Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa đối với các hoạt động y tế ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (895.17 KB, 83 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN THỊ TRANG

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA
ĐỐI VỚI CÁC HOẠT ĐỘNG Y TẾ
Ở NƢỚC TA HIỆN NAY
Chuyên ngành: LUẬT HÀNH CHÍNH
Mã số: 60.38.20

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. BÙI THỊ ĐÀO

HÀ NỘI - 2012


1

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tư liệu,
số liệu được sử dụng trong luận văn này là trung thực và có nguồn gốc, xuất
xứ rõ ràng. Các kết quả nghiên cứu của Luận văn chưa từng được công bố
trong bất kỳ công trình nghiên cứu khoa học nào.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN




2

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN

trang
1

MỤC LỤC

2

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

6

MỞ ĐẦU

7

Chƣơng 1 - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI
HÓA ĐỐI VỚI CÁC HOẠT ĐỘNG Y TẾ Ở NƢỚC TA HIỆN NAY
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN

11
11


1.1.1. Hoạt động y tế

11

1.1.2. Xã hội hóa

12

1.1.3. Xã hội hóa các hoạt động y tế

16

1.2. SỰ CẦN THIẾT PHẢI XÃ HỘI HÓA CÁC HỌAT ĐỘNG Y TẾ

18

1.2.1. Sự phát sinh, phát triển của các hoạt động y tế

18

1.2.2. Nền kinh tế thị trường tạo cơ sở phát triển các hoạt động y tế

19

1.2.3. Nhu cầu sử dụng dịch vụ y tế đa dạng của người dân

20

1.2.4. Nguồn lực có hạn của Nhà nước ảnh hưởng đến khả năng đầu tư
cho các hoạt động y tế


20

1.2.5. Sự quá tải, bất cập của hệ thống y tế công

21

1.2.6. Sự phát triển của khu vực ngoài nhà nước

21

1.2.7. Xu hướng phát huy dân chủ, công bằng xã hội và cải cách hành chính
tạo điều kiện thuận lợi để xã hội hóa dịch vụ y tế
1.3. PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA CÁC HOẠT ĐỘNG Y TẾ

22
23

1.3.1. Các nguyên tắc xây dựng pháp luật về xã hội hóa các hoạt động y tế 23
1.3.2. Nội dung cơ bản của pháp luật về xã hội hóa các hoạt động y tế

25


3

1.3.3. Đặc điểm của pháp luật về xã hội hóa các hoạt động y tế

26


1.3.4. Vai trò của pháp luật về xã hội hóa các hoạt động y tế

29

Chƣơng 2 - THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA ĐỐI VỚI
CÁC HOẠT ĐỘNG Y TẾ Ở NƢỚC TA HIỆN NAY VÀ KINH NGHIỆM 32
CỦA MỘT SỐ NƢỚC
2.1. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ NỘI DUNG CỦA PHÁP LUẬT VỀ
XÃ HỘI HÓA CÁC HOẠT ĐỘNG Y TẾ Ở NƢỚC TA

2.1.1. Quá trình phát triển của pháp luật về xã hội hóa các hoạt động y tế

32
32

2.1.1.1. Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 1996

32

2.1.1.2. Giai đoạn từ năm 1997 đến năm 2004

33

2.1.1.3. Giai đoạn từ năm 2005 đến nay

35

2.1.2. Nội dung pháp luật hiện hành về xã hội hóa các hoạt động y tế
2.2. ĐÁNH GIÁ PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ XÃ HỘI HÓA CÁC
HOẠT ĐỘNG Y TẾ


38
45

2.2.1. Ưu điểm của pháp luật hiện hành về xã hội hóa các hoạt động y tế

45

2.2.2. Hạn chế của pháp luật hiện hành về xã hội hóa các hoạt động y tế

47

2.3. PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA CÁC HOẠT ĐỘNG Y TẾ CỦA
MỘT SỐ NƢỚC VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM Ở VIỆT NAM

2.3.1. Pháp luật về xã hội hóa các hoạt động y tế của một số nước
2.3.2. Kinh nghiệm hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa các hoạt động y tế
ở Việt Nam

50
50
53

Chƣơng 3 - YÊU CẦU, QUAN ĐIỂM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN
THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA ĐỐI VỚI CÁC HOẠT ĐỘNG Y TẾ Ở 55
NƢỚC TA HIỆN NAY
3.1. YÊU CẦU KHÁCH QUAN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA CÁC HOẠT ĐỘNG Y TẾ

55



4

3.1.1. Xu hướng phát triển của y tế

55

3.1.2. Yêu cầu tăng cường quản lý nhà nước bằng pháp luật

56

3.1.3. Yêu cầu hội nhập quốc tế

57

3.2. QUAN ĐIỂM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA CÁC
HOẠT ĐỘNG Y TẾ

58

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa các hoạt động y tế phải dựa
trên các quan điểm của Đảng về công tác y tế, phù hợp với tính chất, đặc 58
điểm của hoạt động y tế
3.2.2. Hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa các hoạt động y tế phải bảo
đảm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước
3.2.3. Hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa các hoạt động y tế phải bảo đảm
tất cả các hoạt động y tế xã hội hóa đều được điều chỉnh bằng pháp luật
3.2.4. Hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa các hoạt động y tế phải bảo
đảm quyền, lợi ích của người dân và chất lượng dịch vụ y tế

3.2.5. Hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa các hoạt động y tế phải bảo
đảm yêu cầu về lập pháp, lập quy
3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI
HÓA CÁC HOẠT ĐỘNG Y TẾ

3.3.1. Ban hành Nghị quyết riêng của Bộ Chính trị về xã hội hóa các
hoạt động y tế làm cơ sở để hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực này
3.3.2. Thống nhất và thể chế hóa các khái niệm và nội hàm của khái
niệm xã hội hóa, xã hội hóa các hoạt động y tế
3.3.3. Hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực, tiêu chí, quy mô, loại hình cơ sở
y tế xã hội hóa
3.3.4. Hoàn thiện pháp luật về thành lập và hoạt động của các cơ sở y tế
xã hội hóa

60

60

61

63

64

64

65

65


66


5

3.3.5. Hoàn thiện pháp luật về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các
đơn vị sự nghiệp y tế công lập
3.3.6. Hoàn thiện pháp luật về huy động các tổ chức xã hội, cộng đồng
và cá nhân tham gia hoạt động y tế
3.3.7. Hoàn thiện pháp luật về đổi mới cơ chế chi trả dịch vụ y tế và bảo
hiểm y tế
3.3.8. Hoàn thiện pháp luật về chính sách khuyến khích xã hội hóa các
hoạt động y tế

