Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

HỢP ĐỒNG môi GIỚI THƯƠNG mại THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (520.33 KB, 25 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT

VƢƠNG ANH ĐÀO

HỢP ĐỒNG MÔI GIỚI THƢƠNG MẠI
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 838 0107

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

THỪA THIÊN HUẾ, năm 2017

1


Công trình đƣợc hoàn thành tại:
Trƣờng Đại học Luật, Đại học Huế

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Hoàng Thị Quỳnh Chi

Phản biện 1: ........................................:..........................
Phản biện 2: ...................................................................

Luận văn sẽ đƣợc bảo vệ trƣớc Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ họp
tại: Trƣờng Đại học Luật
Vào lúc...........giờ...........ngày...........tháng .......... năm...........



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

5

1. Tính cấp thiết của đề tài 5
2. Tình hình nghiên cứu

6

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

7

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.

7

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

8

6. Những điểm mới của luận văn 8
7. Kết cấu của luận văn

8

Chƣơng 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG MÔI
GIỚI THƢƠNG MẠI 9
1.1 Khái niệm, đặc điểm, vai trò của môi giới thƣơng mại 9

1.1.1 Khái niệm môi giới thƣơng mại

9

1.1.2 Đặc điểm của môi giới thƣơng mại

9

1.2. Khái niệm, đặc điểm hợp đồng môi giới thƣơng mại
1.2.1. Khái niệm hợp đồng môi giới thƣơng mại

12

12

1.2.2. Đặc điểm của hợp đồng môi giới thƣơng mại 13
1.3. Khái quát pháp luật về hợp đồng môi giới thƣơng mại 14
1.3.1. Nguồn luật điều chỉnh hợp đồng môi giới thƣơng mại

14

1.3.2. Nội dung pháp luật về hợp đồng môi giới thƣơng mại

15

Chƣơng 2.THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HỢP ĐỒNG
MÔI GIỚI THƢƠNG MẠI 16
2.1. Thực trạng pháp luật quy định về các bên tham gia của hợp đồng môi giới
thƣơng mại 16
2.1.1. Bên môi giới 16

2.1.2. Bên đƣợc môi giới 17
2.2. Thực trạng pháp luật quy định về đối tƣợng của hợp đồng môi giới
thƣơng mại 17
2.3. Thực trạng pháp luật quy định về nội dung của hợp đồng môi giới thƣơng
mại 18
2.4. Thực trạng pháp luật quy định về hình thức của hợp đồng môi giới
thƣơng mại 20
2.5. Thực trạng pháp luật quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng môi
giới thƣơng mại 20


2.6. Thực trạng pháp luật quy định chấm dứt hợp đồng môi giới thƣơng mại
21
2.7. Thực trạng pháp luật quy định về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng môi
giới thƣơng mại 21
2.8. Thực trạng pháp luật quy định về giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp
đồng môi giới thƣơng mại
22
Chƣơng 3. ĐỊNH HƢỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG MÔI GIỚI
THƢƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM 23
3.1. Định hƣớng hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về hợp
đồng môi giới thƣơng mại ở Việt Nam
23
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng môi giới thƣơng mại ở Việt
Nam 23
3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về hợp đồng môi
giới thƣơng mại. 23
KẾT LUẬN 25



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Môi giới thƣơng mại (MGTM) là một trong những hoạt động có vai trò và ý
nghĩa rất lớn trong tiêu thụ và phân phối hàng hóa, dịch vụ trên thị trƣờng. Cùng
với các hoạt động trung gian thƣơng mại, hoạt động MGTM giúp thƣơng nhân
thực hiện phân phối hàng hóa, dịch vụ trên phạm vi rộng, tiết kiệm đƣợc chi phí
giao dịch, cải thiện môi trƣờng kinh doanh mang lại hiệu quả đáng kể trong đầu tƣ
so với các hình thức phân phối trực tiếp. Việc sử dụng hoạt động MGTM có vai trò
quan trọng đối với sự phát triển kinh doanh của thƣơng nhân cũng nhƣ nền kinh tế
quốc dân, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
Ở nhiều nƣớc trên thế giới, ngoài hoạt động đại diện thƣơng mại, ủy thác
thƣơng mại thì hoạt động MGTM đã xuất hiện từ khá sớm, hoạt động này càng
chuyên nghiệp, hiệu quả và thực sự trở thành một kênh phân phối hàng hóa, dịch
vụ quan trọng của thƣơng nhân. Ở Việt Nam, hoạt động MGTM mặc dù đã ra đời
từ lâu nhƣng chỉ chính thức đƣợc ghi nhận trong Luật thƣơng mại năm 1997 (LTM
năm 1997) và tiếp tục đƣợc quy định trong Luật thƣơng mại năm 2005 (LTM năm
2005). Trên cơ sở đó, các văn bản pháp luật chuyên ngành đã quy định về từng
hoạt động môi giới cụ thể, trong đó có một số hoạt động môi giới đặc thù nhƣ: môi
giới bất động sản, môi giới chứng khoán, môi giới bảo hiểm, môi giới hàng
hải…Hệ thống các văn bản pháp luật này đã tạo ra khuôn khổ pháp lý cho việc
thực hiện các hoạt động MGTM ở Việt Nam. Theo đó, các chủ thể thực hiện hoạt
động MGTM trên cơ sở hợp đồng môi giới thƣơng mại (HĐMGTM).
Hoạt động MGTM là cơ sở pháp lý quan trọng để thƣơng nhân thực hiện cung
ứng dịch vụ MGTM cho khách hàng. LTM năm 2005 đã quy định những nguyên
tắc chung cho việc thực hiện hoạt động MGTM và giao kết HĐMGTM. Trong
từng lĩnh vực môi giới, pháp luật đã điều chỉnh tƣơng đối cụ thể các vấn đề nhƣ:
chủ thể của hợp đồng, nội dung của hợp đồng, quyền và nghĩa vụ cụ thể của các
bên tham gia giao kết hợp đồng, hình thức của hợp đồng….Nhìn chung, những quy
định này đã tạo điều kiện cho các bên trong việc xác lập và thực hiện các

HĐMGTM trong từng lĩnh vực cụ thể.
Tuy nhiên, quá trình triển khai áp dụng các quy định của pháp luật hiện hành về
HĐMGTM cho thấy các quy định về HĐMGTM vẫn chƣa đầy đủ, bộc lộ nhiều mâu
thuẫn, chồng chéo, nhiều quy định còn chƣa cụ thể dẫn đến khó khăn cho việc áp
dụng và ảnh hƣởng đến sự phát triển của hoạt động MGTM nói chung và việc thực
hiện quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia HĐMGTM nói riêng. Cụ thể nhƣ:
BLDS 2015 xác định một số căn cứ để xác định trách nhiệm bồi thƣờng thiệt
hại gồm: có hành vi vi phạm, có lỗi của bên vi phạm, có thiệt hại thực tế xảy ra, có
mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại. Trong khi đó, Luật
Thƣơng mại 2005 không xác định lỗi là một căn cứ phát sinh trách nhiệm BTTH.
BLDS 2015 quy định hai căn cứ để miễn trách nhiệm là: sự kiện bất khả
kháng và lỗi của bên bị vi phạm (còn lại là trƣờng hợp miễn trách nhiệm do các
bên thỏa thuận trong hợp đồng) và thỏa thuận của các bên chủ thể trong hợp đồng
còn Luật Thƣơng mại 2005 lại quy định bốn căn cứ để miễn trách nhiệm bao gồm:
các trƣờng hợp miễn trách nhiệm do các bên thỏa thuận, sự kiện bất khả kháng,


hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia và hành vi vi phạm của
một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nƣớc có thẩm quyền mà
các bên không thể biết đƣợc vào thời điểm giao kết hợp đồng.
BLDS 2015 quy định, mức phạt vi phạm hợp đồng do các bên tự thỏa thuận.
Tuy nhiên, Luật Thƣơng mại lại quy định về mức phạt đối với vi phạm nghĩa vụ
hợp đồng hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thỏa thuận trong
hợp đồng nhƣng không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm. Nhƣ
vậy, cùng điều chỉnh về một vấn đề nhƣng rõ ràng có sự khác biệt giữa các Luật.
Không ít quy định trong Luật Thƣơng mại năm 2005 có sự trùng lắp không
cần thiết so với các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015, nhƣ các quy định về
hợp đồng mua bán hàng hóa, hợp đồng đại diện, hợp đồng thuê hàng hóa …Các
quy định này trùng lặp nhƣng lại không có sự thống nhất, gây khó khăn khi áp
dụng. Ví dụ, mức phạt vi phạm và mối liên hệ giữa phạt vi phạm và bồi thƣờng

