Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Phòng, chống vi phạm pháp luật của người chưa thành niên ở tỉnh hà tĩnh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (687.71 KB, 86 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

ĐINH VĂN HỒNG

PHÒNG, CHỐNG VI PHẠM PHÁP LUẬT CỦA
NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN Ở HÀ TĨNH HIỆN NAY

Chuyên ngành: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
Mã số:

: 60.38.01.01

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS - TS THÁI VĨNH THẮNG

HÀ NỘI, NĂM 2013


2

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu kết
quả trong luận văn đều là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn chƣa
từng đƣợc công bố trong bất cứ công trình khoa học nào.
Tác giả luận văn



§§


3

LỜI CẢM ƠN

Tác giả luận văn xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến GS - TS Thái Vĩnh
Thắng - ngƣời đã dành nhiều thời gian, tâm huyết, tận tâm hƣớng dẫn, giúp đỡ
hoàn thành luận văn này. Đồng thời, xin gửi lời cảm ơn trân trọng đến các thầy
giáo, cô giáo Khoa Sau đại học, Tổ bộ môn Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp
luật - Khoa Hành chính nhà nƣớc, trƣờng Đại học Luật Hà Nội, cùng gia đình, bạn
bè, đồng nghiệp đã tạo điều kiện giúp đỡ tác giả trong quá trình học tập và hoàn
thành luận văn này !
Tác giả luận văn

§§


4

MỤC LỤC
Mục

Nội dung

Trang

PHẦN MỞ ĐẦU


6

1.

Tính cấp thiết của đề tài

6

2

Tình hình nghiên cứu

8

3.

Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

9

4.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

10

5.

Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu


10

6.

Bố cục của luận văn

10
Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC PHÒNG, CHỐNG VI PHẠM PHÁP LUẬT
CỦA NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN Ở TỈNH HÀ TĨNH HIỆN NAY

11

Quan điểm của Đảng và nhà nƣớc ta trong chăm sóc, giáo dục thanh, thiếu nhi
và đấu tranh phòng, chống VPPL của NCTN

11

1.2

Nhận thức về VPPL trong lứa tuổi vị thành niên

15

1.3

Nhận thức về công tác phòng, chống VPPL do NCTN gây ra


24

1.4

Căn cứ pháp lý để đấu tranh phòng, chống VPPL của NCTN

25

1.5
1.6

Khái niệm, nội dung phòng, chống vi phạm phạm pháp luật của NCTN
Các chủ thể và mối quan hệ của các chủ thể trong phòng, chống, VPPL của
NCTN

26
30

1.7

Vai trò, ý nghĩa của phòng, chống VPPL của NCTN

33

1.8

Thực trạng vi phạm pháp luật của ngƣời chƣa thành niên ở tỉnh Hà Tĩnh hiện
nay

34


1.1

Chương 2
TÌNH HÌNH VI PHẠM PHÁP LUẬT, THỰC TRẠNG PHÒNG, CHỐNG
NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN VI PHẠM PHÁP LUẬT Ở TỈNH HÀ TĨNH HIỆN NAY
VÀ CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÒNG, CHỐNG VI PHẠM PHÁP LUẬT
CỦA NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN Ở TỈNH HÀ TĨNH TRONG THỜI GIAN TỚI

49

Những kết quả đạt đƣợc, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế trong phòng,
chống VPPL của NCTN ở tỉnh Hà Tĩnh

49

2.2

Dự báo tình hình NCTN VPPL ở tỉnh Hà Tĩnh trong thời gian tới

60

2.3

Một số định hƣớng nhằm nâng cao hiệu quả phòng, chống NCTN VPPL

62

2.4


Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động phòng, chống NCTN VPPL

65

2.1

PHẦN KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

§§

84


5

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

1. BLHS: Bộ luật Hình sự
2. BLTTHS: Bộ luật tố tụng Hình sự
2. CLB: Câu lạc bộ.
3. CA: Công an
4. NCTN: Ngƣời chƣa thành niên.
5. NXB: Nhà xuất bản
6. UBND: Uỷ ban nhân dân
7. VKS: Viện kiểm sát
8. VPPL: Vi phạm pháp luật.
9. TA: Toà án

§§



6

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hơn nửa thế kỷ giành và giữ độc lập, Đảng và Nhà nƣớc ta luôn quan tâm đặc
biệt đến việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nƣớc pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Cùng với quá trình xây dựng và hoàn thiện hệ thống luật pháp, công tác đấu tranh phòng,
chống VPPL luôn đƣợc coi là vấn đề căn bản và có ý nghĩa chiến lƣợc trong tiến trình
xây dựng và hoàn thiện nhà nƣớc pháp quyền Xã hội chủ nghĩa, thể hiện bản chất nhân
văn, nhân đạo của pháp luật Xã hội chủ nghĩa, coi đó là điều kiện cần thiết, để phát triển
kinh tế, văn hoá, xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh ở nƣớc ta.
Cùng với quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới, dƣới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Đất nƣớc ta tiếp tục thực hiện toàn diện công cuộc đổi mới về kinh
tế - xã hội; nhiệm vụ cực kỳ quan trọng đặt ra trƣớc Đảng, nhà nƣớc, đó là phải giữ vững
ổn định chính trị, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội. Để thực hiện nhiệm vụ chiến lƣợc đó,
Đảng và nhà nƣớc ta đã đề ra nhiều chƣơng trình phòng, chống VPPL, đấu tranh phòng,
chống tội phạm và tệ nạn xã hội, trong đó có chƣơng trình phòng, chống NCTN VPPL.
Thanh, thiếu niên là lực lƣợng xã hội to lớn, là nguồn lực, là sức sống hiện tại và
tƣơng lai của một quốc gia, dân tộc, vì vậy việc chăm sóc và giáo dục thế hệ trẻ là một
trong những nhiệm vụ hàng đầu, là vấn đề chiến lƣợc mà Đảng và Nhà nƣớc ta đặc biệt
quan tâm. Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu của chúng ta đã căn dặn: “Bồi dưỡng thế hệ
cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết” [14, 2].
Do đặc điểm tâm lý lứa tuổi, thanh, thiếu niên thƣờng ham hiểu biết, dễ nhạy
cảm, thƣờng nhanh chóng tiếp thu, thích nghi với cái mới, luôn có nhu cầu thể hiện,
khẳng định bản thân. Đa số có ý chí phấn đấu học tập vƣơn lên. Tuy nhiên, còn có một
bộ phận thanh, thiếu niên, thiếu bản lĩnh, ý chí vƣơn lên, không chịu học tập, lao động,
có những nhận thức sai lệch, sa ngã vào các tệ nạn xã hội, bị kích động, dụ dỗ, lôi kéo,
tham gia vào các hoạt động VPPL, nguy hiểm hơn là đi vào con đƣờng phạm tội, gây ra

những hậu quả xấu cho xã hội và dƣ luận không tốt trong nhân dân.
Với yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới, tháng 12 năm 2011, Thủ tƣớng Chính
phủ nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã phê duyệt Chiến lƣợc phát triển thanh
niên Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020, với mục tiêu xây dựng thế hệ thanh niên Việt Nam