67

68

69

70

3.3.9. Ban hành văn bản quy phạm pháp luật quy định về xã hội hóa các
hoạt động y tế và sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật có 71
liên quan để bảo đảm tính đồng bộ của pháp luật
KẾT LUẬN

73

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


75

PHỤ LỤC

77


6

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BHYT

: Bảo hiểm y tế

CSSK

: Chăm sóc sức khỏe

KCB

: Khám, chữa bệnh

QLNN

: Quản lý nhà nước

TTB


: Trang thiết bị

QPPL

: Quy phạm pháp luật

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


7

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài:
Trong nhiều năm qua, công tác y tế đã được Đảng và Nhà nước quan tâm.
Chủ trương xã hội hóa để huy động mọi nguồn lực tham gia công tác chăm sóc
sức khỏe (CSSK) nhân dân đã được thể hiện xuyên suốt trong các Nghị quyết
Đại hội Đảng lần thứ VII, VIII, IX, X và XI. Nghị quyết số 46-NQ/TW ngày
23/02/2005 của Bộ Chính trị về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức
khỏe nhân dân trong tình hình mới cũng đã nêu rõ quan điểm thực hiện xã hội
hóa các hoạt động y tế. Trên cơ sở đó, Quốc hội và Chính phủ đã ban hành
nhiều văn bản pháp luật về xã hội hóa các hoạt động y tế và đã tổ chức thực
hiện mang lại những kết quả nhất định.
Việc triển khai chính sách, pháp luật về xã hội hóa đã huy động được
nhiều nguồn lực xã hội đáp ứng nhu cầu CSSK ngày càng tăng của các tầng lớp
nhân dân. Người dân biết cách giữ gìn và nâng cao sức khỏe, có cơ hội tham gia
bảo hiểm y tế (BHYT), dễ dàng tiếp cận và hưởng thụ kỹ thuật y tế hiện đại;
thầy thuốc được cập nhật, làm chủ kỹ thuật y tế tiên tiến và đời sống được cải
thiện một bước. Thực hiện xã hội hóa qua liên doanh, liên kết đã góp phần cải

thiện đáng kể trang thiết bị (TTB) y tế của bệnh viện công ở nhiều vùng trong
thời gian ngắn, góp phần đưa kỹ thuật y tế Việt Nam dần theo kịp với các nước
trong khu vực Đông Nam Á, hạn chế việc người Việt Nam phải ra nước ngoài
khám, chữa bệnh (KCB). Gần 70.000 cơ sở KCB tư nhân, gần 143 bệnh viện tư
nhân, trong đó có những bệnh viện tư nhân với TTB y tế hiện đại đã đóng góp
đáng kể cho sự nghiệp CSSK nhân dân. Người nghèo, người cận nghèo, người
tàn tật, người cao tuổi, trẻ em, người dân ở vùng miền núi, các dân tộc thiểu số
ở vùng sâu, vùng xa ngày càng được CSSK tốt hơn nhờ sự quan tâm đầu tư của
Nhà nước và sự hỗ trợ qua hoạt động từ thiện nhân đạo.[24], [8]


8

Tuy nhiên, việc thực hiện xã hội hóa các hoạt động y tế vẫn còn nhiều
hạn chế, vướng mắc. Bên cạnh hạn chế về nhận thức của các cấp, các ngành
cũng như của xã hội, một trong những nguyên nhân quan trọng là sự hạn chế
của các quy định pháp luật trong lĩnh vực này.
Trong thời gian tới, do sự phát triển của các hoạt động y tế và nhu cầu
CSSK nhân dân, pháp luật về xã hội hóa đối với các hoạt động y tế cần tiếp tục
được đổi mới, hoàn thiện nhằm bảo đảm huy động hiệu quả các nguồn lực tham
gia công tác CSSK nhân dân.
Dưới góc độ khoa học pháp lý, những vấn đề lý luận và thực tiễn của
pháp luật về xã hội hóa các hoạt động y tế hiện nay vẫn chưa được quan tâm
nghiên cứu nhiều.
Từ các lý do trên, việc nghiên cứu vấn đề hoàn thiện pháp luật về xã hội
hóa các hoạt động y tế ở nước ta hiện nay là rất cần thiết cả về lý luận và thực
tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài:
Về mặt lý luận, pháp luật về xã hội hóa các hoạt động y tế là vấn đề mới
ở Việt Nam đã được một số nhà khoa học và hoạt động thực tiễn quan tâm

nghiên cứu. Trong đó, nổi bật là các công trình: Nghiên cứu thực trạng và xây
dựng mô hình huy động xã hội thực hiện xã hội hóa y tế đảm bảo công bằng và
hiệu quả trong CSSK nhân dân, Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện Chiến lược và
Chính sách y tế, 2000; TS. Lê Chi Mai, Chuyển giao dịch vụ công các cơ sở
ngoài nhà nước - Vấn đề và giải pháp, Nhà xuất bản Lao động - Xã hội 2002;
GS.TSKH. Phạm Mạnh Hùng, xã hội hóa công tác y tế: Những vấn đề đặt ra,
Tạp chí Khoa giáo, số 10-2005; TS. Chu Văn Thành, Dịch vụ công - Đổi mới
quản lý và tổ chức cung ứng ở Việt Nam hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị Quốc
gia 2007; ThS. Nguyễn Huy Quang, Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà
nước về xã hội hóa công tác y tế, Tạp chí Lập pháp, số 7-2008; Hoàn thiện
khung pháp luật về xã hội hóa cung ứng dịch vụ công ở Việt Nam, Trường Đại


9

học Luật Hà Nội, 2010.... Các tổ chức quốc tế như Tổ chức Y tế Thế giới
(WHO), Ngân hàng Thế giới (WB) cũng đã hỗ trợ triển khai một số nghiên cứu
về xã hội hóa y tế. Các công trình này đã phân tích khá chi tiết những vấn đề lý
luận và thực tiễn của việc xã hội hóa cung ứng dịch vụ công hiện nay ở nước ta,
trong đó có xã hội hóa dịch vụ y tế.
Tuy nhiên, các công trình nêu trên chủ yếu tập trung nghiên cứu đối với
quản lý nhà nước (QLNN) về xã hội hóa y tế, tiếp cận dưới góc độ của khoa
học quản lý hành chính công hoặc pháp luật về xã hội hóa dịch vụ công nói
chung. Việc nghiên cứu xây dựng, hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa đối với
các hoạt động y tế, tuy đã được đặt ra ở một số đề tài khoa học nhưng còn mang
tính khái quát hoặc nặng về nội dung QLNN về y tế hoặc về cung ứng dịch vụ
công nói chung. Chưa có công trình nào chuyên sâu nghiên cứu, làm rõ những
vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật về xã hội hóa đối với các hoạt động y
tế, tìm ra những những ưu, nhược điểm và đề xuất phương hướng hoàn thiện.
3. Phạm vi nghiên cứu:

Đề tài tập trung nghiên cứu đối với pháp luật về xã hội hóa các hoạt động
y tế bao gồm toàn bộ các văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) của Nhà nước
liên quan đến xã hội hóa các hoạt động y tế, lấy mốc thời gian từ năm 1989 là
năm ban hành Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân đến nay.
4. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài:
4.1. Về mục đích, đề tài tập trung nghiên cứu, làm rõ một số vấn đề lý
luận, thực tiễn và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa đối
với các hoạt động y tế ở nước ta hiện nay.
4.2. Về nhiệm vụ, đề tài đã đưa ra và giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận của pháp luật về xã hội hóa đối với các
hoạt động y tế dưới góc độ của khoa học pháp lý.
- Đánh giá thực trạng và rút ra những ưu, nhược điểm cơ bản của pháp
luật về xã hội hóa các hoạt động y tế ở nước ta hiện nay.


10

- Phân tích một số kinh nghiệm pháp luật quốc tế về xã hội hóa các hoạt
động y tế để rút ra những kinh nghiệm có giá trị lập pháp, lập quy và vận dụng
có chọn lọc vào thực tiễn Việt Nam.
- Đề xuất quan điểm, một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về xã hội
hóa các hoạt động y tế ở nước ta hiện nay.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng các phương pháp trong nghiên cứu luật học bao gồm: mô
tả, phân tích, tổng hợp, so sánh pháp luật, thống kê, lịch sử, biện chứng và dự
báo để chọn lọc tri thức khoa học cũng như kinh nghiệm thực tiễn. Trong đó,
phương pháp được sử dụng chủ yếu là phương pháp phân tích, tổng hợp.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn:
Đây là công trình chuyên khảo bước đầu nghiên cứu tương đối toàn diện
một số vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật về xã hội hóa đối với các hoạt

động y tế ở nước ta hiện nay. Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ bước đầu góp
phần xây dựng cơ sở khoa học cho việc hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa các
hoạt động y tế; có thể được sử dụng để tham khảo trong việc nghiên cứu, giảng
dạy pháp luật về xã hội hóa các hoạt động y tế. Về mặt thực tiễn, kết quả của đề
tài có thể áp dụng vào công tác xây dựng và hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa
các hoạt động y tế ở nước ta hiện nay.
7. Cấu trúc của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận
văn được kết cấu thành 3 chương, bao gồm:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận của pháp luật về xã hội hóa đối với các
hoạt động y tế ở nước ta hiện nay.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về xã hội hóa đối với các hoạt động y tế
ở nước ta hiện nay và kinh nghiệm của một số nước.
Chương 3: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về xã hội hóa
đối với các hoạt động y tế ở nước ta hiện nay.


11

Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA ĐỐI
VỚI CÁC HOẠT ĐỘNG Y TẾ Ở NƢỚC TA HIỆN NAY
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN:
1.1.1. Hoạt động y tế:
Tổ chức Y tế thế giới định nghĩa “Sức khỏe là trạng thái thoải mái cả về
thể chất, tinh thần và xã hội chứ không phải chỉ là tình trạng không có bệnh tật
hay tàn tật”. Điều này cho thấy, có rất nhiều yếu tố tác động đến sức khỏe con
người bao gồm môi trường sống; nhận thức, hành vi, lối sống của con người và
các hoạt động y tế. Tuy nhiên, các hoạt động y tế là yếu tố cuối cùng tác động
đến sức khoẻ con người.

Để có cơ sở xã hội hóa các hoạt động y tế, cần xác định phạm vi các hoạt
động y tế mà Nhà nước tập trung quản lý. Bởi vì, chỉ có những hoạt động y tế
nào Nhà nước có trách nhiệm tổ chức, quản lý để cung cấp cho đông đảo người
dân thì Nhà nước mới xem xét để xã hội hóa. Hiện nay, các hoạt động y tế
thuộc phạm vi quản lý của Nhà nước bao gồm:
Thứ nhất, về y tế dự phòng và môi trường: phòng, chống dịch bệnh,
kiểm dịch y tế, HIV/AIDS; tai nạn thương tích, sức khỏe trường học, sức khỏe
lao động và bệnh nghề nghiệp; dinh dưỡng cộng đồng; vệ sinh an toàn nước
uống, nước sinh hoạt; CSSK ban đầu; truyền thông giáo dục sức khỏe; hóa chất,
chế phẩm diệt khuẩn, diệt côn trùng dùng trong gia dụng và y tế...
Thứ hai, về an toàn thực phẩm: xây dựng tiêu chuẩn, quy trình, quy
chuẩn, định mức kinh tế kỹ thuật bảo đảm an toàn thực phẩm; kiểm nghiệm,
kiểm tra, công bố, công nhận chất lượng về an toàn thực phẩm...
Thứ ba, về KCB: các hoạt động khám bệnh, chữa bệnh, điều dưỡng, phục
hồi chức năng, chỉnh hình, thẩm mỹ, giám định (y khoa, pháp y, pháp y tâm
thần), sức khỏe sinh sản và dịch vụ kế hoạch hóa gia đình...


12

Thứ tư, về y, dược học cổ truyền: khám bệnh, chữa bệnh, sản xuất, kiểm
nghiệm thuốc đông y, điều kiện hành nghề y, dược cổ truyền...
Thứ năm, về thuốc và mỹ phẩm: sản xuất, lưu thông và nhập khẩu thuốc,
nguyên liệu làm thuốc; chế độ sử dụng thuốc, xây dựng dược điển, dược thư
quốc gia; điều kiện hành nghề dược; kiểm nghiệm, nghiên cứu, đăng ký thuốc,...
Thứ sáu, về TTB y tế: sản xuất, tiêu chuẩn kỹ thuật, kiểm định về TTB y
tế... [13]
Đối với các hoạt động về đào tạo, nghiên cứu khoa học, hợp tác quốc tế,
quản lý, quản lý các tổ chức sự nghiệp trực thuộc Bộ... ít có tính đặc thù riêng
nên không đề cập sâu trong Luận văn này nhưng có thể phân tích mở rộng thêm.