thiệt hại đƣợc quy định tại Điều 418 Bộ luật Dân sự 2015 và tại các Điều 301 và
307 Luật Thƣơng mại 2005 là không có sự thống nhất. Điều 418 đoạn cuối khoản
3 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Trƣờng hợp các bên có thoả thuận về phạt
vi phạm nhƣng không thỏa thuận về việc vừa phải chịu phạt vi phạm vừa phải bồi
thƣờng thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm”. Trong khi
đó, khoản 2 Điều 307 Luật Thƣơng mại quy định: “trƣờng hợp các bên có thoả
thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và
buộc bồi thƣờng thiệt hại, trừ trƣờng hợp Luật này có quy định khác”.
Điều 423, 424, 425, 426 Bộ luật dân sự quy định một bên trong hợp đồng có
thể đơn phƣơng chấm dứt thực hiện hợp đồng hoặc hủy bỏ hợp đồng khi bên kia vi
phạm hợp đồng, trong khi Điều 308, 310 và 312 Luật Thƣơng mại quy định một
bên trong hợp đồng thƣơng mại có thể tạm ngừng hợp đồng, đình chỉ thực hiện
hợp đồng, hủy bỏ hợp đồng khi bên kia vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng (Vi
phạm cơ bản là sự vi phạm hợp đồng của một bên đến mức làm cho bên kia không
đạt đƣợc mục đích của việc giao kết hợp đồng – Khoản 13 Điều 3 Luật Thƣơng
mại 2005). Trong trƣờng hợp một trong hai bên thay đổi ý định không muốn tiếp
tục thực hiện hợp đồng, ví dụ nhƣ không muốn mua nữa nên không giao đủ tiền
hoặc không chịu bán nên không giao tài sản, khi bên bị vi phạm khởi kiện ra tòa án
thì tòa thƣờng xử hủy hợp đồng và giải quyết hậu quả của việc hủy hợp đồng, kết
quả là bên bị vi phạm nếu đã thực hiện nghĩa vụ của mình thì sẽ bị thiệt hại. Đây
cũng là điểm mâu thuẫn giữa quy định của luật dân sự và luật thƣơng mại. Quy
định của Luật Thƣơng mại trong trƣờng hợp này vừa phù hợp với thực tiễn, vừa
phù hợp với thông lệ quốc tế.
Trƣớc yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trƣờng, hội nhập quốc tế và thực
trạng pháp luật điều chỉnh về HĐMGTM ở Việt Nam hiện nay, việc nghiên cứu
các quy định chung của pháp luật Việt Nam hiện hành về HĐMGTM trên cơ sở
phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật chuyên ngành về một số HĐMGTM
cụ thể là rất cần thiết và có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong khoa học pháp lý, pháp luật điều chỉnh HĐMGTM chƣa đƣợc nghiên

cứu nhiều. Các vấn đề pháp lý về HĐMGTM mới chỉ đƣợc đề cập trong giáo trình


Luật Thƣơng mại của một số cơ sở đào tạo luật nhƣ: Trƣờng Đại học Luật Hà Nội,
khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội. Tuy nhiên, những tài liệu này chỉ mới dừng
lại ở việc nghiên cứu các quy định chung nhất của pháp luật về hoạt động MGTM,
trong đó có đề cập đến nội dung về HĐMGTM, chƣa có sự nghiên cứu sâu sắc về
mặt lý luận cũng nhƣ những bất cập của pháp luật hiện hành về vấn đề này,
Ở các cấp độ và phạm vi nghiên cứu khác nhau, có thể kể đến luận án tiến sỹ
Luật học “Pháp luật điều chỉnh hoạt động trung gian thƣơng mại ở Việt Nam” của
Nguyễn Thị Vân Anh (Trƣờng Đại học Luật Hà Nội). Trong công trình này, tác giả
đã tập trung phân tích các nội dung cơ bản của pháp luật về hoạt động trung gian
thƣơng mại theo LTM năm 2005 và một số đạo luật chuyên ngành khác có quy
định về hoạt động trung gian thƣơng mại, trong đó có đề cập đến các quy định
chung về HĐMGTM. Ngoài ra, còn một số công trình khác nghiên cứu về một số
hoạt động MGTM đặc thù, cụ thể nhƣ: Luận văn thạc sỹ Luật học “Pháp luật về
môi giới bất động sản” của tác giả Phạm Thị Trang (Trƣờng Đại học Luật Hà
Nội), Luận văn thạc sỹ “Hoạt động môi giới thuê tàu tại công ty Vietfrancht” của
tác giả Hoàng Thị Tuyết (Trƣờng Đại học Ngoại thƣơng) và một số bài viết đăng
trên các tạp chí chuyên ngành về các hoạt động môi giới thƣơng mại nhƣ: “Dịch vụ
môi giới bất động sản: Kinh nghiệm quốc tế, thực tiễn và định hƣớng phát triển
của Việt Nam” của tác giả Lƣu Đức Hải, Hà Huy Ngọc đăng trên tạp chí Quản lý
kinh tế số 24 năm 2009… Trong những công trình này, các tác giả chỉ mới tập
trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về từng dịch vụ MGTM cụ thể, trong
đó các quy định về HĐMGTM chƣa đƣợc tập trung phân tích và làm rõ.
Qua việc đánh giá tình hình nghiên cứu về HĐMGTM, có thể nhận thấy, chƣa
có một công trình nào nghiên cứu một cách sâu sắc những vấn đề lý luận và thực
tiễn về HĐMGTM cũng nhƣ pháp luật điều chỉnh về HĐMGTM. Trên cơ sở kế
thừa những thành tựu nghiên cứu của các công trình khoa học đã đƣợc công bố, có
thể khẳng định luận văn thạc sỹ: “Hợp đồng môi giới thƣơng mại theo pháp luật

Việt Nam hiện hành” là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách tổng quát các vấn
đề lý luận và thực tiễn về pháp luật điều chỉnh HĐMGTM theo quy định của pháp
luật hiện hành.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn đƣợc nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực
tiễn về HĐMGTM, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật về HĐMGTM. Với mục đích nêu trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ chủ
yếu sau:
- Làm rõ khái niệm, đặc điểm, vai trò của HĐMGTM; tìm hiểu khái niệm, đặc
điểm về HĐMGTM và pháp luật điều chỉnh HĐMGTM.
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật điều chỉnh HĐMGTM, bao gồm cả
phân tích, làm rõ các quy định của pháp luật và thực tiến thi hành pháp luật về
HĐMGTM tại Việt Nam;
- Đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về HĐMGTM và nâng cao
hiệu quả thực hiện pháp luật về HĐMGTM ở Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.


Để đạt đƣợc mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra, luận văn nghiên cứu
các quy định của pháp luật về HĐMGTM trong LTM năm 2005 nhƣ khái niệm,
đặc điểm, vai trò MGTM, HĐMGTM và một số văn bản pháp luật chuyên ngành
về HĐMGTM trong từng lĩnh vực cụ thể, đồng thời có tham khảo và so sánh quy
định về HĐMGTM của một số nƣớc trên thế giới.
LTM năm 2005 đã mở rộng phạm vi MGTM, bao gồm tất cả các hoạt động
môi giới nhằm mục đích sinh lợi nhƣ: Môi giới bất động sản, môi giới chứng
khoán, môi giới bảo hiểm, môi giới mua bán hàng hóa, môi giới hàng hải… Vì vậy
pháp luật điều chỉnh HĐMGTM rộng và đƣợc quy định trong nhiều văn bản pháp
luật chuyên ngành. Trong phạm vi luận văn thạc sỹ Luật học, tác giả chỉ tập trung
nghiên cứu những nội dung cơ bản của pháp luật về HĐMGTM theo LTM năm
2005 và một số Luật chuyên ngành khác có điều chỉnh về các HĐMGTM đặc thù

nhƣ: Luật kinh doanh bất động sản, luật kinh doanh bảo hiểm, luật chứng khoán,
bộ luật hàng hải.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để làm sáng tỏ các vấn đề nghiên cứu trên, luận văn đã sử dụng phƣơng pháp
luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa
Mác – Lênin; đồng thời, luận văn còn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể
nhƣ: phƣơng pháp lịch sử, phƣơng pháp tổng hợp, phƣơng pháp phân tích, phƣơng
pháp thống kê, phƣơng pháp đánh giá, phƣơng pháp dẫn giải, phƣơng pháp so và
đối chiếu.
6. Những điểm mới của luận văn
Trên cơ sở kế thừa các kết quả nghiên cứu trƣớc đây về HĐMGTM, luận văn
có những điểm mới sau:
- Luận văn đã phân tích một cách cụ thể những vấn đề pháp lý về HĐMGTM,
qua đó, luận văn đã chỉ ra những điểm bất cập, hạn chế của pháp luật hiện hành
quy định về HĐMGTM;
- Trên cơ sở thực trạng pháp luật điều chỉnh về HĐMGTM và thực tiễn thực
hiện các quy định của pháp luật về HĐMGTM, luận văn đã đề xuất một số giải
pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về HĐMGTM nhằm đáp ứng nhu cầu phát
triển của hoạt động MGTM trong điều kiện phát triển kinh tế thị trƣờng và hội
nhập quốc tế.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chƣơng:
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận chung về hợp đồng môi giới thƣơng mại.
Chƣơng 2: Thực trạng pháp luật điều chỉnh hợp đồng môi giới thƣơng mại.
Chƣơng 3: Định ƣớng, giải pháp hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện
hợp đồng môi giới thƣơng mại.