§§


7

phát triển toàn diện; có trình độ học vấn, nghề nghiệp và việc làm; hình thành nguồn
nhân lực trẻ có chất lƣợng cao, đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa và hội nhập quốc tế. Để thực hiện đƣợc yêu cầu nhiệm vụ đó, Chính phủ cũng
đặt ra trách nhiệm cho các bộ, ngành và các địa phƣơng phải giải quyết đồng bộ các giải
pháp, trong đó, tập trung nâng cao chất lƣợng giáo dục và đạo tạo, thực hiện các chính
sách về việc làm, tăng cƣờng phát triển y tế, nâng cao đời sống văn hóa, tinh thần cho
thanh niên…, quan tâm giáo dục tầng lớp thanh, thiếu niên, nâng cao ý thức tôn trọng và
chấp hành pháp luật cho họ, nhằm phòng ngừa, ngăn chặn những hành vi VPPL trong bộ
phận lớp trẻ hiện nay.
Đối với nƣớc ta, vấn đề ngƣời chƣa thành niên trong những năm gần đây, thực sự
rất đƣợc quan tâm, khi tình trạng VPPL nói chung và tình trạng phạm tội ở NCTN ngày
càng gia tăng và có chiều hƣớng phát triển phức tạp cả về số lƣợng và tính chất nguy
hiểm. “Qua thống kê của Bộ Công an từ năm 2007 đến nay, chỉ riêng tỷ lệ phạm pháp
hình sự của lứa tuổi thanh, thiếu niên ở nước ta chiếm từ 75- 80% (lứa tuổi từ 14 đến 30
tuổi), trong đó, số đối tượng là NCTN (lứa tuổi từ 14 đến dưới 18 tuổi) chiếm 10% - 15%
của tổng số đối tượng phạm tội. Riêng trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh, từ năm 2007 đến nay,
xảy ra 2.160 vụ phạm pháp hình sự với 3.762 đối tượng, trong đó số vụ do NCTN (từ 14
đến dưới 18 tuổi) chiếm khoảng 14% tổng số đối tượng phạm tội”

[10, 1]. Điều đó cũng


cho thấy, sự đáng lo ngại về tính “trẻ hóa” của thành phần đối tƣợng phạm tội. Đặc biệt,
càng nguy hiểm hơn số đối tƣợng NCTN không chỉ gây ra những loại tội phạm thông
thƣờng nhƣ: trộm cắp tài sản, cố ý gây thƣơng tích… mà còn thực hiện nhiều loại tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng nhƣ giết ngƣời, cƣớp tài sản, cƣớp giật tài sản, hiếp dâm…,
cùng với đó là việc sử dụng vũ khí nóng, hoạt động theo băng, ổ nhóm tội phạm. Tình
trạng đó đặt ra nhiệm vụ cấp bách cho các ngành, các cấp và toàn xã hội phải tập trung
phát hiện, đấu tranh, nghiên cứu để đƣa ra những giải pháp hữu hiệu làm giảm tình trạng
vi phạm pháp luật ở lứa tuổi thanh, thiếu niên nói chung và NCTN nói riêng.
Tại tỉnh Hà Tĩnh, cấp uỷ, chính quyền và các ban, ngành, đoàn thể đã nhận thức
đƣợc vai trò, vị trí của thanh, thiếu niên, thấy đƣợc thực trạng đáng báo động về tình
hình thanh, thiếu niên VPPL, nên đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, chuyên đề về
thanh niên, UBND các cấp đã có đề án đấu tranh phòng, chống VPPL của NCTN; các
ban, ngành, đoàn thể đã có các chƣơng trình hành động phối hợp, nhằm đấu tranh có

§§


8

hiệu quả với tình hình NCTN VPPL. Song, nhìn vào thực tế, sau nhiều năm tập trung
thực hiện công tác đấu tranh phòng, chống VPPL ở NCTN ở tỉnh Hà Tĩnh, kết quả đạt
chƣa cao, thậm chí còn tăng về số vụ việc và mức độ vi phạm, phƣơng diện hoạt động
phòng ngừa, ngăn chặn chƣa thật cụ thể, một số năm gần đây xảy ra một số vụ trọng án
mà đối tƣợng là những NCTN gây ra.
Những vấn đề trên, đang đòi hỏi sự nghiên cứu đầy đủ, cụ thể, rõ ràng, có luận cứ
khoa học, góp phần hoàn thiện về lý luận cũng nhƣ đƣa ra các giải pháp phù hợp, nhằm
nâng cao hiệu quả phòng ngừa, ngăn chặn NCTN vi phạm pháp luật trên địa bàn tỉnh Hà
Tĩnh. Đó chính là lý do, để tôi chọn đề tài: “Phòng, chống vi phạm pháp luật của người
chưa thành niên ở tỉnh Hà Tĩnh hiện nay” để nghiên cứu làm luận văn thạc sỹ luật học.

2. Tình hình nghiên cứu
Nghiên cứu vấn đề vi phạm pháp luật của ngƣời chƣa thành niên, đã có nhiều bài
viết, sách, báo, tạp chí đƣợc các tác giả đề cập dƣới nhiều góc độ khác nhau, nhƣ: sách
“Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm” của PGS, TS Phạm Xuân Yêm, do
NXB Công an nhân dân ấn hành; bài viết “Gia đình, nhà trường và xã hội là môi trường
hình thành nên nhân cách con người” của tác giả Lê Văn Sua, đăng trên tạp chí Dân chủ,
pháp luật, số 7, năm 2005; bài viết “Đặc điểm và một số nguyên nhân dẫn đến vi phạm
pháp luật của người chưa thành niên”, đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 14,
năm 2012 ; bài viết: “Thực trạng và giải pháp phòng, chống vi phạm pháp luật của
người chưa thành niên” đăng trên tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 19, năm 2009; bài viết
tình hình và giải pháp ngăn ngừa tình trạng vi phạm pháp luật của học sinh, sinh viên”
của tác giải Đặng Trần Thanh Ngọc, đăng trên tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật, số 2 năm
2010; Tài liệu tập huấn tƣ pháp ngƣời chƣa thành niên của Bộ Lao động thƣơng binh và
xã hội – Unicef, do nhà xuất bản Lao động ấn hành; Các bài tham luận tại hội thảo về
phòng chống trẻ em làm trái pháp luật do Cục cảnh sát quản lý hành chính và trật tự xã
hội, tổ chức tại Quảng Bình, năm 2012.
Đối với Hà Tĩnh, nghiên cứu vấn đề này, đã có rất nhiều báo cáo đánh giá của
ngành công an, UBND các cấp trong việc thực hiện đề án phòng ngừa trẻ em vi phạm
pháp luật và đề tài khoa học cấp tỉnh: “Thực trạng và giải pháp phòng chống trẻ em
phạm tội trên địa bàn Hà Tĩnh”.

§§


9

Tuy nhiên, các bài viết, sách, báo, đề tài ở trên mới chỉ đề cập vấn đề này ở một
góc độ chung, chƣa phản ánh cụ thể các vấn đề lý luận liên quan đến ngƣời chƣa thành
niên, ngƣời chƣa thành niên vi phạm pháp luật và thực trạng vi phạm pháp luật của
ngƣời chƣa thành niên ở Hà Tĩnh, cũng nhƣ các giải pháp cụ thể, hữu hiệu để phòng

chống ngƣời chƣa thành niên vi phạm pháp luật trên địa bàn Hà Tĩnh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích: Luận văn nghiên cứu một cách cụ thể hệ thống cơ sở lý luận, cơ sở
pháp lý của việc phòng, chống NCTN VPPL, những vấn đề liên quan đến ngƣời chƣa
thành niên; thực trạng NCTN VPPL và công tác phòng, chống NCTN VPPL trong
những năm gần đây, trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh. Tìm ra những hạn chế, tồn tại, từ đó, đề
ra những giải pháp phòng, chống có hiệu quả, khắc phục những hạn chế, thiếu sót trong
công tác phòng, chống NCTN VPPL ở tỉnh Hà Tĩnh.
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần bổ sung, phát triển những vấn đề lý luận
cần thiết, để làm phong phú, hoàn thiện một bƣớc hệ thống lý luận và các giải pháp hữu
hiệu về phòng, chống VPPL nói chung và phòng, chống NCTN VPPL nói riêng trong
tình hình hiện nay ở tỉnh Hà Tĩnh.
* Nhiệm vụ: Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn đòi hỏi sự cần thiết phải
tiến hành công tác phòng, chống NCTN VPPL. Nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở pháp
lý về phòng, chống NCTN VPPL. Nghiên cứu thực trạng NCTN VPPL trên địa bàn tỉnh
Hà Tĩnh trong những năm gần đây và xác định những nguyên nhân, dẫn đến NCTN
VPPL. Đánh giá kết quả triển khai thực hiện công tác phòng, chống NCTN VPPL; tiến
hành dự báo tình hình NCTN VPPL trong thời gian tới; đề xuất những biện pháp tích
cực, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động phòng, chống NCTN VPPL trên địa bàn tỉnh
Hà Tĩnh.