Trong phạm vi Luận văn này, có thể thống nhất cách hiểu về hoạt động y
tế làm cơ sở cho việc phân tích các nội dung tiếp theo như sau:
- Hoạt động y tế là hoạt động cụ thể của lĩnh vực y tế để bảo vệ, chăm
sóc và nâng cao sức khỏe con người.
- Hoạt động y tế có sản phẩm là các hàng hóa, dịch vụ y tế có đặc thù so
với các hàng hoá, dịch vụ thông thường khác.
- Hoạt động y tế là một loại hoạt động dịch vụ công, do Nhà nước chịu
trách nhiệm tổ chức thực hiện và được quản lý bởi Nhà nước.
1.1.2. Xã hội hóa:
Trong bối cảnh thực hiện xã hội hóa hoạt động dịch vụ công nói chung
và xã hội hóa hoạt động y tế nói riêng ở nước ta hiện nay, cụm từ xã hội hóa có
nhiều cách hiểu khác nhau.
Trong xã hội học, xã hội hóa (socialization) dùng để chỉ một quá trình xã
hội mà theo đó con người học cách thích ứng với xã hội, hội nhập các chuẩn
mực, quy tắc xã hội, là quá trình tạo dựng những thuộc tính xã hội cho một cá
thể để giúp cá thể đó trở thành một thành viên hoàn chỉnh đảm đương được vai
trò như mong muốn của xã hội. Quá trình này diễn ra từ khi con người được
sinh ra đến khi chết đi. Nhờ có quá trình xã hội hóa mà xã hội luôn tồn tại bền


13

vững, bởi lẽ thông qua quá trình này nền văn hóa của các xã hội được chuyển
giao từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Từ điển tiếng Việt (do Hoàng Phê chủ biên, 1980) giải thích: xã hội hóa là
làm cho trở thành của chung của xã hội, ví dụ xã hội hóa tư liệu sản xuất, tức là
quốc hữu hóa tư liệu sản xuất. Nghĩa của cụm từ này trong các tiếng nước ngoài
cũng tương tự. Theo nguyên nghĩa tiếng Anh, “socialization” thường được dùng
theo nghĩa “tập thể hóa”, “đặt dưới chế độ cộng đồng”, “quản lý hay điều khiển
(của Nhà nước) nhân danh xã hội”... tức là những gì được xã hội hóa thì phải

được Chính phủ cung cấp miễn phí. Chẳng hạn, “socialized medicine” là “y tế
(được) xã hội hóa ” tức là sự chăm sóc y tế được Chính phủ cung cấp miễn phí
cho người dân[3].
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin, xã hội hóa nói lên sự chuyển
hóa từ tính chất cá nhân thành tính chất xã hội. Ta dùng chữ "hóa" là nói đến sự
chuyển hóa từ cái này sang cái kia. Ví dụ: "Công nghiệp hóa" là nói sự chuyển
hóa từ một nền kinh tế nông nghiệp sang kinh tế công nghiệp. "Hợp tác hóa"
trong nông nghiệp nghĩa là chuyển từ sản xuất cá thể sang sản xuất tập thể.[15]
So với nghĩa thông dụng nêu trên thì khái niệm xã hội hóa được dùng
hiện tại ở Việt Nam có một số khác biệt. Tuy nhiên, việc dùng một khái niệm
theo nghĩa khác với nghĩa thông thường là một hiện tượng không xa lạ. Đấy có
thể là sự phát triển tự nhiên của ngôn ngữ, cũng có thể vì những lý do khác.
Trong trường hợp này, cần phải đặt vào bối cảnh của Việt Nam để hiểu được
bản chất của xã hội hóa mà chúng ta đang thực hiện.
Một số người cho rằng, xã hội hóa là quá trình chuyển giao để khu vực
ngoài nhà nước thực hiện những công việc trước đây do Nhà nước làm hoặc quan
niệm rằng đúng ra Nhà nước phải làm hoặc chỉ là biện pháp huy động nguồn lực
tài chính của khu vực ngoài nhà nước. Theo đó thì xã hội hóa là sự chuyển giao
đơn thuần về chủ thể thực hiện hoặc chỉ là một biện pháp huy động tài chính
ngoài ngân sách để tăng cường đầu tư cho một số lĩnh vực cụ thể. Người ta dẫn


14

chứng việc thực hiện chủ trương đó như là “khuyến khích thành lập bệnh viện tư,
cơ sở giáo dục tư, tổ chức nghiên cứu khoa học tư”. Cách hiểu này đã khiến cho
không ít người nghĩ rằng xã hội hóa là tư nhân hóa hoặc chỉ đơn thuần là huy
động tiền của dân, giảm gánh nặng cho ngân sách, chuyển cho cộng đồng tự lo
liệu, dẫn đến buông lỏng quản lý, cắt giảm đầu tư của Nhà nước.
Khi đề cập đến mối quan hệ giữa xã hội hóa và vai trò của Nhà nước, có

ý kiến cho rằng: Nhà nước nhân danh xã hội để quản lý xã hội. Nhà nước xã hội
chủ nghĩa (XHCN) là Nhà nước "của dân, do dân và vì dân", thực sự đại diện
cho toàn xã hội, chứ không phải chỉ là một bộ phận của xã hội. Do đó, Nhà
nước và xã hội là một, xã hội không thể “to” hơn Nhà nước nên không thể có xã
hội hóa được. Trước đây, Nhà nước đã xã hội hóa tràn lan bằng cách “ôm” hết
mọi việc và đến nay Nhà nước phải tự thu hẹp lại, để cho tư nhân phát triển.[10]
Cách hiểu này có những điểm chưa phù hợp. Bởi vì, bên cạnh tính xã hội thì
Nhà nước nào cũng mang tính giai cấp. Nhà nước chỉ đại diện cho xã hội, thực
hiện các chức năng xã hội chứ không thể đồng nhất Nhà nước là xã hội. Đồng
thời, nếu cho rằng trước đây Nhà nước đã xã hội hóa rồi và bây giờ Nhà nước
thu hẹp lại để cho tư nhân phát triển thì đã nhầm lẫn xã hội hóa là tư nhân hóa.
Trái ngược với quan điểm trên là quan điểm Nhà nước chỉ là một bộ phận
của xã hội. Các loại tổ chức của xã hội có thể phân thành ba loại khác nhau là:
khu vực công (public sector), khu vực tư nhân (pivate sector) và khu vực xã hội
(social sector) (còn gọi là khu vực phi lợi nhuận, xã hội dân sự, phi chính
phủ).[1] Theo cách nhìn này, Nhà nước chỉ là một phần của xã hội. Nhà nước chỉ
nên làm công việc của chính mình và tạo điều kiện, môi trường thuận lợi để cho
khu vực tư nhân và khu vực xã hội hoạt động hiệu quả. Do đó, xã hội hóa có thể
được hiểu như quá trình khu vực công chuyển trả lại các chức năng của khu vực
xã hội mà nó đã lấn chiếm cho bản thân khu vực xã hội, tạo điều kiện cho các
khu vực đó phát triển một cách cân đối cùng khu vực công. Nhưng quan điểm
này dễ dẫn đến cách hiểu việc gì đã xã hội hóa thì Nhà nước không phải lo nữa.