Chƣơng 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG
MÔI GIỚI THƢƠNG MẠI

1.1 Khái niệm, đặc điểm, vai trò của môi giới thƣơng mại
1.1.1 Khái niệm môi giới thƣơng mại
Luật thƣơng mại năm 2005 định nghĩa: “Môi giới thƣơng mại là hoạt động
thƣơng mại, theo đó một thƣơng nhân làm trung gian (gọi là bên môi giới) cho các
bên mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ (gọi là bên đƣợc môi giới) trong việc
đàm phán, giao kết hợp đồng, mua bán hàng hóa, dịch vụ và đƣợc hƣởng thù lao
theo hợp đồng môi giới” (Điều 150).
Pháp luật Việt Nam không đƣa ra khái niệm “thƣơng mại” nhƣng đƣa ra khái
niệm “hoạt động thƣơng mại” theo đó: “hoạt động thƣơng mại là hoạt động nhằm
mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tƣ, xúc tiến
thƣơng mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác” (Khoản 11 Điều 3
LTM năm 2005).
Nhƣ vậy, MGTM là một trong các hoạt động trung gian thƣơng mại nhằm
cung ứng dịch vụ thƣơng mại cho một hoặc một số thƣơng nhân nhất định để
hƣởng thù lao theo HĐMG. Nội dung và phạm vi của MGTM rất rộng, bao gồm
các hoạt động nhƣ: tìm kiếm và cung cấp các thông tin cần thiết về đối tác cho bên
đƣợc môi giới, tiến hành các hoạt động giới thiệu về hàng hóa, dịch vụ cần môi
giới, thu xếp để các bên tiếp xúc, gặp gỡ nhau và có thể soạn thảo hợp đồng khi
các bên yêu cầu.
Hoạt động MGTM là hoạt động kinh doanh nhằm mục đích tìm kiếm lợi
nhuận từ các hợp đồng môi giới.
1.1.2 Đặc điểm của môi giới thƣơng mại
Thứ nhất, MGTM là việc thực hiện hành vi trung gian nhằm kết nối các bên
tiếp xúc, đàm phán và xác lập các giao dịch.
Cũng giống nhƣ các hình thức trung gian thƣơng mại khác, MGTM là hành vi
cung ứng dịch vụ thƣơng mại theo phƣơng thức trung gian. Ngƣời môi giới đƣợc
thuê để thực hiện các hoạt động giúp các bên đƣợc môi giới giao kết hợp đồng với

nhau.
Hoạt động MGTM trƣớc tiên là một hoạt động cung ứng dịch vụ thƣơng mại,
vì vậy chủ thể của hoạt động này cũng bao gồm hai bên là bên thực hiện dịch vụ
(bên môi giới) và bên có nhu cầu sử dụng dịch vụ (bên đƣợc môi giới). Cũng giống
nhƣ các hoạt động trung gian thƣơng mại khác, trong hoạt động môi giới thƣơng
mại có sự xuất hiện của bên thứ ba nhƣng bên môi giới chỉ có chức năng kết nối
giữa bên đƣợc môi giới với bên thứ ba trong việc đàm phán, ký kết hợp đồng chứ


không trực tiếp tham gia vào việc giao kết và thực hiện hợp đồng với bên thứ ba.
Thứ hai, hoạt động MGTM có nội dung và phạm vi rộng.
Hoạt động MGTM là hoạt động thƣơng mại của thƣơng nhân nhằm mục tiêu
tìm kiếm lợi nhuận. Theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành cũng nhƣ
pháp luật của nhiều nƣớc trên thế giới, khái niệm thƣơng mại đƣợc hiểu theo nghĩa
rộng (nhƣ đã phân tích ở mục 1.1.1). Vì vậy nội dung và phạm vi của hoạt động
MGTM theo quy định của pháp luật hiện hành cũng rộng và phong phú. Nếu Luật
Thƣơng mại năm 1997 quy định thƣơng nhân chỉ thực hiện hoạt động môi giới
trong lĩnh vực mua bán hàng hóa hoặc có liên quan đến mua bán hàng hóa thì LTM
2005 đã mở rộng phạm vi MGTM sang tất cả các lĩnh vực thƣơng mại bao gồm
mua bán hàng hóa, các dịch vụ thƣơng mại nhƣ: môi giới trong lĩnh vực bảo hiểm,
bất động sản, chứng khoán…
Thứ ba, trong hoạt động MGTM, bên môi giới phải có tƣ cách pháp lý độc
lập với bên đƣợc môi giới và bên thứ ba.
Tuy giữ vai trò kết nối giữa bên môi giới và bên thứ ba nhƣng bên môi giới có
tƣ cách pháp lý độc lập. Theo pháp luật hiện hành, bên môi giới phải là thƣơng
nhân độc lập và có đăng ký kinh doanh để thực hiện hoạt động môi giới một cách
chuyên nghiệp. Điều này cũng cho thấy hoạt động MGTM đƣợc coi là một nghề
kinh doanh, chuyên cung ứng các dịch vụ môi giới trong các lĩnh vực thƣơng mại
cụ thể. Đặc điểm này giúp phân biệt hoạt động MGTM với các hoạt động môi giới
tự phát khác.

Trong khi đó, bên đƣợc môi giới và bên thứ ba không nhất thiết phải là
thƣơng nhân.
Thứ tƣ, khi thực hiện hoạt động MGTM, thông thƣờng bên môi giới chỉ có
quan hệ với bên đƣợc môi giới mà không có quan hệ với bên thứ ba (trừ trƣờng hợp
bên môi giới cũng ký hợp đồng môi giới với bên thứ ba).
Khi thực hiện MGTM, bên môi giới không phải là dại diện cho các bên đƣợc
môi giới và cũng không nhân danh bên đƣợc môi giới để giao dịch cũng nhƣ thực
hiện bất kỳ giao dịch nào với bên thứ ba.
Bên môi giới chỉ làm các công việc giúp bên đƣợc môi giới và bên thứ ba tiếp
xúc với nhau và tạo điều kiện cho các bên đi đến ký kết hợp đồng. Đặc điểm này
của hoạt động môi giới thƣơng mại khác với các hoạt động trung gian thƣơng mại
khác. Ví dụ, trong hoạt động đại diện cho thƣơng nhân, bên đại diện sẽ thay mặt,
nhân danh bên giao đại diện để thực hiện hoạt động thƣơng mại với bên thứ ba để
hƣởng thù lao đại lý. Có thể nói, với đặc điểm này, MGTM đƣợc coi là “hoạt động
trung gian thƣơng mại điển hình”.
Thứ năm, hoạt động MGTM đƣợc thực hiện bởi những ngƣời có năng lực,
trình độ và kinh nghiệm liên quan đến lĩnh vực môi giới.
Pháp luật Việt Nam cũng nhƣ pháp luật các nƣớc trên thế giới đều quy định
điều kiện của thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ MGTM. Trong đó, điều kiện đƣợc
xem là quan trọng và quyết định đến kết quả của hoạt động môi giới là điều kiện về
đội ngũ nhân viên thực hiện hoạt động môi giới. Để hoạt động môi giới mang tính
chuyên nghiệp và hiệu quả, đa số các lĩnh vực môi giới có tính chất phức tạp, pháp
luật đều quy định ngƣời thực hiện hoạt động môi giới phải có chứng chỉ hành nghề
môi giới. Điều đó có nghĩa là chủ thể thực hiện hoạt động môi giới phải đạt đƣợc


những yêu cầu nhất định về trình độ, năng lực và hiểu biết liên quan đến lĩnh vực
đƣợc môi giới. Chính vì thế, hoạt động MGTM đã dần trở thành một nghề mang
tính chuyên môn cao trong xã hội.
1.1.3. Vai trò của hoạt động môi giới thƣơng mại

Thứ nhất, hoạt động MGTM giúp các thƣơng nhân trong việc phân phối, tiêu
thụ hàng hóa, dịch vụ một cách có hiệu quả.
Việc sử dụng phƣơng thức phân phối, tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ thông qua
các nhà môi giới chuyên nghiệp mang lại hiệu quả cao vì những lý do sau:
Một là, nhà MGTM là những ngƣời thực hiện hoạt động MGTM một cách
chuyên nghiệp, có hiểu biết, kinh nghiệm và kiến thức sâu trong lĩnh vực môi giới,
vì vậy, họ có thể giúp nhà sản xuất phân phối hàng hóa, cung ứng dịch vụ một cách
tốt nhất. Hơn nữa, không phải lúc nào ngƣời bán cũng tìm đƣợc ngƣời mua, ngƣời
cung ứng dịch vụ cũng tìm đƣợc ngƣời sử dụng dịch vụ và ngƣợc lại, vì thế, với
việc nắm bắt nhanh nhạy các điều kiện về thị trƣờng, sở thích, thị hiếu của ngƣời
tiêu dùng, xu hƣớng của thị trƣờng… ngƣời môi giới sẽ đóng vai trò là cầu nối
giúp cho các bên tìm đến nhau nhanh hơn và dễ dàng trong việc thƣơng lƣợng, ký
kết hợp đồng. Đặc biệt, những ngƣời môi giới cũng là những ngƣời am hiểu biết
sâu pháp luật, tập quán và các đối tác, vì vậy, họ có khả năng đẩy mạnh việc giao
lƣu buôn bán trên phạm vi rộng.
Hai là, sử dụng dịch vụ MGTM sẽ tiết kiệm đáng kể chi phí giao dịch cho nhà
sản xuất trong phân phối và cung ứng dịch vụ trên thị trƣờng. Nhƣ trên đã nói,
ngƣời MGTM thực hiện hoạt động môi giới một cách chuyên nghiệp, vì vậy, họ có
các mối quan hệ khách hàng rộng, có sẵn các điều kiện cần thiết cho việc thực hiện
các nghiệp vụ môi giới, họ thực hiện phân phối hàng hóa, dịch vụ cho nhiều nhà
sản xuất nên hoạt động phân phối, tiêu thụ hàng hóa, dịch vụ của họ sẽ nhanh
chóng, hiệu quả và ít tốn kém hơn việc từng nhà sản xuất thực hiện.
Ba là, sử dụng dịch vụ môi giới thƣơng mại góp phần đẩy mạnh quá trình
chuyên môn hóa lao động và tăng hiệu quả trong sản xuất, kinh doanh. Khi sử
dụng dịch vụ môi giới, các nhà sản xuất sẽ tập trung vào hoạt động sản xuất, kinh
doanh mà không bị phân tán các nguồn lực cho khâu cung ứng và phân phối dịch
vụ trên thị trƣờng, do vậy, hiệu quả sản xuất, kinh doanh sẽ đƣợc nâng cao hơn.
Thứ hai, hoạt động MGTM tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng đƣợc tiếp
cận với hàng hóa, dịch vụ trên thị trƣờng một cách tốt nhất.
Những nhà môi giới chuyên nghiệp sẽ giới thiệu đến ngƣời tiêu dùng các