§§


10

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi luận văn này, đối tƣợng nghiên cứu đƣợc xác định bao gồm các nội
dung đó là: Những vấn đề lý luận về NCTN, NCTN VPPL và thực trạng về NCTN
VPPL ở tỉnh Hà Tĩnh trong thời gian hiện nay. Nghiên cứu thực trạng và hạn chế của

công tác phòng, chống NCTN VPPL ở tỉnh Hà Tĩnh trong thời gian hiện nay. Kiến nghị
một số giải pháp nhằm phòng, chống có hiệu quả NCTN VPPL ở tỉnh Hà Tĩnh.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn đƣợc nghiên cứu, dựa trên cơ sở lý luận và phƣơng pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lê nin về phép duy vật biện chứng, duy vật lịch sữ; tƣ tƣởng Hồ Chí Minh
và những chủ trƣơng, đƣờng lối, quan điểm của Đảng và nhà nƣớc ta về thanh, thiếu nhi
và công tác phòng, chống NCTN VPPL.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phƣơng pháp nghiên
cứu: Tổng hợp, phân tích, so sánh gắn với các ví dụ minh hoạ thực tế.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
đƣợc cấu trúc thành 2 chƣơng, 13 mục.

§§


11

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC PHÒNG, CHỐNG VI PHẠM PHÁP LUẬT
CỦA NGƢỜI CHƢA THÀNH NIÊN Ở TỈNH HÀ TĨNH HIỆN NAY

1.1. Quan điểm của Đảng và nhà nƣớc ta trong chăm sóc, giáo dục thanh,
thiếu nhi và đấu tranh phòng, chống VPPL của NCTN
Từ sau Cách mạng tháng Tám đến nay, Đảng, Nhà nƣớc và nhân dân ta đã luôn
luôn quan tâm, chăm lo cho trẻ em các dân tộc Việt Nam. Thực tế cho thấy, tuổi trẻ là
khởi đầu của một đời ngƣời, NCTN là thế hệ kế cận chuẩn bị bƣớc vào lứa tuổi trƣởng
thành để trở thành chủ nhân đất nƣớc. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam,
Đảng ta luôn đánh giá đúng đắn vai trò của thế hệ trẻ, đặt niềm tin sâu sắc vào thế hệ trẻ,
thƣờng xuyên chăm lo, bồi dƣỡng, giáo dục và tạo điều kiện để hệ trẻ nhanh chóng phát

triển, trƣởng thành, phát huy tiềm năng to lớn trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ
quốc.
Sinh thời, Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã dành muôn vàn tình thƣơng yêu sâu
sắc, chăm sóc, dìu dắt, giáo dục thanh, thiếu niên và nhi đồng - lớp tuổi trẻ tƣơng lai của
đất nƣớc. Bác đặt niềm tin vào thế hệ trẻ, mong mõi thanh, thiếu nhi Việt Nam là lực
lƣợng kế tục sự nghiệp cách mạng của Đảng và truyền thống quý báu, tốt đẹp của dân
tộc. Trong thƣ gửi các cháu thiếu niên và nhi đồng nhân ngày khai trƣờng đầu tiên dƣới
chế độ mới, Ngƣời căn dặn “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc
Việt Nam có được vẻ vang sánh vai với các cường quốc năm châu hay không, chính là
nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu”. Xuyên suốt quá trình giành, giữ độc lập
và xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta luôn đánh giá cao vai trò, tính tiên phong cách
mạng của thế hệ trẻ; Nghị quyết 25 của Bộ Chính trị, Ban chấp hành Trung ƣơng khoá V
đã chỉ rõ: “Nhà nước coi công tác thanh niên là bộ phận quan trọng trong phát triển kinh
tế xã hội”. Và tiếp tục khẳng định: “Làm tốt công tác thanh niên là một nhiệm vụ chính
trị có ý nghĩa chiến lược đối với tương lai của dân tộc và vận mệnh của tổ quốc”…Nghị
quyết 04 ngày 14/01/1993 của Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng cũng nhấn mạnh đến
công tác giáo dục thế hệ trẻ trong giai đoạn cách mạng mới. Từ Hiến pháp năm 1992, các
BLHS, Bộ luật Dân sự, Luật TTHS, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính đã có những chế
định cụ thể làm cơ sở pháp lý trong bảo vệ các quyền tự do cơ bản của NCTN, phù hợp
với truyền thống đạo lý, tính nhân đạo, nhân văn của ngƣời Việt Nam. . . Bên cạnh đó,

§§


12

một số luật nhƣ: Luật Hôn nhân và gia đình, quy định quyền nghĩa vụ của cha mẹ đối với
giáo dục con cái. Luật Bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em, cũng quy định trách nhiệm
trong bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em, đó là trách nhiệm của gia đình, nhà trƣờng,
nhà nƣớc, xã hội và mọi công dân.

Tại Hội nghị toàn quốc về công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em năm
2001, nguyên Tổng Bí thƣ Lê Khả Phiêu đã nêu rõ quan điểm cơ bản chi phối toàn bộ
đƣờng lối của Đảng ta là “coi trọng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự
nghiệp phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mà trẻ em là tương lai của
dân tộc. Các em sẽ là lớp người kế tục sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nhưng khi
các em còn chưa phát triển đầy đủ, còn non nớt cả về thể chất lẫn tinh thần, dễ bị tổn
thương thì việc bảo vệ, chăm sóc về giáo dục trẻ em luôn luôn là mối quan tâm đặc biệt,
hàng đầu của Đảng và Nhà nước ta. Đó không chỉ thể hiện tình cảm và đạo lý của dân
tộc, mà còn là trách nhiệm chính trị của tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể, là nhiệm
vụ của mỗi công dân, mỗi gia đình và xã hội”. “Trong phạm vi quốc gia, ưu tiên cho trẻ
em có nghĩa là các vấn đề chăm sóc, bảo vệ, phát triển trẻ em, trở thành một bộ phận
không thể thiếu được trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội. Đảng và
Nhà nước phải thực hiện chính sách đầu tư ngày một tăng, để mọi trẻ em đều có cơ hội
được hưởng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, văn hóa, thể thao. . . một cách bình đẳng”
[2, 7].
Trong giai đoạn hiện nay, Bộ Chính trị vừa ra Chỉ thị số 20/CT/TW, ngày
15/11/2012, về việc tăng cƣờng sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác chăm sóc, giáo
dục và bảo vệ trẻ em trong tình hình mới. Chỉ thị nêu rõ: Sau hơn 10 năm thực hiện Chỉ
thị số 55-CT/TW, ngày 28/6/2000 cuả Bộ Chính trị khóa VIII, công tác bảo vệ, chăm sóc
và giáo dục trẻ em đã có sự chuyển biến tích cực và đạt đƣợc một số kết quả quan trọng.
Hệ thống pháp luật, công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đã từng bƣớc đƣợc
hoàn thiện. Công tác quản lý nhà nƣớc về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em đƣợc tăng
cƣờng.
Tuy nhiên, Chỉ thị cũng nêu rõ: Công tác bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em vẫn
còn một số hạn chế, yếu kém. Hệ thống pháp luật, chính sách về chăm sóc, giáo dục và
bảo vệ trẻ em chƣa hoàn thiện. Nhiều mục tiêu cụ thể quan trọng trong Chƣơng trình
hành động quốc gia vì trẻ em Việt Nam giai đoạn 2001 - 2010 thực hiện chƣa đạt. Đạo