15

Ngoài ra, không ít người có ý kiến, khái niệm xã hội hóa hiện được dùng
ở Việt Nam có vẻ gần với khái niệm quan hệ hợp tác công tư (public-private
partnership - PPP). Đó là việc Nhà nước cùng với một hoặc nhiều đối tác thuộc
khu vực tư nhân hay xã hội dân sự cùng phối hợp và chia sẻ rủi ro để thực hiện

dự án phát triển kết cấu hạ tầng, cung ứng dịch vụ công cộng trên cơ sở hợp
đồng quan hệ đối tác. Tuy nhiên, cần phải khẳng định hợp tác công - tư chỉ có
thể được coi là một nội dung của xã hội hóa.
Trong các văn bản của Đảng cũng như pháp luật của Nhà nước ta, khái
niệm xã hội hóa không được định nghĩa thống nhất. Xã hội hóa được sử dụng
trong nhiều bối cảnh và điều kiện khác nhau tùy theo văn bản đó đề cập đến nội
dung cụ thể nào. Theo các văn bản này, xã hội hóa được hiểu như sau:
“Xã hội hóa là vận động và tổ chức sự tham gia rộng rãi của nhân dân,
của toàn xã hội vào sự phát triển các sự nghiệp đó.”; “Xã hội hóa là xây dựng
cộng đồng trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân đối với việc tạo lập và cải
thiện môi trường kinh tế, xã hội lành mạnh và thuận lợi cho các hoạt động giáo
dục, y tế, văn hóa.”; “Xã hội hóa là mở rộng các nguồn đầu tư, khai thác các
tiềm năng về nhân lực, vật lực và tài lực trong xã hội. Phát huy và sử dụng có
hiệu quả các nguồn lực của nhân dân, ...".[14]
Theo đó, nội hàm của xã hội hóa bao gồm sự tham gia của cả Nhà nước
và người dân, bao gồm cả nhân lực, vật lực, tài chính, phương thức hợp tác và
cơ chế thực hiện. Tuy nhiên, do được nêu ở các văn bản khác nhau, trong phạm
vi khác nhau nên khái niệm về xã hội hóa vẫn chưa mang tính toàn diện, chưa
giúp người dân tiếp cận và hình dung một cách cụ thể nhất, đầy đủ nhất.
Từ những phân tích trên đây, một cách chung nhất có thể hiểu“Xã hội
hóa là việc huy động, tạo điều kiện và tổ chức sự tham gia rộng rãi, chủ động
của nhân dân, của toàn xã hội cùng với Nhà nước chia sẻ trách nhiệm, đầu tư,
phát triển các hoạt động trong một số lĩnh vực cụ thể.”. Theo cách hiểu này, có
một số điểm cần chú ý về xã hội hóa như sau:


16

Một là, xã hội hóa bao hàm việc cho phép tư nhân tham gia nhưng sự
tham gia này luôn được đặt trong việc tăng cường trách nhiệm của Nhà nước để

bảo đảm lợi ích chung của cộng đồng nên không phải là tư nhân hóa.
Hai là, xã hội hóa là sự huy động toàn diện về nhân lực, vật lực, tài chính,
trí tuệ, sự phối hợp và chia sẻ chứ không đơn thuần chỉ là huy động tài chính.
Ba là, xã hội hóa không làm mất đi vai trò của Nhà nước. Nhà nước
không chuyển giao hoàn toàn cho xã hội và buông lỏng quản lý các hoạt động
đã được xã hội hóa mà vẫn tiếp tục quan tâm đầu tư, phát triển một cách hiệu
quả hơn và duy trì quản lý bằng các công cụ pháp luật, chính sách vĩ mô.
1.1.3. Xã hội hóa các hoạt động y tế:
Từ cách hiểu về khái niệm hoạt động y tế và khái niệm xã hội hóa đã nêu
ở trên cho thấy “Xã hội hóa các hoạt động y tế là việc huy động, tạo điều kiện
và tổ chức sự tham gia rộng rãi, chủ động của nhân dân, của toàn xã hội cùng
với Nhà nước chia sẻ trách nhiệm, đầu tư, phát triển các hoạt động cụ thể của
lĩnh vực y tế để bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe con người.”.
Nội dung về xã hội hóa các hoạt động y tế đã được nhiều nhà quản lý,
nhà khoa học quan tâm nghiên cứu.
Theo một nghiên cứu của Viện Chiến lược và Chính sách y tế, nội dung
của xã hội hóa y tế bao gồm: Sự phối hợp liên ngành trong đó ngành y tế giữ
vai trò nòng cốt; sự tham gia của nhiều lực lượng xã hội, đặc biệt là sự tham gia
chủ động, tích cực của cộng đồng và mỗi người dân trong các hoạt động y tế;
huy động được nhiều nguồn lực khác nhau trong xã hội của trung ương, địa
phương, tổ chức xã hội, cá nhân và tài trợ nước ngoài cho hoạt động y tế.[26]
Tuy nhiên, việc coi phối hợp liên ngành và tài trợ nước ngoài cũng là nội dung
của xã hội hóa y tế có vẻ chưa phù hợp vì phối hợp liên ngành vốn là một nội
dung của QLNN và tài trợ nước ngoài nên được hiểu là huy động nguồn lực
quốc tế.


