Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hiện công việc không có ủy quyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (480.41 KB, 68 trang )

NỘI – 2012
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀOHÀ
TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THI THU THỦY

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ
THỰC HIỆN CÔNG VIỆC KHÔNG CÓ ỦY QUYỀN

Chuyên ngành

: Luật dân sự

Mã số

: 60.38.30

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phùng Trung Tập

HÀ NỘI - 2012


LỜI CẢM ƠN

Để hoàn thành luận văn này, em xin tỏ lỏng biết ơn sâu sắc đến thầy


PGS. TS. Phùng Trung Tập, đã tận tình hướng dẫn em trong suốt quá trình
viết luận văn thạc sĩ.
Em chân thành cảm ơn quý thầy cô trong Khoa Sau đại học, trường Đại
học Luật Hà Nội đã tận tình truyền đạt kiến thức. Với vốn kiến thức được tiếp
thu trong quá trình học không chỉ là nền tảng cho quá trình nghiên cứu luận
văn mà còn là hành trang quý báu để em bước vào đời một cách vững chắc và
tự tin.
Cuối cùng, em xin kính chúc thầy cô dồi dào sức khỏe và thành công
trong sự nghiệp cao quý.

Hà Nội, ngày

tháng

Học viên

Nguyễn Thị Thu Thủy

năm 2012


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................... 1
Chương 1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỰC HIỆN CÔNG VIỆC
KHÔNG CÓ ỦY QUYỀN ............................................................................ 6
1.1

Khái niệm và đặc điểm của thực hiện công việc không có ủy quyền . 6

1.1.1 Khái niệm........................................................................................... 6

1.1.2

Đặc điểm của quan hệ thực hiện công việc không có ủy quyền.... 10

1.1.2.1. Đặc điểm chung ........................................................................... 11
1.1.2.2 Đặc điểm riêng ............................................................................ 13
1.2

Tiến trình hình thành và phát triển của pháp luật về thực hiện công

việc không có ủy quyền ............................................................................ 14
1.3

Quy định của một số nước trên thế giới về thực hiện công việc không

có ủy quyền...................................................................................................
........................................................................................................ 18
1.3.1

Pháp luật Nhật Bản ...................................................................... 19

1.3.2 Pháp Luật Pháp ............................................................................... 21
1.4

Điều kiện phát sinh nghĩa vụ thực hiện công việc không có ủy quyền .
........................................................................................................ 23

Chương 2 QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ THỰC HIỆN
CÔNG VIỆC KHÔNG CÓ ỦY QUYỀN .................................................. 29
2.1 Nghĩa vụ của người thực hiện công việc không có ủy quyền ............... 29

2.2 Nghĩa vụ của người có công việc được thực hiện ................................ 36
2.3 Trách nhiệm của người thực hiện công việc không ủy quyền .............. 38
2.3.1 Có thiệt hại xảy ra ............................................................................ 40
2.3.2 Hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật ................................. 42
2.3.3 Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại ... 43


2.3.4 Có lỗi của người gây ra thiệt hại ...................................................... 45
2.4 Chấm dứt thực hiện công việc không có ủy quyền .............................. 48
Chương 3 THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÔNG VIỆC KHÔNG CÓ ỦY
QUYỀN VÀ MỘT SỐ BẤT CẬP TRONG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT VỀ THỰC HIỆN CÔNG VIỆC KHÔNG CÓ ỦY QUYỀN ......... 50
3.1 Thực tiễn việc thực hiện công việc không có ủy quyền ....................... 50
3.1.1 Về nghĩa vụ thanh toán của người có nghĩa vụ được thực hiện ........ 50
3.1.2 Kết quả việc thực hiện công việc không có ủy quyền không như người
có công việc mong muốn. .......................................................................... 52
3.1.3 Thanh toán các chi phí hợp lý do người thực hiện công việc không có
ủy quyền đã bỏ ra...................................................................................... 54
3.2 Một số bất cập trong các quy định của pháp luật về thực hiện công việc
không có ủy quyền .................................................................................... 55
3.3 Phương hướng hoàn thiện các quy định của pháp luật ......................... 59
KẾT LUẬN ................................................................................................. 61
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 63


1

LỜI MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Xuất phát từ truyền thống đạo đức tốt đẹp của nhân dân nhằm tương

trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong những lúc khó khăn hoặc không tự mình thực hiện
được, trong xã hội rất nhiều người tự nguyện thực hiện công việc của người
khác mà hoàn toàn vì lợi ích của người đó. Trong đời sống hàng ngày, việc tự
nguyện thực hiện công việc vì lợi ích của người khác diễn ra khá phổ biến.
Đó là nét truyền thống đáng quý cần phát huy. Về vấn đề này được pháp luật
của các nước trên thế giới rất quan tâm và xây dựng thành chế định riêng Chế định thực hiện công việc không có ủy quyền. Xác định nghĩa vụ trong
quan hệ thực hiện công việc không có ủy quyền là phương thức chủ yếu để
điều chỉnh quan hệ của các bên. Điều chỉnh quan hệ là vấn đề khá phức tạp, vì
luôn liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên. Việc xác lập một
cơ chế điều chỉnh không phù hợp sẽ ảnh hưởng sự ổn định, phát triển quan hệ
thực hiện không có ủy quyền. Ngay cả trong pháp luật nền tảng La Mã đã quy
định về thực hiện công việc không có ủy quyền. Kế thừa và phát huy, trên cơ
sở quy định này thì pháp luật Việt Nam xây dựng thành một chế định quan
trọng của pháp pháp luật dân sự. Chế định thực hiện công việc không có ủy
quyền. Ngoài mục đích việc quy định và thực hiện chế định này nhằm phát
huy truyền thống tương thân tương ái quý báu của dân tộc còn là căn cứ pháp
lý chủ yếu Tòa án giải quyết các tranh chấp về thực hiện công việc không có
ủy quyền thấu tình đạt lý, đảm bảo sự nghiêm minh của pháp luật.
Góp phần nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật về thực hiện công
việc không có ủy quyền, đảm bảo cho quá trình giải quyết các tranh chấp về
nghĩa vụ và lợi ích của các bên được nhanh chóng, việc nắm vững các quy