hàng hóa, dịch vụ phù hợp với nhu cầu và khả năng tài chính của ngƣời tiêu dùng,
đặc biệt là trong nhũng lĩnh vực mà đại đa số hiểu biết của ngƣời tiêu dùng còn hạn
chế (chứng khoán, bất động sản…). Ngƣời môi giới sẽ tƣ vấn cho khách hàng
những điều tốt nhất trong lĩnh vực phân phối hàng hóa, dịch vụ. Ví dụ, trong lĩnh
vực bất động sản, các thông tin về thị trƣờng bất động sản đƣợc ngƣời môi giới
cung cấp một cách chính xác, trung thực và đầy đủ sẽ giúp khách hàng phòng tránh
đƣợc rủi ro và đảm bảo an toàn về mặt pháp lý khi tham gia xác lập giao dịch về
bất động sản, nhất là khi đối tƣợng của các giao dịch liên quan đến bất động sản
thƣờng là các tài sản có giá trị lớn, hay trong lĩnh vực môi giới bảo hiểm, ngƣời
môi giới sẽ tƣ vấn giúp khách hàng đánh giá những rủi ro của khách hàng, phân
tích những rủi ro cần phải bảo hiểm, giúp khách hàng lựa chọn các doanh nghiệp


bảo hiểm có đầy đủ khả năng cung cấp những sản phẩm bảo hiểm, những dịch vụ
bảo hiểm phù hợp theo yêu cầu của khách hàng. Doanh nghiệp môi giới bảo hiểm
cũng đồng thời giúp ngƣời tham gia thực hiện đàm phán với các doanh nghiệp bảo
hiểm để có thể thu xếp đƣợc những điều kiện, điều khoản, mức phí bảo hiểm đáp
ứng đƣợc yêu cầu của khách hàng. Trong hoạt động môi giới chứng khoán, ngƣời
môi giới chứng khoán giúp các nhà đầu tƣ chứng khoán tiếp cận thông tin về thị
trƣờng chứng khoán một cách dễ dàng, khả năng lệnh đã đặt đƣợc thực hiện ở mức
cao và tiết kiệm các chi phí cho việc đi lại, giao dịch…
Thứ ba, hoạt động MGTM giúp Nhà nƣớc xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế
thị trƣờng công khai, minh bạch.
Thông qua các công cụ quản lý kinh tế của nhà nƣớc, các hoạt động MGTM
hoạt động nề nếp, chuyên nghiệp sẽ khiến cho nền kinh tế hoạt động ổn định, lành
mạnh, tránh đƣợc các hiện tƣợng đầu cơ, lũng đoạn về giá gây tâm lý hoang mang
cho ngƣời dân, đồng thời dần thay đổi thói quen kinh doanh thông qua các phƣơng
thức giao dịch trực tiếp của ngƣời dân và hình thành thói quen giao dịch gián tiếp
thông qua phƣơng thức trung gian nói chung và thông qua hình thức môi giới nói
riêng.

Bên cạnh những tác động tích cực nêu trên, phƣơng thức kinh doanh qua
MGTM cũng có những hạn chế nhất định, đặc biệt là bên đƣợc môi giới không liên
hệ trực tiếp với thị trƣờng mà thông qua bên môi giới. Vì vậy, việc thực hiện hợp
đồng đƣợc xác lập giữa bên đƣợc môi giới với bên thứ ba phụ thuộc nhiều vào
năng lực, phẩm chất của bên môi giới. Thực tế có nhiều tranh chấp phát sinh từ
hoạt động MGTM do bên môi giới tƣ vấn thiếu trách nhiêm, không có năng lực,
kinh nghiệm và kiến thức chuyên môn dẫn đến thiệt thòi cho khách hàng trong quá
trình thực hiện hợp đồng với bên thứ ba.
1.2. Khái niệm, đặc điểm hợp đồng môi giới thƣơng mại
1.2.1. Khái niệm hợp đồng môi giới thƣơng mại
Chúng ta có thể đi từ những đặc tính cơ bản của hợp đồng môi giới để làm
sáng tỏ khái niệm HĐMG.
Một là, HĐMGTM trƣớc hết là hợp đồng thƣơng mại. Hợp đồng là một khái
niệm xuất hiện khá lâu và cũng có khá nhiều khái niệm về hợp đồng. Ví dụ, Bộ
Luật Thƣơng mại thống nhất của Hoa Kỳ quy định “Hợp đồng là sự tổng hợp các
nghĩa vụ pháp lý phát sinh từ sự thỏa thuận của các bên”, Luật Hợp đồng năm
1999 của Trung Quốc quy định “Hợp đồng là sự thỏa thuận về việc xác lập, thay
đổi, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự giữa các chủ thể bình đẳng, tự nhiên của các
tổ chức”.
Hai là, HĐMGTM là hợp đồng cung ứng dịch vụ. Nếu nhƣ đối tƣợng của hợp
đồng mua bán hàng hóa là hàng hóa các sản phẩm hữu hình thì đối tƣợng của hợp
đồng cung ứng dịch vụ là dịch vụ các sản phẩm vô hình, “là những thứ mà khi đem
bán không thể rơi vào chân bạn” .
LTM năm 2005 định nghĩa cung ứng dịch vụ tại khoản 9 Điều 3 “Cung ứng
dịch vụ là hoạt động thƣơng mại theo đó một bên (sau đây gọi là bên cung ứng
dịch vụ) có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho một bên khác và nhận thanh toán; bên
sử dụng dịch vụ (sau đây gọi là khách hàng) có nghĩa vụ thanh toán cho bên cung


ứng dịch vụ và sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận”. Khái niệm này đã nhìn nhận

cung ứng dịch vụ dƣới góc độ là một hoạt động thƣơng mại, có nghĩa là có ít nhất
một bên tham gia có mục đích sinh lợi, mặt khác luật cũng quy định rõ bên sử
dụng dịch vụ có nghĩa vụ thanh toán hay nói cách khác là trả tiền sử dụng dịch vụ
cho bên cung ứng dịch vụ.
HĐMGTM cũng là hợp đồng cung ứng dịch vụ thƣơng mại, có đối tƣợng là
dịch vụ môi giới, gồm hai bên, bên cung ứng dịch vụ (bên môi giới) và bên sử
dụng dịch vụ (bên đƣợc môi giới) và ít nhất bên môi giới phải có mục đích sinh lợi.
Từ cách hiểu trên, có thể đƣa ra khái niệm HĐMGTM nhƣ sau: HĐMGTM là
sự thỏa thuận giữa một bên là thƣơng nhân làm trung gian (gọi là bên môi giới)
cho các bên mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ (gọi là bên đƣợc môi giới) trong
việc đàm phán, giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ và bên đƣợc môi giới
có nghĩa vụ trả thù lao cho bên môi giới theo thỏa thuận.
1.2.2. Đặc điểm của hợp đồng môi giới thƣơng mại
Thứ nhất, chủ thể của HĐMGTM gồm bên môi giới và bên đƣợc môi giới.
Trong đó bên môi giới phải là thƣơng nhân, đáp ứng đầy đủ các điều kiện đƣợc
quy định tại Điều 6 LTM năm 2005, các điều kiện thực hiện hoạt động MGTM
theo các văn bản pháp luật chuyên ngành. Bên môi giới không nhất thiết phải đăng
ký kinh doanh cùng ngành nghề với ngành nghề kinh doanh của bên đƣợc môi
giới. Pháp luật hiện hành không quy định bên đƣợc môi giới bắt buộc phải là
thƣơng nhân. Khi giao kết và thực hiện HĐMGTM, bên môi giới sử dụng danh
nghĩa của chính mình.
Thứ hai, đối tƣợng của HĐMGTM là công việc môi giới nhằm kết nối các
mối quan hệ giữa các bên với nhau, mục đích cuối cùng là giúp các bên đi đến ký
kết hợp đồng. Công việc môi giới trong từng lĩnh vực môi giới có sự khác nhau
phụ thuộc vào nội dung của từng hoạt động môi giới cụ thể và theo thỏa thuận của
các bên trong hợp đồng môi giới. Các công việc môi giới theo hợp đồng có thể là
tƣ vấn, tìm kiếm, giới thiệu khách hàng; giúp khách hàng đàm phán, soạn thảo hợp
đồng với bên thứ ba; giúp khách hàng thực hiện một số giao dịch theo yêu cầu và
vì lợi ích của họ… Vì đối tƣợng của hợp đồng môi giới là dịch vụ môi giới nên khi
thực hiện hợp đồng, bên môi giới cung cấp dịch vụ nhƣng không chuyển giao

quyền sở hữu dịch vụ cho bên đƣợc môi giới. Đặc điểm này khác so với hợp đồng
mua bán hàng hóa, khi thực hiện hợp đồng, bên bán hàng chuyển giao quyền sở
hữu hàng hóa cho bên mua.
Thứ ba, mục đích mà bên môi giới hƣớng tới trong hợp đồng là một khoản
thù lao dịch vụ. LTM năm 2005 quy định bên môi giới sẽ đƣợc hƣởng thù lao môi
giới khi thực hiện việc chắp nối các giao dịch thành công. Mục đích mà bên đƣợc
môi giới hƣớng tới trong hợp đồng môi giới là một cơ hội giao kết hợp đồng với
bên thứ ba, qua đó cũng hƣớng tới mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận trong trƣờng hợp
bên đƣợc môi giới là thƣơng nhân.


