Tải bản đầy đủ (.pdf) (24 trang)

Xác minh tài sản trong thi hành án kinh doanh, thương mại theo pháp luật việt nam (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (480.21 KB, 24 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT

NGUYỄN NGỌC DŨNG

XÁC MINH TÀI SẢN TRONG THI HÀNH ÁN
KINH DOANH, THƢƠNG MẠI THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 838 01 07

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

THỪA THIÊN HUẾ, năm 2017

50


Công trình đƣợc hoàn thành tại:
Trƣờng Đại học Luật, Đại học Huế

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Hoàng Thị Hải Yến

Phản biện 1: ........................................:..........................
Phản biện 2: ...................................................................

Luận văn sẽ đƣợc bảo vệ trƣớc Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ họp
tại: Trƣờng Đại học Luật
Vào lúc...........giờ...........ngày...........tháng .......... năm...........



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

1

1.Tính cấp thiết của đề tài. 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

2

3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn

3

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
5. Phƣơng pháp nghiên cứu

4

4

6. Những điểm mới của luận văn 5
7. Bố cục Luận văn 5
8. Tổng quan tài liệu nghiên cứu. 5
CHƢƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ
XÁC MINH TÀI SẢN TRONG THI HÀNH ÁN KINH DOANH THƢƠNG MẠI 5
1.1. Khái quát chung về xác minh tài sản trong thi hành án kinh doanh, thƣơng
mại 5
1.1.1. Khái niệm xác minh tài sản trong thi hành án kinh doanh thƣơng mại


5

1.1.2. Đặc điểm của xác minh tài sản trong thi hành án kinh doanh thƣơng mại
thi hành án kinh doanh thƣơng mại. 6
1.1.3. Ý nghĩa của xác minh tài sản trong thi hành án kinh doanh thƣơng mại 6
1.2. Cơ sở lý luận của pháp luật về xác minh tài sản trong thi hành án kinh
doanh, thƣơng mại 6
1.2.1. Cơ sở lý luận của pháp luật thi hành án dân sự quy định về xác minh xác
minh tài sản trong THAKDTM 6
1.2.2. Cơ sở thực tiễn của việc pháp luật thi hành án dân sự quy định về xác
minh tài sản trong thi hành án kinh doanh thƣơng mại
6
1.3. Sơ lƣợc hình thành và phát triển các quy định của pháp luật về xác minh tài
sản trong thi hành án kinh doanh thƣơng mại 7
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989 7
1.3.2. Giai đoạn từ năm 2008 đến nay 7
1.3.3. Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 2008 7
1.4. Quy định pháp luật về xác minh tài sản trong thi hành án kinh doanh,
thƣơng mại 7
1.4.1. Quy định pháp luật về nghĩa vụ xác minh tài sản trong thi hành án kinh
doanh thƣơng mại 7


1.4.1.1. Quy định pháp luật về chủ thể có nghĩa vụ xác minh tài sản trong
THAKDTM 7
1.4.1.2. Quy định pháp luật về uỷ quyền xác minh tài sản THAKDTM 7
1.4.2. Quy định pháp luật về trách nhiệm cung cấp thông tin để xác minh tài sản
trong thi hành án kinh doanh thƣơng mại
7

1.4.2.1. Quy định pháp luật về trách nhiệm kê khai tài sản của ngƣời phải thi
hành án trong THAKDTM
8
1.4.2.2. Quy định pháp luật về trách nhiệm cung cấp thông tin của các chủ thể
không phải là ngƣời phải thi hành án 8
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 8
CHƢƠNG 2. THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ XÁC MINH TÀI SẢN
TRONG THI HÀNH ÁN KINH DOANH, THƢƠNG MẠI VÀ GIẢI PHÁP HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT
10
2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật và giải pháp hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ
xác minh tài sản trong thi hành án kinh doanh thƣơng mại
10
2.1.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật và giải pháp hoàn thiện pháp luật về chủ thể
có nghĩa vụ xác minh tài sản trong THAKDTM
10
2.1.1.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật

10

2.1.1.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật 11
2.1.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật và giải pháp hoàn thiện pháp luật về uỷ quyền
xác minh tài sản THAKDTM 12
2.1.2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật

12

2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật và giải pháp hoàn thiện pháp luật về trách
nhiệm cung cấp thông tin để xác minh tài sản trong thi hành án kinh doanh thƣơng
mại 12

2.2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật và giải pháp hoàn thiện pháp luật về trách
nhiệm kê khai tài sản của ngƣời phải thi hành án trong THA KDTM 12
2.2.1.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật

12

2.2.1.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật 13
2.2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật và giải pháp hoàn thiện pháp luật về trách
nhiệm cung cấp thông tin của các chủ thể không phải là ngƣời phải thi hành án
14
2.2.2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật

14

2.2.2.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật 15
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 17



MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài.
Thi hành án dân sự (THADS) có vai trò quan trọng trong hoạt động tƣ
pháp nói chung và quá trình giải quyết vụ án nói riêng. Bản án, quyết định của
Tòa án chỉ thực sự có giá trị khi đƣợc thi hành trên thực tế. Hoạt động
THADS bảo đảm cho bản án, quyết định của Tòa án đƣợc chấp hành, góp
phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp luật và tăng cƣờng pháp chế xã hội
chủ nghĩa; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và lợi ích
của Nhà nƣớc, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cƣờng hiệu
lực, hiệu quả của bộ máy nhà nƣớc. Chính vì vậy, Điều 106 Hiến pháp năm
2013 của nƣớc Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã quy định: “Bản án,

quyết định của Toà án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải đƣợc cơ quan, tổ
chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm
chỉnh chấp hành” [HP2013]. Ngoài quy định của Hiến pháp năm 1992, tại
Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa VII
(1995), Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng
khóa VIII (1997), Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính
trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tƣ pháp trong thời gian tới (sau đây
gọi tắt là Nghị quyết số 08/NQ-TW), Nghị quyết Hội nghị lần thứ chín Ban
Chấp hành Trung ƣơng Đảng khóa IX (2004) và Nghị quyết số 48/NQ-TW
ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lƣợc xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật Việt Nam đến năm 2020 (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số
48/NQ-TW), Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về
Chiến lƣợc cải cách tƣ pháp đến năm 2020 (sau đây gọi tắt là Nghị quyết số
49/NQ-TW) cũng đã đề cao tầm quan trọng của hoạt động THADS. Với
nhiệm vụ thể chế đƣờng lối, chính sách của Đảng và Nhà nƣớc vào hệ thống
pháp luật, tại kỳ họp thứ 5, ngày 14 tháng 11 năm 2008, Quốc hội khóa XII đã
thông qua Luật THADS và đƣợc sửa đổi, bổ sung một số điều tại kỳ họp thứ
8, Quốc hội khóa XIII ngày 25/11/2014.
Quá trình thi hành án dân sự phải thực hiện nhiều trình tự, thủ tục và
trải qua nhiều giai đoạn thi hành án, trong đó xác minh tài sản trong thi hành
án là một trong những thủ tục có vai trò quan trọng nhất. Kết quả xác minh là
cơ sở để Chấp hành viên thuyết phục đƣơng sự tự nguyện, thỏa thuận thi hành


