao thẩm quyền thực hiện một số


15

hoạt động tư pháp. Việc kiểm sát cũng không phải được tiến hành đối với mọi
hoạt động của các cơ quan này mà chỉ là những HĐTP. Đó là quá trình giám
sát mang tính nhà nước của cơ quan có thẩm quyền (VKS) đối với các cơ
quan tư pháp và các cơ quan được giao thực hiện một số hoạt động tư pháp
trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, hành
chính, kinh tế, thương mại và hoạt động thi hành án, nhằm bảo đảm cho pháp
luật được chấp hành nghiêm chỉnh, thống nhất. Kiểm sát các HĐTP còn là
quá trình kiểm tra tính có căn cứ và tính hợp pháp đối với hoạt động chủ thể
bị kiểm sát thông qua việc sử dụng những nhóm quyền năng nhất định, các
biện pháp do pháp luật quy định để phát hiện, loại trừ vi phạm pháp luật, bảo
đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, thống nhất. Do đó, có thể
đưa ra khái niệm về kiểm sát HĐTP như sau:
Kiểm sát hoạt động tư pháp là chức năng hiến định của Viện kiểm sát,

có nội dung là kiểm tra, giám sát các hoạt động của cơ quan tư pháp, các cơ
quan được giao thẩm quyền thực hiện một số hoạt động tư pháp trong quá
trình giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, hôn nhân gia đình, hành chính,
kinh tế, thương mại và hoạt động thi hành án, nhằm bảo đảm cho pháp luật
được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Từ các khái niệm trên, có thể đưa ra cách hiểu về thực hành quyền
công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự như sau:
Theo nghĩa hẹp, đó là việc Viện kiểm sát sử dụng tổng hợp các quyền
năng pháp lý thuộc nội dung quyền công tố để truy cứu trách nhiệm hình sự
đối với người thực hiện hành vi phạm tội; kiểm tra, giám sát các hoạt động
của cơ quan tư pháp, các cơ quan được giao thẩm quyền thực hiện một số
hoạt động tư pháp trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.


16

Nếu hiểu theo nghĩa rộng, thì hoạt động đó còn bao gồm cả giai đoạn
thi hành án hình sự. Tuy nhiên, trong phạm vi đề tài này, tác giả xin giới hạn
việc nghiên cứu chỉ trong phạm vi giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử các vụ án
hình sự để đảm bảo việc nghiên có tính chuyên sâu hơn. Cụ thể là các hoạt
động sau:
- Hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án
hình sự.
- Hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử các vụ án
hình sự.
1.2. Khái niệm, đặc điểm của nguyên tắc pháp chế trong thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự của
VKSND
1.2.1. Khái niệm nguyên tắc pháp chế trong thực hành quyền công tố
và kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự của VKSND

Trong khoa học pháp lí nước ta, pháp chế XHCN được nghiên cứu từ
nhiều góc độ khác nhau cho nên có nhiều định nghĩa khác nhau. Tuy nhiên,
qua những kết quả nghiên cứu có thể thấy, dù được định nghĩa như thế nào
đi nữa thì bản chất và nội dung của pháp chế đều có điểm cốt lõi tương tự
nhau, đó là các tác giả của chúng đều đề cập đến yêu cầu, đòi hỏi pháp luật
phải được tôn trọng và thực hiện một cách tự giác, nghiêm chỉnh, đầy đủ,
thống nhất trong bộ máy nhà nước và ở ngoài xã hội.
Pháp luật và pháp chế có quan hệ hữu cơ, gắn bó chặt chẽ với nhau.
Pháp luật là cơ sở của pháp chế, để có pháp chế đòi hỏi phải có một hệ thống
pháp luật hoàn chỉnh, có sự tự giác thực hiện pháp luật của các chủ thể pháp
luật, một bộ máy nhà nước hoạt động có hiệu lực, hiệu quả trong việc bảo
đảm cho pháp luật được tôn trọng và thực hiện nghiêm minh. Pháp chế là môi


17

trường làm cho pháp luật phát huy được vai trò, hiệu lực của mình, điều chỉnh
một cách có hiệu quả các quan hệ xã hội. “Với tư cách là một bộ phận cấu
thành đời sống pháp luật, pháp chế quan hệ chặt chẽ, không thể tách rời với
pháp luật. Nếu pháp luật vừa là cơ sở, nền tảng để xây dựng pháp chế, vừa là
công cụ bảo đảm, bảo vệ pháp chế, thì pháp chế cũng vừa là điều kiện cho sự
tồn tại của pháp luật, vừa là căn cứ, cơ sở để củng cố, phát triển, hoàn thiện
pháp luật” [5, tr.357].
Từ sự phân tích trên, có thể đưa ra quan niệm chung về pháp chế
như sau: “Pháp chế là một chế độ đặc biệt của đời sống chính trị xã hội,
trong đó mọi tổ chức và cá nhân phải tôn trọng và thực hiện pháp luật
một cách nghiêm chỉnh, đầy đủ, thống nhất, nhằm xây dựng một xã hội có
trật tự, kỷ cương”.
Pháp chế XHCN là một trong những nguyên tắc cơ bản làm nền tảng cho
việc tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước XHCN, trong