17

Theo GS.TSKH Phạm Mạnh Hùng [21], năm khía cạnh nội hàm của chủ

trương xã hội hóa y tế bao gồm: Cộng đồng phát động phong trào và vận động
chăm sóc sức khoẻ; Phát huy vai trò của các đoàn thể chính trị và tổ chức xã hội
- nghề nghiệp trong hoạt động CSSK; Kêu gọi và tạo điều kiện thuận lợi để các
thành phần y tế ngoài công lập xuất hiện và trở thành một bộ phận của ngành y
tế; Vai trò đề xuất chủ trương và chính sách CSSK của cơ quan QLNN về y tế;
Xác định đúng mục tiêu ưu tiên của việc xã hội hóa y tế trong giai đoạn hiện
nay. Cách tiếp cận này khá phù hợp với khái niệm đã nêu ở trên cũng như quan
điểm của Đảng và Nhà nước ta về xã hội hóa các hoạt động y tế.
Bên cạnh đó, nhiều văn bản của Đảng đã đề cập đến nội dung này. Nghị
quyết Đại hội X đã chỉ rõ một cách toàn diện nội hàm của xã hội hóa hoạt động
y tế là: Tăng đầu tư của Nhà nước và tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong việc
nâng cấp mạng lưới y tế cơ sở và hệ thống y tế, có chính sách trợ giúp các đối
tượng chính sách, người nghèo, người có thu nhập thấp được tiếp cận dịch vụ y
tế; phát triển hệ thống y tế dự phòng, trang bị kiến thức và kỹ năng để mỗi
người dân có khả năng chủ động phòng bệnh và rèn luyện sức khoẻ; khuyến
khích phát triển các cơ sở y tế thuộc nhiều hình thức sở hữu; sửa đổi chính sách
viện phí theo nguyên tắc xác định đầy đủ chi phí KCB và chia sẻ hợp lý trách
nhiệm chi trả giữa nhà nước, xã hội và người bệnh; phát triển và nâng cao chất
lượng BHYT, xây dựng và thực hiện tốt lộ trình tiến tới BHYT toàn dân, đổi
mới phương thức thanh toán viện phí qua quỹ BHYT.[10]
Như vậy, xã hội hóa hoạt động y tế ở Việt Nam có thể khái quát ở những
nội dung cơ bản sau đây:
- Cộng đồng phát động phong trào chăm sóc, nâng cao sức khỏe để
người dân tích cực hưởng ứng các chủ trương, chính sách y tế của Nhà nước,
trang bị kiến thức và kỹ năng để mỗi người dân có khả năng chủ động phòng
bệnh và nâng cao sức khoẻ.


18


- Chuyển đổi các cơ sở y tế công lập đang hoạt động theo cơ chế sự
nghiệp mang nặng tính hành chính bao cấp sang cơ chế tự chủ trong cung ứng
dịch vụ y tế không bao cấp tràn lan và không nhằm lợi nhuận.
- Huy động mọi nguồn lực sẵn có trong xã hội để tổ chức cung ứng dịch
vụ y tế đáp ứng nhu cầu của các thành viên trong xã hội; khuyến khích phát
triển các cơ sở y tế ngoài nhà nước với các loại hình dân lập, tư nhân và doanh
nghiệp hoạt động theo cơ chế phi lợi nhuận hoặc có lợi nhuận.
- Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, tiếp tục tăng đầu tư từ ngân sách đi đôi
với hoàn thiện thể chế, đổi mới cơ chế quản lý, tạo điều kiện và có chính sách
khuyến khích để phát huy khả năng đầu tư, đóng góp kinh phí trong xã hội; tăng
cường hoạt động thanh tra, kiểm tra.
- Phát huy vai trò của các đoàn thể, tổ chức quần chúng, các hội nghề
nghiệp trong việc giám sát hoạt động của các cơ sở y tế được xã hội hóa.
- Đổi mới cơ chế tài chính y tế, thực hiện BHYT toàn dân, đồng thời Nhà
nước có chính sách trợ giúp các đối tượng chính sách, người nghèo, người có
thu nhập thấp được tiếp cận dịch vụ y tế.
Tuy nhiên, do tính chất đặc thù của hoạt động y tế, có hai nội dung
không thuộc phạm vi xã hội hóa là chưa cổ phần hóa các cơ sở y tế công lập và
không được chuyển các cơ sở y tế công lập sang hình thức ngoài công lập vì
không thực hiện tư nhân hóa hoạt động y tế.
1.2. SỰ CẦN THIẾT PHẢI XÃ HỘI HÓA CÁC HOẠT ĐỘNG Y
TẾ:
Chủ trương xã hội hóa hoạt động y tế ở nước ta hiện nay không chỉ ra đời
trên cơ sở khoa học vững chắc mà còn xuất phát từ cơ sở thực tiễn, cụ thể là:
1.2.1. Sự phát sinh, phát triển của các hoạt động y tế:
Là quốc gia đang phát triển và tham gia sâu rộng vào xu thế toàn cầu hóa,
Việt Nam đang đứng trước những thay đổi cơ bản về cơ cấu bệnh, về dịch tễ
học. Một số dịch bệnh truyền nhiễm như cúm A H5N1, H1N1, chân tay miệng...



19

đều đặn xuất hiện và gia tăng. Tuổi thọ trung bình của người dân tăng, số người
già tăng và kèm theo là các bệnh của người già như tim mạch, huyết áp, hô hấp,
suy thận…cũng tăng. Hành vi, thói quen ăn uống chưa khoa học, ít rèn luyện
thân thể, sử dụng rượu bia, thuốc lá, thực phẩm kém chất lượng làm gia tăng
các bệnh không lây nhiễm như ung thư, tim mạch, tiểu đường,… Nhu cầu
phòng bệnh và chữa bệnh của người dân theo đó cũng tăng lên.
Về khoa học và công nghệ, những phát minh quan trọng về sinh hóa, di
truyền, mô phôi, miễn dịch học, tế bào gốc… đã giúp nền y học hiện đại dần
thay thế các phương pháp y học truyền thống. Cuộc cách mạng trong chẩn đoán
(CT-scanner, MRI, PET-CT, xét nghiệm gen…), trong điều trị (can thiệp mạch
máu, cấy ghép mô tạng, thụ tinh nhân tạo, nuôi cấy tế bào gốc…), trong sản
xuất vắc-xin, dược phẩm... đã tạo ra những thành tựu to lớn của y, dược học thế
giới cũng như Việt Nam. Từ đó, các dịch vụ y tế ngày càng phát triển về số
lượng, nâng cao về chất lượng. Người dân có được cơ hội gia tăng tiếp cận và
lựa chọn dịch vụ y tế phù hợp với nhu cầu sức khỏe và khả năng chi trả của họ.
1.2.2. Nền kinh tế thị trƣờng tạo cơ sở phát triển các hoạt động y tế:
Sự phát triển của nền kinh tế thị trường khiến cho vai trò của Nhà nước
dần thay đổi. Công tác y tế từ chỗ được coi là nhiệm vụ của Nhà nước nay phải
chuyển thành nhiệm vụ chung của xã hội, từ chỗ là một nền y tế bảo trợ, cào
bằng sang nền y tế phục vụ, công bằng. Nhờ đó, Nhà nước tạo điều kiện cho
nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia cung cấp dịch vụ y tế.
Các quy luật của nền kinh tế thị trường có tác động nhất định đến cách
thức cung cấp dịch vụ y tế. Giá cả dịch vụ phải được tính đúng, tính đủ các chi
phí không phụ thuộc vào việc ai là người cung cấp dịch vụ và ai là người hưởng
thụ. Nhà nước có thể trợ cấp trực tiếp cho người thu nhập thấp theo cơ chế riêng.
Người có thu nhập cao phải tự chi trả dịch vụ theo khả năng vì Nhà nước không
thể trợ cấp cào bằng thông qua giá dịch vụ y tế thấp cho cả các đối tượng này.