2

định cơ bản về thực hiện công việc không có ủy quyền là yêu cầu thiết thực.
Đối với một số quốc gia, thì các quy định về thực hiện công việc không có ủy
quyền được nghiên cứu và tìm hiếu một cách toàn diện. Trước đây, việc
nghiên cứu về quan hệ thực hiện công việc không có ủy quyền ít được quan
tâm vì hệ thống pháp luật thực định hầu như không có. Chỉ sau khi nhà nước

ban hành Bộ luật Dân sự năm 1995, vấn đề thực hiện công việc không có ủy
quyền quy định khá đầy đủ trong pháp luật Việt Nam. Hoàn thiện chế định
trong Bộ luật Dân sự năm 2005. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về thực
hiện công việc không có ủy quyền cho đến nay chưa nhiều, đặc biệt những
công trình mang tính chất chuyên khảo và hệ thống. Điều đó ảnh hưởng đến
việc thực thi các quy định về thực hiện công việc không có ủy quyền, và đến
quá trình hoàn thiện chế định thực hiện công việc không có ủy quyền.
Xuất phát từ thực tiễn đó, tác giả cho rằng vấn đề về thực hiện công
việc không có ủy quyền và pháp luật thực hiện công việc không có ủy quyền
cần nghiên cứu một cách kỹ hơn. Do vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài: “ Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hiện công việc không có ủy quyền.”
2.Tình hình nghiên cứu
Thực hiện công việc không có ủy quyền là quan hệ phát sinh khá nhiều
trong đời sống xã hội. Việc quy định các quyền và nghĩa vụ của các bên là
phương thức cơ bản nhằm bảo đảm lợi ích của các bên. Trong Bộ luật Dân sự
Việt Nam, thực hiện công việc không có ủy quyền lần đầu tiên quy định thành
chế định pháp luật có tính hệ thống chặt chẽ. Điều đó khẳng định vai trò, ý
nghĩa của quan hệ thực hiện công việc không có ủy quyền trong đời sống
pháp luật. Trước khi có Bộ luật Dân sự năm 1995, hầu như chưa có công trình
nghiên cứu vấn đề thực hiện công việc không có ủy quyền. Sau khi Bộ luật
Dân sự năm 1995 và năm 2005, vấn đề thực hiện công việc không có ủy
quyền đã có một số công trình nghiên cứu: Thực hiện công việc công việc


3

không có ủy quyền được trình bày trong giáo trình luật dân sự Trường Đại
Học Luật Hà Nội. Ngoài ra, còn có bài nghiên cứu của Tiến Sỹ Phùng Trung
Tập: “ Nghĩa vụ của người thực hiện công việc không có ủy quyền” tác giả đã
đề cập đến nghĩa vụ của người thực hiện công việc không có ủy quyền. Tuy

nhiên, các công trình đó chưa nghiên cứu một cách có hệ thống về vấn đề
thực hiện công việc không có ủy quyền. Mặt khác, chưa có sự xem xét các
quy định của pháp luật với thực tiễn áp dụng nên việc thực thi các quy định
của pháp luật trong đời sống chưa cao, chưa đáp ứng được các nhu cầu thực
tiễn. Vì vậy, nghiên cứu vấn đề thực hiện công việc không có ủy quyền có ý
nghĩa quan trọng về lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
Chế định thực hiện công việc không có ủy quyền có vai trò và tầm quan
trọng trong cuộc sống, mục đích Luận văn là nghiên cứu, tìm hiểu, sáng tỏ
những vấn đề lý luận cơ bản về thực hiện công việc không có ủy quyền.
Nghiên cứu quy định của pháp luật Việt Nam về thực hiện công việc không
có ủy quyền. Về thực tiễn áp dụng các quy định thực hiện công việc không có
ủy quyền. Thông qua đó nhận thức một cách đầy đủ và toàn diện về thực hiện
công việc không có ủy quyền. Với giới hạn của đề tài là tìm hiểu một số vấn
đề lý luận và thực tiễn về thực hiện công việc không có ủy quyền. Mục đích
của Luận văn: Từ việc nghiên cứu lý luận về thực hiện công việc không có ủy
quyền, nội dung các quy định pháp luật, thực tiễn áp dụng các quy định này
nhằm hiểu biết và áp dụng các quy định một cách đứng đắn góp phần hoàn
thiện chế định này trong pháp luật Dân sự Việt Nam.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở phương pháp luận của toàn bộ Luận văn là dựa trên nền
tảng chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp


4

luật. Các phương pháp nghiên cứu được vận dụng như phương pháp nghiên
cứu lịch sử, phương pháp phân tích- tổng hợp, phương pháp so sánh…
5. Những đóng góp mới của Luận văn
Luận văn là sự tổng hợp tương đối toàn diện về thực hiện công việc

không có ủy quyền. Những vấn đề cơ bản về thực hiện công việc không có ủy
quyền đã được phân tích một cách có hệ thống. Phân tích đánh giá quy định
của pháp luật với quá trình hình thành và phát triển về thực hiện công việc
không có ủy quyền, qua đó nhận thức đứng đắn về nó và áp dụng các quy
định này trong cuộc sống. Đồng thời, đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện chế
định này.
6.