án, là cơ sở để Thủ trƣởng cơ quan thi hành án ra các q`uyết định ủy thác,
hoãn, đình chỉ thi hành án hay lựa chọn biện pháp cƣỡng chế thi hành án thích
hợp. Có thể nói, xác minh điều kiện thi hành án chính là căn cứ làm phát sinh
hàng loạt các tác nghiệp khác trong quá trình tổ chức thi hành các bản án,
quyết định, đòi hỏi Chấp hành viên cần thiết phải nắm vững cơ sở pháp lý của
việc xác minh, kỹ năng xác minh và xử lý kết quả xác minh phù hợp với quy

định của pháp luật về thi hành án dân sự.
Tuy vậy, trong quá trình thực hiện pháp luật về xác minh điều kiện thi
hành án nói chung và xác minh tài sản trong thi hành án kinh doanh thƣơng
mại nói riêng còn có những bất cập, vƣớng mắc từ thể chế và trong thực tiễn
tổ chức thi hành án. Xuất phát từ lý do đó, học viên đã chọn đề tài “Xác minh
tài sản trong thi hành án kinh doanh, thƣơng mại theo pháp luật Việt Nam”
nghiên cứu làm luận văn thạc sỹ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong lĩnh vực khoa học pháp lý, đã và đang có những công trình
nghiên cứu liên quan đến đề tài những năm gần đây. Trƣớc những đòi hỏi
khách quan của công tác thi hành án dân sự, đã có một số công trình khoa học
nghiên cứu về vấn đề thi hành án dân sự, cụ thể là:
Đề tài cấp Nhà nƣớc“Luận cứ khoa học của việc đổi mới tổ chức và
hoạt động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mớí” mã số đề tài: 200058-198 do TS. Nguyễn Đình Lộc làm Chủ nhiệm; Đề tài nghiên cứu cấp Bộ:
"Mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành án", mã số 96-98- 027/ĐT do
Cục Thi hành án dân sự - Bộ Tƣ pháp chủ trì thực hiện; Đề tài: "Thi hành án
dân sự, thực trạng và hƣớng hoàn thiện của Dự án VIE/98/001" do Bộ Tƣ
pháp chủ trì thực hiện dự án.
Một số luận án và công trình nghiên cứu khác nhƣ: Luận án tiến sĩ
"Hiệu quả áp dụng pháp luật trong thi hành án dân sự Việt Nam" của tác giả
Đặng Đình Quyền (năm 2012); Luận án Tiến sỹ luật học "Pháp chế xã hội chủ
nghĩa trong hoạt động thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay"(năm 2008)
của TS. Nguyễn Quang Thái; Luận văn thạc sĩ luật học "Hoàn thiện pháp luật
thi hành án dân sự tại Việt Nam" của tác giả Nguyễn Thanh Thủy (năm
2008); Luận văn thạc sỹ, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh năm 2005


của tác giả Nguyễn Đức Nghĩa, với đề tài “Cơ sở lý luận và thực tiễn khắc
phục án tồn đọng trong thi hành án dân sự ở Việt nam hiện nay”; Luận văn
thạc sĩ luật học "Đổi mới tổ chức và hoạt động thi hành án dân sự ở Việt

Nam" của tác giả Nguyễn Quang Thái năm 2003; Luận văn thạc sĩ luật học
"Đổi mới thủ tục thi hành án dân sự ở Việt Nam" của tác giả Lê Anh Tuấn
năm 2004; Luận văn thạc sỹ luật học “ Áp dụng pháp luật trong thi hành án ở
tỉnh Nam Định” của tác giả Bùi Văn Sứng năm 2015; Tài liệu tập huấn
nghiệp vụ thi hành án dân sự năm 2016 của Tổng cục Thi hành án dân sự.
Bên cạnh đó, còn một số bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành
nhƣ: "Mục tiêu sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án dân sự năm 2008" của tác
giả Vƣơng Minh, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số chuyên đề về thi hành án
dân sự năm 2014; “Tài liệu kèm theo yêu cầu thi hành án dân sự theo quy
định của pháp luật và thực tiễn áp dụng” của tác giả Mai Thị Thùy Dung , Tạp
chí Dân chủ và pháp luật số định kỳ tháng 9 năm 2016; Tạp chí Dân chủ và
pháp luật năm 2015, “Hoàn thiện quy định pháp luật về xác minh điều kiện thi
hành án dân sự”, Hoàng Thị Thu Trang, tham luận Hội thảo tiếp tục hoàn
thiện pháp luật về THADS của Ủy ban Tƣ pháp Quốc Hội tháng 3/2016, tại
thành phố Vinh, Nghệ An; “Thực tiễn áp dụng quy phạm pháp luật thi hành
án dân sự” của tác giả Đinh Duy Bằng, Tạp chí Dân chủ và pháp luật số định
kỳ tháng 11 năm 2016; "Quy định về kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án
dân sự trong trƣờng hợp tài sản đã chuyển nhƣợng sau khi có bản án, quyết
định của Tòa án” của tác giả Mai Thị Thùy Dung , Tạp chí Dân chủ và pháp
luật số định kỳ tháng thứ 3 năm 2017.
Các công trình nêu trên đã có nội dung nghiên cứu về thi hành án dân
sự ở những góc độ, khía cạnh và mức độ khác nhau, nhƣng chƣa nghiên cứu
vấn đề riêng biệt và chuyên sâu về xác minh tài sản trong thi hành án kinh
doanh, thƣơng mại ở Việt Nam. Tuy vậy, đây vẫn là những tài liệu quan trọng
đƣợc tác giả tham khảo khi thực hiện việc nghiên cứu đề tài luận văn của
mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Mục đích nghiên cứu của luận văn là phân tích, làm rõ pháp luật hiện
hành và thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hiện hành về xác minh
tài sản thi hành án trong các vụ án kinh doanh, thƣơng mại; từ đó luận văn đề



xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về xác minh tài sản trong thi
hành án kinh doanh, thƣơng mại nói riêng và thi hành án dân sự nói chung.
Để thực hiện mục đích nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về xác minh tài sản trong
THAKDTM nhƣ khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa, cơ sở của việc quy định pháp
luật về xác minh tài sản trong THAKDTM;
- Nghiên cứu, làm rõ quy định của pháp luật hiện hành về xác minh tài
sản trong THAKDTM; đánh giá thực trạng ban hành pháp luật về vấn đề này;
- Đánh giá toàn diện thực trạng áp dụng các quy định về xác minh tài
sản trong thi hành án kinh doanh, thƣơng mại;
- Phân tích những khó khăn, vƣớng mắc trong thực tiễn áp dụng các
quy định về xác minh tài sản trong thi hành án kinh doanh, thƣơng mại qua
một số vụ việc cụ thể.
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật và tăng cƣờng hiệu quả thực
hiện pháp luật về thi hành án kinh doanh, thƣơng mại.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là pháp luật Việt Nam và thực tiễn
áp dụng về xác minh tài sản trong thi hành án dân sự kinh doanh, thƣơng
mại.
- Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu pháp luật Việt Nam hiện hành về xác
minh tài sản trong thi hành án dân sự kinh doanh, thƣơng mại và thực tiễn áp
dụng tại Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An. Các vụ
việc cụ thể sẽ đƣợc phân tích, bình luận trong luận văn là những vụ việc đƣợc
thụ lý từ năm 2014 đến nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn đƣợc thực hiện trên phƣơng pháp luận khoa học xã hội ở Việt

Nam mà nền tảng là chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và quan
điểm, đƣờng lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nƣớc và pháp luật, về


mối quan hệ giữa pháp luật và đời sống thực tiễn, giữa thực thi pháp luật và
xây dựng pháp luật. Ngoài ra, việc nghiên cứu đề tài cũng đƣợc thực hiện
bằng các phƣơng pháp nghiên cứu khoa học pháp lý truyền thống nhƣ phƣơng
pháp phân tích, so sánh, tổng hợp... Từ đó, rút ra những đánh giá, kết luận và
đề xuất các kiến nghị.
6. Những điểm mới của luận văn
Những điểm mới của luận văn thể hiện ở những điểm cơ bản sau đây:
- Phân tích, làm rõ đƣợc nội dung các quy định của pháp luật THADS
hiện hành về xác minh tài sản trong THAKDTM;
- Đánh giá đúng thực trạng các quy định của của pháp luật THADS
hiện hành về xác minh tài sản trong THAKDTM và thực tiễn thực hiện;
- Đề xuất đƣợc những kiến nghị cụ thể nhằm hoàn thiện và thực hiện
những quy định của pháp luật THADS về xác minh tài sản trong THAKDTM.
7. Bố cục Luận văn
Nội dung chính luận văn gồm:
Chƣơng 1: Một số vấn đề về lý luận và quy định pháp luật về xác minh
tài sản trong thi hành án kinh doanh, thƣơng mại
Chƣơng 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật về xác minh tài sản trong thi
hành án kinh doanh, thƣơng mại và giải pháp hoàn thiện pháp luật
8. Tổng quan tài liệu nghiên cứu.
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ XÁC
MINH TÀI SẢN TRONG THI HÀNH ÁN
KINH DOANH THƢƠNG MẠI
1.1. Khái quát chung về xác minh tài sản trong thi hành án kinh doanh,
thƣơng mại

1.1.1. Khái niệm xác minh tài sản trong thi hành án kinh doanh thƣơng
mại


Xác minh tài sản trong THAKDTM là việc Chấp hành viên, Thừa phát
lại hoặc ngƣời đƣợc THA tiến hành thu thập các chứng cứ, tài liệu về tài sản,
thu nhập của ngƣời phải THA, ngƣời có nghĩa vụ liên quan để làm căn cứ tổ
chức THADS theo quy định của pháp luật.
1.1.2. Đặc điểm của xác minh tài sản trong thi hành án kinh doanh
thƣơng mại thi hành án kinh doanh thƣơng mại.
- Xác minh tài sản trong THAKDTM đƣợc thực hiện bởi các chủ thể là
Chấp hành viên, Thừa phát lại, ngƣời đƣợc thi hành án hoặc ngƣời đƣợc thi
hành án ủy quyền.
- Xác minh tài sản chủ yếu là làm rõ thông tin về thu nhập, tài sản của
ngƣời phải THA.
- Việc xác minh tài sản phải đƣợc thực hiện một cách đầy đủ, chính xác
theo đúng trình tự, thủ tục của pháp luật thi hành án dân sự và các quy định
pháp luật khác có liên quan.
1.1.3. Ý nghĩa của xác minh tài sản trong thi hành án kinh doanh thƣơng
mại
- Giúp cho việc phân loại án đƣợc chính xác, góp phần nâng cao chất
lƣợng và hiệu quả công tác THA, giảm bớt áp lực đối với cơ quan THADS vì
không mất nhiều thời gian, công sức để giải quyết những việc THADS chƣa
có điều kiện thi hành.
- Góp phần bảo đảm quyền của đƣơng sự.
- Xác minh tài sản trong THAKDTM còn góp phần nâng cao ý thức của
ngƣời dân trong việc THA.
1.2. Cơ sở lý luận của pháp luật về xác minh tài sản trong thi hành án kinh
doanh, thƣơng mại
1.2.1. Cơ sở lý luận của pháp luật thi hành án dân sự quy định về xác

minh xác minh tài sản trong THAKDTM
- Từ yêu cầu bảo đảm hiệu lực các bản án, quyết định của Tòa án đƣợc
thi hành.
- Từ yêu cầu xã hội hóa công tác THA.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn của việc pháp luật thi hành án dân sự quy định về
xác minh tài sản trong thi hành án kinh doanh thƣơng mại