§§



13

đức, lối sống xuống cấp, lệch chuẩn của một bộ phận trẻ em đang trở thành nỗi lo của gia
đình và xã hội. Tình trạng trẻ em bị xâm hại tình dục, bạo lực, bị lạm dụng sức lao động
có xu hƣớng gia tăng, tính chất ngày càng nghiêm trọng. Tình trạng trẻ em phạm tội, trẻ
em lang thang, bị tai nạn, bị ảnh hƣởng bởi HIV/AIDS vẫn là những vấn đề xã hội bức
xúc…Các điểm vui chơi và các hình thức giải trí phù hợp với trẻ em còn thiếu. Tình trạng
học sinh bỏ học còn khá phổ biến ở miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc
thiểu số. Nguồn lực trong xã hội dành cho sự nghiệp chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em
chƣa đáp ứng yêu cầu. Huy động cộng đồng vào chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em,
nhất là ở nông thôn còn yếu.
Chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em là vấn đề có tính chiến lƣợc, lâu dài, góp phần
quan trọng vào việc chuẩn bị và nâng cao chất lƣợng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc. Làm tốt công tác này là trách nhiệm của các cấp
ủy đảng, chính quyền, tổ chức đoàn thể, gia đình, nhà trƣờng và toàn xã hội. Để tăng
cƣờng công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em trong thời gian tới, Bộ Chính trị yêu
cầu quán triệt và thực hiện tốt một số nhiệm vụ trọng tâm sau đây:
Một là: Các cấp ủy đảng, chính quyền cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo
dục và vận động để mọi ngƣời dân thấy đƣợc tính cấp bách và tầm quan trọng của công
tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em. Kịp thời tuyên truyền các điển hình tiên tiến, các
tấm gƣơng ngƣời tốt, việc tốt; quan tâm giáo dục pháp luật, kiến thức, kỹ năng chăm sóc,
giáo dục và bảo vệ trẻ em; phê phán, lên án các hành vi VPPL, xâm hại, bạo lực, lôi kéo trẻ
em vào hoạt động tội phạm và cản trở việc thực hiện các quyền của trẻ em.

Hai là: Rà soát, sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách về
chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em theo hƣớng mở rộng chính sách an sinh xã hội, phúc
lợi xã hội cho trẻ em, đặc biệt là trẻ em thuộc gia đình nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng
dân tộc thiểu số; gắn với Chiến lƣợc phát triển gia đình Việt Nam đến năm 2020, tầm
nhìn 2030; Chƣơng trình hành động quốc gia vì trẻ em giai đoạn 2012 - 2020; Chƣơng

trình xây dựng nông thôn mới, xây dựng trƣờng học an toàn, thân thiện và xây dựng cộng
đồng vững mạnh.
Ba là: Xây dựng và thực hiện có hiệu quả các chƣơng trình, kế hoạch hàng năm và
5 năm về công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em phù hợp với tình hình phát triển

§§


14

kinh tế - xã hội của đất nƣớc, của từng địa phƣơng, từng ngành. Chiến lƣợc phát triển
kinh tế, xã hội trong từng thời kỳ, cần xác định các mục tiêu chăm sóc, giáo dục và bảo
vệ trẻ em là một trong những nội dung trọng tâm của mục tiêu xã hội.
Bốn là: Xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các chƣơng trình, đề án chăm
sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em. Các địa phƣơng ƣu tiên bố trí quỹ đất cho việc xây dựng
các công trình phúc lợi cho trẻ em. Từng bƣớc bố trí tăng nguồn ngân sách cho sự nghiệp
chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em; trong đó ƣu tiên kinh phí đầu tƣ các công trình cho
trẻ em vùng dân tộc thiểu số, vùng đặc biệt khó khăn, trẻ em các gia đình chính sách, gia
đình nghèo và trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt.
Đẩy mạnh xã hội hóa công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ trẻ em theo hƣớng
nâng cao trách nhiệm của gia đình, nhà trƣờng, cộng đồng dân cƣ và các tổ chức chính trị
- xã hội. Khuyến khích sự đóng góp của các doanh nghiệp, các tổ chức, cá nhân cho các
hoạt động và công trình dành cho trẻ em. Tổ chức thực hiện tốt Công ƣớc Liên hợp quốc
về quyền trẻ em và các công ƣớc, điều ƣớc quốc tế khác có liên quan mà Nhà nƣớc Việt
Nam ký kết hoặc tham gia. Mở rộng, tăng cƣờng hợp tác quốc tế, khu vực nhằm trao đổi
kinh nghiệm, huy động nguồn lực bên ngoài cho công tác chăm sóc, giáo dục và bảo vệ
trẻ em.
Năm là: Tăng cƣờng quản lý nhà nƣớc, củng cố, kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ
làm công tác bảo vệ, chăm sóc trẻ em các cấp. Thƣờng xuyên thanh tra, kiểm tra, giám
sát việc chấp hành pháp luật, chính sách liên quan đến trẻ em và thực hiện các quyền của

trẻ em.
Sáu là: Tăng cƣờng phối hợp giữa nhà trƣờng, gia đình và xã hội, giữa các ban,
ngành, đoàn thể trong hoạt động chăm sóc, giáo dục, bảo vệ trẻ em; Tăng cƣờng giám sát
và phản biện xã hội đối với việc xây dựng và thực hiện chính sách, pháp luật liên quan
đến trẻ em; phát hiện, ngăn chặn, lên án các hành vi bạo lực, VPPL, vi phạm quyền trẻ
em.
Chiến lƣợc phát triển thanh niên Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020 cũng đã xác định
ba nội dung trọng tâm cần đạt trong xây dựng thế hệ thanh niên Việt Nam đó là: giáo dục
tƣ tƣởng, đạo đức lối sống lành mạnh cho thanh niên; quan tâm đào tạo nghề và giải quyết
việc làm cho thanh niên và xây dựng môi trƣờng, địa điểm vui chơi giải trí lành mạnh cho

§§


15

thanh, thiếu nhi. Thực hiện có hiệu quả công tác phòng, chống VPPL trong lứa tuổi vị thành
niên, làm tốt công tác tuyên truyền, định hƣớng giáo dục cho thanh thiếu niên sẽ tạo cơ sở
quan trọng cho việc thực hiện hiệu quả các yêu cầu nhiệm vụ trong chiến lƣợc phát triển con
ngƣời, xây dựng thế hệ trẻ vừa “hồng” vừa “chuyên” để trở thành nguồn nhân lực chất lƣợng
cao phục vụ công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế.

Đảng, nhà nƣớc ta luôn quán triệt: Trong đấu tranh NCTN VPPL luôn đặt việc
giáo dục thuyết phục lên hàng đầu. Việc xử lý NCTN VPPL phải chủ yếu lấy giáo dục
thuyết phục, giúp đỡ họ để họ trở thành công dân có ích cho xã hội. Đồng thời, phải xử lý
nghiêm những đối tƣợng NCTN VPPL nhiều lần, nghiêm trọng, kéo dài, đặc biệt là các
trƣờng hợp phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội có tổ chức. Công
tác phòng, chống NCTN VPPL phải đƣợc sự quan tâm của các cấp uỷ đảng, sự quản lý
trực tiếp, cụ thể và thƣờng xuyên của các cấp chính quyền. Phải sử dụng tổng hợp, có
hiệu quả các biện pháp về kinh tế, chính trị, xã hội, huy động đƣợc sự tham gia của các

