Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Nhiệm vụ, quyền hạn của viện kiểm sát nhân dân trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (922.76 KB, 85 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ THU PHƢỢNG

NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TRONG VIỆC BẮT, TẠM GIỮ, TẠM GIAM

Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
TS. ĐỖ VĂN ĐƢƠNG

HÀ NỘI - 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các số liệu nêu trong Luận văn là trung thực. Những kết quả
khoa học của Luận văn chưa từng được ai công bố trong bất kì
công trình khoa học nào khác.
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thu Phượng



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG VIỆC BẮT, TẠM GIỮ,
TẠM GIAM ...................................................................................................... 7
1.1. Một số vấn đề chung về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân
dân trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam ......................................................... 7
1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về nhiệm vụ, quyền
hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam .......... 15
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .............................................................................. 29
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO
CHẤT LƢỢNG, HIỆU QUẢ THỰC HIỆN NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG VIỆC BẮT, TẠM GIỮ,
TẠM GIAM ................................................................................................... 30
2.1. Thực trạng thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong việc
bắt, tạm giữ, tạm giam ............................................................................... 30
2.2. Một số nguyên nhân, hạn chế của việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam................. 42
2.3. Một số giải pháp, kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bắt, tạm
giữ, tạm giam. ............................................................................................ 58
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .............................................................................. 67
KẾT LUẬN .................................................................................................... 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN


1. BPNC

Biện pháp ngăn chặn

2. BLTTHS

Bộ luật tố tụng hình sự

3. BLHS

Bộ luật hình sự

4. CQĐT

Cơ quan điều tra

5. VKS

Viện kiểm sát

6. VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

7. TA

Tòa án

8. THTT


Tiến hành tố tụng

9. BPTG

Biện pháp tạm giam


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ số 2.1: Số người bị tạm giữ từ năm 2008 - 2012 ............................... 31
Biểu đồ số 2.2: Kết quả xử lý người bị tạm giữ từ năm 2008 – 2012 ............ 32
Biểu đồ số 2.3: Số người bị tạm giam từ năm 2008 – 2012 ........................... 33
Biểu đồ số 2.4: Tình hình không phê chuẩn lệnh tạm giam, yêu cầu bắt tạm
giam của Viện kiểm sát từ năm 2008 - 2012 .................................................. 34
Biểu đồ số 2.5: Tình hình quá hạn tạm giam 5 năm 2008 – 2012 .................. 41


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hoạt động tố tụng hình sự trong nhiều trường hợp không tránh khỏi việc
áp dụng các biện pháp ngăn chặn (BPNC). Việc áp dụng các biện pháp này
không chỉ nhằm giúp các cơ quan tiến hành tố tụng có điều kiện thuận lợi để
giải quyết các vụ án hình sự mà còn góp phần phát hiện nhanh chóng, ngăn
chặn và xử lý kịp thời, nghiêm minh đối với người phạm tội, không để lọt tội
phạm và không làm oan người vô tội. Trong số các BPNC, thì bắt, tạm giữ,
tạm giam là những biện pháp mang tính cưỡng chế rất nghiêm khắc. Nếu việc
bắt, tạm giữ, tạm giam oan, sai sẽ xâm phạm đến các quyền, lợi ích hợp pháp
của công dân, nhất là các quyền tự do cá nhân đã được ghi nhận và bảo đảm
trong Hiến pháp. Ngược lại, không bắt, tạm giữ, tạm giam người phạm tội để

những người đó vẫn tự do ngoài vòng pháp luật, tiếp tục gây án hoặc trốn
tránh sẽ gây khó khăn cho việc điều tra, xử lý vụ án cũng như làm thiệt hại
đến quyền lợi của con người, của cộng đồng, làm giảm lòng tin của nhân dân
đối với Nhà nước.
VKSND - một trong các cơ quan bảo vệ pháp luật của Nhà nước, có
chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp nhằm
góp phần bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Trong số các cơ quan có thẩm quyền bắt, tạm giữ, tạm giam, VKSND là cơ
quan có vai trò rất quan trọng, vì VKSND không những có quyền áp dụng,
phê chuẩn, thay đổi, hủy bỏ các BPNC này mà còn có chức năng kiểm sát
việc áp dụng và tổ chức thực hiện tốt chức năng của VKSND nói chung, cũng
như trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam nói riêng.
Qua thực tiễn áp dụng pháp luật thời gian gần đây cho thấy, "công tác
bắt, giam giữ, điều tra, truy tố, xét xử cơ bản được thực hiện đúng pháp luật;


2

khắc phục một bước quan trọng trong việc lạm dụng bắt khẩn cấp, lạm dụng
bắt quả tang, hình sự hóa các quan hệ kinh tế, dân sự, hạn chế đáng kể việc
bắt, giam giữ, truy tố, xét xử oan, sai và bỏ lọt tội phạm" [42]. Tuy nhiên,
những quy định của BLTTHS về các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam vẫn
còn nhiều bất cập, đặc biệt là những quy định liên quan đến nhiệm vụ, quyền
hạn của VKSND. Bên cạnh đó còn có những nguyên nhân chủ quan, khách
quan khác như yếu tố con người, yếu tố cơ sở vật chất cũng làm phát sinh các
vi phạm, ảnh hưởng phần nào đến việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của
VKSND trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam.
Đảng, Nhà nước ta rất quan tâm đến việc bắt, tạm giữ, tạm giam nhằm
tránh tình trạng bắt, tạm giữ, tạm giam oan người vô tội, để lọt kẻ phạm tội.
Các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng về công tác tư pháp đều nhấn mạnh đến