- Pháp luật chƣa quy định cụ thể về thủ tục xác minh điều kiện thi hành
án nhƣng để giải quyết việc thi hành án thì chấp hành viên đƣơng nhiên vẫn
phải tiến hành xác minh tài sản, thu nhập của ngƣời phải thi hành án.
- Việc quy định về xác minh tài sản, điều kiện THA còn dựa trên cơ sở
thực tiễn là những kết quả đạt đƣợc của chế định Thừa phát lại trong hoạt
động THADS.
1.3. Sơ lƣợc hình thành và phát triển các quy định của pháp luật về xác minh
tài sản trong thi hành án kinh doanh thƣơng mại
1.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1989
1.3.2. Giai đoạn từ năm 2008 đến nay
1.3.3. Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 2008
1.4. Quy định pháp luật về xác minh tài sản trong thi hành án kinh doanh,
thƣơng mại
1.4.1. Quy định pháp luật về nghĩa vụ xác minh tài sản trong thi hành án
kinh doanh thƣơng mại
1.4.1.1. Quy định pháp luật về chủ thể có nghĩa vụ xác minh tài sản trong
THAKDTM
1.4.1.1.1. Chấp hành viên
1.4.1.1.2. Ngƣời đƣợc thi hành án
1.4.1.1.3. Thừa phát lại
1.4.1.2. Quy định pháp luật về uỷ quyền xác minh tài sản THAKDTM
- Cơ quan thi hành án dân sự có thể ủy quyền cho cơ quan thi hành án

dân sự nơi doanh nghiệp có tài sản, cƣ trú, làm việc hoặc có trụ sở để xác
minh tài sản thi hành án.
- Trƣờng hợp cần làm rõ thông tin về tài sản, nơi cƣ trú, nơi làm việc,
trụ sở của ngƣời phải thi hành án hoặc các thông tin khác liên quan đến việc
thi hành án thì Thủ trƣởng cơ quan thi hành án dân sự có thể ủy quyền xác
minh cho cơ quan thi hành án dân sự nơi có thông tin trên.
1.4.2. Quy định pháp luật về trách nhiệm cung cấp thông tin để xác minh
tài sản trong thi hành án kinh doanh thƣơng mại


1.4.2.1. Quy định pháp luật về trách nhiệm kê khai tài sản của ngƣời phải
thi hành án trong THAKDTM
- Ngƣời phải thi hành án có nghĩa vụ kê khai trung thực tài sản, điều
kiện thi hành án; cung cấp đầy đủ tài liệu, giấy tờ có liên quan đến tài sản của
mình khi có yêu cầu của ngƣời có thẩm quyền và chịu trách nhiệm trƣớc pháp
luật về nội dung kê khai đó.
1.4.2.2. Quy định pháp luật về trách nhiệm cung cấp thông tin của các
chủ thể không phải là ngƣời phải thi hành án
- Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm cung cấp thông tin cho
Chấp hành viên trong thời hạn nhất định và phải chịu trách nhiệm về việc
cung cấp thông tin đó.
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1
Xác minh tài sản trong THAKDTM là việc Chấp hành viên, Thừa phát
lại hoặc ngƣời đƣợc THA tiến hành thu thập các chứng cứ, tài liệu về tài sản,
thu nhập của ngƣời phải THA để làm căn cứ tổ chức THA theo quy định của
pháp luật. Xác minh tài sản trong THAKDTM là một thủ tục có tính chất
quyết định đến kết quả của các hoạt động tiếp theo của quá trình THA nên có
nhiều ý nghĩa quan trọng, giúp cho việc phân loại án đƣợc chính xác, góp
phần bảo đảm quyền của ngƣời đƣợc THA, nâng cao ý thức của ngƣời dân và
nâng cao chất lƣợng, hiệu quả của công tác THA. Với yêu cầu bảo đảm hiệu

lực các bản án, quyết định của Tòa án, từ yêu cầu xã hội hóa công tác THA và
thực tiễn thực hiện THA từ trƣớc đến nay, xác minh tài sản trong THAKDTM
cần thiết phải đƣợc quy định rõ ràng, cụ thể trong văn bản quy phạm pháp luật
về THADS và cần khẳng định xác minh tài sản là một giai đoạn bắt buộc
trong thủ tục THADS. Qua quá trình nghiên cứu mô hình, tổ chức của cơ
quan có nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định của Tòa án cho thấy, xác
minh tài sản, điều kiện THA đƣợc quy định một cách gián tiếp thông qua
nhiệm vụ của Chấp hành viên tại Pháp lệnh THADS năm 1989 nhƣng quy
định này mới chỉ là bƣớc đầu. Tuy nhiên, xác minh tài sản, điều kiện THA đã
đƣợc quy định cụ thể hơn tại Pháp lệnh THADS năm 2004, đƣợc quy định
thành điều riêng tại Luật THADS năm 2008 và đƣợc bổ sung hoàn thiện tại
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Luật THADS năm 2014, xác minh tài sản,


điều kiện THA đƣợc quy định trong phần trình tự, thủ tục THA và là điều
kiện bắt buộc trong quá trình thi hành án đã góp phần nâng cao hiệu quả thi
hành các bản án, quyết định của Tòa án.
Ngoài ra, kể từ khi Luật THADS năm 2008 đƣợc ban hành, xác minh
điều kiện thi hành án đƣợc quy định tƣơng đối cụ thể, toàn diện và không
ngừng đƣợc sửa đổi, bổ sung hoàn thiện. Cùng với việc đƣợc “luật hóa”, xác
minh điều kiện thi hành án đƣợc cụ thể hóa bởi hệ thống các văn bản dƣới
luật: Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 7 năm 2009 của Chính phủ
quy định chi tiết và hƣớng dẫn thi hành một số điều của Luật thi hành án dân
sự về thủ tục thi hành án dân sự; Nghị định số 125/2013/NĐ-CP sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số 58/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 7 năm
2009; Thông tƣ liên tịch số 02/2014/TTLT-BTP-BTC-BLĐTBXH-NHNNVN
ngày 14 tháng 01 năm 2014 Hƣớng dẫn việc cung cấp thông tin về tài khoản,
thu nhập của ngƣời phải thi hành án và thực hiện phong tỏa, khấu trừ để thi
hành án dân sự. Pháp luật thi hành án dân sự tiếp tục đƣợc hoàn thiện bởi
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự có hiệu lực kể

từ ngày 01 tháng 7 năm 2015, trong đó nội dung về xác minh điều kiện thi
hành án dân sự đƣợc sửa đổi, bổ sung một cách tƣơng đối toàn diện. Quy định
xác minh điều kiện thi hành án đƣợc cụ thể bởi Điều 9 Nghị định số
62/2015/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết
và hƣớng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự có hiệu lực từ
ngày 01 tháng 9 năm 2015. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện vẫn còn tồn
tại những hạn chế, bất cập cần đƣợc bổ sung, sửa đổi trong tổng thể với các
ngành luật khác. Nhiệm vụ hoàn thiện các quy định của pháp luật thi hành án
dân sự là một đòi hỏi khách quan và phải đƣợc tiến hành thƣờng xuyên.