Cơ cấu bản Luận văn

Kết cấu của Luận văn gồm hai phần:
- Phần mở đầu: Sự cần thiết về nghiên cứu vấn đề thực hiện công việc
không có ủy quyền, tình hình cũng như mục đích nhiệm vụ,những đóng góp
mới của Luận văn.
- Phần nội dung: Gồm 3 chương cơ bản.
Chương 1: Khái quát chung về thực hiện công việc không có ủy quyền
Nội dung của chương này nhằm làm sáng tỏ những khái niệm cơ bản về
thực hiện công việc không có ủy quyền, bản chất pháp lý của việc thực hiện
công việc không có ủy quyền, tìm hiếu quá trình hình thành và phát triển của
chế định thực hiện công việc không có ủy quyền. Nghiên cứu pháp luật một
số quốc gia về thực hiện công việc không có ủy quyền. Kiến thức chương 1 là
nền tảng, cơ sở của chương 2


5

Chương 2: Quy định pháp luật hiện hành về thực hiện công việc không
có ủy quyền
Nội dung chính của chương 2 tìm hiểu các quy định hiện hành về thực
hiện công việc không có ủy quyền

Chương 3: Thực tiễn thực hiện công việc không có ủy quyền và một số
bất cập trong các quy định của pháp luật về thực hiện công việc không có ủy
quyền
Chương này, tác giả nêu ra một số ví dụ về thực hiện công việc không
có ủy quyền, nêu một số bất cập trong quy định pháp luật về thực hiện công
việc không có ủy quyền và đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn các
quy phạm pháp luật về thực hiện công việc không có ủy quyền.


6

Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỰC HIỆN CÔNG VIỆC KHÔNG CÓ
ỦY QUYỀN
1.1 Khái niệm và đặc điểm của thực hiện công việc không có ủy quyền
1.1.1 Khái niệm
Pháp luật La Mã và những thành tựu trong lĩnh vực xây dựng pháp luật La
Mã là một phần không thể thiếu của văn minh nhân loại. Quy định pháp luật
La Mã cho đến ngày nay vẫn được đánh giá rất cao về kỹ thuật xây dựng luật
pháp của các luật gia La Mã khá hoàn thiện khái niệm “luật dân sự” của La
Mã rộng hơn rất nhiều so với khái niệm luật dân sự Việt Nam bao gồm cả tố
tụng dân sự, hôn nhân gia đình. Luật dân sự La Mã bao gồm những chế định
khác nhau như sở hữu, hợp đồng, thừa kế, thực hiện công việc không có ủy
quyền... Trong đó việc thực hiện không có ủy quyền đã được pháp luật La
Mã quy định là một trong những căn cứ phát sinh nghĩa vụ thuộc dạng nghĩa
vụ ngoài hợp đồng theo đó một người thực hiện công việc của người khác vì
lợi ích của người đó mà không có sự ủy quyền của người có công việc.
Nghĩa vụ dân sự là một mối liên hệ pháp lý giữa các chủ thể. Mối liên hệ
này có thể được xác lập thông qua sự thỏa thuận của các bên trong quan hệ
nghĩa vụ hoặc có thể xác lập theo ý chí của Nhà Nước. Khi nghĩa vụ dân sự

được xác lập thông qua thỏa thuận của các chủ thể trong quan hệ nghĩa vụ sẽ
làm phát sinh nghĩa vụ theo hợp đồng. Đây là cơ sở pháp lý để một người
thực hiện một công việc hay chuyển giao một tài sản thông qua sự thỏa thuận
của người có công việc và người thực hiện công việc. Dù theo thỏa thuận
giữa hai bên hay theo quy định của pháp luật thì người có nghĩa vụ phải thực
hiện công việc đó. Khi một người không có nghĩa vụ mà tự nguyện thực hiện


7

công việc của người khác vì lợi ích của người có công việc thì pháp luật cần
phải thừa nhận, bảo vệ quyền lợi cho họ cho dù khi người thực hiện công việc
của người khác mà người có công việc không biết hoặc biết mà không phản
đối thì vẫn sẽ phát sinh một quan hệ nghĩa vụ. Đó là quan hệ thực hiện công
việc không có ủy quyền. Thực hiện công việc không có ủy quyền là hành vi
pháp lý đơn phương và nó là một quan hệ nghĩa vụ dân sự ngoài hợp đồng.
Bộ Luật Dân Sự năm 2005 đã quy định về thực hiện công việc không có ủy
quyền tại Chương XIX để điều chỉnh quan hệ này và cụ thể quy định từ Điều
594 đến Điều 598. Tại Điều 594 BLDS năm 2005 đã đưa ra khái niệm khá
đầy đủ về thực hiện công việc không có ủy quyền: “Thực hiện công việc
không có ủy quyền là việc một người không có nghĩa vụ thực hiện công việc
nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc đó, hoàn toàn vì lợi ích của người có
công việc được thực hiện khi người này không biết hoặc biết mà không phản
đối”.
Một người tự nguyện thực hiện công việc của người khác vì lợi ích của
người có công việc đã làm phát sinh nghĩa vụ của người đã thực hiện công
việc đó là phải thực hiện đến cùng và có gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt
hại. Chính hành vi tự nguyện ý chí của người không được ủy quyền thực hiện
công việc là căn cứ làm phát sinh quan hệ nghĩa vụ dân sự giữa người thực
hiện công việc với người được thực hiện công việc. Người thực hiện công

việc tự nguyện thực hiện công việc đem lại kết quả cho người được thực hiện
công việc. Ngược lại, người thực hiện công việc phải có nghĩa vụ thanh toán
các chi phí hợp lý mà người thực hiện công việc không có ủy quyền đã bỏ ra.
Từ điển Luật Học đưa ra khái niệm thực hiện công việc không có ủy
quyền:


8

“ Việc một người không có nghĩa vụ (pháp lý hay hợp đồng) thực hiện công
việc nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc đó, hoàn toàn vì lợi ích của
người có công việc được thực hiện khi người này không biết hoặc biết mà
không phản đối.
Theo quy định của pháp luật , người thực hiện công việc phải thực hiện
công việc phù hợp với khả năng và điều kiện của mình như của chính mình;
nếu biết hoặc đoán biết được ý định của người có công việc thì người thực
hiện công việc phải thực hiện phù hợp với ý định đó, nếu có thể phải báo cáo
cho người có công việc được thực hiện về quá trình thực hiện công việc và
giao kết quả cho người có công việc.
Người thực hiện công việc được thanh toán chi phí cho việc thực hiện
và được hưởng thù lao đồng thời phải bồi thường thiệt hại do lỗi cố ý và được
giảm mức bồi thường thiệt hại nếu do lỗi vô ý gây thiệt hại cho người có công
việc được thực hiện.”
Từ điển Luật Học giải thích tương đối hoàn chỉnh về khái niệm thực
hiện công việc không có ủy quyền cho ta cách nhìn đầy đủ về thực hiện công
việc không có ủy quyền .
Thực hiện công việc không có ủy quyền trên thực tế rất phong phú và
đa dạng. Theo Tiến sỹ Nguyễn Mạnh Bách, thực hiện công việc không có ủy
quyền xảy ra trong các trường hợp sau:
- Một người có thể thi hành nghĩa vụ thay cho người khác vì cho rằng

làm như thế sẽ có lợi cho người có công việc được thực hiện. Ví dụ: Một
người tự ý cấp dưỡng cho một đứa trẻ hay một người phụ nữ đã có chồng.
Trong trường hợp, A và B ly hôn, A nhận quyền nuôi con, B có nghĩa vụ cấp
dưỡng. Tuy nhiên, B không có việc làm nên không thể cấp dưỡng C con


9

chung của A và B. D là ông nội của C cấp dưỡng cho C và cho rằng việc làm
này có lợi cho B.Về mặt pháp luật, người này không có nghĩa vụ cấp dưỡng
cho C nhưng đã tự ý cấp dưỡng cho C , B cũng không ủy quyền cho ông nội
của C, tức là bố của mình cấp dưỡng cho C.
- Người làm việc tự cam kết cho chính mình nhưng để làm lợi cho người
khác. Ví dụ: B tự ký kết hợp đồng với D để sửa chữa nhà của A, tự mình bỏ
tiền ra để thanh toán các chi phí sửa chữa và nhằm làm lợi cho A mặc dù B
không có nghĩa vụ sửa chữa nhà cho A.
- Một người có thể làm một hành vi vì lợi ích của người khác.Ví dụ: một
người có thể dập tắt một đám cháy làm giảm rủi ro gây ra do hỏa hoạn cho
nhà một người khác, hoặc có thể thu hoạch hoa quả trong vườn giúp nhà hàng
xóm khi họ đi vắng.
Trong thực hiện công việc không có ủy quyền thì địa vị pháp lý của
người thực hiện công việc của người khác không có ủy quyền tương tự như
người được ủy quyền. Tuy nhiên, cũng có một số điểm khác với sự ủy quyền
là nếu như người được ủy quyền có quyền yêu cầu bên ủy quyền cung cấp
thông tin, tài liệu, phương tiện cần thiết để thực hiện công việc ủy quyền.
Trong khi thực hiện công việc không có ủy quyền thì người thực hiện công
việc tự coi đó là nghĩa vụ của mình, họ thực hiện một cách tự nguyện, tự giác
như thực hiện công việc của chính mình nhằm đem lại lợi ích cho người có
công việc được thực hiện. Họ phải tự mình tổ chức thực hiện công việc, tự chi
phí để thực hiện tốt công việc và được yêu cầu người có công việc được thực

hiện thanh toán các chi phí hợp lý.
Theo Điều 281 BLDS năm 2005 quy định về các căn cứ phát sinh
nghĩa vụ dân sự, thì thực hiện công việc không có ủy quyền là một trong
những căn cứ.


10

Căn cứ quy định này của pháp luật thì rõ ràng hành vi pháp lý đơn
phương và thực hiện công việc không có ủy quyền là hai căn cứ khác nhau
phát sinh nghĩa vụ. Thực hiện công việc không có ủy quyền về hình thức
giống hành vi pháp lý đơn phương. Nhưng, thực hiện công việc không có ủy
quyền phát sinh quan hệ nghĩa vụ đối với chủ thể được xác định. Hành vi
pháp lý chưa xác định chủ thể bên kia và có thể không hình thành quan hệ
nghĩa vụ.
Vậy, thực hiện công việc không có uỷ quyền là hành vi pháp lý đơn
phương của một người tự nguyện thực hiện công việc của người khác, hoàn
toàn vì lợi ích của người khác thì người thực hiện công việc phải thực hiện
công việc phù hợp với khả năng, điều kiện của mình và thực hiện công việc
như của chính mình cho đến khi chuyển giao công việc cho chủ của công việc
hoặc người thừa kế hoặc người đại diện của ngươì có công việc và được
hưởng thù lao khi thực hiện công việc chu đáo, có lợi cho người có công việc,
đồng thời có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho chủ của công việc trong
trường hợp có lỗi cố ý hoặc vô ý gây thiệt hại cho chủ của công việc.
1.1.2 Đặc điểm của quan hệ thực hiện công việc không có ủy quyền
Theo cách hiểu thông thường, nghĩa vụ dân sự là những gì mà một người
phải làm hoặc không được làm đối với một người khác. Tức là mối liên hệ
giữa hai hay nhiều người với nhau, trong đó một bên phải thực hiện những
hành vi nhất định. Như vậy, khi một người được xác định là có nghĩa vụ đối
với người khác thì họ buộc phải thực hiện một cách đầy đủ nếu họ không thực

hiện hoặc thực hiện không đầy đủ thì sẽ phát sinh trách nhiệm dân sự đối với
người có quyền. Nghĩa vụ không chỉ là xử sự giữa hai chủ thể với nhau trong
một quan hệ mà còn là sự ràng buộc pháp lý. Thực hiện công việc không có
ủy quyền là một trong những quan hệ phát sinh nghĩa vụ ngoài hợp đồng. Vì