cơ quan đoàn thể, tổ chức xã hội, gia đình và mọi công dân. Phải lấy biện pháp phòng
ngừa từ xa, ngăn chặn từ đầu, không cho NCTN vi phạm đạo đức xã hội và VPPL, nhất
là phạm tội và trƣợt dài trên con đƣờng phạm tội. Bên cạnh đó, phải biết phối hợp chặt
chẽ giữa nhà trƣờng, gia đình và xã hội trong đấu tranh phòng, chống NCTN VPPL luật
tạo thành một hệ thống quản lý, giáo dục về mặt tâm lý, xã hội đối với NCTN, tạo điều
kiện cho NCTN phát triển toàn diện. Sự phối hợp này sẽ tạo ra sự bổ sung các chức năng,
nhiệm vụ và thế mạnh cho nhau, giúp giáo dục và phòng, chống NCTN VPPL hiệu quả
hơn. Nâng cao ý thức của toàn xã hội và mọi công dân đối với công tác này, xã hội hoá
công tác phòng, chống NCTN VPPL. Việc chăm sóc, giáo dục, phòng - chống NCTN
VPPL không chỉ góp phần quan trọng đối với sự nghiệp giáo dục - đào tạo thế hệ trẻ, mà
góp phần không nhỏ đến việc giữ gìn trật tự, an toàn kỷ cƣơng xã hội và phù hợp với
truyền thống, đạo lý tốt đẹp của dân tộc ta, phù hợp với lƣơng tri tiến bộ của nhân loại,
đƣợc thể hiện trong Công ƣớc của liên hiệp quốc về quyền trẻ em, mà nƣớc ta là nƣớc
đầu tiên ở Châu Á, nƣớc thứ hai trên thế giới đã ký kết.
1.2 Nhận thức về VPPL trong lứa tuổi vị thành niên
1.2.1. Khái niệm về NCTN và đặc điểm của lứa tuổi chưa thành niên
Sự phát triển của trẻ em từ lúc chào đời đến khi trƣởng thành phụ thuộc vào rất
nhiều yếu tố có tác động lẫn nhau, bao gồm các yếu tố về điều kiện chăm sóc, môi trƣờng

§§


16

sống, sự giáo dục, dạy dỗ của gia đình, nhà trƣờng… Chính vì vậy, mỗi quốc gia khi thể
chế hóa các quy định liên quan đến NCTN đều có những quan điểm, cơ sở tiếp cận khác
nhau, điều đó phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, dân trí, phong
tục, tập quán của mỗi nƣớc.
Tại Điều 1, Công ƣớc quốc tế về quyền trẻ em có ghi: “Trong phạm vi của Công ước
này, trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em

có quy định tuổi thành niên sớm hơn” [13, 1]. Nhƣ vậy, có thể thấy việc quy định độ tuổi
còn phụ vào rất nhiều yếu tố, là điều kiện riêng có của mỗi quốc gia, nhà nƣớc.

Ở Việt Nam, độ tuổi NCTN đƣợc xác định thống nhất trong một số văn bản quy
phạm pháp luật. Ở các văn bản pháp luật này đều quy định tuổi của NCTN là dƣới 18
tuổi và đồng thời đều có những chế định pháp luật riêng áp dụng đối với NCTN theo từng
lĩnh vực, cụ thể:
Quy định về tuổi chịu trách nhiệm hình sự để áp dụng các chế định liên quan đến
NCTN, Điều 68, BLHS năm 1999 của nƣớc Cộng hòa XHCN Việt Nam chỉ rõ: “người
chưa thành niên từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự
theo những quy định của Chương này, đồng thời theo những quy định khác của phần
chung Bộ luật không trái với những quy định của Chương này” [30, 83]. Điều 12, Bộ
Luật hình sự năm 1999 cũng quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự, cụ thể:
1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình
sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng” [30, 52] .
Điều 18, Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Người từ đủ 18 tuổi trở lên là
người thành niên. Người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên” [29, 4]. Điều 161
Bộ luật Lao động năm 2012 cũng đã quy định: “Người lao động chưa thành niên là
người lao động dưới 18 tuổi” [32, 4]. . Tuy nhiên, khi nói về khái niệm trẻ em, Điều 1,
Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em năm 2004, lại xác định: “Trẻ em là công dân
Việt Nam dưới 16 tuổi”. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính hiện hành quy định NCTN
thuộc đối tƣợng bị xử lý vi phạm hành chính bao gồm: NCTN từ đủ 14 đến dƣới 16 tuổi
bị xử phạt hành chính về vi phạm hành chính do cố ý; ngƣời từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử
phạt hành chính về mọi vi phạm hành chính do mình gây ra [26, 166] .

§§


17


Qua trình bày ở trên, ta thấy, thực tế hiện nay có rất nhiều quy định khác nhau
trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật, khi áp dụng tuổi đƣợc coi là ngƣời
NCTN, trẻ em. Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng, mỗi văn bản quy phạm pháp luật có những
phạm vi điều chỉnh riêng phù hợp với từng lĩnh vực của đời sống xã hội, đây là vấn đề
phù hợp. Và tựu chung lại, chúng ta có thể thống nhất về khái niệm ngƣời chƣa thành
niên, đó là những người chưa hoàn toàn phát triển đầy đủ về tinh thần, thể chất và
nhân cách, chưa có đầy đủ quyền lợi và nghĩa vụ của một công dân.
1.2.2. Đặc điểm của người chưa thành niên
1.2.2.1. Sự phát triển của người chưa thành niên [1, 26 đến 29]
Đối với NCTN, giai đoạn từ 12 đến dƣới 18 tuổi là giai đoạn chuyển tiếp từ trẻ em
sang ngƣời lớn. Giai đoạn này trong đời sống trẻ em có sự biến đổi rất lớn về mặt sinh lý,
sự phát triển tâm lý và tâm lý - xã hội. Thể hiện qua các phƣơng diện khác nhau đó là:
* Sự phát triển sinh lý và thể chất: Trẻ em ở lứa tuổi này phát triển nhanh về chiều
cao. Đôi khi giai đoạn này còn đƣợc gọi là giai đoạn “nhảy vọt về tầm vóc” của con
ngƣời. Tuy nhiên, trong thời kỳ đầu và giữa lứa tuổi này, ở trẻ có sự mất cân đối giữa
chiều cao và cơ bắp. Vì thế, các em thƣờng lóng ngóng vụng về, không khéo léo khi làm
việc. Bên cạnh đó, sự phát triển của hệ thống tim mạch cũng không cân đối. Tim phát
triển nhanh hơn các mạch máu, gây ra sự mất cân bằng, là nguyên nhân gây ra rối loạn
chức năng trong hoạt động của hệ tim - mạch. Điều đó đƣợc biểu hiện dƣới các dạng nhƣ:
tim thƣờng đập mạnh, huyết áp cao, hay bị chóng mặt, nhức đầu, sức làm việc chóng suy
giảm. Do đó, các em dễ xúc động, dễ bực tức, nổi khùng. Vì thế, ta thấy ở các em thƣờng
có những phản ứng gay gắt, mạnh mẽ và những cơn xúc động mạnh. Hệ thần kinh của
các em chƣa có khả năng chịu đựng những kích thích mạnh, đơn điệu kéo dài. Tác động
của những kích thích, kích động thƣờng gây cho các em tình trạng bị ức chế hay ngƣợc
lại xảy ra tình trạng bị kích động mạnh. Đây cũng là thời kỳ phát dục. Biểu hiện của thời
này là cơ quan sinh dục phát triển và xuất hiện những dấu hiệu của giới tính.
Trong thời kỳ đầu và giữa của lứa tuổi này các em chƣa biết đánh giá, chƣa biết
kìm hãm và hƣớng dẫn bản năng, ham muốn của mình một cách đúng đắn, chƣa biết
kiểm tra tình cảm và hành vi, chƣa biết xây dựng mối quan hệ đúng đắn với ngƣời bạn

khác giới. Vì vậy ngƣời lớn cần giúp đỡ các em một cách tế nhị, khéo léo để các em hiểu
đúng đắn vấn đề, không làm các em lo ngại.