CHƢƠNG 2
THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ XÁC MINH TÀI SẢN
TRONG THI HÀNH ÁN KINH DOANH, THƢƠNG MẠI
VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật và giải pháp hoàn thiện pháp luật về nghĩa
vụ xác minh tài sản trong thi hành án kinh doanh thƣơng mại
2.1.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật và giải pháp hoàn thiện pháp luật về
chủ thể có nghĩa vụ xác minh tài sản trong THAKDTM
2.1.1.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật
- Xác minh tài sản trong THAKDTM là một trong những công việc
phức tạp nhất, khó thực hiện. Các tài sản thế chấp phải xử lý trong các vụ án
KDTM thƣờng là quyền sử dụng đất, nhà ở và dây chuyền sản xuất…hơn
nữa, khi doanh nghiệp phải thi hành án thì họ thƣờng tìm cách tẩu tán tài sản,
họ có thể thay đổi tên doanh nghiệp, thay đổi trụ sở, tạo lập nhiều tài khoản
khác để giao dịch, có những trƣờng hợp tài sản của doanh nghiệp vẫn còn trên
sổ sách, vẫn đang đứng tên của doanh nghiệp nhƣng Chấp hành viên không
thể xác định tài sản đó đang ở đâu để xử lý.
- Hệ thống quản lý đăng ký tài sản, cơ chế kiểm soát tình trạng vốn, tài
sản, thu nhập của doanh nghiệp và cá nhân có đăng ký kinh doanh của nƣớc ta

còn rất yếu, chƣa thực hiện đƣợc chức năng giám sát hoạt động của các loại
hình doanh nghiệp thông qua hệ thống tài khoản ở ngân hàng nên nhìn chung,
việc xác minh tài sản trong nhiều trƣờng hợp còn nhiều khó khăn và phức tạp.
- Lực lƣợng Chấp hành viên còn thiếu, một số trƣờng hợp kết quả xác
minh phụ thuộc chủ yếu vào trình độ, kỹ năng của chấp hành viên, nhất là
những vụ việc liên quan đến hoạt động doanh nghiệp, kỹ thuật, công nghệ
cao.
- Các tổ chức tín dụng, ngân hàng có đầy đủ các điều kiện về chuyên
môn, thuận tiện trong việc phối hợp trong hệ thống ngân hàng để xác minh tài
khoản, tài sản, sổ sách của doanh nghiệp nhƣng pháp luật không buộc họ phải
có nghĩa vụ xác minh.


- Một số khó khăn, vƣớng mắc khi xác minh tài sản đến từ các tổ chức
tín dụng, ngân hàng:
+ Việc thẩm định, nhận thế chấp tài sản của các tổ chức tín dụng, ngân
hàng chƣa chặt chẽ dẫn đến giai đoạn tổ chức thi hành án khó khăn, kéo dài.
+ Tài sản cầm cố, thế chấp là bất động sản nhƣng nằm trên một phần
đất của ngƣời khác mà việc xử lý sẽ làm giảm đáng kể giá trị tài sản.
+ Tài sản thế chấpliên quan đến các dự án đầu tƣ xây dựng kinh doanh
nhà ở đƣợc chuyển nhƣợng quyền sử dụng đất dƣới hình thức phân lô, trong
trƣờng hợp chủ đầu tƣ chƣa hoàn thành đầu tƣ xây dựng kết cấu hạ tầng và
nghĩa vụ tài chính về đất đai, vì vậy Chi cục thi hành án dân sự TP chƣa đƣợc
kê biên do không đƣợc chuyển quyền sử dụng đất theo Điều 194 Luật Đất đai
2013, Điều 110 Luật Thi hành án dân sự.
+ Các tổ chức tín dụng và ngân hàng chƣa có sự phối hợp với các cơ
quan thi hành án trong việc tổ chức thi hành án mà còn phó mặc việc thi hành
án cho cơ quan thi hành án (bán đấu giá thành tài sản thế chấp nhƣng ngân
hàng không giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để cơ quan thi hành án
dân sự làm thủ tục cho ngƣời mua trúng đấu giá tài sản; có trƣờng hợp khi cơ

quan thi hành án tổ chức thi hành án, ngƣời phải thi hành án đã trực tiếp nộp
một phần tiền cho ngân hàng nhƣng khi cơ quan thi hành án mời đến để xác
nhận việc đó thì ngân hàng không đến làm việc).
- Cơ quan thi hành án gặp khó khăn từ cách tuyên xử lý tài sản thế chấp
của Tòa án. Cũng là tuyên xử lý tài sản thế châp, tài sản đảm bảo nhƣng có
bản án, quyết định tuyên “Trong trƣờng hợp doanh nghiệp không trả nợ thì xử
lý tài sản thế chấp”, có bản án, quyết định lại tuyên “ Trong trƣờng hợp doanh
nghiệp không có khả năng thi hành hoặc thi hành không đủ thì xử lý tài sản
thế chấp” hoặc “Trong trƣờng hợp doanh nghiệp không trả đủ thì xử lý tài sản
thế chấp”.
2.1.1.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật
Cần sửa đổi khoản 5 Điều 44 Luật THADS năm 2014 nhƣ sau:
“5. Ngƣời đƣợc thi hành án có quyền tự mình hoặc ủy quyền cho ngƣời
khác xác minh điều kiện thi hành án, cung cấp thông tin về tài sản, thu nhập,


điều kiện thi hành án của ngƣời phải thi hành án cho cơ quan thi hành án dân
sự. Trừ những trƣờng hợp ngƣời đƣợc thi hành án trong các bản án, quyết
định về kinh doanh thƣơng mại, tranh chấp dân sự, bồi thƣờng thiệt hại thì
ngƣời đƣợc thi hành án phải có nghĩa vụ cung cấp thông tin về tài sản của
ngƣời phải thi hành án cho cơ quan thi hành án dân sự khi có yêu cầu.
Trƣờng hợp Chấp hành viên thấy cần thiết hoặc kết quả xác minh của
Chấp hành viên và ngƣời đƣợc thi hành án khác nhau hoặc có kháng nghị của
Viện kiểm sát nhân dân thì phải xác minh lại. Việc xác minh lại đƣợc tiến
hành trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đƣợc kết quả xác minh
do đƣơng sự cung cấp hoặc nhận đƣợc kháng nghị của Viện kiểm sát nhân
dân”.
2.1.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật và giải pháp hoàn thiện pháp luật về
uỷ quyền xác minh tài sản THAKDTM
2.1.2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật

Để thuận tiện hơn cho cơ quan thi hành án trong vấn đề ủy thác thi
hành án, xác minh điều kiện thi hành án, thông báo về thi hành án trong các
vụ án kinh doanh thƣơng mại, đồng thời để thống nhất quy định việc ủy thác
xác minh tài sản giữa khoản 3, Điều 44 Luật Thi hành án dân sự và khoản 2,
Điều 9 Nghị định 62/NĐ-CP của Chính phủ thì cần phải bổ sung vào khoản 3,
Điều 44 Luật THADS năm 2014 về đối tƣợng mà cơ quan thi hành án đƣợc
ủy thác xác minh là ngƣời đƣợc thi hành án và ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan trong các bản án, quyết định. Cụ thể là:
Khoản 3, Điều 44 Luật THADS năm 2014: “Cơ quan thi hành án dân
sự có thể ủy quyền cho cơ quan thi hành án dân sự nơi đƣơng sự và ngƣời có
quyền và nghĩa vụ liên quan có tài sản, cƣ trú, làm việc hoặc có trụ sở để xác
minh điều kiện thi hành án”.
2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật và giải pháp hoàn thiện pháp luật về trách
nhiệm cung cấp thông tin để xác minh tài sản trong thi hành án kinh doanh
thƣơng mại
2.2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật và giải pháp hoàn thiện pháp luật về
trách nhiệm kê khai tài sản của ngƣời phải thi hành án trong THA KDTM
2.2.1.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật


Một số bất cập về trách nhiệm kê khai tài sản của ngƣời phải thi hành
án:
- Một là, khi xác minh nhất thiết trong mọi trƣờng hợp Chấp hành viên
phải gặp đƣợc ngƣời phải thi hành án mới lập đƣợc biên bản xác minh, có
nghĩa là trong biên bản xác minh bắt buộc phải có ý kiến của ngƣời phải thi
hành án thì biên bản mới có giá trị pháp lý.
- Hai là, việc kê khai trung thực, cung cấp đầy đủ thông tin về tài sản,
thu nhập, điều kiện thi hành án từ ngƣời phải thi hành án nhiều khi nhƣ là một
quy định mang tính hình thức.
2.2.1.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật

- Để giảm bớt thủ tục trong biên bản xác minh tài sản cần sửa đổi
khoản 1, Điều 9 Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2015 của
Chính phủ, theo hƣớng thay đổi hình thức cung cấp thông tin, không nên quy
định bắt buộc trong biên bản xác minh phải có nội dung kê khai của ngƣời
phải thi hành án mà nên ấn định thời hạn cho ngƣời phải thi hành án tự kê
khai bằng một văn bản riêng cho Chấp hành viên.
- Bổ sung trách nhiệm của ngƣời phải thi hành án khi cung cấp thông
tin về tài sản sai sự thật dẫn đến việc Chấp hành viên ban hành quyết định trái
pháp luật, làm ảnh hƣởng đến quyền lợi của công dân, các tổ chức thì phải
chịu trách nhiệm trƣớc pháp luật, thanh toán các chi phí phát sinh, trƣờng hợp
gây ra thiệt hại thì phải bồi thƣờng. Cụ thể là:
Khoản 1, Điều 9 “Trong thời hạn 5 ngày kể từ ngày hết hạn tự nguyện
thi hành án, ngƣời phải thi hành án phải cung cấp cho Chấp hành viên bản tự
kê khai tài sản. Việc kê khai phải trung thực, cung cấp thông tin về tài sản, thu
nhập, điều kiện thi hành án. Nội dung kê khai phải nêu rõ loại, số lƣợng tiền,
tải sản hoặc quyền tài sản; tiền mặt, tiền trong tài khoản, tiền đang cho vay,
mƣợn; giá trị ƣớc tính và tình trạng của từng loại tài sản; mức thu nhập định
kỳ, không định kỳ, nơi trả thu nhập; địa chỉ, nơi cƣ trú của ngƣời chƣa thành
niên đƣợc giao cho ngƣời khác nuôi dƣỡng; khả năng và điều kiện thực hiện
nghĩa vụ thi hành án.
Hết thời hạn trên nếu ngƣời phải thi hành án không kê khai hoặc phát
hiện việc kê khai không trƣng thực thì tùy theo mức độ vi phạm, Chấp hành


viên có thể bị xử phạt hoặc đề nghị ngƣời có thẩm quyền xử lý vi phạm hành
chính theo quy định của pháp luật.
Trƣờng hợp Chấp hành viên căn cứ thông tin của ngƣời phải thi hành
án mà ban hành quyết định trái pháp luật, làm ảnh hƣởng đến quyền lợi của
công dân, các tổ chức thì ngƣời phải thi hành án phải chịu trách nhiệm trƣớc
pháp luật, thanh toán các chi phí phát sinh, trƣờng hợp gây ra thiệt hại thì phải

bồi thƣờng”.
2.2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật và giải pháp hoàn thiện pháp luật về
trách nhiệm cung cấp thông tin của các chủ thể không phải là ngƣời phải thi
hành án
2.2.2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật
- Thi hành án kinh doanh thƣơng mại có một số tính chất phức tạp, khó
khăn đặc trƣng riêng, cụ thể:
Thứ nhất, chủ thể thi hành án kinh doanh thƣơng mại chủ yếu là các
doanh nghiệp. Xuất phát từ quy định của Luật thƣơng mại, Luật tố tụng dân
sự. Theo đó, đặc điểm để xác định các vụ án kinh doanh thƣơng mại là tranh
chấp giữa các chủ thể kinh doanh với nhau là vì mục đích lợi nhuận. Hiện
nay, chủ yếu là tranh chấp giữa một bên là ngân hàng, tổ chức tín dụng với
một bên là doanh nghiệp.
Thứ hai, tài sản để đƣa ra thi hành trong án kinh doanh thƣơng mại
thƣờng có giá trị lớn.
- Để bản án, quyết định của Tòa án đƣợc thi hành có hiệu quả, đảm bảo
quyền lợi cho các bên đƣơng sự và ngƣời có quyền và nghĩa vụ liên quan thì
các cơ quan thi hành án cần phải có sự phối hợp có hiệu quả từ các cơ quan,
tổ chức, các nhân trong việc cung cấp thông tin về tài sản, đây là căn cứ để cơ
quan thi hành án xác định, phân loại việc thi hành án.
- Quá trình thi hành án các cơ quan thi hành án còn gặp một số khó
khăn trong phối hợp cung cấp thông tin nhƣ sau:
+ Luật THADS năm 2014 đã bổ sung thêm một số nhiệm vụ, quyền
hạn của chấp hành viên, nhƣng vẫn chƣa sát với thực tiễn, tính khả thi chƣa
cao làm ảnh hƣởng trực tiếp tới kết quả thi hành án. Chủ yếu chấp hành viên


chỉ có quyền “yêu cầu”, “kiến nghị” còn việc các cơ quan, tổ chức có đáp ứng
theo yêu cầu của chấp hành viên hay không thì pháp luật vẫn không quy định
rõ.