Thứ tƣ, nội dung của HĐMGTM là tổng hợp các điều khoản quy định quyền
và nghĩa vụ của các bên trong HĐMGTM. Để đảm bảo nguyên tắc tự do thỏa
thuận khi giao kết hợp đồng, pháp luật thƣờng không có quy định cụ thể về nội
dung của HĐMGTM mà để các bên tự thỏa thuận dựa trên các quy định chung của
pháp luật. Tuy nhiên, để đảm bảo tính chặt chẽ của HĐMGTM và tạo điều kiện
thuận lợi cho các bên khi thực hiện hợp đồng, trong HĐMGTM, các bên sẽ phải
thỏa thuận rất kỹ các nội dung của hợp đồng, đăc biệt là các quy định về quyền và
nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng môi giới.
Thứ năm, hình thức của HĐMGTM có thể đƣợc xác lập bằng văn bản, lời nói
hoặc bằng hành vi cụ thể. Tùy từng hợp đồng môi giới cụ thể, pháp luật có quy
định về hình thức của HĐMGTM. Ngoài ra, cũng giống nhƣ các hợp đồng cung
ứng dịch vụ khác, trong các lĩnh vực MGTM các bên thƣờng sử dụng khá phổ biến
hình thức hợp đồng Mẫu, trong đó, bên cung cấp dịch vụ môi giới đã soạn thảo sẵn
các điều khoản của hợp đồng, trên cơ sở đó, nếu bên đƣợc môi giới ký vào hợp
đồng, điều đó đồng nghĩa với việc bên đƣợc môi giới chấp nhận tất cả các điều
khoản trong hợp đồng.
1.3. Khái quát pháp luật về hợp đồng môi giới thƣơng mại
1.3.1. Nguồn luật điều chỉnh hợp đồng môi giới thƣơng mại
Ở Việt Nam, pháp luật hiện hành điều chỉnh HĐMGTM đƣợc đề cập trong

nhiều văn bản nhƣ: BLDS năm 2005 (đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2015), LTM năm
2005, Luật Chứng khoán năm 2006 (đƣợc sửa đổi bổ sung năm 2010), Luật Kinh
doanh bất động sản năm 2006 (đƣợc sửa đổi bổ sung năm 2014), Luật Kinh doanh
bảo hiểm năm 2001 (đƣợc sửa đổi, bổ sung năm 2010), Bộ Luật Hàng hải năm
2005… và nhiều văn bản dƣới luật. Các văn bản này đã tạo nên một hệ thống pháp
luật tƣơng đối hoàn chỉnh quy định về HĐMGTM. Ngoài ra, quan hệ HĐMGTM
có thể còn chịu sự điều chỉnh của pháp luật nƣớc ngoài, tập quán quốc tế và các
điều ƣớc quốc tế trong trƣờng hợp ít nhất một bên là cá nhân hoặc tổ chức nƣớc
ngoài thỏa thuận lựa chọn. Chẳng hạn, Bộ Luật Hàng hải năm 2005 quy định “Các
bên tham gia trong hợp đồng liên quan đến hoạt động hàng hải mà trong đó có ít
nhất một bên là tổ chức hoặc cá nhân nƣớc ngoài thì có quyền thỏa thuận áp dụng
luật nƣớc ngoài hoặc tập quán hàng hải quốc tế trong các quan hệ hợp đồng…”.
Hay Luật Chứng khoán năm 2006 quy định “Trƣờng hợp điều ƣớc quốc tế mà
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác với quy định
của Luật này thì áp dụng theo quy định của Điều ƣớc quốc tế”. Nhƣ vậy, nguồn
luật điều chỉnh HĐMGTM bao gồm: Các văn bản luật quốc gia, tập quán thƣơng
mại quốc tế và các điều ƣớc quốc tế. Nguyên tắc xác định thứ bậc văn bản pháp
luật áp dụng điều chỉnh các hoạt động thƣơng mại nói chung và HĐMGTM nói
riêng đƣợc quy định tại Điều 4 và Điều 5 của LTM năm 2005. Theo đó, mọi hoạt
động thƣơng mại phải tuân theo LTM và các văn bản pháp luật có liên quan, hoạt
động thƣơng mại đặc thù đƣợc quy định trong luật khác thì áp dụng quy định của
luật đó, hoạt động thƣơng mại không đƣợc quy định trong LTM và trong các luật
khác thì áp dụng quy định của BLDS. Trong trƣờng hợp, quy định của LTM và


văn bản pháp luật nƣớc ngoài, tập quán quốc tế mà các bên lựa chọn áp dụng trái
với quy định của điều ƣớc quốc tế thì áp dụng quy định của điều ƣớc quốc tế.
1.3.2. Nội dung pháp luật về hợp đồng môi giới thƣơng mại
Pháp luật về HĐMGTM có thể phân chia theo nhiều cách, dựa trên những tiêu
chí khác nhau:

* Căn cứ vào tính chất của quy phạm pháp luật điều chỉnh có:
- Nhóm quy phạm pháp luật quy định chung về HĐMGTM nhƣ: nguyên tắc
giao kết hợp đồng, điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, chế tài do vi phạm hợp
đồng, giải quyết tranh chấp phát sinh từ quan hệ hợp đồng, chủ thể của hợp đồng
môi giới, nội dung của hoạt động môi giới, các quyền và nghĩa vụ cơ bản của các
bên tham gia quan hệ HĐMGTM… Các nội dung này đƣợc quy định trong BLDS
năm 2005 và LTM năm 2005.
- Nhóm quy phạm quy định riêng đối với từng hợp đồng môi giới cụ thể: quy
định về hợp đồng môi giới chứng khoán, quy định về hợp đồng môi giới bất động
sản, quy định về hợp đồng môi giới bảo hiểm, quy định về hợp đồng môi giới hàng
hải… Các quy định này đƣợc quy định trong các văn bản pháp luật chuyên ngành
nhƣ: Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Chứng
khoán, Bộ Luật Hàng hải,…
* Căn cứ vào nội dung của quy phạm pháp luật điều chỉnh HĐMGTM có:
- Quy định về chủ thể tham gia quan hệ HĐMGTM;
- Quy định về nội dung của HĐMGTM;
- Quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ HĐMGTM;
- Quy định về hình thức của HĐMGTM;
- Quy định về điều kiện có hiệu lực của HĐMGTM;
- Quy định về chấm dứt HĐMGTM;
- Quy định chế tài xử lý vi phạm trong HĐMGTM;
- Quy định về giải quyết tranh chấp trong HĐMGTM.


Chƣơng 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HỢP ĐỒNG
MÔI GIỚI THƢƠNG MẠI
2.1. Thực trạng pháp luật quy định về các bên tham gia của hợp đồng môi giới
thƣơng mại
2.1.1. Bên môi giới

LTM năm 2005 của Việt Nam cũng quy định bên môi giới phải là thƣơng
nhân. Nhƣ vậy, bên môi giới phải là cá nhân, tổ chức kinh tế đƣợc thành lập hợp
pháp, có đăng ký kinh doanh dịch vụ MGTM. Thƣơng nhân thực hiện hoạt động
MGTM phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện về đăng ký kinh doanh theo quy định
của Luật Doanh nghiệp năm 2005, Luật Hợp tác xã năm 2012. LTM không quy
định cụ thể điều kiện của thƣơng nhân thực hiện hoạt động MGTM. Tuy nhiên, đối
với các ngành nghề kinh doanh có điều kiện, tổ chức, cá nhân chỉ đƣợc thực hiện
hoạt động môi giới khi đáp ứng đủ các điều kiện kinh doanh dịch vụ môi giới theo
quy định của pháp luật chuyên ngành nhƣ các điều kiện về hình thức pháp lý, điều
kiện về nhân sự, điều kiện về vốn pháp định hay các điều kiện về cơ sở vật chất và
tổ chức bộ máy.
Thứ nhất, về hình thức pháp lý: cá nhân, tổ chức kinh doanh dịch vụ môi giới
trong một số lĩnh vực (môi giới hàng hải, môi giới chứng khoán, môi giới bảo
hiểm, môi giới bất động sản) phải đƣợc tổ chức theo các hình thức pháp lý do pháp
luật quy định.
Thứ hai, điều kiện về vốn pháp định: vốn pháp định là điều kiện quan trọng
đảm bảo về mặt trách nhiệm tài sản đối với các nghĩa vụ của thƣơng nhân trong
hoạt động kinh doanh. Mức vốn pháp định đƣợc xác định đối với từng ngành nghề
kinh doanh căn cứ vào mức độ rủi ro của ngành nghề đó. Vì vậy, đối với những
hoạt động môi giới trong các lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro và có tính chất phức tạp,
pháp luật quy định thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ môi giới phải đáp ứng các yêu
cầu về mức vốn pháp định.
Thứ ba, điều kiện về nhân sự thực hiện hoạt động môi giới: đối với một số
lĩnh vực môi giới, pháp luật quy định thƣơng nhân kinh doanh dịch vụ môi giới
phải đáp ứng điều kiện về nhân sự thực hiện hoạt động này. Nhìn chung, đa số các
lĩnh vực môi giới đều quy định tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động môi giới trong
một số lĩnh vực phải có ít nhất một ngƣời có chứng chỉ hành nghề môi giới. Việc
quy định về chứng chỉ hành nghề môi giới đã tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho
việc đào tạo hình thành và phát triển nghề môi giới ở Việt Nam.
Nhƣ vậy, có thể thấy đa số các hoạt động MGTM đều đòi hỏi thực hiện bởi