công tác áp dụng các BPNC của các cơ quan THTT, đặc biệt là VKS. Tại Chỉ
thị số 53- CT/TW ngày 21/3/2000 của Bộ Chính trị về một số công việc cấp
bách của các cơ quan tư pháp xác định: "Tăng cường trách nhiệm của Viện
kiểm sát nhân dân đối với công tác bắt, giam giữ. Việc bắt, giam phải được
xem xét phê chuẩn đối với từng trường hợp, từng đối tượng cụ thể. Đối với
trường hợp bắt giam cũng được hoặc không bắt giam cũng được thì không
bắt giam. Sai sót trong việc bắt, giam, giữ ở địa phương nào thì trước hết
Viện kiểm sát nhân dân ở địa phương đó chịu trách nhiệm" [18]. Nghị Quyết
số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư
pháp trong thời gian tới cũng nêu rõ: "Tăng cường công tác kiểm sát việc bắt,
giam, giữ bảo đảm đúng pháp luật; những trường hợp chưa cần bắt, tạm giữ,
tạm giam thì kiên quyết không phê chuẩn lệnh bắt, tạm giữ, tạm giam; phát
hiện và xử lý kịp thời các trường hợp oan, sai trong bắt, giữ. Viện kiểm sát
các cấp chịu trách nhiệm về những oan, sai trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam
thuộc phạm vi thẩm quyền phê chuẩn của mình" [16].


3

Do đó đòi hỏi phải có những nghiên cứu chuyên sâu, có hệ thống về lý
luận cũng như thực tiễn về nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong việc bắt, tạm
giữ, tạm giam để đề ra những giải pháp hợp lý nhằm hoàn thiện các quy định
của pháp luật hiện hành về vấn đề này. Đó chính là lý do để tác giả chọn đề
tài: “Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bắt, tạm
giữ, tạm giam” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Sau hơn 20 năm kể từ khi BLTTHS được ban hành, đã có rất nhiều công
trình nghiên cứu về các nội dung liên quan đến các BPNC bắt, tạm giữ, tạm
giam trong TTHS, trong đó có đề cập đến một vài khía cạnh về nhiệm vụ,
quyền hạn của VKSND. Có thể nêu ra một số công trình nghiên cứu, sách

chuyên khảo đã xuất bản như: “Về tự do cá nhân và biện pháp cưỡng chế tố
tụng hình sự” của Tiến sĩ Trần Quang Tiệp, Nxb Chính trị Quốc gia, 2005;
“Các biện pháp ngăn chặn bắt, tạm giữ, tạm giam trong Tố tụng hình sự Việt
Nam – Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp” - Luận án tiến sĩ Luật học của
tác giả Nguyễn Văn Điệp (bảo vệ năm 2006); “Vai trò của Viện kiểm sát
trong việc áp dụng biện pháp tạm giam”- Luận văn Thạc sĩ của tác giả Phạm
Duy Trường (bảo vệ năm 2006); “Tạm giữ, tạm giam trong tố tụng hình sự
Việt Nam” – Luận văn Thạc sĩ của tác giả Phạm Thanh Bình (bảo vệ năm
2007); “Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong
việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn theo quy định của Bộ luật tố tụng hình
sự” – Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Vũ Quang (bảo vệ năm 2011).
Đặc biệt các báo, tạp chí chuyên ngành cũng đăng tải rất nhiều các bài
viết có liên quan. Đó là các bài như: “Áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt, tạm
giữ, tạm giam đối với người chưa thành niên” (Tạp chí Tòa án nhân dân số
5/2006) của tác giả Mai Bộ; “Một số ý kiến nhằm góp phần nâng cao chất
lượng công tác kiểm sát hoạt động bắt, tạm giữ, tạm giam” (Tạp chí Kiểm sát


4

số 14/2012) của tác giả Dương Ngọc An; “Hoàn thiện các quy định của Bộ
luật Tố tụng hình sự về biện pháp tạm giam” (Tạp chí Kiểm sát số 21/2012)
của tác giả Trần Văn Độ; “Biện pháp bắt người theo quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự năm 2003- Một số vấn đề cần trao đổi” (Tạp chí Nghề luật số
3/2012) của tác giả Đinh Thành An – Ngô Văn Vịnh; “Căn cứ tạm giam, hạn
chế việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với một số loại tội phạm, thu hẹp
đối tượng người có thẩm quyền quyết định việc áp dụng tạm giam” (Tạp chí
Kiểm sát số 19/2012) của Tiến sĩ Đỗ Văn Đương.
Các tài liệu, giáo trình giảng dạy của các trường Đại học như: Giáo trình
Luật tố tụng hình sự của các trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa Luật Đại học

Quốc gia Hà Nội, cuốn “Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam
năm 2003”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2004 cũng đề cập tới vấn đề này.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo, bài viết, tài
liệu, giáo trình nêu trên chỉ nghiên cứu các BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam một
cách khái quát với tính chất là những BPNC có nội dung về thẩm quyền, điều
kiện, căn cứ, đối tượng áp dụng, những hạn chế trong các quy định của pháp
luật TTHS và hướng hoàn thiện. Chưa có một công trình riêng nào nghiên
cứu chuyên sâu về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong việc bắt, tạm giữ,
tạm giam.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề
chủ yếu sau:
- Những vấn đề chung về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong việc
bắt, tạm giữ, tạm giam.
- Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về nhiệm vụ, quyền
hạn của VKSND trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam.
- Thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện


5

hành về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam.
Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những quy định của pháp luật tố tụng
hình sự Việt Nam hiện hành liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND
trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam và thực tiễn áp dụng những quy định này từ
năm 2008 đến năm 2012. Luận văn không nghiên cứu nhiệm vụ, quyền hạn
của Viện kiểm sát quân sự cũng như một số vấn đề khác có liên quan đến
nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài

Để nghiên cứu đề tài, tác giả dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác-Lênin, đồng thời sử dụng các
phương pháp nghiên cứu khác như: phương pháp nghiên cứu chuyên ngành
Luật hình sự, Luật tố tụng hình sự, phân tích, tổng hợp, đối chiếu so sánh,
thống kê dựa trên các quy phạm pháp luật hiện hành, các tài liệu, sách báo,
bài viết, công trình nghiên cứu khoa học của các tác giả đã nghiên cứu trước
đó, kết hợp đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật tố tụng hình sự để hoàn
thành luận văn có chất lượng.
5. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu một số vấn đề chung về nhiệm vụ, quyền hạn của
VKSND trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam và thực tiễn áp dụng, luận văn đưa
ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về nhiệm vụ,
quyền hạn của VKSND trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam, đồng thời đưa ra
một số giải pháp khác nhằm nâng cao chất lượng thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của VKSND.
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ đặt ra đối với luận văn
- Xác định rõ khái niệm nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong việc


6

bắt, tạm giữ, tạm giam và pháp luật tố tụng hình sự một số nước về nhiệm vụ,
quyền hạn của VKSND trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam và kinh nghiệm đối
với Việt Nam.
- Nghiên cứu, đánh giá thực trạng áp dụng những quy định của pháp luật
về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam để xác
định những hạn chế, bất cập trong việc thực hiện những quy định này.
- Từ việc đánh giá thực trạng áp dụng, nghiên cứu tìm ra nguyên nhân
của những hạn chế, bất cập để làm cơ sở cho việc đề xuất hoàn thiện quy định

của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong việc bắt, tạm giữ,
tạm giam.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Điểm mới của luận văn là nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ về
nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam trong
điều kiện Đảng và Nhà nước chủ trương cải cách tư pháp, sửa đổi Hiến pháp,
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002, BLTTHS năm 2003. Đây là
hướng nghiên cứu hoàn toàn mới, tác giả hy vọng thông qua việc đánh giá
những quy định của BLTTHS năm 2003 về nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND
trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam trên cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị về
hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nâng cao chất lượng thực hiện nhiệm
vụ, quyền hạn của VKSND trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phần nội
dung chính của luận văn bao gồm 2 chương và 5 mục.


7

CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG
HÌNH SỰ HIỆN HÀNH VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM
SÁT NHÂN DÂN TRONG VIỆC BẮT, TẠM GIỮ, TẠM GIAM
1.1. Một số vấn đề chung về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân
dân trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam
1.1.1. Khái niệm nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong
việc bắt, tạm giữ, tạm giam
Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, để kịp thời ngăn chặn tội phạm,
ngăn chặn việc bị can, bị cáo gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử,
thi hành án hoặc ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, Cơ quan điều tra và các cơ

quan khác được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra (gọi chung
là CQĐT), VKS và Tòa án trong phạm vi thẩm quyền tố tụng của mình hoặc
người có thẩm quyền theo quy định của BLTTHS có thể áp dụng các BPNC:
bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản
có giá trị để bảo đảm.
Theo từ điển Tiếng Việt, ngăn chặn là "chặn lại ngay từ đầu, không để cho
gây tác hại" [4]. Theo cách hiểu chung nhất, BPNC là một trong các biện pháp
cưỡng chế trong TTHS được áp dụng đối với bị can, bị cáo, người bị truy nã
hoặc đối với người chưa bị khởi tố (trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội
quả tang) nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội của họ, ngăn
ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành động gây cản trở
cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc thi hành án hình sự.
Có thể khẳng định rằng, BPNC trong TTHS là một nhóm các biện pháp
cưỡng chế TTHS chứ không phải là biện pháp chấp hành hình phạt tù. Tuy vậy,
việc áp dụng BPNC mà đặc biệt là bắt, tạm giữ, tạm giam có ảnh hưởng rất lớn


8

đến quyền lợi của cá nhân người bị áp dụng, nhất là quyền nhân thân và quyền
tự do cá nhân. Do đó, áp dụng BPNC này không chỉ phải tuân theo trình tự, thủ
tục hết sức chặt chẽ mà còn phải dựa trên những căn cứ nhất định để xem xét
tính cần thiết của việc áp dụng. Vậy các BPNC bắt, tạm giữ, tạm giam được hiểu
như thế nào?
- Bắt người: Bắt là một trong những BPNC có tính cưỡng chế nghiêm
khắc, vì vậy việc bắt nhất thiết phải tuân thủ các căn cứ, trình tự, thủ tục theo
pháp luật quy định.
Bắt người là BPNC mang tính đặc thù thường được áp dụng liền trước
các BPNC như tạm giữ, tạm giam. BPNC này làm hạn chế một số quyền tự
do của cá nhân người bị bắt, buộc họ phải có mặt tại địa điểm quy định để làm

việc với Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán.
Nhằm mục đích đấu tranh có hiệu quả với tội phạm, tăng cường pháp
chế XHCN, thực hiện mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật cũng như
đảm bảo các quyền tự do dân chủ của công dân, BLTTHS quy định ba trường
hợp bắt, đó là: Bắt bị can, bị cáo để tạm giam; Bắt người trong trường hợp
khẩn cấp; Bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã.
Các trường hợp nêu trên là quy định chung để khi có căn cứ thuộc
trường hợp nào thì cơ quan, người có thẩm quyền do luật định có thể áp dụng.
Song căn cứ vào Luật tổ chức Quốc hội, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và
Ủy ban nhân dân, các quy định đối với người chưa thành niên, các quy định
đối với người phạm tội là người nước ngoài, khi chủ thể thuộc các đối tượng
này còn phải vận dụng thêm các quy định mang tính cá biệt để áp dụng BPNC
cũng như áp dụng các quy định trong BLTTHS được đúng đắn. Việc áp dụng
các biện pháp bắt người cũng phải quán triệt các nguyên tắc chung, các chủ
trương, đường lối chỉ đạo của Đảng và Nhà nước trong mỗi giai đoạn xây
dựng và phát triển nền kinh tế - xã hội của đất nước ta.