+ Chấp hành viên tiến hành xác minh thông tin về tài khoản, thực hiện
các biện pháp phong toả tài khoản, tài sản, khấu trừ tiền trong tài khoản của
ngƣời phải thi hành án có tại ngân hàng, tổ chức tín dụng hay kho bạc, thì vẫn
còn tình trạng các cơ quan, đơn vị này né tránh, hay cung cấp thông tin về tài
khoản chậm, tạo kẽ hở để ngƣời phải thi hành án có thể rút tiền, tẩu tán tài sản
trốn tránh nghĩa vụ thi hành án.
+ Cơ quan nhà nƣớc, ban ngành hữu quan chƣa phối hợp chặt chẽ trong
công tác thi hành án dân sự. Một số tổ chức chính trị - xã hội còn chƣa thấy rõ
trách nhiệm phải phối hợp với cơ quan thi hành án trong việc thực thi pháp
luật.
- Để nâng cao hiệu quả, hiệu lực của công tác thi hành án dân sự, cần
có sự xem xét, quy định các biện pháp chế tài cụ thể để xử lý đối với những
hành vi cố tình không cung cấp thông tin kịp thời, chính xác về tài sản, tài
khoản, cố tình tạo điều kiện cho ngƣời phải thi hành án tẩu tán tiền, tài sản để
trốn tránh thực hiện các nghĩa vụ thi hành án.
2.2.2.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật
- Bổ sung quy định của các luật, Nghị định liên quan trong nghĩa vụ
cung cấp thông tin cho cơ quan thi hành án trong việc xác minh tài sản (Luật
THADS năm 2014, Luật Quản lý thuế, Nghị định 62/2015/NĐ-CP, Nghị định
67/2015/NĐ-CP)
Bổ sung vào khoản 2 Điều 73 Luật quản lý thuế quy định cơ quan quản
lý thuế có trách nhiệm cung cấp thông tin cho cơ quan thi hành án dân.
Khoản 2 Điều 3: “ 2. Cơ quan quản lý thuế có trách nhiệm cung cấp
thông tin của ngƣời nộp thuế cho các cơ quan sau đây:
a) Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án, Cơ quan thi hành án dân sự;
- Bổ sung vào điểm a khoản 2 Điều 52 Nghị định 67/NĐ-CP của Chính
phủ về xử phạt hành chính đối với hành vi cung cấp không đảm bảo thời hạn
theo quy định...cụ thể là:



Khoản 7, Điều 44: “Trƣờng hợp ngƣời đƣợc thi hành án, các cơ quan,
tổ chức, cá nhân không cung cấp hoặc cung cấp không đảm bảo thời hạn theo
quy định, cung cấp thông tin sai sự thật về điều kiện thi hành án của ngƣời
phải thi hành án, ngƣời có nghĩa vụ liên quan thì tùy theo mức độ vi phạm,
Chấp hành viên có thể xử phạt hoặc đề nghị ngƣời có thẩm quyền xử lý vi
phạm hành chính theo quy định pháp luật. Trƣờng hợp gây ra thiệt hại thì phải
bồi thƣờng và thanh toán các chi phí phát sinh”.
Điểm a, khoản 2 Điều 52: “Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000
đồng đối với hành vi sau:
a. Không cung cấp thông tin hoặc cung cấp thông tin chậm so với quy
định, không giao giấy tờ liên quan đến tài sản bị xử lý để thi hành án theo yêu
cầu của ngƣời có thẩm quyền thi hành án mà không có lý do chính đáng”.
- Bổ sung thêm đối tƣợng (Ngƣời có nghĩa vụ liên quan) mà các cơ
quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm cung cấp thông tin về tài sản cho Chấp
hành viên vào điểm b, c khoản 6, khoản 7 Điều 44 Luật THADS năm 2014.
Cụ thể là:
“6. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc
xác minh điều kiện thi hành án:
b) Bảo hiểm xã hội, ngân hàng, tổ chức tín dụng khác, văn phòng đăng
ký quyền sử dụng đất, cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm, công chứng và các
cơ quan, tổ chức, cá nhân khác đang nắm giữ thông tin hoặc quản lý tài sản,
tài khoản của ngƣời phải thi hành án, ngƣời có nghĩa vụ liên quan có trách
nhiệm cung cấp thông tin về điều kiện thi hành án của ngƣời phải thi hành án.
c) Cơ quan, tổ chức, cá nhân đang nắm giữ thông tin hoặc quản lý tài
sản, tài khoản của ngƣời phải thi hành án, ngƣời có nghĩa vụ liên quan có
trách nhiệm cung cấp thông tin khi ngƣời đƣợc thi hành án hoặc ngƣời đại
diện theo ủy quyền của ngƣời đƣợc thi hành án có yêu cầu.
7. Trƣờng hợp ngƣời đƣợc thi hành án, cơ quan, tổ chức, cá nhân không
cung cấp hoặc cung cấp thông tin sai sự thật về điều kiện thi hành án của
ngƣời phải thi hành án, ngƣời có nghĩa vụ liên quan thì phải chịu trách nhiệm

trƣớc pháp luật, thanh toán các chi phí phát sinh, trƣờng hợp gây ra thiệt hại
thì phải bồi thƣờng”.