những ngƣời có đủ năng lực, trình độ chuyên môn và đƣợc cấp chứng chỉ môi giới
theo quy định. Kể cả những hoạt động môi giới pháp luật không quy định về điều
kiện hành nghề môi giới thì ngƣời môi giới cũng phải là ngƣời có kinh nghiệm,


hiểu biết và trình độ chuyên môn phù hợp với lĩnh vực môi giới để có thể chắp nối
thành công các quan hệ giữa các bên. Ví dụ, trong hoạt động môi giới thuê tàu,
pháp luật hiện nay đều chƣa có quy định về điều kiện của thƣơng nhân hành nghề
môi giới thuê tàu, tuy nhiên, quá trình đàm phán giao dịch thuê tàu là một quá trình
mặc cả giữa hai bên có lợi ích đối lập nhau. Ngƣời vận chuyển cố gắng tìm mọi
cách để cho thuê tàu với giá cao nhất, ngƣợc lại, ngƣời thuê vận chuyển muốn
ghìm giá cƣớc hạ. Để chắp nối thành công hai bên, ngƣời môi giới phải có kỹ năng
và nghệ thuật đàm phán cũng nhƣ trình độ chuyên môn nghề nghiệp, am hiểu thị
trƣờng thuê tàu, thế và lực của mỗi bên tƣơng quan giữa các điều khoản của hợp
đồng thuê tàu. Vì vậy, có thể nói, quá trình làm môi giới là một quá trình sinh
động, hấp dẫn, nhất là với những ngƣời nhạy cảm nghề nghiệp.
2.1.2. Bên đƣợc môi giới
Thứ nhất, bên đƣợc môi giới là bên sử dụng dịch vụ môi giới chứ không phải
là bên thực hiện dịch vụ môi giới, do đó không phải lúc nào cũng là thƣơng nhân.
Ví dụ, trong hoạt động môi giới bất động sản, khách hàng hoàn toàn có thể là các
cá nhân, tổ chức không phải là thƣơng nhân, có nhu cầu ký kết hợp đồng mua bán
bất động sản nhƣng do không có hiểu biết cụ thể về thị trƣờng bất động sản cũng
nhƣ các quy định của pháp luật về lĩnh vực bất động sản, do vậy họ sử dụng dịch
vụ môi giới bất động sản để đƣợc cung cấp thông tin và tƣ vấn soạn thảo hợp đồng
mua bán bất động sản nhằm đảm bảo đầy đủ quyền lợi của các bên khi giao kết
hợp đồng.
Thứ hai, nếu quy định bắt buộc bên đƣợc môi giới phải là thƣơng nhân thì
những trƣờng hợp bên đƣợc môi giới không là thƣơng nhân sẽ không phải là môi
giới thƣơng mại và không chịu sự điều chỉnh của LTM mà chịu sự điều chỉnh của
BLDS và các quy định của pháp luật về MGTM sẽ không đƣợc áp dụng cho bên là

thƣơng nhân trong quan hệ hợp đồng này.
2.2. Thực trạng pháp luật quy định về đối tƣợng của hợp đồng môi giới thƣơng
mại
Đối tƣợng của hợp đồng môi giới chính là công việc môi giới, cung cấp và tạo
điều kiện cho các bên đi đến giao kết hợp đồng với nhau. Nhƣ vậy, có thể thấy, đối
tƣợng của HĐMGTM không phải là bản thân quyền và lợi ích chứa đựng trong
hàng hóa, dịch vụ mà là dịch vụ môi giới. Khác với hợp đồng mua bán hàng hóa có
đối tƣợng là hàng hóa, sản phẩm hữu hình, đối tƣợng của HĐMGTM là các sản
phẩm vô hình, không tồn tại dƣới dạng vật chất, do đó rất khó xác định chất lƣợng
dịch vụ bằng những tiêu chí đƣợc lƣợng hóa. Vì vậy, trong HĐMG, các bên phải
mô tả rất kỹ về dịch vụ, các yêu cầu đối với công việc mà bên môi giới phải thực
hiện, mục tiêu mà các bên muốn hƣớng tới khi giao kết hợp đồng. Dịch vụ môi
giới mà nhà môi giới cung cấp trong từng hợp đồng môi giới và trong từng lĩnh
vực môi giới cụ thể là khác nhau. Trong hợp HĐMG bất động sản, nhà môi giới
thỏa thuận vơi khách hàng cung cấp dịch vụ môi giới bất động sản nhƣ cung cấp


thông tin về bất động sản, làm trung gian để các bên gặp gỡ nhau, tìm hiểu thông
tin về bất động sản; giúp đỡ các bên trong việc đàm phán, ký kết hợp đồng kinh
doanh bất động sản; trong HĐMG chứng khoán, nhà môi giới sẽ thực hiện dịch vụ
cung cấp thông tin và tƣ vấn khách hàng, cung cấp các sản phẩm, dịch vụ tài chính,
giúp khách hàng thực hiện giao dịch theo yêu cầu và vì lợi ích của họ;…
2.3. Thực trạng pháp luật quy định về nội dung của hợp đồng môi giới thƣơng mại
Nội dung của hợp đồng là tổng hợp các quyền và nghĩa vụ của các bên chủ
thể tham gia đƣợc thể hiện trong các điều khoản của hợp đồng. LTM năm 2005
không có quy định về nội dung của hợp đồng cung ứng dịch vụ thƣơng mại nói
chung và nội dung của HĐMG nói riêng mà chỉ quy định các quyền và nghĩa vụ
của các bên trong hoạt động môi giới. Điều này tạo điều kiện thuận lợi cho các bên
trong việc tự do thỏa thuận các điều khoản trong hợp đồng nhằm phù hợp với điều
kiện và tình hình của các bên. Trong các Luật về các hoạt động môi giới đặc thù

nhƣ: Môi giới chứng khoán, môi giới bảo hiểm, môi giới hàng hải đều không có
quy định về nội dung của HĐMG.
Nhìn chung các điều khoản trong HĐMG đều nhằm mục đích xác lập, bảo
đảm và giúp các bên thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình trong quan hệ
HĐMG. Bởi vậy, các quy định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của các bên
trong hoạt động MGTM nói chung và các điều khoản thỏa thuận của các bên trong
từng HĐMGTM cụ thể có ý nghĩa hết sức quan trọng. LTM năm 2005 và các văn
bản pháp luật về các hoạt động môi giới đặc thù (môi giới bảo hiểm, môi giới
chứng khoán, môi giới hàng hải, môi giới bất động sản) đều có quy định về quyền
và nghĩa vụ của các bên khi tham gia quan hệ HĐMGTM. Theo các văn bản này,
bên môi giới có những nghĩa vụ cơ bản sau:
- Bảo quản các mẫu hàng hóa, tài liệu đƣợc giao để thực hiện viêc môi giới và
phải hoàn trả cho bên đƣợc môi giới sau khi hoàn thành việc môi giới;
- Không đƣợc tiết lộ, cung cấp thông tin làm phƣơng hại đến lợi ích của bên
đƣợc môi giới;
- Chịu trách nhiệm về tƣ cách pháp lý của các bên đƣợc môi giới nhƣng
không chịu trách nhiệm về khả năng thanh toán của họ;
- Không đƣợc tham gia thực hiện hợp đồng giữa các bên đƣợc môi giới, trừ
trƣờng hợp đƣợc ủy quyền.
Nhƣ vậy, để thực hiện hoạt động môi giới, bên môi giới có quyền yêu các bên
đƣợc môi giới cung cấp mẫu hàng hóa, tài liệu để phục vụ hoạt động môi giới và
có nghĩa vụ bảo quản hàng hóa, tài liệu đƣợc cung cấp, đồng thời hoàn trả bên
đƣợc môi giới sau khi hoàn thành việc môi giới.
Để đảm bảo tính khách quan, trung thực của hoạt động môi giới, pháp luật
cũng quy định bên môi giới không đƣợc tham gia vào việc thực hiện hợp đồng
giữa các bên đƣợc môi giới, trừ trƣờng hợp có ủy quyền của bên đƣợc môi giới và
trong trƣờng hợp có sự ủy quyền thì quan hệ pháp luật phát sinh lúc này là quan hệ
ủy quyền chứ không phải là quan hệ môi giới. Trong hoạt động môi giới bất động