20

1.2.3. Nhu cầu sử dụng dịch vụ y tế đa dạng của ngƣời dân:
Nếu trước đây, chỉ đến khi có bệnh người dân mới đến cơ sở y tế để điều
trị thì ngày nay người dân đã biết chủ động sử dụng dịch vụ y tế. Bên cạnh đó,
sự phân nhóm thu nhập đã khiến một bộ phận người có thu nhập khá và cao có
nhu cầu hưởng thụ các dịch vụ y tế đắt tiền như: phẫu thuật thẩm mỹ, bệnh viện
khách sạn, bác sỹ gia đình...
Cùng với sự nâng cao trình độ dân trí thì hiểu biết của người dân về
CSSK cũng tăng lên đáng kể. Đã qua thời kỳ có bác nông dân mang rổ chanh ra
chợ bán rồi mua mấy ống Vitamin C nhờ cô y tá tiêm "cho nó bổ và cho nó
đau". Ngày nay, đa số người dân đã được tiếp cận kiến thức phổ thông về
phòng bệnh, biết tự chọn thầy, chọn thuốc, chọn phương pháp điều trị theo tư
vấn của thầy thuốc, chọn cơ sở y tế có uy tín, chất lượng để KCB. Những thay
đổi cơ bản này đã tác động đến phương thức cung cấp dịch vụ y tế.
1.2.4. Nguồn lực có hạn của Nhà nƣớc ảnh hƣởng đến khả năng đầu
tƣ cho các hoạt động y tế:
Trong ba nguồn tài chính của y tế là ngân sách, viện phí và BHYT thì
ngân sách vẫn là nguồn chủ yếu. Trong điều kiện ngân sách hạn hẹp lại phải
dành cho các mục tiêu ưu tiên như phát triển kinh tế, an ninh quốc phòng... thì
ngân sách dành cho y tế chưa đáp ứng được các yêu cầu chi tiêu cơ bản.
Bên cạnh đó, y tế là lĩnh vực đầu tư tốn kém. Vốn đầu tư xây dựng một
bệnh viện quy mô trung bình khoảng 20-25 triệu USD, trong đó TTB y tế chiếm
khoảng 50% tổng vốn đầu tư [23]. Cho nên, Nhà nước cần có cơ chế phù hợp
để huy động xã hội đầu tư cho y tế, góp phần giải quyết những khó khăn bức
xúc trước mắt đang đặt ra do sự bất cân đối giữa mức tăng trưởng chậm của nền
kinh tế với nhu cầu bức thiết về phát triển xã hội ở nước ta.



21

1.2.5. Sự quá tải, bất cập của hệ thống y tế công:
Công tác y tế trong những năm qua đã đạt được nhiều thành tựu quan
trọng nhưng vẫn còn không ít yếu kém. "Hệ thống y tế chậm đổi mới, chất lượng
dịch vụ y tế chưa đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của nhân dân; điều kiện
chăm sóc y tế cho người nghèo, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số còn
nhiều hạn chế”.[10] Mặc dù đã được Nhà nước tăng cường đầu tư bằng nhiều
nguồn nhưng hệ thống y tế vẫn chưa đáp ứng nhu cầu của người dân. Các cơ sở
KCB tuyến trung ương thường xuyên quá tải trong khi nhiều trạm y tế xã, bệnh
viện huyện hoạt động không hết công suất do người dân ít lựa chọn KCB tại
tuyến dưới. KCB bằng BHYT chủ yếu triển khai tại cơ sở y tế công, tổ chức chưa
hợp lý gây ra tình trạng phân biệt đối xử với người bệnh. Chính sách viện phí còn
chậm đổi mới, chưa thực hiện tính đúng, tính đủ chi phí nên không bảo đảm cân
đối thu, chi của đơn vị, làm hạn chế quyền tự chủ của cơ sở y tế, chất lượng dịch
vụ y tế chưa cao. Y tế được bao cấp tràn lan, người nghèo được bao cấp ít, người
giàu lại được bao cấp nhiều hơn do sử dụng nhiều dịch vụ hơn. Những bất cập
này đòi hỏi phải được giải quyết bằng cách huy động sự tham gia của xã hội, xây
dựng một hệ thống y tế phục vụ được cung cấp bởi nhiều chủ thể khác nhau.
1.2.6. Sự phát triển của khu vực ngoài nhà nƣớc:
Nếu trước đây, kinh tế nhà nước là chủ đạo, kinh tế cá thể, hộ gia đình,
tư thục hoạt động nhỏ lẻ, không có khả năng về vốn, phạm vi đầu tư hẹp thì đến
nay, khu vực ngoài nhà nước đã phát triển mạnh. Từ chỗ chỉ có Nhà nước mới
đủ vốn đầu tư xây dựng bệnh viện thì hiện nay, nhiều doanh nghiệp, thậm chí
cá nhân người dân đã có thể đầu tư xây dựng bệnh viện hiện đại với TTB tiên
tiến, đắt tiền mà nhiều cơ sở y tế nhà nước phải “mơ ước”.
Cơ chế hoạt động của khu vực ngoài nhà nước cũng trở nên năng động,
linh hoạt hơn. Nếu Nhà nước duy trì hệ thống y tế 4 cấp theo địa giới hành
chính thì khu vực ngoài nhà nước có hình thức tổ chức đa dạng hơn như bệnh
viện, phòng khám, bác sỹ gia đình... đáp ứng tiêu chí của người dân về mức độ



22

thuận tiện, dễ tiếp cận. Cơ chế quản lý của khu vực ngoài nhà nước cũng thông
thoáng hơn. Theo các chuyên gia, cùng quy mô, cùng TTB, nếu tư nhân đầu tư
bệnh viện thì chỉ bằng 50%-60% vốn so với Nhà nước đầu tư.
Bên cạnh đó, khu vực xã hội dân sự cũng ngày càng tích cực tham gia
các hoạt động y tế. Các hoạt động từ thiện xã hội trong CSSK nhân dân ngày
càng phong phú, đa dạng. Nhiều tổ chức xã hội, tôn giáo và cá nhân còn có
nguyện vọng thành lập cơ sở y tế nhân đạo để CSSK miễn phí cho người dân.
Thực tiễn trên cho thấy, khu vực ngoài nhà nước đã đủ khả năng tham
gia cung cấp các dịch vụ y tế đáp ứng nhu cầu đa dạng của người dân.
1.2.7. Xu hƣớng phát huy dân chủ, công bằng xã hội và cải cách hành
chính tạo điều kiện thuận lợi để xã hội hóa dịch vụ y tế:
Trong lĩnh vực y tế, phát huy dân chủ và công bằng xã hội giúp bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của cả người dân và thầy thuốc. Người dân có quyền
được chăm sóc y tế, được chọn thầy, chọn thuốc, được đối xử công bằng khi
KCB. Đồng thời, thầy thuốc được bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp trong quá
trình hành nghề. Nhờ đó, môi trường KCB trở nên thân thiện hơn, người dân có
tâm lý thoải mái hơn và có xu hướng tăng cường sử dụng dịch vụ y tế.
Việc bảo đảm công bằng xã hội đặt ra yêu cầu cả cơ sở y tế công lập và
ngoài công lập đều phải được hoạt động trên một mặt bằng pháp luật, không bị
phân biệt đối xử. Các cơ sở y tế ngoài nhà nước cũng phải được hưởng chính
sách về vốn, thuế, thủ tục đầu tư, tuân thủ các điều kiện chuyên môn, điều kiện
cơ sở vật chất y tế như các cơ sở y tế của Nhà nước. Nhờ đó, môi trường đầu tư
cho y tế trở nên thông thoáng, có sức hút đối với khu vực ngoài nhà nước hơn.
Thực hiện cải cách thủ tục hành chính, các dịch vụ y tế đã được công
khai đến người dân. Chính sách, pháp luật về y tế đã được các cơ quan QLNN
chủ động tổ chức tuyên truyền đến người dân. Các tổ chức xã hội dân sự đã