§§


18

* Phát triển về trí tuệ: Ở giai đoạn chƣa thành niên, các em phát triển khả năng tƣ
duy lý luận, tƣ duy trừu tƣợng một cách độc lập, sáng tạo, có căn cứ và nhất quán hơn.
Tính phê phán của tƣ duy cũng phát triển. Đó là cơ sở để hình thành thế giới quan. Tuy
nhiên, nhiều khi các em chƣa chú ý phát huy hết năng lực tƣ duy độc lập suy nghĩ của
bản thân, còn kết luận vội vàng theo cảm tính. Ở độ tuổi này, các em đang bắt đầu phát
triển năng lực lập luận và lập kế hoạch “theo kiểu người lớn”, tuy nhiên chƣa thực sự
nhất quán.
* Phát triển nhân cách và xã hội: Các em trong độ tuổi này đang học cách trở nên
độc lập hơn và học cách thiết lập các mối quan hệ xã hội thân thiết với những ngƣời
ngoài gia đình mình. Giai đoạn này cũng là thời gian mà phát triển nhận thức của các em
về cái đúng, cái sai và lập luận của các em về đạo đức phát triển ở tầm cao hơn. Đối với
các em ở độ tuổi thiếu niên, lập luận về đạo đức đƣợc dựa trên sự tƣ lợi và tập trung vào
việc thƣởng phạt có quan hệ với các hành động của các em.
* Phát triển kỹ năng: Các em ở độ tuổi sắp thành niên có nhu cầu mạnh mẽ và
cảm thấy mình thành thạo, cảm nhận rằng mình có ảnh hƣởng và thành công trong một số
lĩnh vực nào đó. Ngƣời sắp thành niên ở độ tuổi này phát triển ở mức độ khác nhau trong
các lĩnh vực khác nhau nhƣ đã nói trên: phát triển nhận thức, xã hội, tinh thần, thể chất và
năng lực và có thể trƣởng thành trong một số phƣơng diện nào đó sớm hơn những ngƣời
khác cùng trang lứa. Tuy nhiên, sự chín chắn trong một lĩnh vực nào đó không thể suy
luận về độ trƣởng thành trong các lĩnh vực khác. Hai em ở cùng một độ tuổi chƣa thành
niên nhƣng giữa chúng có thể có thể có sự khác biệt lớn về mức độ phát triển nhận thức
và thể chất. Không thể đánh giá mức độ phát triển của một NCTN bằng cách chỉ nhìn

một dấu hiệu đặc trƣng, nhƣ vóc dáng thân thể hay độ tuổi.
1.2.2.2. Các đặc trưng của người chưa thành niên [1, 30 đến 33]
Một là: Thời kỳ chƣa thành niên là khoảng thời gian mà những ngƣời trẻ tuổi nổ
lực vƣợt bậc để khẳng định nhân cách của mình. Thử nghiệm và kiểm tra nhân cách, mối
quan tâm và cách thức ứng xử khác nhau là một phần cần thiết của quá trình quyết định
sau này khi là ngƣời lớn họ sẽ trở thành kiểu ngƣời nào.

§§


19

Hai là: Ngƣời sắp thành niên phát triển nhận thức về bản thân và bắt đầu hình
thành quan điểm, chính kiến riêng. Ngƣời sắp thành niên không phải lúc nào cũng nghe
theo ngƣời lớn, thích có sự độc lập nhất định.
Ba là: Ngƣời sắp thành niên có thể có quá trình tƣ duy chín chắn ở một vài thời
điểm, nhƣng không phải ở tất cả các thời điểm khác. Các em đang học để suy nghĩ và hành
động một cách có trách nhiệm nhƣng không phải lúc nào cũng tƣ duy giống nhƣ ngƣời lớn.
Ở độ tuổi sắp thành niên, các em bắt đầu phát triển năng lực tƣ duy theo các cách thức phức
tạp hơn và đƣa ra các quyết định có tính đạo đức và trách nhiệm. Tuy nhiên, năng lực phát
triển này ở các mức độ khác nhau đối với những cá nhân khác nhau.

Bốn là: Khi đƣa ra quyết định, ngƣời sắp thành niên không phải lúc nào cũng cân
nhắc đầy đủ tất cả các hệ quả của các hành động của họ theo cách có lý trí nhƣ “ngƣời
lớn”. Các em có thể lựa chọn cách hành động khác với cách mà ngƣời lớn có thể lựa
chọn, nếu đứng trƣớc cùng tình huống, vì họ nhìn nhận các giá trị theo cách khác đối với
các hệ quả khác nhau. Họ có thể cho rằng việc gây ấn tƣợng hoặc có đƣợc sự chấp thuận
của bạn bè đồng lứa với mình quan trọng hơn những hậu quả xấu tiềm tàng của việc tham
gia vào hoạt động bất hợp pháp.
Năm là: Mặc dù những ngƣời ở độ tuổi sắp thành niên đang bắt đầu phát triển lối

tƣ duy có lý trí, các em có thể vẫn bị cuốn vào cách tƣ duy không thực tế hoặc “mơ
tƣởng”, đặc biệt là khi họ phải đối mặt với những sự khó khăn hoặc khi các em gặp khó
khăn trong việc suy tính tìm cách thoát ra khởi tình thế tiến thoái lƣỡng nan. Các em có
thể đƣa ra những giải pháp mà theo ngƣời lớn, đó là những giải pháp “mơ tưởng”, thiếu
thực tế. Song song với điều đó, những ngƣời ở độ tuổi sắp thành niên thƣờng xem những
hậu quả mà hành động của mình gây ra nhƣ thể “ngẫu nhiên” hoặc “đáng ngạc nhiên”
trong khi ngƣời lớn có thể đã dễ dàng đoán trƣớc đƣợc một kết cục xấu.
Sáu là: Áp lực và sự sợ hãi có thể can thiệp vào năng lực ra quyết định của một
ngƣời ở độ tuổi sắp thành niên. Ví dụ, một ngƣời sắp thành niên đang lo lắng về sự trừng
phạt đối với một việc làm nào đó, có thể làm điều gì đó, để tránh sự trừng phạt, mà điều
đó còn tồi tệ hơn việc làm đã gây ra ban đầu .
Bảy là: Hành động theo cách dám chấp nhận rủi ro thƣờng rất hay gặp ở thời kỳ
sắp thành niên. Điều này thông thƣờng liên quan đến việc tìm kiếm cảm giác - nhu cầu

§§


20

đối với cảm giác, kinh nghiệm mới đa dạng và sự sẵn sàng chấp nhận rủi ro về thể chất
hoặc xã hội vì những kinh nghiệm đó.
Tám là: Ở độ tuổi sắp thành niên, nhu cầu cố gắng thuộc về một nhóm bạn và
đồng cảm với những ngƣời khác thƣờng mãnh liệt. Hệ quả của mong muốn thuộc về một
nhóm bạn của những ngƣời ở độ tuổi sắp thành niên là dễ bị ảnh hƣởng bởi áp lực đồng
đẳng (cả theo nghĩa tích cực và tiêu cực). Các em trai có khuynh hƣớng dễ bị ảnh hƣởng
mạnh hơn so với các em gái. Các em có những nhóm bạn thân và có xu hƣớng tin cậy và
nghe theo bạn bè hơn bố, mẹ mình. Các em đánh giá rất cao tính trung thành, tận tuỵ và
sự hy sinh vì bạn bè.
Bên cạnh đó, cảm giác gắn bó mà những ngƣời ở độ tuổi sắp thành niên có đƣợc
từ gia đình mình là cơ sở cho việc hình thành nhân cách. Những ngƣời ở độ tuổi sắp