11

vậy, quan hệ thực hiện công việc không có ủy quyền vừa mang những đặc
điểm chung của quan hệ nghĩa vụ vừa mang những đặc điểm riêng nhất định.
1.1.2.1. Đặc điểm chung
Thực hiện công việc không có ủy quyền mang đầy đủ đặc điểm của
nghĩa vụ dân sự
Thứ nhất, Nghĩa vụ dân sự là quan hệ pháp luật dân sự
Quan hệ pháp luật dân sự là đối tượng điều chỉnh của pháp luật Dân sự và
chịu sự tác động của các quy phạm pháp luật dân sự. Mà nghĩa vụ dân sự phát
sinh trên những sự kiện pháp luật quy định và dự liệu trước những hậu quả
pháp lý sẽ xảy ra. Những sự kiện này hình thành quan hệ giữa hai bên, quyền
và nghĩa vụ của họ được pháp luật thừa nhận và đảm bảo. Nghĩa vụ dân sự là
quan hệ pháp luật dân sự, có đầy đủ các yếu tố: Chủ thể, khách thể, nội dung
giữa hai bên.
Thứ hai, Nghĩa vụ dân sự là quan hệ tài sản. Đặc điểm này xuất phát từ
việc nghĩa vụ có thể trị giá được bằng tiền và sự tăng giảm tài sản của chủ thể
trong quan hệ nghĩa vụ. Khi thực hiện nghĩa vụ, kể cả là nghĩa vụ có đối
tượng là làm hoặc không được làm một việc, thì hành vi thực hiện nghĩa vụ
của chủ thể mang nghĩa vụ đều liên quan đến một lợi ích nhất định. Có thể có
sự dịch chuyển tài sản từ chủ thể này sang chủ thể khác hoặc có thể một chủ
thể được hưởng những lợi ích về tài sản. Quan hệ nghĩa vụ luôn là quan hệ tài
sản.
Thứ ba, Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể đối lập nhau

Trong quan hệ nghĩa vụ thì quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia và
ngược lại. Bên này có bao nhiêu quyền thì bên kia có bấy nhiêu nghĩa vụ
tương ứng. Thông thường, các chủ thể thực hiện đúng quyền, nghĩa vụ của


12

mình. Tuy nhiên, quan hệ nghĩa vụ khá đa dạng, có thể một chủ thể bên này
có quyền và một chủ thể bên kia mang nghĩa vụ hoặc một chủ thể mang
quyền đồng thời có nghĩa vụ nhất địnhvà chủ thể mang nghĩa vụ có những
quyền đối với chủ thể phía bên kia. Như vậy, Quyền và nghĩa vụ của các chủ
thể mang tính đối lập và tính tác động qua lại. Ngoài ra, pháp luật quy định
một trường hợp người thứ ba phải thực hiện nghĩa vụ. Ví dụ như: bố mẹ phải
bồi thường thiệt hại cho con chưa thành niên gây thiệt hại.
Thứ tư, quyền dân sự của các chủ thể là một quyền đối nhân.
Nếu trong quan hệ sở hữu, quyền của chủ sở hữu được thực hiện bằng
hành vi của chính họ thì đối với quan hệ nghĩa vụ thì quyền của chủ thể này
chỉ được thực hiện thông qua hành vi của chủ thể bên kia. Tức là quyền của
chủ thể bên này chỉ được thi hành đối với chủ thể bên kia mà không được thi
hành trên bất kỳ một tài sản nào. Chủ thể mang quyền chỉ có thể yêu cầu chủ
thể mang nghĩa vụ thực hiện nghĩa vụ. Không giống như việc thực hiện quyền
trong quan hệ sở hữu là người có quyền tác động trực tiếp đến vật, người có
quyền trong quan hệ nghĩa vụ không được tác động trực tiếp đến tài sản của
người mang nghĩa vụ. Quyền dân sự của các chủ thể là quyền đối nhân.
Quyền đối nhân có các đặc điểm về chủ thể và đối tượng khác nhau. Quyền
đối nhân có hai loại chủ thể: một bên chủ thể mang quyền và một bên chủ thể
mang nghĩa vụ. Họ là những người xác định trong quan hệ nghĩa vụ cụ thể mà
trong đó chủ thể mang quyền có quyền yêu cầu chủ thể mang nghĩa vụ phải
thi hành một nghĩa vụ nào đó; còn chủ thể mang nghĩa vụ phải thi hành nghĩa
vụ vì quyền lợi của chủ thể mang quyền. Đối tượng của quyền đối nhân có

năm đối tượng: chuyển giao vật, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có
giá, thực hiện công việc nào đó hoặc không thực hiện công việc nào đó. Trái
với khách thể là lợi ích mà các bên mong muốn đạt được trong hợp đồng, thì
đối tượng của nghĩa vụ là cái mà các bên tác động vào. Hơn nữa, quan hệ


13

nghĩa vụ rất đa dạng, một chủ thể mang quyền và một chủ thể mang nghĩa vụ,
có thể một chủ thể mang quyền đồng thời mang những nghĩa vụ. Nhưng trong
những quan hệ này, dù ở dạng nào thì quyền của chủ thể bên này chỉ có thể
đảm bảo thực hiện thông qua hành vi thực hiện nghĩa vụ của chủ thể bên kia.
Thứ năm, Nghĩa vụ dân sự là quan hệ pháp lý.
Nghĩa vụ dân sự là mối liên hệ pháp lý giữa các chủ thể. Ngay từ Bộ luật
Dân sự năm 1995 đã quy định về mối liên hệ pháp lý giữa các chủ thể hay là
sự ràng buộc giữa các chủ thể một cách rất rõ ràng: “…là việc mà theo quy
định của pháp luật…” đến Bộ luật Dân sự năm 2005 pháp luật giản lược quy
định cụ thể này. Tuy nhiên, sự ràng buộc pháp lý giữa các chủ thể tham gia
quan hệ vẫn được pháp luật quy định thông qua quy định căn cứ phát sinh
nghĩa vụ, quyền và nghĩa vụ của các bên, các biện pháp bảo đảm cho việc
thực hiện nghĩa vụ luôn phù hợp với ý chí của Nhà nước. Hơn nữa, mối liên
hệ pháp lý giữa các chủ thể luôn bảo đảm bằng các biện pháp cưỡng chế của
Nhà nước. Đó là sự cưỡng chế thi hành của pháp luật đối với nghĩa vụ.
1.1.2.2