KẾT LUẬN CHƢƠNG 2
Xác minh tài sản trong THAKDTM là một trong những công việc phức
tạp nhất, khó thực hiện, đối tƣợng phải thi hành án thƣờng là các doanh
nghiệp, tài sản đảm bảo của ngƣời thứ ba. Thông thƣờng khi họ là ngƣời phải
thi hành án họ thƣờng tìm cách tẩu tán tài sản hoặc không hợp tác với cơ quan
thi hành án, mặc khác hệ thống quản lý đăng ký tài sản, cơ chế kiểm soát tình
trạng vốn, tài sản, thu nhập của doanh nghiệp và cá nhân có đăng ký kinh
doanh của nƣớc ta còn rất yếu, chƣa thực hiện đƣợc chức năng giám sát hoạt
động của các loại hình doanh nghiệp thông qua hệ thống tài khoản ở ngân
hàng. Ngoài ra, lực lƣợng Chấp hành viên còn thiếu, am hiểu các lĩnh vực
chuyên môn sâu của chấp hành viên chƣa thể đáp ứng yêu cầu, trong khi đó
giữa các tổ chức tín dụng, ngân hàng và doanh nghiệp thƣờng có mối quan hệ
mật thiết với nhau hoặc quen biết nhau, các tổ chức tín dụng ngân hàng
thƣờng hiểu rõ tình hình tài sản, điều kiện THA của doanh nghiệp. Hơn nữa,
nếu xét về khía cạnh tâm lý, ngƣời đƣợc THA là những ngƣời có quyền lợi
trực tiếp nên họ sẽ bằng mọi cách có đƣợc thông tin về tài sản của doanh
nghiệp, chính vì thế những vụ việc mà các tổ chức tín dụng, ngân hàng quan
tâm phối hợp cung cấp thông tin về tài sản thì kêt quả thi hành án đạt hiệu quả
hơn. Để việc xác minh tài sản trong THAKDTM có hiệu quả, pháp luật cần
quy định việc phối hợp cung cấp thông tin của ngƣời đƣợc thi hành án phải
mang tính bắt buộc, nên cần sửa đổi khoản 5 Điều 44 Luật THADS năm
2014 theo hƣớng ngƣời đƣợc thi hành án phải có nghĩa vụ cung cấp thông tin
về tài sản của ngƣời phải thi hành án cho cơ quan thi hành án dân sự khi có
yêu cầu.
Uỷ thác xác minh tài sản theo Luật Thi hành án dân sự là quy định
mang lại nhiều thuân lợi cho các cơ quan thi hành án trong thi hành án

KDTM. Xuất phát từ thực tiễn, án KDTM thƣờng rất phức tạp khi xử lý tài
sản thế chấp của ngƣời thƣ 3 (Ngƣời có quyền và nghĩa vụ liên quan), vì vậy
khi tiến hành xử lý tài sản Chấp hành viên phải luôn tuân thủ đúng các quy
định pháp luật nhƣ ủy thác thi hành án, thông báo về thi hành án, gặp gỡ các
bên đƣơng sự để động viên thuyết phục tự nguyện thi hành án hoặc ghi nhận
sự thỏa thuận của các bên về cách thức thi hành. Bình thƣờng nếu các bên
đƣơng sự và ngƣời có quyền và nghĩa vụ liên quan ở trong cùng địa bàn thuộc


thẩm quyền của cơ quan thi hành án thì những tác nghiệp của Chấp hành viên
tiến hành thuận lợi, nhƣng nếu ở ngoài địa bàn thì đây là công việc khó khăn
cả về vật chất lẫn tinh thần, sức khỏe, chƣa kể đến khó khăn trong việc phối
hợp với các cơ quan ban, ngành tại nơi đƣơng sự cƣ trú, chính vì vậy việc
Luật Thi hành án quy định về ủy thác xác minh tài sản trong thi hành án
KDTM là phù hợp với thực tiễn. Tuy nhiên để quy định đƣợc thực hiện đáp
ứng với yêu cầu nhiệm vụ của cơ quan thi hành án, Luật Thi hành án dân sự
cần bổ sung thêm các đối tƣợng đƣợc ủy thác xác minh nhƣ ngƣời đƣợc thi
hành án và ngƣời có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, đồng thời nhằm đảm bảo
sự thống nhất giữa khoản 3, Điều 44 Luật THADS năm 2014 và khoản 2,
Điều 9 Nghị định 62/NĐ-CP của Chính phủ về hƣớng dẫn Luật Thi hành án
dân sự nhƣ đã phân tích ở nội dung trên.
Trách nhiệm cung cấp thông tin để xác minh tài sản trong thi hành án
kinh doanh thƣơng mại là một thủ tục rất quan trọng, không thể thiếu trong
quá trình tổ chức THA, là cơ sở để Chấp hành viên đƣa ra biện pháp THA
phù hợp đối với từng vụ việc. Trong pháp luật hiện hành, trách nhiệm cung
cấp thông tin đƣợc quy định thành một điều riêng và là một giai đoạn bắt
buộc trong quá trình tổ chức THA. Thực hiện các quy định này đã nâng cao
đƣợc trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong quá trình thực hiện bản án,
quyết định của Tòa án, đồng thời cũng là cơ sở để Chấp hành viên tổ chức
THADS có hiệu quả. Qua 2 năm thực hiện thì Luật THADS sửa đổi, bổ sung

nói chung và quy định về trách nhiệm cung cấp thông tin nói riêng đã đạt
đƣợc những kết quả nhất định, bƣớc đầu khẳng định vai trò và hiệu quả hoạt
động THADS trong việc bảo đảm hiệu lực các bản án, quyết định của Tòa án
đƣợc thi hành; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đƣơng sự. Tuy
nhiên, qua kết quả tổng kết, đánh giá thực hiện các quy định này trên thực tế
cho thấy, các quy định về trách nhiệm cung cấp thông tin còn gặp một số bất
cập, vƣớng mắc, hạn chế cần phải khẩn trƣơng nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung
để hoàn thiện. Có hai loại giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về
trách nhiệm cung cấp thông tin, đó là kiến nghị bổ sung khoản 2 Điều 73 Luật
quản lý thuế về việc cơ quan thi hành án dân sự là cơ quan đƣợc cơ quan quản
lý thuế cung cấp thông tin; bổ sung vào điểm a khoản 2 Điều 52 Nghị định
67/NĐ-CP của Chính phủ về xử phạt hành chính đối với hành vi cung cấp


không đảm bảo thời hạn theo quy định; bổ sung thêm đối tƣợng (Ngƣời có
nghĩa vụ liên quan) mà các cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm cung cấp
thông tin về tài sản cho Chấp hành viên vào điểm b, c khoản 6, khoản 7 Điều
44 Luật THADS năm 2014. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả hoạt động THADS
và để việc cung cấp thông tin đƣợc chính xác, hiệu quả thì cần khắc phục
những hạn chế hiện nay và thực hiện sớm những kiến nghị đã đƣợc nêu qua
việc phân tích các quy định của pháp luật và trên cơ sở tổng kết, đánh giá kết
quả thực hiện trên thực tế.



×