thành niên mà không có gia đình - là nơi cho họ sự chăm sóc, tình thƣơng và cảm giác
gắn bó - có thể sẽ gặp khó khăn trong việc phát triển cảm giác về năng lực và sự tự tin,
hoặc cảm giác có đƣợc mối quan hệ thân mật với ngƣời khác. Ngƣời sắp thành niên càng
gắn bó với cộng đồng bao nhiêu thì khả năng họ kiềm chế đƣợc sự bốc đồng chấp thuận
càng lớn bấy nhiêu. Hệ quả là, những ngƣời sắp thành niên đƣợc đến trƣờng hoặc có ý
thức gắn bó với nhà trƣờng, hoặc tham gia vào các hoạt động ở cộng đồng chẳng hạn nhƣ
các tổ chức thanh niên, các hoạt động văn hoá…. nói chung, thƣờng ít có nguy cơ tham
gia vào các hoạt động chống lại xã hội dai dẳng. Ngƣợc lại, những ngƣời sắp thành niên
đã bỏ học, cảm thấy xa lánh hoặc “khác biệt” với những ngƣời khác, hoặc không có liên
hệ gì với các thể chế cộng đồng truyền thống, thƣờng có nhiều khả năng tham gia vào các
hoạt động chống lại xã hội.
1.2.3. Nhận thức về VPPL do người chưa thành niên gây ra
Tội phạm và VPPL trong lứa tuổi vị thành niên luôn là vấn đề nhức nhối của toàn
xã hội, từ lâu đã trở thành mối quan tâm lớn của mỗi quốc gia, dân tộc, không chỉ đòi hỏi
sự răn đe bằng các hình phạt hay các biện pháp tƣ pháp mà quan trọng hơn là phải đảm
bảo yêu cầu giáo dục, cải tạo NCTN VPPL, kiềm chế, ngăn chặn VPPL trong xã hội. Đây
là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong công tác đấu tranh, phòng, chống VPPL nói
chung, VPPL do NCTN gây ra nói riêng.

§§


21

NCTN chỉ đƣợc coi là chủ thể của VPPL khi ngƣời đó có đủ năng lực trách nhiệm
pháp lý và phải đạt đến một độ tuổi nhất định đƣợc pháp luật quy định. Điều 8, BLHS
năm 1999 đã chỉ rõ: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ
luật Hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô
ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế
độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hoá, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội,

quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác của công dân, xâm phạm những
lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa” [30, 50].
Điều 12, BLHS năm 1999 cũng quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự, cụ thể:
“1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm.
2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình
sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng” [30, 52].
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính hiện hành quy định NCTN thuộc đối tƣợng bị
xử lý vi phạm hành chính bao gồm: NCTN cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp
luật về quản lý nhà nƣớc mà không phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải
bị xử phạt hành chính. NCTN từ đủ 14 đến dƣới 16 tuổi bị xử phạt hành chính về vi
phạm hành chính do cố ý; ngƣời từ đủ 16 tuổi trở lên bị xử phạt hành chính về mọi vi
phạm hành chính do mình gây ra.
Là một bộ phận cấu thành nên VPPL nói chung, VPPL do NCTN gây ra cũng có
đầy đủ các dấu hiệu đó là:
Một là: VPPL là hành vi bao gồm hành động hoặc không hành động của những
ngƣời chƣa đủ 18 tuổi.
Hai là: VPPL của NCTN là hành vi trái pháp luật, xâm hại các quan hệ pháp luật
đƣợc pháp luật bảo vệ.
Ba là: VPPL của NCTN là hành vi có lỗi của chủ thể thực hiện hành vi đó. Có thể
nói, tất cả mọi hành vi VPPL của NCTN đều là hành vi trái pháp luật, trái lại không phải
mọi hành vi trái pháp luật đều VPPL (ví dụ: phòng vệ chính đáng). Điều này đòi hỏi khi

§§


22

xác định hành vi VPPL, cần phải xem xét mặt chủ quan của hành vi, trạng thái tâm lý,
của ngƣời thực hiện hành vi VPPL.

Bốn là: VPPL của NCTN phải do ngƣời có năng lực trách nhiệm pháp lý thực hiện
bao gồm: Khả năng nhận thức, điều chỉnh hành vi và đạt độ tuổi tuỳ theo yêu cầu của
từng ngành luật. Chẳng hạn, tuổi chịu trách nhiệm pháp luật hình sự phát sinh khi công
dân đủ 14 tuổi; tuổi chịu trách nhiệm pháp luật hành chính cũng phát sinh sau khi công
dân đủ 14 tuổi.
Các nội dung trên đã thể hiện bốn yếu tố cấu thành VPPL, bao gồm: mặt khách
quan, mặt chủ quan, khách thể, chủ thể để xác định một hành vi VPPL. Các yếu tố này
đều giống với các đặc điểm VPPL do các đối tƣợng lớn tuổi gây ra. Tuy nhiên, do chủ thể
thực hiện VPPL là NCTN, ở giai đoạn này các em chƣa phát triển hoàn chỉnh về khả năng
nhận thức, về tâm, sinh lý nên việc xem xét, xây dựng các chế định pháp luật cũng phải dựa

trên những điều kiện thực tế, phù hợp với đặc điểm lứa tuổi của ngƣời VPPL.
Nghiên cứu về vấn đề này, pháp luật của mỗi quốc gia cũng có những quy định
riêng, cụ thể: ở Nhật Bản và Thụy Điển tuổi phải chịu trách nhiệm hình sự là từ 15 tuổi; ở
Nga từ 14 tuổi; ở Úc, trẻ em bắt đầu chịu trách nhiệm hình sự từ 10 tuổi; một số nƣớc có
quy định về độ tuổi thấp hơn, nhƣ: Brunei, Thái Lan, Ấn Độ, Singapo…
Tóm lại, trên cơ sở lý luận về NCTN và NCTN VPPL; căn cứ theo các quy định
về pháp luật hình sự, hành chính…và dựa trên thực tiễn áp dụng các biện pháp nghiệp vụ
để đấu tranh với VPPL do NCTN gây ra, chúng ta có thể đƣa ra một cái khái niệm nhƣ
sau:
Theo pháp luật Việt Nam, NCTN VPPL là những người trong độ tuổi từ đủ 14
đến dưới 18 tuổi, có năng lực trách nhiệm pháp lý, thực hiện hành vi bằng lỗi cố ý và
vô ý, xâm phạm các quan hệ xã hội được pháp luật bảo vệ, tuỳ theo tính chất và mức
độ vi phạm mà họ phải chịu trách nhiệm pháp lý trước nhà nước và pháp luật.
Các dạng VPPL bao gồm: VPPL hình sự, VPPL hành chính, VPPL kinh tế, VPPL
lao động, VPPL dân sự, VPPL hôn nhân và gia đình...
Tuy nhiên, nhận thức về NCTN phạm tội cũng cần phân biệt với khái niệm NCTN
VPPL khác. Việc phân biệt hai khái niệm này có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định