9

- Tạm giữ: Điều 86 BLTTHS 2003 quy định về đối tượng, căn cứ và
thẩm quyền áp dụng BPNC tạm giữ. Theo quy định của điều luật này thì tạm
giữ là việc cơ quan và người có thẩm quyền ra quyết định tạm thời hạn chế tự
do trong thời hạn ngắn đối với người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả
tang hoặc trong trường hợp khẩn cấp. Mục đích của BPNC tạm giữ là nhằm
ngăn chặn hành vi phạm tội hoặc hành vi cản trở việc điều tra khám phá tội
phạm của những người bị nghi là thực hiện hành vi phạm tội, tạo điều kiện
cho cơ quan có thẩm quyền có thời gian để xác định tính chất, mức độ của
hành vi; nhân thân của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội để từ đó
có thể quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án hình sự, khởi tố bị can

hoặc các quyết định pháp lý cần thiết khác như: tạm giam, áp dụng các BPNC
khác hay trả tự do cho người đã bị bắt.
- Tạm giam
Tạm giam là BPNC nghiêm khắc nhất trong số các BPNC. Đúng như
vậy, các biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có
giá trị để bảo đảm chỉ ảnh hưởng đến quyền tự do đi lại hoặc quyền và lợi ích
về tài sản mà không ảnh hưởng đến các quyền tự do khác của công dân như
quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền tự do giao tiếp, quyền hội họp.
Còn các biện pháp bắt người, tạm giữ cũng là BPNC nghiêm khắc, nó cũng
hạn chế quyền tự do của công dân, nhưng thời gian hạn chế quyền tự do trong
bắt và tạm giữ ngắn hơn nhiều so với tạm giam. Trong vòng 24 giờ sau khi
bắt, CQĐT phải lấy lời khai, ra quyết định tạm giữ hoặc trả lại tự do cho
người bị bắt. Thời gian tạm giữ là 03 ngày đêm và tối đa là 09 ngày đêm đối
với trường hợp có gia hạn tạm giữ. Trong khi đó thời hạn tạm giam để điều
tra có thể lên đến 12 tháng hoặc 16 tháng. Tóm lại, có thể hiểu: Tạm giam là
BPNC nghiêm khắc nhất trong tố tụng hình sự do những người có thẩm quyền
của CQĐT, VKS, Tòa án áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội mà BLHS quy


10

định hình phạt tù để ngăn chặn người phạm tội có thể trốn hoặc cản trở việc điều
tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
Trong hoạt động tố tụng hình sự VKS có vị trí, vai trò quan trọng. Cùng
với CQĐT, Tòa án, VKS được xác định là một trong số các cơ quan tiến hành
tố tụng, được pháp luật quy định là cơ quan duy nhất thay mặt Nhà nước thực
hành quyền công tố, đồng thời VKS còn thực hiện chức năng kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự nhằm bảo đảm
mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời, bảo đảm việc khởi tố, điều
tra, truy tố, xét xử, thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không

để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Hiến pháp
1959 đánh dấu sự ra đời của VKSND với việc lần đầu tiên quy định trong cơ
cấu tổ chức bộ máy Nhà nước "có một hệ thống cơ quan Nhà nước mới, thực
hiện một chức năng mới của Nhà nước - chức năng kiểm sát việc tuân theo
pháp luật, làm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất
trong phạm vi cả nước - đó là Viện kiểm sát nhân dân" [14]. Thực hiện Nghị
quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III và Hiến pháp 1959, ngày 27/7/1960,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký lệnh công bố Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân, khai sinh hệ thống cơ quan VKSND ở Việt Nam. Theo đó, cùng với
TAND, VKSND là cơ quan Nhà nước có nhiệm vụ bảo vệ pháp chế xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân,
bảo vệ tài sản của Nhà nước, của tập thể, bảo vệ tính mạng, tài sản, tự do,
danh dự và nhân phẩm của công dân. Để thực hiện nhiệm vụ trên, VKSND
được Nhà nước giao thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm
sát các hoạt động tư pháp. Đối với mỗi chức năng, VKSND lại có những
nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể. Trong việc áp dụng các BPNC, VKS có nhiệm
vụ đảm bảo mọi trường hợp bắt, tạm giữ, tạm giam đều phải có căn cứ, đúng
pháp luật, không oan, sai, quá hạn, nhằm phục vụ có hiệu quả cho xử lý tội


11

phạm và người phạm tội; bảo đảm chế độ của người bị tạm giữ, tạm giam
được thực hiện đúng các quy định của pháp luật. Để thực hiện nhiệm vụ trên,
VKS có quyền áp dụng mọi biện pháp do pháp luật quy định để đảm bảo việc
áp dụng BPNC có căn cứ và cần thiết đồng thời phát hiện, loại trừ vi phạm
pháp luật trong việc áp dụng các BPNC. Khi thực hành quyền công tố trong
việc áp dụng các BPNC, VKS có nhiệm vụ và quyền ra quyết định áp dụng,
thay đổi, hủy bỏ biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam và các biện pháp ngăn chặn
khác, phê chuẩn, không phê chuẩn các quyết định của CQĐT theo quy định