Đặc điểm riêng

Thực hiện công việc không có ủy quyền có những đặc điểm riêng của
quan hệ nghĩa vụ ngoài hợp đồng.
Thứ nhất, người tự nguyện thực hiện công việc vì lợi ích của người có

công việc trong trường hợp người có công việc không biết hoặc biết mà
không phản đối đã làm phát sinh nghĩa vụ của người thực hiện công việc.
Nghĩa vụ của người thực hiện công việc không có uỷ quyền là nghĩa vụ ngoài
hợp đồng, phát sinh từ căn cứ một người tự nguyện thực hiện công việc của
người có công việc và hoàn toàn vì lợi ích của người có công việc. Như vậy,
hành vi thực hiện công việc không có uỷ quyền là căn cứ phát sinh nghĩa vụ
của người tự nguyện thực hiện công việc của người khác, hoàn toàn vì lợi ích


14

của người khác là một dạng “chuẩn khế ước” (coi như có hợp đồng), và là
hành vi hợp pháp, có tính chất của hành vi pháp lý đơn phương.
Thứ hai, quan hệ nghĩa vụ phát sinh từ hành vi thực hiện công việc
không có uỷ quyền là quan hệ nghĩa vụ có đặc điểm đền bù. Khoản đền bù là
khoản thù lao khi người thực hiện công việc không có uỷ quyền đã thực hiện
công việc chu đáo, có lợi cho bên có công việc. Tuy nhiên, nếu người thực
hiện công việc không có uỷ quyền từ chối nhận khoản thù lao do chủ của
công việc trả.
Thứ ba, hành vi của người thực hiện công việc không có uỷ quyền là
căn cứ phát sinh nghĩa vụ hoàn lại trong trường hợp người thực hiện công
việc không uỷ quyền đã chi phí hợp lý để thực hiện công việc không có uỷ
quyền vì lợi ích của người có công việc, kể cả trong trường hợp công việc
không đạt được kết quả theo ý muốn của người có công việc.
Thứ tư, hành vi thực hiện công việc không có uỷ quyền làm phát sinh
nghĩa vụ ngoài hợp đồng, vì vậy khi người thực hiện công việc không có uỷ
quyền có lỗi cố ý hoặc vô ý gây thiệt hại trong khi thực hiện công việc thì
người thực hiện công việc có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người có
công việc. Trách nhiệm bồi thường trong trường hợp này là trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Người thực hiện công việc không có uỷ

quyền có thể được giảm mức bồi thường trong trường hợp gây thiệt hại trong
khi thực hiện công việc mà có lỗi vô ý gây thiệt hại cho chủ cả công việc.
1.2

Tiến trình hình thành và phát triển của pháp luật về thực hiện
công việc không có ủy quyền

Trải qua mấy ngàn năm, Luật La Mã và chế định thực hiện công việc
không có ủy quyền là minh chứng cho quan điểm Luật La Mã là văn minh
nhân loại. Tất nhiên cho đến nay một số quy định không còn phù hợp nữa vì


15

điều kiện xã hội, kinh tế, chính trị của xã hội La Mã những năm trước đó
khác so với bây giờ. Rõ ràng, việc thực hiện công việc của một người khác
không có ủy quyền cũng đã tồn tại và được điều chỉnh.
Trong pháp luật La Mã, nghĩa vụ là những mối quan hệ giữa các bên trong
việc dịch chuyển tài sản. Theo Luật La Mã, nghĩa vụ phát sinh ra bởi các
nguồn gốc như hợp đồng, chuẩn hợp đồng, vi phạm, chuẩn vi phạm và các
nghĩa vụ pháp định.
Luật La Mã quy định bốn căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ:
- Nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng
- Nghĩa vụ do hành vi vi phạm tư pháp
- Nghĩa vụ phát sinh như từ hợp đồng ( Nghĩa vụ chuẩn khế ước)
- Nghĩa vụ phát sinh như từ vi phạm.( Nghĩa vụ chuẩn vi phạm)
Trong đó, điều hành công việc của người khác không có ủy quyền là
một dạng nghĩa vụ phát sinh như từ hợp đồng. Các luật gia La Mã áp dụng
tương tự như giữa các bên có ủy quyền - hợp đồng ủy quyền.
Luật La Mã thừa nhận thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ

phát sinh nghĩa vụ ngoài hợp đồng, một người thực hiện công việc vì lợi ích
của người khác mà không có sự ủy quyền thực hiện công việc. Việc thực hiện
công việc không có ủy quyền này nhằm ngăn chặn những thiệt hại có thể xảy
ra nếu người thực hiện công việc không thực hiện hoặc người chủ của công
việc không có điều kiện để thực hiện công việc.
Pháp luật La Mã quy định điều kiện phát sinh nghĩa vụ thực hiện công
việc không có ủy quyền:


16

- Thực hiện công việc của người khác bằng những hành vi pháp lý nhất
định hoặc là quan tâm đến tài sản và công việc của người khác nếu người
công việc không biết. Nếu người có công việc vẫn hiện diện nhưng trong điều
kiện không thể thực hiện được.
- Người thực hiện công việc không có nghĩa vụ phải thực hiện. Hành vi
này mang ý nghĩa đạo đức.
- Người thực hiện công việc không phải là làm thuê nên không được
đòi trả công. Việc yêu cầu trả công là không được phép.
- Người thực hiện công việc đã thực hiện công việc đó với ý định chi
phí của người có công việc dù tự họ có thể bỏ ra bằng các chi phí.
Pháp luật La Mã đã quy định quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan
hệ thực hiện công việc không có ủy quyền.
Người thực hiện công việc cũng đặc biệt quan tâm đến công việc như
công việc của chính mình. Vì vậy nếu hành vi này gây thiệt hại cho người có
công việc thì người thực hiện công việc phải hoàn toàn chịu trách nhiệm do
hành vi của mình gây ra. Hơn nữa, khi thực hiện công việc không có ủy
quyền hoàn thành người thực hiện công việc không có ủy quyền cũng phải có
nghĩa vụ thông báo cho người có công việc được thực hiện.
Pháp luật La Mã đã quy định chủ công việc phải thanh toán các chi phí

mà người thực hiện công việc đã bỏ ra. Các chi phí này là những chi phí cần
thiết cho việc thực hiện công việc, kể các các khoản chi phí không mang lại
lợi ích cho công việc. Quy định này pháp luật La Mã khá rõ ràng về “ chi phí
hợp lý” mà người thực hiện công việc đã bỏ ra.
Ngoài ra, người có công việc được thực hiện phải tiếp nhận công việc
được hoàn thành nếu công việc thực hiện đáp ứng đầy đủ điều kiện thực hiện