đó có VKSND. Nguyên tắc pháp chế đòi hỏi việc tổ chức và hoạt động của các
cơ quan nhà nước trước hết phải dựa trên cơ sở pháp luật và được tiến hành
theo đúng quy định của pháp luật; mọi cán bộ, công chức nhà nước phải nghiêm
chỉnh tôn trọng pháp luật trong khi thực hiện quyền hạn và nhiệm vụ của mình;
mọi vi phạm pháp luật đều phải xử lý nghiêm minh. Thực hiện tốt nguyên tắc
pháp chế sẽ là cơ sở bảo đảm cho hoạt động của bộ máy nhà nước được nhịp
nhàng, đồng bộ, phát huy hiệu lực của nhà nước và bảo đảm công bằng xã
hội. Pháp chế được coi là “một trong những yêu cầu cơ bản của Nhà nước
pháp quyền” [14, tr.9].
Pháp chế trong hoạt động tư pháp cũng như pháp chế trong THQCT và
kiểm sát HĐTP trong lĩnh vực hình sự của VKSND là một bộ phận cấu thành
nền pháp chế XHCN nói chung. Nội hàm cơ bản của pháp chế trong THQCT


18

và kiểm sát HĐTP trong lĩnh vực hình sự của VKSND là việc tôn trọng và
thực hiện pháp luật nghiêm minh trong tổ chức và hoạt động của hệ thống
VKSND. Trên cơ sở những phân tích trên, tác giả đưa ra cách hiểu về nguyên
tắc pháp chế trong thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp
trong lĩnh vực hình sự của VKSND. Đó là:
Viện kiểm sát nhân dân, các Kiểm sát viên có thẩm quyền tuân theo
những nguyên tắc của pháp luật hiện hành, vận dụng chính xác những quy
định của pháp luật khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp
trong lĩnh vực hình sự, nhằm đảm bảo việc điều tra, truy tố, xét xử đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật.
Theo đó, nguyên tắc pháp chế trong THQCT, kiểm sát HĐTP trong
lĩnh vực hình sự của VKSND cũng cần được xem xét ở hai khía cạnh: thứ
nhất, các quy định pháp luật là cơ sở pháp lý cho hoạt động của VKSND, thứ
hai, hành vi tôn trọng, thực hiện pháp luật nghiêm minh của VKSND trong

quá trình THQCT, kiểm sát HĐTP trong lĩnh vực hình sự.
Trước hết, về cơ sở pháp lý cho hoạt động của VKSND, đó là những
văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động của VKSND, đảm bảo cho
những hoạt động này được pháp luật cho phép, nằm trong những quy định của
pháp luật. Cụ thể là những văn bản pháp luật chứa đựng các quy định về tổ
chức, hoạt động của VKSND, trước hết là Luật tổ chức VKSND và hệ thống
các văn bản pháp luật nội dung và pháp luật hình thức liên quan đến tổ chức
và hoạt động của VKSND. Đó là các văn bản sau: Hiến pháp 1992 (sửa đổi
năm 2001); Luật tổ chức VKSND năm 2002; Bộ luật hình sự năm 1999; Bộ
luật tố tụng hình sự năm 2003; Các văn bản hướng dẫn thi hành các Luật trên.
Ngoài ra, hoạt động THQCT, kiểm sát HĐTP trong lĩnh vực hình sự
của VKSND còn liên quan đến nhiều lĩnh vực pháp luật khác. Vì vậy, các văn


19

bản luật nội dung như: luật giao thông đường bộ, luật đất đai, các luật về thuế,
luật môi trường, luật sở hữu trí tuệ, … và các văn bản hướng dẫn thi hành các
luật này cũng là cơ sở pháp lý cho hoạt động của VKSND. Do khuôn khổ
luận văn nên tác giả không liệt kê hết các văn bản luật nội dung này.
Về khía cạnh thứ hai, hành vi tôn trọng và thực hiện pháp luật nghiêm
minh của VKSND trong quá trình THQCT, kiểm sát HĐTP trong lĩnh vực
hình sự. Hoạt động THQCT, kiểm sát HĐTP trong lĩnh vực hình sự của
VKSND được thực hiện bởi các cán bộ, KSV của VKSND. Cán bộ, KSV của
VKSND cũng là một công dân, cá nhân họ có trách nhiệm tôn trọng và thực
hiện tất các các quy định pháp luật liên quan đến công dân, cá nhân đồng thời
tuân thủ, thực hiện những quy định liên quan đến hoạt động nghề nghiệp của
họ. Pháp lệnh KSV đã có quy định cụ thể về trách nhiệm của KSV như sau:
Kiểm sát viên chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của mình; nếu có hành vi vi phạm pháp luật thì tuỳ theo tính chất,

mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo
quy định của pháp luật [24, tr.2].
1.2.2. Đặc điểm của nguyên tắc pháp chế trong thực hành quyền
công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự của VKSND
Học thuyết Mác- Lênin về nhà nước và pháp luật đã khẳng định pháp
chế XHCN là thống nhất. Song pháp chế được thiết lập trong mỗi một lĩnh
vực của đời sống nhà nước và đời sống xã hội; do đối tượng điều chỉnh của
các ngành luật khác nhau nên phương pháp điều chỉnh của các ngành luật
không hoàn toàn giống nhau. Bởi vậy, pháp chế "là sự hiện diện của pháp
luật" trên mỗi lĩnh vực của đời sống xã hội cũng mang những đặc điểm riêng.
Nguyên tắc pháp chế trong THQCT và kiểm sát HĐTP trong lĩnh vực hình sự
của VKSND có những đặc điểm cơ bản là:


×