§§



23

các hình thức, biện pháp phòng ngừa, giáo dục cũng nhƣ đƣờng lối xử lý hành vi của
từng loại đối tƣợng.
NCTN VPPL là những em có hành vi xâm phạm đến những khách thể là các quan
hệ xã hội, đƣợc nhà nƣớc bảo vệ, đƣợc thể chế hóa bằng các quy định pháp luật, bao gồm
luật hình sự, luật dân sự, luật hôn nhân và gia đình, pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính… Trong một số văn bản hiện nay, bên cạnh thuật ngữ NCTN VPPL, còn có một số
thuật ngữ khác nhƣ: NCTN phạm pháp hoặc trẻ em làm trái pháp luật. Các thuật ngữ này
đều có nội hàm và ngoại diên tƣơng tự nhƣ thuật ngữ NCTN VPPL. Hai khái niệm này
đều có điểm giống nhau là đều thể hiện dƣới hình thức hành động hoặc không hành động,
do chủ thể là NCTN có khả năng nhận thức, có năng lực hành vi thực hiện, xâm phạm
vào những khách thể đƣợc pháp luật bảo vệ.
Tuy nhiên, điểm khác biệt cơ bản đó là, nếu nhƣ khái niệm NCTN VPPL là cái
chung, cái tổng thể thì khái niệm NCTN phạm tội, là cái riêng, cái bộ phận. VPPL không
chỉ bao gồm các loại tội phạm đƣợc BLHS điều chỉnh, mà còn có các VPPL do các bộ
luật, luật khác điều chỉnh, nhƣ: Bộ Luật Dân sự, Luật hành chính, Luật Hôn nhân và gia
đình…
Theo đó, tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cũng cao hơn so với
các hành vi VPPL khác, vì vậy mức độ thiệt hại cho xã hội của tội phạm cũng lớn hơn,
đồng thời, các chế tài áp dụng đối với NCTN phạm tội cũng nghiêm khắc hơn so với các
chế tài trong các quy định pháp luật nói chung.
Mặc dù có sự khác nhau, nhƣng hành vi VPPL khác và tội phạm do NCTN gây ra
có mối quan hệ tác động lẫn nhau. Thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm
trong lứa tuổi vị thành niên cho thấy, trƣớc khi đi đến thực hiện một tội phạm, hầu hết
các em đều có quá trình phạm pháp kéo dài, bắt đầu từ việc thực hiện những hành vi
VPPL nhỏ lẻ từ trong gia đình, làng xóm. Vì vậy, ngay từ khi có biểu hiện phạm pháp,
việc xử lý các em cũng phải nghiêm khắc, triệt để nhằm kịp thời răn đe, giáo dục không

để các em có điều kiện tiến tới thực hiện những hành vi gây nguy hại cho xã hội với tính
chất nghiêm trọng.

§§


24

1.3. Nhận thức về công tác phòng, chống VPPL do NCTN gây ra
Trên cơ sở các nghiên cứu các nội dung về công tác phòng, chống VPPL nói
chung, có thể rút ra một số những đặc điểm cơ bản về công tác phòng, chống VPPL trong
lứa tuổi vị thành niên nhƣ sau:
Thứ nhất, chủ thể của công tác phòng, chống VPPL của NCTN gây ra là các cơ
quan nhà nƣớc, các tổ chức xã hội và nhân dân. Phòng, chống VPPL là nhiệm vụ chính
trị - xã hội to lớn, liên quan đến nhiều mặt, nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy,
công tác này phải là trách nhiệm của toàn xã hội, của các ngành, các cấp, cơ quan, đoàn
thể, tổ chức chức chính trị, xã hội và nhân dân đặt dƣới sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất,
toàn diện của cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp.
Thứ hai, các biện pháp áp dụng trong công tác phòng, chống VPPL do NCTN gây
ra là hệ thống các giải pháp đƣợc các chủ thể tiến hành nhằm tác động tới các nguyên
nhân, điều kiện của VPPL do NCTN gây ra. Đó là, tổng thể các giải pháp về chính trị - tƣ
tƣởng, kinh tế - xã hội, văn hóa, giáo dục, pháp luật, quản lý nhà nƣớc…
Thứ ba, đối tƣợng của hoạt động phòng, chống VPPL trong lứa tuổi vị thành niên
là các nguyên nhân, điều kiện, các hành vi trái pháp luật của NCTN gây ra.
Thứ tư, mục đích của công tác phòng, chống VPPL do NCTN gây ra là thông qua
công tác phòng, chống để nghiên cứu các đặc điểm về nguyên nhân, điều kiện dẫn đến
VPPL, các yếu tố tác động đến ngƣời vi phạm, các hiện tƣợng xã hội tiêu cực tác động
đến quá trình hình thành và phát triển của NCTN, những tồn tại, hạn chế trong công tác
quản lý nhà nƣớc liên quan đến tình trạng VPPL trong lứa tuổi vị thành niên. Trên cơ sở
đó, đƣa ra các giải pháp tổng thể nhằm tiến hành phòng ngừa các hiện tƣợng tiêu cực và

VPPL, đồng thời kiến nghị hoàn thiện hệ thống cơ sở pháp lý liên quan đến công tác đấu
tranh, phòng, chống VPPL do NCTN gây ra.
Thứ năm, tính chất của công tác phòng, chống VPPL trong lứa tuổi vị thành niên
mang tính tổng thể, đƣợc thể hiện qua mối quan hệ phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng giữa
các chủ thể tiến hành công tác phòng, chống VPPL; thể hiện qua hệ thống các biện pháp
phòng ngừa có mối quan hệ tác động tƣơng hỗ lẫn nhau; đồng thời, thể hiện ở tính liên kết,
triển khai thực hiện có hệ thống giữa công tác phòng, chống VPPL do NCTN gây ra với công

§§


25

tác điều tra, xử lý các đối tƣợng là NCTN phạm tội, VPPL, giữa công tác phòng, chống
VPPL do NCTN gây ra với công tác đấu tranh, phòng, chống VPPL nói chung.

1.4. Căn cứ pháp lý để đấu tranh phòng, chống VPPL của NCTN
Khác với nhiều quốc gia trên thế giới, Việt Nam chƣa có một đạo luật riêng về tƣ
pháp NCTN. Tuy nhiên, trên cơ sở thừa nhận sự hạn chế về nhận thức và khả năng điều
khiển hành vi của NCTN VPPL, các văn bản về xử lý NCTN VPPL có những quy định
đặc thù về xử lý NCTN VPPL. Hệ thống pháp luật liên quan đến phòng ngừa, xử lý
NCTN VPPL nhìn chung có thể chia thành các nhóm:
Nhóm 1: các văn bản về bảo vệ trẻ em nói chung, kể cả NCTN VPPL: gồm Luật
bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (2004); Nghị định 71/2011/NĐ-CP, ngày 22 tháng 8
năm 2011 của Chính phủ quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành một số điều của Luật
Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Nhóm 2: Các văn bản liên quan đến chế tài và thủ tục xử lý NCTN VPPL gồm:
Pháp lệnh về tổ chức và hoạt động hoà giải cơ sở (1998); Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành
chính (2002, sửa đổi năm 2007 và năm 2008); BLHS (1999, sửa đổi năm 2009);
BLTTHS (2003); Thông tƣ liên tịch số 01/2011/TTLT - VKSNDTC - TANDTC - BCA BTP - BLĐTBXH ngày 12/7/2011 hƣớng dẫn thi hành một số quy định của BLTTHS đối

với ngƣời tham gia tố tụng là NCTN.
Nhóm 3: Các văn bản liên quan đến thi hành chế tài đối với NCTN VPPL gồm:
Luật Thi hành án hình sự (2010), Nghị định 163/2002/NĐ - CP ngày 19/12/2003 quy
định chi tiết biện pháp thi hành giáo dục tại xã, phƣờng, thị trấn; Nghị định số
59/2000/NĐ - CP ngày 30 tháng 10/2000 quy định việc thi hành biện pháp giáo dục tại
xã, phƣờng đối với NCTN phạm tội. Nghị định số 142/2003/NĐ-CP ngày 24/11/2003
quy định việc áp dụng biện pháp xử lý hành chính đƣa vào trƣờng giáo dƣỡng; Nghị định
số 66/2009/NĐ-CP ngày 01/8/2009 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
142/2003/NĐ-CP ngày 24/11/2003; Nghị định số 118/2010/NĐ-CP ngày 29/12/2010 về
sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định quy định về việc áp dụng biện pháp đƣa
vào cơ sở giáo dục, trƣờng giáo dƣỡng. Nghị định số 61/2011/NĐ-CP ngày 26/7/2011
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 135/2004/NĐ-CP ngày 10/6/2004 của
Chính phủ quy định về chế độ áp dụng biện pháp đƣa vào các cơ sở chữa bệnh, tổ chức

§§


×