sản, khoản 3 Điều 62 Luật Kinh doanh bất động sản 2014 quy định: “Tổ chức, cá
nhân kinh doanh dịch vụ môi giới bất động sản không đƣợc đồng thời vừa là nhà
môi giới vừa là một bên thực hiện hợp đồng trong một giao dịch kinh doanh bất
động sản”. Đây đƣợc cho là nguyên tắc đặc thù của hoạt động môi giới bất động
sản. Sở dĩ, nhà làm luật quy định nhƣ trên bởi vì môi giới bất động sản là một dịch
vụ trung gian, nhà môi giới có chức năng tìm kiếm đối tác cho khách hàng trong
các giao dịch bất động sản. Họ không thể trở thành một bên đối tác của khách
hàng. Nếu nhà môi giới bất động sản trở thành một bên quan hệ giao dịch bất động
sản thì trong trƣờng hợp này khách hàng sẽ ở trong vị trí bất lợi, bởi lẽ, nhà môi
giới là ngƣời có lợi thế về mặt tiếp cận thông tin, có chuyên môn, nghiệp vụ và
kinh nghiệm trong lĩnh vực bất động sản sẽ dễ dàng lẫn át khách hàng và tạo ra
những điều kiện có lợi cho mình trong đàm phán. Hơn nữa nếu nhà môi giới bất
động sản đồng thời là một bên trong giao dịch bất động sản thì tính chất của hoạt
động môi giới bất động sản sẽ bị thay đổi. Nhà môi giới sẽ không còn đóng vai trò
là ngƣời trung gian, hỗ trợ các bên trong đàm phán, ký kết hợp đồng mua bán bất
động sản. Nguyên tắc này cho thấy tính chất và sự phân biệt rõ ràng giữa hoạt động
kinh doanh bất động sản và hoạt động kinh doanh dịch vụ bất động sản.
Ngoài các quy định chung của LTM về nghĩa vụ của bên môi giới, các văn
bản pháp luật về các hoạt động môi giới đặc thù cũng bổ sung thêm một số nghĩa
vụ của bên môi giới. Chẳng hạn, trong hoạt động môi giới bất động sản, ngoài các
nghĩa vụ theo các quy định LTM năm 2005, bên môi giới còn có nghĩa vụ bồi
thƣờng thiệt hại do lỗi của mình gây ra, cung cấp thông tin về bất động sản đƣa vào
kinh doanh và chịu trách nhiệm về thông tin do mình cung cấp. Một khi bên môi
giới cung cấp thông tin không chính xác thì ngoài việc không đƣợc hƣởng thù lao
và chi phí môi giới, họ còn phải bồi thƣờng thiệt hại xảy ra nếu việc cung cấp
thông tin đó là nguyên nhân gây ra thiệt hại cho bên đƣợc môi giới. Nhà môi giới
còn phải thực hiện những nghĩa vụ đối với nhà nƣớc nhƣ nghĩa vụ về thuế, các
nghiệp vụ tài chính khác, thực hiện chế độ báo cáo theo quy định của pháp luật và
chịu sự kiểm tra, thanh tra của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền. Trong hoạt động
môi giới bảo hiểm và môi giới chứng khoán, nhằm tăng cƣờng trách nhiệm của

doanh nghiệp môi giới trong trƣờng hợp các doanh nghiệp môi giới tƣ vấn sai hoặc
thực hiện các nghiệp vụ môi giới làm ảnh hƣởng đến quyền lợi của khách hàng,
bên cạnh các quyền và nghĩa vụ cơ bản nêu trên pháp luật còn quy định doanh
nghiệp môi giới trong hai lĩnh vực này phải mua bảo hiểm trách nhiệm nghề
nghiệp cho hoạt động môi giới của mình để đảm bảo khả năng bồi thƣờng thiệt hại
cho khách hàng trong trƣờng hợp doanh nghiệp hoặc nhân viên môi giới của doanh
nghiệp thực hiện các nghiệp vụ môi giới sai gây tổn thất của khách hàng.
Bên cạnh những nghĩa vụ phải thực hiện, LTM năm 2005 và các văn bản
pháp luật hiện hành cũng quy định quyền của bên môi giới và tƣơng ứng với các
quyền của bên môi giới là nghĩa vụ của bên đƣợc môi giới. Theo quy định của
LTM năm 2005, bên môi giới có quyền cơ bản sau:
Một là, quyền đƣợc trả thù lao môi giới .
Theo quy định này, chỉ khi nào các bên đƣợc môi giới ký kết hợp đồng với
nhau hay nói cách khác là hoạt động trung gian môi giới đạt kết quả thì bên môi
giới mới đƣợc hƣởng thù lao trừ trƣờng hợp các bên có thỏa thuận khác. Việc xác


định thời điểm hƣởng thù lao trong trƣờng hợp các bên không có thỏa thuận khác
vừa đảm bảo cho bên môi giới thực hiện các nghĩa vụ của mình một cách có trách
nhiệm vừa tránh đƣợc các trƣờng hợp bên đƣợc môi giới trốn tránh nghĩa vụ trả
thù lao trong quan hệ môi giới.
Hai là, quyền đƣợc thanh toán các chi phí phát sinh liên quan đến việc môi
giới.
Pháp luật Việt Nam cũng chƣa có quy định rõ về quyền hƣởng thù lao môi
giới trong trƣờng hợp bên môi giới ký hợp đồng môi giới với cả hai bên đƣợc môi
giới và do vậy có thể hiểu trong trƣờng hợp này, bên môi giới có thể đƣợc hƣởng
thù lao và chi phí môi giới theo hợp đồng môi giới từ cả hai bên đƣợc môi giới
nhƣng chỉ phải thực hiện công việc chắp nối cho một giao dịch. Theo quy định của
Luật hợp đồng Trung Quốc năm 1999 “trƣờng hợp bên môi giới đã tạo những điều
kiện thuận lợi cho việc giao kết hợp đồng bằng cách cung cấp các dịch vụ trung

gian có liên quan, thì thù lao trả cho bên môi giới phải đƣợc chia đều cho các bên
của hợp đồng đó cùng chịu”. Nhƣ vậy, trong trƣờng hợp cả hai bên đƣợc môi giới
đều là khách hàng của bên môi giới thì bên môi giới cũng chỉ đƣợc hƣởng thù lao
xét trong mối quan hệ giao dịch thƣơng mại chứ không đƣợc hƣởng thù lao xét
trong mối quan hệ hai hợp đồng môi giới [1, tr 134]. Quy định này trong Luật hợp
đồng Trung Quốc có phần không hợp lý bởi lẽ mức thù lao môi giới là quyền lợi
của bên môi giới phát sinh theo từng hợp đồng môi giới cụ thể mà tại thời điểm ký
kết các hợp đồng này các bên đƣợc môi giới hoàn toàn không biết nhau. Thực tế,
việc bên môi giới ký kết hợp đồng với cả hai bên đƣợc môi giới xảy ra nhiều là vì
đã xác lập hợp đồng môi giới với cả hai bên đƣợc môi giới nên bên đƣợc môi giới
hoàn toàn đƣợc hƣởng thù lao theo từng hợp đồng môi giới. Việc pháp luật chƣa
quy định rõ trách nhiệm trả thù lao trong trƣờng hợp này có thể khiến việc áp dụng
pháp luật khó khăn và không thống nhất.
Để tạo cách hiểu thống nhất và những tranh cãi không cần thiết, pháp luật cần
có những quy định cụ thể quyền hƣởng thù lao môi giới của bên môi giới trong
trƣờng hợp này.
2.4. Thực trạng pháp luật quy định về hình thức của hợp đồng môi giới thƣơng mại
Hình thức của hợp đồng là sự biểu hiện ra bên ngoài của nội dung hợp đồng,
gồm tổng hợp các cách thức, thủ tục, phƣơng tiện để thể hiện và công bố ý chí của
các bên, ghi nhận nội dung hợp đồng và là sự biểu hiện cho sự tồn tại của hợp
đồng. Theo quy định của BLDS năm 2015, hợp đồng có thể lập bằng “lời nói, bằng
văn bản hoặc bằng một hành vi cụ thể” (khoản 1 Điều 119). Những trƣờng hợp
pháp luật có quy định hình thức bắt buộc thì phải tuân theo hình thức đó (khoản 2
Điều 119).
2.5. Thực trạng pháp luật quy định về điều kiện có hiệu lực của hợp đồng môi giới
thƣơng mại
LTM năm 2005 không quy định điều kiện có hiệu lực của hợp đồng thƣơng
mại nói chung và HĐMGTM nói riêng, vì vậy, việc xác định các điều kiện có hiệu
lực của hợp đồng môi giới thƣơng mại căn cứ vào các quy định của Bộ luật dân sự.
Khi giao kết các hợp đồng môi giới thƣơng mại, bên cạnh việc nắm vững các

quy định của pháp luật về hợp đồng, các bên còn phải nắm vững các quy định của
pháp luật chuyên ngành điều chỉnh trực tiếp nội dung của hợp đồng môi giới, tránh


trƣờng hợp vì sự thiếu hiểu biết mà dẫn đến hợp đồng bị tuyên vô hiệu. Có thể lấy
vụ việc môi giới dự án đất biệt thự tại khu đô thị Bắc An Khánh dƣới đây làm dẫn
chứng.
2.6. Thực trạng pháp luật quy định chấm dứt hợp đồng môi giới thƣơng mại
Luật Thƣơng mại năm 2005 không quy định về các trƣờng hợp chấm dứt
HĐMGTM, vì vậy việc chấm dứt HĐMGTM đƣợc thực hiện theo quy định tại
Điều 422 BLDS năm 2015 về các trƣờng hợp chấm dứt hợp đồng dân sự thì
HĐMGTM đƣợc chấm dứt theo thỏa thuận của các bên và trong những trƣờng hợp
sau:
- Hợp đồng môi giới đã hoàn thành;
- Theo thỏa thuận của các bên trong hợp đồng môi giới;
- Cá nhân giao kết trong hợp đồng môi giới chết, pháp nhân giao kết hợp
đồng chấm dứt tồn tại mà hợp đồng môi giới phải do chính cá nhân, pháp nhân đó
thực hiện;
- Hợp đồng môi giới bị hủy bỏ, bị đơn phƣơng chấm dứt thực hiện;
- Hợp đồng môi giới không thể thực hiện đƣợc do đối tƣợng của hợp đồng
không còn;
- Trƣờng hợp khác do luật quy định.
LTM hiện hành không quy định về quyền đơn phƣơng chấm dứt hợp đồng
của các bên tham gia HĐMGTM. Tuy nhiên, vì HĐMGTM là hợp đồng dịch vụ
nên căn cứ Điều 520 BLDS năm 2015, bên đƣợc môi giới có quyền đơn phƣơng
chấm dứt thực hiện HĐMG trong trƣờng hợp việc tiếp tục thực hiện nghĩa vụ
không có lợi cho bên đƣợc môi giới nhƣng phải báo cáo cho bên môi giới biết
trƣớc một thời gian hợp lý và thanh toán tiền công cho phần dịch vụ mà bên cung
ứng dịch vụ đã thực hiện và bồi thƣờng thiệt hại. Bên môi giới có quyền đơn
phƣơng chấm dứt thực hiện hợp đồng và yêu cầu bồi thƣờng thiệt hại trong trƣờng