17

công việc không có ủy quyền, không được quyền từ chối thực hiện nghĩa vụ
của họ. Tuy nhiên, pháp luật La Mã đã để mở quy định, nếu người thực hiện
thấy công việc đã được thực hiện là không cần thiết, có quyền từ chối thực
hiện nghĩa vụ của mình nhưng phải đưa ra lý do từ chối. Để bảo đảm quyền
lợi người đã thực hiện công việc nếu người có công việc có lý do từ chối thực
hiện nghĩa vụ, người thực hiện có quyền yêu cầu trả những khoản lợi mà
người có công việc được hưởng.
Trong nhiều công trình nghiên cứu các học giả Việt Nam cũng đã tìm hiểu
về thực hiện công việc không có ủy quyền dù ở trong những cách quy định
khác nhau. Cụ thể trong cuốn “ Việt Nam dân luật lược khảo - Quyển 2:
Nghĩa vụ và khế ước”, Vũ Văn Mẫu đã xác định sự cam kết đơn phương hay
thực hiện công việc không có ủy quyền. Định nghĩa: “Sự cam kết đơn phương
là một hành vi pháp lý tạo lập ra một nghĩa vụ thúc buộc một người do ý chí
đơn phương của họ.” Định nghĩa này đã đưa ra nhằm phân biệt rõ rệt cam kết
đơn phương và hành vi pháp lý đơn phương. Chỉ có những hành vi pháp lý
tạo lập một nghĩa vụ mới được coi là cam kết đơn phương. Vì trong một số
trường hợp, hành vi pháp lý đơn phương không làm phát sinh bất kỳ một
nghĩa vụ nào giữa hai bên chủ thể. Ví dụ trong trường hợp này là chúc thư,
cũng là hành vi pháp lý đơn phương nhằm để lại di sản thừa kế cho những
người thừa kế, nhưng không làm phát sinh bất kỳ nghĩa vụ nào cả. Rõ ràng,

cam kết đơn phương khác hành vi pháp lý đơn phương.
Cam kết đơn phương cũng đã được phân biệt với khế ước đơn phương qua
cách định nghĩa của tác giả. Điểm giống nhau là cả hai đều tạo lập nghĩa vụ,
Tuy nhiên, trong khế ước đơn phương vẫn có tự thỏa thuận giữa hai bên chủ
thể, ví dụ trong khế ước cho vay, chỉ có một bên vay cam kết nghĩa vụ trả nợ.


18

Sự cam kết đơn phương là sự tự do ý chí của một bên, không hề có sự thỏa
thuận giữa các bên.
Cam kết đơn phương chỉ sự tự do ý chí của cá nhân tự ràng buộc mình vào
một nghĩa vụ và thỏa mãn điều kiện là người trái chủ phải ưng thuận. Vì nếu
nghĩa vụ chỉ có ý nghĩa khi có một trái chủ. Sự ưng thuận này làm cho cam
kết phát sinh ngay từ khi cá nhân tự do ý chí ràng buộc mình vào nghĩa vụ đó.
Từ rất sớm pháp luật Việt Nam đã ghi nhận sự cam kết đơn phương như là
thực hiện công việc không có ủy quyền trong pháp luật hiện nay.
Kế thừa và phát huy pháp luật nền tảng - Pháp luật La Mã, nghiên cứu các
học giả Việt Nam, Bộ Luật Dân sự năm 1995 đã quy định thực hiện công việc
không có ủy quyền thành một chương riêng biệt, quy định tương đối đầy đủ
về vấn đề này. Sau đó, Bộ luật Dân sự năm 2005, quy định về thực hiện công
việc giữ tính ổn định nên đã giữ nguyên chế định này.
1.3

Quy định của một số nước trên thế giới về thực hiện công việc
không có ủy quyền

Nghĩa vụ được phát sinh trên những sự kiện khác nhau mà pháp luật thừa
nhận. Trong pháp luật La Mã, theo căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ thì nghĩa vụ
chủ yếu được phát sinh từ hợp đồng và nghĩa vụ phát sinh từ hành vi vi phạm

pháp luật. Đây là hai căn cứ quan trọng, phổ biến nhất trong pháp luật La Mã.
Tuy nhiên, do sự phức tạp của các quan hệ xã hội cũng như sự phát triển kinh
tế xã hội thì các luật gia La Mã còn xác định những nghĩa vụ phát sinh từ
những căn cứ không thuộc hợp đồng cũng như hành vi vi phạm (các căn cứ
khác). Một trong những trường hợp đó là thực hiện công việc không có sự uỷ
quyền. Rõ ràng, chế định pháp lý này đã được pháp luật La Mã quy định và
cũng là quy định tiến bộ giúp nền pháp lý sau này kế thừa và phát triển. Pháp