của pháp luật; hủy bỏ các quyết định trái pháp luật của CQĐT. Khi kiểm sát
hoạt động tư pháp trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam, VKS có nhiệm vụ và
quyền kiểm sát các hoạt động áp dụng BPNC của CQĐT, Tòa án; yêu cầu
CQĐT khắc phục các vi phạm pháp luật, cung cấp tài liệu cần thiết về vi
phạm pháp luật của Điều tra viên và yêu cầu Thủ trưởng CQĐT xử lý nghiêm
minh Điều tra viên đã vi phạm pháp luật trong việc áp dụng các BPNC này;
trực tiếp kiểm sát tại nhà tạm giữ, trại tạm giam; kiểm tra hồ sơ, tài liệu của
trại tạm giam, nhà tạm giữ; gặp, hỏi người bị tạm giữ, tạm giam; tiếp nhận và
giải quyết khiếu nại, tố cáo về việc tạm giữ, tạm giam; yêu cầu trại tạm giam,
nhà tạm giữ thông báo tình hình tạm giữ, tạm giam, trả lời về quyết định, biện
pháp hoặc việc làm vi phạm pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam; kháng
nghị yêu cầu đình chỉ việc thi hành, sửa đổi hoặc bãi bỏ quyết định có vi
phạm pháp luật trong việc tạm giữ, tạm giam, chấm dứt việc làm vi phạm
pháp luật và yêu cầu xử lý người vi phạm pháp luật. Kiến nghị với cơ quan, tổ
chức áp dụng các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật. Như
vậy nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong việc áp dụng các BPNC bắt, tạm
giữ, tạm giam là tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lý do Nhà nước trao
cho VKSND, được quy định trong Hiến pháp và các văn bản pháp luật, thông
qua đó VKSND được quyền nhân danh Nhà nước thực hiện chức năng thực


12

hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong việc bắt, tạm
giữ, tạm giam.
Trong việc áp dụng bắt, tạm giữ, tạm giam, VKSND thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn nhằm đảm bảo ngăn chặn kịp thời việc thực hiện tội phạm, ngăn
chặn người phạm tội bỏ trốn, cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án. Ngoài ra do việc bắt, tạm giữ, tạm giam ảnh hưởng trực tiếp đến các
quyền cơ bản của công dân nên khi các cơ quan tư pháp (Cơ quan Điều tra,

Tòa án) áp dụng các BPNC này, VKS thực hiện nhiệm vụ của mình bằng việc
kiểm sát các hoạt động tư pháp nhằm bảo đảm cho việc ra quyết định, tổ chức
thực hiện các BPNC này được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất đồng
thời đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, tạm giam
không bị pháp luật tước bỏ được tôn trọng và bảo vệ. Cụ thể như: Khi phát
hiện tội phạm và người thực hiện hành vi phạm tội, CQĐT áp dụng các
BPNC bắt, tạm giữ, VKS thực hiện việc phê chuẩn hoặc không phê chuẩn
lệnh bắt khẩn cấp, quyết định gia hạn tạm giữ của CQĐT, đồng thời VKS
cũng tiến hành hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật của CQĐT trong
việc bắt, tạm giữ như kiểm sát về thẩm quyền, trình tự, thủ tục ra lệnh, quyết
định và việc tổ chức thực hiện, kiểm sát việc thực hiện chế độ đối với người
bị bắt, tạm giữ, kiểm sát hoạt động lấy lời khai của người bị tạm giữ.
1.1.2. Pháp luật tố tụng hình sự một số nước về nhiệm vụ, quyền hạn của
Viện kiểm sát nhân dân trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam và kinh nghiệm
đối với Việt Nam
Điều 72 Hiến pháp 1992 của nước ta quy định: “Không ai bị bắt nếu
không có quyết định của Tòa án, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm
sát” [1]. Điều này phù hợp với tư tưởng nhân văn tiến bộ trong Công ước
quốc tế về các quyền dân sự, chính trị khi quy định về thẩm quyền quyết định
việc bắt, tạm giữ, tạm giam. Tại Điều 9 Công ước quốc tế về các quyền dân


13

sự, chính trị năm 1966 có quy định rằng: “Mọi người có quyền được bảo đảm
tự do và an ninh cá nhân. Việc bắt, giam, giữ, xét xử một người phải do cơ
quan pháp luật có thẩm quyền tiến hành theo đúng các thủ tục luật định;
không ai bị bắt và giam giữ vô cớ” [12]. Nghiên cứu pháp luật tố tụng hình sự
của Liên bang Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức v.v., cho thấy, BLTTHS của
các nước này quy định Tòa án là cơ quan duy nhất được trao quyền quyết

định việc tạm giam người bị tình nghi phạm tội trên cơ sở hồ sơ, tài liệu của
Cảnh sát và đề nghị bằng văn bản của cơ quan Công tố. Việc xem xét, quyết
định tạm giam thường do một Thẩm phán đảm nhiệm. Một số nước khác giao
cho VKS ra lệnh tạm giam nhưng phải được sự đồng ý của Tòa án hoặc sau
khi quyết định phải thông báo cho Tòa án biết. Chưa thấy nước nào giao cho
CQĐT thẩm quyền quyết định việc tạm giam.
Điều 108 BLTTHS Liên bang Nga quy định: “1. Tạm giam với tư cách
là biện pháp ngăn chặn được áp dụng theo quyết định của Tòa án đối với
người bị tình nghi hoặc bị can về tội mà luật hình sự quy định hình phạt tước
tự do trên hai năm trong trường hợp không thể áp dụng biện pháp ngăn chặn
khác ít nghiêm khắc hơn. Trong những trường hợp đặc biệt, biện pháp ngăn
chặn có thể được áp dụng đối với người bị tình nghi, bị can về tội có mức
hình phạt tước tự do đến hai năm, nếu có một trong những tình tiết sau đây:
a) Người bị tình nghi hoặc bị can không có nơi cư trú thường xuyên trên
lãnh thổ Liên bang Nga;
b) Không xác định được nhân thân của họ;
c) Họ đã vi phạm biện pháp ngăn chặn khác được áp dụng trước đó đối
với họ;
d) Họ đã trốn tránh Cơ quan điều tra hoặc Tòa án” [24].
Điều 58 BLTTHS Nhật Bản cũng quy định thẩm quyền áp dụng biện
pháp tạm giam thuộc về Tòa án như Bộ luật tố tụng hình sự Liên bang Nga:


14

“Điều 58. Tòa án có thể tạm giam bị cáo trong các trường hợp sau:
1. Bị cáo không có nơi ở cố định;
2. Bị cáo không tuân lệnh triệu tập mà không có lý do chính đáng, hoặc
có nguy cơ không tuân thủ lệnh này” [25].
Hay như quy định trong Luật TTHS Hàn Quốc, Công tố viên đề nghị

Thẩm phán ra lệnh tạm giam sau khi đã kiểm tra hồ sơ vụ án và thấy đáp ứng
những điều kiện sau đây: “(i) Nghi phạm không có chỗ ở ổn định; hoặc (ii) Có lý
do hợp lý để tin rằng nghi phạm có thể bỏ trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ” [27].
Theo quy định tại Điều 114 BLTTHS Liên Bang Đức, việc tạm giam sẽ
do Thẩm phán quyết định bằng một lệnh bắt: “(1) Tạm giam sẽ do Thẩm
phán quyết định bằng một lệnh bắt.
(2) Lệnh bắt phải ghi rõ:
1. Bị can;
2. Hành vi phạm tội mà người đó bị cho là đã thực hiện, thời gian và địa
điểm thực hiện, các yếu tố cấu thành tội phạm và điều khoản luật hình sự áp
dụng;
3. Căn cứ cho việc bắt, và;
4. Các tình tiết dẫn tới sự nghi ngờ về tội phạm và căn cứ cho việc bắt,
trừ khi việc đó ảnh hưởng tới an ninh quốc gia.
(3) Nếu có thể Điều 112 khoản (1), câu hai, được áp dụng, hoặc nếu bị
can viện dẫn quy định đó, thì các căn cứ cho việc không áp dụng phải được
nêu rõ”. [26]. Ngoài ra, Điều 125 BLTTHS Đức cũng quy định trước khi có
quyết định khởi tố, Thẩm phán của Toà án địa phương nơi có thẩm quyền xét
xử hoặc nơi bị can đang sinh sống sẽ ra lệnh bắt căn cứ vào đề nghị của Cơ
quan Công tố; trong trường hợp khẩn cấp, Thẩm phán tự ra quyết định bắt.
Kinh nghiệm pháp luật nước ngoài cho thấy, hầu hết các nước không chú
trọng lấy các căn cứ về loại tội phạm, khung hình phạt để quyết định việc áp


15

dụng biện pháp tạm giam mà coi khả năng bị can, bị cáo có thể trốn, che giấu,
tiêu hủy chứng cứ hoặc thực hiện các hành vi khác cản trở quá trình giải quyết
vụ án hoặc tiêu chí về không có chỗ ở cố định là căn cứ chủ yếu để xem xét,
quyết định việc tạm giam. Ngoài ra, việc quy định hạn chế tạm giam đối với

người chưa thành niên một số nước như Liên Bang Nga, Cộng hòa Pháp, Hàn
Quốc, Nhật Bản còn giao cho thẩm phán có quyền độc lập trong việc quyết
định tạm giam đối với từng trường hợp phạm tội cụ thể [42].
Đây là những kinh nghiệm quý báu có thể tham khảo khi xây dựng các
căn cứ về việc bắt, tạm giữ, tạm giam và giao thẩm quyền quyết định việc tạm
giam cho người có thẩm quyền tố tụng trong quá trình sửa đổi BLTTHS năm
2003 trong thời gian tới.
1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về nhiệm vụ,
quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam
Theo quy định của pháp luật, VKSND có chức năng thực hành quyền
công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Trong tố tụng hình sự, VKSND là
cơ quan THTT, VKS thực hành quyền công tố nhằm đảm bảo việc bắt, tạm
giữ, tạm giam của CQĐT có căn cứ, đúng pháp luật, không để xảy ra tình
trạng bắt, tạm giữ, tạm giam oan, sai hoặc không cần thiết nhằm phục vụ có
hiệu quả cho việc điều tra, truy tố người phạm tội ra trước Tòa án. VKS kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong việc áp dụng các BPNC này nhằm phát hiện
kịp thời vi phạm pháp luật của cơ quan và người THTT, áp dụng những biện
pháp do BLTTHS quy định để loại trừ việc vi phạm pháp luật của những cơ
quan và cá nhân này. Ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự, VKSND có trách
nhiệm thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
việc bắt, tạm giữ, tạm giam của CQĐT và các cơ quan khác được giao nhiệm
vụ tiến hành một số hoạt động điều tra thể hiện qua việc VKS là cơ quan có
nhiệm vụ, quyền hạn mang tính chất quyết định như quyết định việc phê


16

chuẩn, không phê chuẩn các lệnh, quyết định bắt, tạm giữ, tạm giam của
CQĐT; quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các BPNC trong giai đoạn điều
tra, truy tố vụ án hình sự. Trong giai đoạn xét xử, VKS thực hiện chức năng

kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc bắt, tạm giam của Tòa án tuân thủ
đúng quy định về trình tự, thủ tục, nội dung, hình thức và tính có căn cứ; kiểm
sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan, đơn vị trực tiếp thực hiện quyết định
áp dụng các BPNC nhằm đảm bảo các quyền và lợi ích hợp pháp của người
áp dụng các BPNC được tôn trọng và bảo vệ.
Mặc dù VKS có hai chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động tư pháp nhưng hai chức năng này có mối quan hệ mật thiết với nhau, chỉ
mang tính độc lập tương đối. BLTTHS không có quy định cụ thể từng chức
năng của VKS trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam, các quy định của BLTTHS
về bắt, tạm giữ, tạm giam chỉ quy định căn cứ, nội dung, thẩm quyền, trình tự,
thủ tục áp dụng BPNC mà không quy định những nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể
nào của VKS thuộc về chức năng thực hành quyền công tố hay chức năng
kiểm sát các hoạt động tư pháp. Chính vì vậy việc nghiên cứu nhiệm vụ,
quyền hạn của VKS trong việc bắt, tạm giữ, tạm giam được tiến hành trên cơ
sở các quy định của BLTTHS về bắt, tạm giữ, tạm giam.
1.2.1. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong việc bắt tạm giam bị
can, bị cáo và tạm giam
Bắt bị can, bị cáo để tạm giam và tạm giam bị can, bị cáo là hai biện
pháp ngăn chặn độc lập trong BLTTHS. Đây là những biện pháp ngăn chăn
nghiêm khắc nhất, chỉ áp dụng đối với bị can, bị cáo. Đối với cả hai trường
hợp này VKS chỉ phê chuẩn lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam, lệnh tạm
giam của CQĐT khi hồ sơ đề nghị phê chuẩn phải đảm bảo một trong các căn
cứ quy định tại khoản 1 Điều 88 BLTTHS. Điều 80 BLTTHS không quy định


17

căn cứ bắt bị can, bị cáo để tạm giam nhưng cần xác định căn cứ tạm giam
được quy định tại khoản 1 Điều 88 BLTTHS. Trong giai đoạn truy tố, xét xử,
VKS và Tòa án có quyền độc lập ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam khi

xét thấy có đủ căn cứ và cần thiết. Đối với bị can, bị cáo đang bị tạm giam,
VKS, Tòa án không ra lệnh bắt bị can, bị cáo để tạm giam mà ra lệnh tạm
giam. Khoản 2 Điều 88 BLTTHS quy định những trường hợp không áp dụng
biện pháp tạm giam, đó cũng là những trường hợp không áp dụng biện pháp
bắt bị can, bị cáo để tạm giam. Quy định này nhằm hạn chế việc áp dụng
BPNC tạm giam đối với bị can, bị cáo trong một số trường hợp cụ thể, vì vậy
trong trường hợp bị can, bị cáo là phụ nữ thì VKS không phê chuẩn lệnh tạm
giam, lệnh bắt bị can để tạm giam nếu có tài liệu thể hiện bị can, bị cáo đang
mang thai hoặc đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi; đối với người già là
người từ đủ 60 tuổi trở lên và ở trong tình trạng sức khỏe yếu, suy kiệt; người
bị bệnh nặng là người mắc bệnh hiểm nghèo như ung thư giai đoạn cuối. Khi
kiểm sát hoạt động tư pháp trong việc bắt bị can, bị cáo để tạm giam và tạm
giam, VKS phải kiểm tra hồ sơ, tài liệu nhằm đảm bảo đúng quy định về thẩm
quyền, nội dung, thủ tục bắt và tạm giam quy định tại Điều 80, 84 và khoản 4
Điều 88 BLTTHS. Nếu chưa đầy đủ thì VKS phải yêu cầu CQĐT, Tòa án
khắc phục kịp thời.
1.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong việc bắt khẩn cấp
Khác với trường hợp bắt người có sự phê chuẩn trước của VKS, lệnh bắt
người trong trường hợp khẩn cấp không cần có sự phê chuẩn trước của VKS,
nhưng trong mọi trường hợp, sau khi đã bắt, người ra lệnh bắt phải báo ngay
cho VKS cùng cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn
cấp để xét phê chuẩn. Trong trường hợp CQĐT trả tự do cho người bị bắt
ngay trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi đã dẫn giải người bị bắt về đến trụ sở,
thì CQĐT vẫn phải thông báo ngay việc bắt khẩn cấp cho VKS biết. Khác với


18

việc bắt người trong trường hợp phạm tội quả tang, trước khi bắt người trong
trường hợp khẩn cấp, CQĐT phải kiểm tra, xác minh, thu thập tài liệu làm căn

cứ của việc bắt khẩn cấp. Để đảm bảo việc bắt người trong trường hợp khẩn
cấp được thận trọng, chính xác, tránh bị lạm dụng, bảo đảm các quyền và lợi
ích của người bị bắt, BLTTHS quy định VKS phải kiểm sát chặt chẽ việc bắt
khẩn cấp. Vì vậy khi nhận được đề nghị xét phê chuẩn việc bắt người trong
trường hợp khẩn cấp của CQĐT và của những người có thẩm quyền, VKS
phải nghiên cứu hồ sơ, kiểm tra căn cứ bắt khẩn cấp đối với từng trường hợp
cụ thể, đó là: Về mặt hình thức, Thứ nhất, phải xem xét hồ sơ đề nghị đã đầy
đủ các tài liệu cần thiết cho một hồ sơ đề nghị phê chuẩn việc bắt khẩn cấp
hay chưa. Cụ thể là đã có: Công văn đề nghị VKS phê chuẩn việc bắt khẩn
cấp; lệnh bắt khẩn cấp; biên bản bắt người trong trường hợp khẩn cấp; tin báo,
tố giác về tội phạm; kiến nghị khởi tố của cơ quan Nhà nước; các tài liệu liên
quan làm căn cứ cho việc quyết định bắt khẩn cấp; tài liệu về nhân thân người
bị bắt; lời khai của người bị bắt khẩn cấp (nếu có). Thứ hai, các tài liệu nêu
trên đã đảm bảo về mặt hình thức của một văn bản pháp lý hay chưa; Thứ ba,
nếu người bị bắt mà có đồ vật, tài liệu, thì việc tạm giữ đồ vật, tài liệu của
người bị bắt đã được thực hiện theo quy định tại các điều 75, 76 BLTTHS
chưa; CQĐT đã thông báo cho gia đình người bị bắt chưa. Theo quy định, thì
ngay sau khi bắt, CQĐT phải thông báo cho gia đình người bị bắt biết. Thông
báo ngay có nghĩa là thông báo liền sau khi người đó bị bắt, không bị gián
đoạn về mặt thời gian. Đây là một điểm rất quan trọng để gia đình người bị
bắt cùng với VKS giám sát việc bắt, giữ của CQĐT. Tránh trường hợp CQĐT
thông báo cho gia đình người bị bắt rất chậm, làm cho việc giám sát ngay từ
đầu của gia đình người bị bắt hạn chế. Về mặt nội dung, hồ sơ đề nghị phê
chuẩn việc bắt người trong trường hợp khẩn cấp phải có đủ tài liệu chứng cứ
chứng minh có ít nhất một trong ba điều kiện quy định tại Khoản 1 Điều 81


19

BLTTHS [13].