hợp bên đƣợc môi giới không thực hiện nghĩa vụ của mình hoặc thực hiện không
đúng thỏa thuận.
Nhìn chung, pháp luật Việt Nam hiện hành về HĐMGTM đã quy định tƣơng
đối cụ thể các vấn đề liên quan đến HĐMGTM: chủ thể của hợp đồng, đối tƣợng
của hợp đồng, nội dung của hợp đồng, quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan
hệ hợp đồng, hình thức của hợp đồng, điều kiện có hiệu lực của hợp đồng…
Những điều kiện này đã tạo hành lang pháp lý và điều kiện thuận lợi cho các bên
tham gia quan hệ HĐMGTM, đồng thời có nhiều điểm tƣơng đồng với pháp luật
của nhiều nƣớc trên thế giới. Bên cạnh đó, các quy định của pháp luật về
HĐMGTM còn bộc lộ nhiều điểm hạn chế, bất cập, đặc biệt là các quy định về
quyền và nghĩa vụ của bên môi giới. Để đáp ứng những yêu cầu của nền kinh tế thị
trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và yêu cầu của hội nhập quốc tế,
những hạn chế, bất cập của pháp luật Việt Nam hiện hành về HĐMGTM cần đƣợc
tiếp tục hoàn thiện và bổ sung.
2.7. Thực trạng pháp luật quy định về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng môi giới
thƣơng mại
Khi HĐMGTM đƣợc giao kết và có hiệu lực pháp luật, những cam kết trong
hợp đồng có giá trị bắt buộc thực hiện đối với các bên. Nếu một bên không thực
hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ các nghĩa vụ đã thỏa thuận thì bị coi là


vi phạm nghĩa vụ hợp đồng. Trong HĐMGTM, ngoài các điều khoản do các bên
thỏa thuận và ghi rõ trong hợp đồng, các bên còn phải tuân thủ những nội dung
pháp lý bắt buộc đã đƣợc pháp luật quy định.
2.8. Thực trạng pháp luật quy định về giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng
môi giới thƣơng mại
HĐMGTM là một dạng của hợp đồng thƣơng mại, vì vậy, việc giải quyết các
tranh chấp phát sinh từ hợp đồng môi giới đƣợc thực hiện theo các quy định của
LTM năm 2005. Theo đó, các hình thức giải quyết tranh chấp phát sinh từ
HĐMGTM bao gồm: thƣơng lƣợng giữa các bên, hòa giải giữa các bên do một cơ

quan, tổ chức hoặc cá nhân đƣợc các bên thỏa thuận chọn làm trung gian hòa giải;
giải quyết tại Trọng tài hoặc Tòa án. Thủ tục giải quyết tranh chấp tại Trọng tài,
Tòa án đƣợc tiến hành theo các thủ tục tố tụng của Trọng tài, Tòa án do pháp luật
quy định.


Chƣơng 3
ĐỊNH HƢỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG MÔI GIỚI THƢƠNG
MẠI TẠI VIỆT NAM

3.1. Định hƣớng hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về hợp đồng
môi giới thƣơng mại ở Việt Nam
Thứ nhất, hoàn thiện pháp luật về HĐMGTM phải phù hợp với quan điểm
của Đảng và Nhà nƣớc về phát triển niền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ
nghĩa.
Thứ hai, hoàn thiện pháp luật về HĐMGTM phải đặt trong mối quan hệ tổng
thể về hoàn thiện hệ thống pháp luật về hợp đồng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về
hoạt động MGTM và hoàn thiện các lĩnh vực pháp luật khác có liên quan nhằm
đảm bảo sự thống nhất và đồng bộ giữa các văn bản pháp luật chung và các văn
bản pháp luật chuyên ngành, đồng thời tạo ra sự thống nhất trong toàn bộ hệ thống
pháp luật Việt Nam về HĐMGTM.
Thứ ba, hoàn thiện pháp luật về HĐMGTM cần dựa trên sự tham khảo kinh
nghiệm và thực tiễn pháp lý của các nƣớc về xây dựng và thực thi các quy định của
pháp luật về HĐMGTM.
Thứ tƣ, hoàn thiện pháp luật về HĐMGTM phải đáp ứng đƣợc yêu cầu hội
nhập kinh tế quốc tế.
Nhƣ vậy, để thực thi các cam kết quốc tế, đồng thời tạo môi trƣờng cạnh tranh
lành mạnh cho các doanh nghiệp trong nƣớc và nƣớc ngoài trong hoạt động
MGTM, pháp luật Việt Nam nói chung trong đó có pháp luật về HĐMGTM cần

sửa đổi phù hợp với thông lệ quốc tế, xóa bỏ các hạn chế, rào cản, không phân biệt
đối xử giữa dịch vụ của nhà nƣớc cung cấp dịch vụ trong nƣớc và dịch vụ của các
nhà cung cấp dịch vụ nƣớc ngoài nhằm tạo điều kiện cho sự phát triển và cạnh
tranh lành mạnh trong hoạt động MGTM.
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng môi giới thƣơng mại ở Việt Nam
Thứ nhất, cần xác định rõ điều kiện, chủ thể tham gia quan hệ HĐMGTM.
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung một số quy định về việc cấp chứng chỉ hành nghề
môi giới.
Thứ ba, sửa đổi bổ sung các quy định về thù lao môi giới, chế độ thanh toán
thù lao và chi phí hợp lý phát sinh từ hoạt động môi giới.
3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về hợp đồng môi giới
thƣơng mại.
Thứ nhất, tăng cƣờng công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách, pháp luật
về HĐMGTM.
Thứ hai, nâng cao chất lƣợng công tác đào tạo và cấp chứng chỉ hành nghề
môi giới.
Thứ ba, thành lập Hiệp hội các nhà môi giới trong từng lĩnh vực môi giới cụ
thể.


Thứ tƣ, xây dựng quy tắc đạo đức nghề nghiệp của ngƣời hành nghề môi
giới.
Nói tóm lại, để đảm bảo quyền tự do kinh doanh của thƣơng nhân và hiệu lực
của quản lý nhà nƣớc đối với hoạt động MGTM, pháp luật về HĐMGTM cần đƣợc
tiếp tục hoàn thiện. Việc hoàn thiện pháp luật về HĐMGTM phải phù hợp với đặc
điểm của nền kinh tế thị trƣờng của Việt Nam, phải đáp ứng yêu cầu của hội nhập
quốc tế, đồng thời đảm bảo tính thống nhất và phù hợp trong toàn bộ hệ thống
pháp luật về hợp đồng, tránh tình trạng mâu thuẫn, chồng chéo trong các văn bản
pháp luật hiện hành. Trên cơ sở đó, việc triển khai một số giải pháp hoàn thiện
pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về HĐMGTM dựa trên các quan

điểm, phƣơng hƣớng đựợc đề xuất nêu trên là hoàn toàn cần thiết.


KẾT LUẬN
Hoạt động MGTM cùng với các hoạt động trung gian thƣơng mại khác ở Việt
Nam đang trong quá trình hình thành và phát triển. Các hoạt động này đã góp phần
hỗ trợ thúc đẩy sự phát triển của nền sản xuất thông qua phƣơng thức phân phối và
cung ứng dịch vụ qua trung gian. Để hoạt động MGTM phát triển lành mạnh và
đúng pháp luật, Nhà nƣớc cần tạo ra môi trƣờng pháp lý, môi trƣờng đầu tƣ kinh
doanh ổn định, đồng bộ, trong đó các quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ
phát sinh giữa các bên trong HĐMGTM đóng vai trò quan trọng.
Các quy định của pháp luật về HĐMGTM đƣợc xây dựng trên cơ sở chế định
hợp đồng trong luật dân sự nhƣng mang tính chuyên biệt phù hợp với đặc thù của
hoạt động thƣơng mại. Những quy định của pháp luật về vấn đề này nhìn chung đã
tƣơng đối đầy đủ, có nhiều điểm tiến bộ và có nhiều điểm tƣơng đồng với pháp
luật các nƣớc khi quy định các vấn đề: Chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng, hình
thức hợp đồng, quyền và nghĩa vụ của các bên và việc chấm dứt quan hệ hợp đồng.
Tuy nhiên, do pháp luật về HĐMGTM đƣợc quy định ở nhiều văn bản pháp luật
khác nhau nên các quy định hiện hành về HĐMGTM còn có nhiều điểm chƣa
thống nhất, nhiều nội dung quan trọng trong hợp đồng môi giới chƣa đƣợc điều
chỉnh cụ thể. Vì vậy, việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật về HĐMGTM là rất cần
thiết.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá nội dung pháp luật về HĐMGTM, luận văn đã
đƣa ra một số định hƣớng và giải pháp góp phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả
thực thi pháp luật về HĐMGTM, đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất và hiệu quả
trong việc triển khai các quy định của pháp luật về HĐMGTM trên thực tiễn.


×