tham gia vào nhiều hoạt động như: xây dựng chính sách, pháp luật về y tế; thẩm


23

định cấp chứng chỉ hành nghề KCB; bồi dưỡng chuyên môn; giám sát quá trình
hành nghề, quy tắc đạo đức, ứng xử của cán bộ y tế...
Nhờ sự đổi mới cương quyết của Chính phủ, nhiều tiêu cực trong xã hội
hóa y tế đã được hạn chế. Tình trạng cơ sở y tế ngoài nhà nước chưa được tham
gia KCB bằng BHYT; tình trạng có bệnh viện tư nhân phải chờ đợi đến 05
tháng để xin thẩm định hệ thống nước thải của bệnh viện; việc tham gia xét thi
đua khen thưởng; tham gia hội nghị tổng kết ngành, gửi cán bộ đi đào tạo còn
khó khăn... đến nay đã được cải thiện. [25]
Tóm lại, trong bối cảnh thực hiện một nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN với quan điểm bảo đảm phúc lợi xã hội bên cạnh tăng trưởng kinh tế thì
xã hội hóa các động y tế là yêu cầu cần thiết. Điều này sẽ giúp huy động nguồn
lực đầu tư hiệu quả cho y tế mà vẫn tiết kiệm được ngân sách, tạo điều kiện và
nâng cao năng lực của khu vực ngoài nhà nước, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của
bộ máy nhà nước và góp phần ổn định an sinh xã hội.
1.3. PHÁP LUẬT VỀ XÃ HỘI HÓA CÁC HOẠT ĐỘNG Y TẾ:
1.3.1. Các nguyên tắc xây dựng pháp luật về xã hội hóa các hoạt
động y tế:
Pháp luật về xã hội hóa các hoạt động y tế là tổng thể các QPPL do nhà
nước ban hành và bảo đảm thực hiện, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh
trong quá trình thực hiện hoạt động QLNN về xã hội hóa các hoạt động y tế.
Để thực hiện chức năng điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong
quá trình thực hiện hoạt động QLNN về xã hội hóa các hoạt động y tế một cách
hiệu quả, pháp luật về xã hội hóa các hoạt động y tế phải được xây dựng dựa
trên những nguyên tắc cơ bản, bao gồm:
Thứ nhất, Nhà nước không can thiệp trực tiếp vào việc cung ứng các dịch

vụ y tế đã được xã hội hóa. Theo đó, sự quản lý của Nhà nước đối với việc cung
ứng dịch vụ y tế được thể hiện thông qua công cụ quản lý là các quy định của
pháp luật về xã hội hóa các hoạt động y tế. Từ chỗ trực tiếp can thiệp, điều hành


24

việc cung ứng dịch vụ y tế thông qua các biện pháp, mệnh lệnh hành chính, chỉ
tiêu, kế hoạch, đến nay Nhà nước ban hành các quy định pháp luật để điều
chỉnh, định hướng cách thức xử sự chung của mọi tổ chức, cá nhân tham gia
vào việc cung ứng các dịch vụ y tế theo yêu cầu của Nhà nước. Trên cơ sở các
quy định của pháp luật, mọi cá nhân, tổ chức tham gia cung ứng dịch vụ y tế
được làm tất cả những gì pháp luật cho phép hoặc không cấm. Như vậy, Nhà
nước từ chỗ trực tiếp can thiệp vào cung ứng dịch vụ y tế chuyển sang phương
thức quản lý mới thông qua công cụ pháp luật.
Thứ hai, pháp luật phải bảo đảm sự bình đẳng của mọi cá nhân, tổ chức
trong tham gia vào xã hội hóa các hoạt động y tế, bao gồm bình đẳng giữa các
cá nhân, tổ chức đầu tư thực hiện các dịch vụ y tế với nhau và bình đẳng giữa
các cá nhân, tổ chức cung cấp và hưởng thụ các dịch vụ y tế. Phương thức cung
cấp, chất lượng và giá cả các dịch vụ y tế cơ bản phải bảo đảm phù hợp với đa
số người dân và phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội đất nước. Mọi cơ sở y tế
đều có quyền và phải có trách nhiệm tiếp nhận yêu cầu về sử dụng dịch vụ y tế
của người dân phù hợp với các quy định của pháp luật. Bên cạnh đó, pháp luật
còn phải tạo cơ chế thuận lợi để đa dạng hóa các loại hình dịch vụ y tế phù hợp
với điều kiện và nhu cầu chính đáng của từng bộ phận dân cư bằng cách có
chính sách hỗ trợ cho các đối tượng mà điều kiện khách quan hoặc chủ quan có
thể bị hạn chế trong việc yêu cầu và hưởng thụ dịch vụ y tế hoặc tạo điều kiện
để cung ứng các dịch vụ y tế tiện nghi phù hợp với những đối tượng có điều
kiện kinh tế.
Thứ ba, pháp luật phải bảo đảm huy động được nhiều nhất nguồn lực

tham gia vào các hoạt động y tế. Để phát triển xã hội hóa hoạt động y tế, pháp
luật cần cho phép thành lập các cơ sở cung ứng dịch vụ theo các hình thức tổ
chức đa dạng, linh hoạt, vừa sức với khu vực y tế ngoài công lập; có chính sách
thu hút và cơ chế bảo vệ nhà đầu tư khi thực hiện đầu tư vào hoạt động y tế; tạo
thuận lợi cho cá nhân, tổ chức đầu tư, thực hiện các hoạt động y tế; bảo đảm


×