19

luật của từng quốc gia dựa trên nền tảng này để xây dựng và hoàn thiện chế
định về thực hiện công việc không có uỷ quyền của nước mình.
Ngay từ thời La Mã cổ đại chế định thực hiện công việc không có ủy
quyền đã được quy định. Pháp luật của rất nhiều các quốc gia kế thừa và phát
huy các quy định về thực hiện công việc không có ủy quyền của luật La Mã
cổ đại làm nền tảng ghi nhận và thể chế hóa thành các quy định pháp luật
nhằm điều chỉnh quan hệ thực hiện công việc không có ủy quyền. Trong
phạm vi nghiên cứu đề tài , nghiên cứu pháp luật một số quốc gia so sánh,
hoàn thiện các quy định pháp luật Việt Nam. Điển hình: pháp luật Nhật Bản,
Pháp luật Pháp.
1.3.1 Pháp luật Nhật Bản
Là công cụ điều chỉnh các quan hệ chủ yếu về tài sản, pháp luật dân sự
nói chung bộ luật dân sự Nhật Bản nói riêng đóng vai trò quan trọng đối với
sự phát triển kinh tế xã hội Nhật Bản. Đặc biệt nước ta cần nghiên cứu nền
kinh tế và hệ thống pháp luật của các nước có nền kinh tế phát triển như Nhật
Bản góp phần xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật dân sự nước mình. Một
trong những chế định khá quan trọng là tiến hành công việc của người khác
không có ủy quyền cũng được pháp luật Nhật bản quy định tương đối đầy đủ.
Khái niệm tiến hành công việc của người khác không có ủy quyền theo

pháp luật Nhật Bản có thể hiểu là một người thực hiện quản lý điều hành công
việc của người khác mà không được người đó ủy quyền. Pháp luật đã thừa
nhận việc thực hiện công việc của người khác với thiện chí tốt. Ngoài ra,
trong một số trường hợp, việc tiến hành công việc của người khác là cần thiết
như người phát hiện ra những người gặp nạn trên biển hoặc tàu gặp nạn phải


20

tiến hành việc giúp đỡ tương ứng, điều đó được coi là nghĩa vụ tiến hành công
việc của người khác không có ủy quyền.
Cụ thể tại điều 697 Bộ luật Dân sự Nhật Bản quy định: “ Một người
tiến hành điều hành công việc nhân danh người khác mà không có nghĩa vụ
làm việc đó phải điều hành bằng phương cách có lợi nhất cho thân chủ căn cứ
vào bản chất của công việc.
Nếu người điều hành biết ý đồ của thân chủ hoặc ở trong trạng thái biết
điều này thông qua sự suy luận thì phải tiến hành việc điều hành phù hợp ý đồ
của thân chủ”
Và tại điều 700 Bộ luật Dân sự Nhật Bản: “ Người quản lý phải tiếp tục
việc điều hành cho đến khi thân chủ, người thừa kế hoặc người đại diện hợp
pháp của người đó đã ở trong trạng thái sẵn sàng để điều hành công việc; song
điều này không áp dụng nếu rõ ràng rằng việc tiếp tục như vậy sẽ chống lại ý
muốn của thân chủ hoặc tổn hại đến quyền lợi của người đó.”
Bộ luật Dân sự đã thừa nhận quyền của người tiến hành công việc của
người khác không có ủy quyền được tiếp tục thực hiện công việc đó phù hợp
với lợi ích của người có công việc được thực hiện. Còn những chi phí mà
người tiến hành công việc của người khác đã bỏ ra sẽ được người có quyền
thanh toán lại. Tuy nhiên, tại Điều 650, Điểu 702 Bộ luật Dân sự Nhật Bản
quy định người tiến hành công việc của người khác sẽ không có quyền yêu
cầu thanh toán lãi suất đối với những chi phí và thiệt hại mà người đó bỏ ra

với những chi phí và thiệt hại mà người đó đã bỏ ra và gánh chịu trong khi
thực hiện công việc của người khác. Hơn nữa, việc tiến hành công việc của
người khác phải có lợi cho người có quyền đối với công việc mà không được
trái với ý nguyện của người đó. Nếu người thực hiện công việc nhận thấy tiếp
tục thực hiện công việc trái với ý nguyện của người có thẩm quyền đối với


21

công việc hoặc không đem lại lợi ích cho người đó thì phải chấm dứt việc tiến
hành công việc. Quy định này nhằm đảm bảo việc thực hiện công việc luôn
luôn mang lại lợi ích cho người có công việc hoặc ít nhất đúng ý nguyện của
họ.
Pháp luật Nhật Bản và Pháp luật Việt Nam khá nhiều điểm tương đồng
về chế định này. Những điều kiện xác định việc tiến hành công việc của người
khác không có ủy quyền. Trước hết phải là việc bắt đầu tiến hành công việc
của người khác mà không có nghĩa vụ tương ứng. Bao gồm cả trường hợp
người tiến hành công việc không có nghĩa vụ với người có công việc được
tiến hành, nhưng họ lại được giao nghĩa vụ của người thứ ba. Việc thực hiện
công việc của người khác phải được thực hiện vì lợi ích của người đó. Việc
tiến hành công việc của người khác không được trái với ý nguyện. Ý nguyện
nay không được trái với trật tự công cộng và đạo đức xã hội. Ví dụ: Việc một
người ngăn người khác có ý định tử tự dù trái với ý nguyện của người tự tử
thì vẫn được coi là tiến hành công việc không có ủy quyền.
Tuy nhiên Điều 702 Bộ luật Dân sự Nhật Bản quy định về trách nhiệm
của người có quyền đối với công việc phải hoàn trả cho người tiến hành công
việc, ngoài ra còn giới hạn trách nhiệm của người có quyền đối với công việc
trong trường hợp người tiến hành công việc trái với ý nguyện của người có
quyền và chỉ áp dụng trách nhiệm khi mà người có quyền thu được lợi. Pháp
Luật Việt Nam nên có những quy định cụ thể về trường hợp này như pháp

luật Nhật Bản.
1.3.2 Pháp Luật Pháp
Chế định thực hiện công việc không có ủy quyền trong pháp luật Pháp
quy định tại Thiên IV về những cam kết hình thành không thông qua thỏa
thuận. Cụ thể tại Điều 1370 Bộ luật Dân sự Pháp:


×