Trường hợp bắt khẩn cấp theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 81
BLTTHS, thì trong hồ sơ phải có tài liệu chứng minh các căn cứ cho rằng,
người đó đang tìm kiếm, sửa soạn công cụ, phương tiện phạm tội hoặc tạo ra
những điều kiện cần thiết để thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc đặc
biệt nghiêm trọng. Đối với người đang chuẩn bị thực hiện tội phạm ít nghiêm
trọng hoặc nghiêm trọng thì VKS phải từ chối phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp
của CQĐT. Đối với trường hợp bắt khẩn cấp theo quy định tại điểm b Khoản
1 Điều 81 BLTTHS, thì trong hồ sơ đề nghị phê chuẩn phải có tài liệu phản
ánh hai điều kiện: Một là, người bị hại hoặc người có mặt ở nơi xảy ra tôi
phạm chính mắt trông thấy người đã thực hiện tội phạm, nay gặp lại và xác
nhận đây đúng là người đã thực hiện tội phạm. Hai là, có tài liệu, chứng cứ
thực tế khẳng định người đã thực hiện tội phạm này đang trốn hoặc có thể
trốn, thấy cần ngăn chặn ngay việc bỏ trốn của người đó. Nếu bắt khẩn cấp
theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 81 BLTTHS, thì trong hồ sơ phải thể
hiện các tài liệu ghi nhận được dấu vết, tài liệu, đồ vật liên quan đến tội phạm
ở người hoặc tại chỗ ở, nơi làm việc của người bị nghi thực hiện tội phạm đó
và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.
Trong trường hợp có nghi ngờ về tài liệu, chứng cứ chứng minh căn cứ của
việc bắt khẩn cấp, lý do bắt khẩn cấp không rõ ràng hoặc người bị bắt không
phạm tội; người bị bắt là người nước ngoài, có chức sắc trong tôn giáo, trong
dân tộc thiểu số hoặc có địa vị cao trong xã hội… thì Kiểm sát viên được
phân công trực tiếp gặp, hỏi người bị bắt trước khi đề xuất lãnh đạo VKS
quyết định phê chuẩn hoặc không phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp. Trước khi
gặp, hỏi người bị bắt khẩn cấp, Kiểm sát viên phải thông báo để CQĐT tạo
điều kiện cho Kiểm sát viên thực hiện nhiệm vụ hoặc để phối hợp trong quá
trình gặp, hỏi người bị bắt. Biên bản ghi lời khai của người bị bắt do Kiểm sát
viên lập phải được chuyển cho CQĐT để đưa vào hồ sơ vụ án. Nếu xét thấy


20


việc bắt khẩn cấp không đúng quy định của BLTTHS, thì Kiểm sát viên đề
xuất với lãnh đạo VKS không phê chuẩn và ban hành văn bản yêu cầu CQĐT
trả tự do ngay cho người bị bắt. Trường hợp ủy thác bắt khẩn cấp thì ngay sau
khi kết thúc việc bắt khẩn cấp, CQĐT được ủy thác phải thông báo ngay cho
CQĐT đã ủy thác đến nhận người bị bắt và các tài liệu liên quan. Khi đã dẫn
giải người bị bắt về đến trụ sở của mình, CQĐT thụ lý vụ án phải chuyển
ngay hồ sơ kèm theo quyết định ủy thác việc bắt khẩn cấp cho VKS cùng cấp
để xét phê chuẩn. Khi tiến hành xét phê chuẩn, ngoài việc kiểm tra các căn cứ
bắt khẩn cấp, VKS nơi CQĐT ủy thác phải kiểm tra việc ủy thác và nhận ủy
thác của các CQĐT có đúng và đầy đủ thủ tục hay không.
Về thời hạn xét phê chuẩn bắt khẩn cấp, BLTTHS quy định trong thời
hạn 12 giờ kể từ khi VKS nhận được hồ sơ đề nghị xét phê chuẩn, VKS phải
ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Nếu phải trực tiếp
gặp, hỏi người bị bắt hoặc trong trường hợp phải xét phê chuẩn nhiều người
bị bắt khẩn cấp cùng một thời điểm hoặc vụ việc có nhiều tình tiết phức tạp
thì thời hạn này cũng không được quá 12 giờ. Thời hạn xét phê chuẩn được
tính liên tục cả trong và ngoài giờ làm việc nên trong thời hạn 12 giờ, VKS
phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn và phải gửi
các quyết định đó cho người ra lệnh bắt.
Về thẩm quyền ra lệnh bắt người trong trường hợp khẩn cấp, khi nghiên
cứu phê chuẩn lệnh bắt khẩn cấp của CQĐT, VKS phải kiểm tra xem người
ký lệnh bắt khẩn cấp có đúng thẩm quyền theo quy định tại khoản 2 Điều 81
BLTTHS hay không, nếu chưa đảm bảo thì phải yêu cầu người có thẩm quyền
khắc phục ngay.
1.2.3. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong việc bắt người phạm
tội quả tang hoặc đang bị truy nã
Theo quy định tại Điều 82 BLTTHS, đối với người phạm tội quả tang



×