Tải bản đầy đủ (.pdf) (77 trang)

Vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (962.26 KB, 77 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ TƢ PHÁP
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LÊ THỊ THU LAN

VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ XỬ PHẠT
VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC
BẢO HIỂM XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Luật Hành chính
Mã số: 603820

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN:
TS. NGUYỄN THỊ THỦY

HÀ NỘI, 2012


LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo TS. Nguyễn Thị Thủy,
Giảng viên khoa Hành chính - Nhà nước, trường Đại học Luật Hà Nội,
người đã trực tiếp hướng dẫn, tận tình chỉ bảo, giúp đỡ tôi hoàn thành luận
văn này.
Tôi cũng gửi lời cảm ơn tới các thầy, cô giáo Khoa Hành chính - Nhà
nước, trường Đại học Luật Hà Nội đã nhiệt tình giảng dạy, truyền đạt
những kiến thức quý báu cho tôi và chân thành cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp
và gia đình đã giúp đỡ và tạo điều kiện để tôi hoàn thành bản luận văn này.
Tác giả luận văn
Lê Thị Thu Lan




DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BHXH

Bảo hiểm xã hội

BHYT

Bảo hiểm y tế

UBND

Ủy ban nhân dân


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................... 1
Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬNVỀ VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ
XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC BHXH ....... 8
1.1. Vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH ..................................................8
1.1.1. Khái niệm:.......................................................................................................8
1.1.2. Các yếu tố cấu thành vi phạm hành chính về BHXH:.............................. 10
1.1.3. Phân loại vi phạm hành chính lĩnh vực BHXH .........................................14
1.1.4. Đặc thù của vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH: .........................15
1.2.

Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH ................................ 16


1.2.1. Khái niệm:.....................................................................................................16
1.2.2. Các nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính ............................................18
1.2.3. Đặc thù của xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH ............19
Chƣơng 2:THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP
LUẬT VỀ VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH
CHÍNH TRONG LĨNH VỰC BHXH Ở NƢỚC TA HIỆN NAY ......... 22
2.1.

Lịch sử hình thành và phát triển của pháp luật vi phạm hành chính và

xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH: ...........................................22
2.2. Thực trạng quy định của pháp luật về hành vi vi phạm hành chính trong
lĩnh vực BHXH ........................................................................................................24
2.2.1. Các hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH ..........................24
2.2.2. Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH ................................ 28
2.3.

Thực trạng vi phạm pháp luật và xử phạt vi phạm pháp luật về BHXH

bắt buộc ....................................................................................................................34
2.3.1. Tình hình vi phạm pháp luật về BHXH ......................................................34
2.3.2. Thực tiễn xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH .................46
Chƣơng 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ
XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC BHXH ...... 52
3.1. Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về vi phạm hành chính và xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH ............................................................... 52


3.1.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện pháp luật về vi phạm hành chính và xử phạt

vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH........................................................... 52
3.1.2. Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về vi phạm hành chính và xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH ............................................................... 56
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về vi phạm hành chính và xử phạt vi
phạm hành chính lĩnh vực BHXH. ........................................................................57
3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về vi phạm hành chính và xử phạt vi
phạm hành chính lĩnh vực BHXH .........................................................................57
3.3.2. Giải pháp nhằm hoàn thiện tổ chức thực hiện pháp luật vi phạm hành
chính và xử phạt vi phạm hành chính lĩnh vực BHXH. ......................................65
PHẦN KẾT LUẬN ........................................ 69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...........................


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo Tổ chức Lao động quốc tế (International Labour Organization - ILO):
Bảo hiểm xã hội là sự bảo vệ của xã hội đối với người lao động thông qua việc huy
động các nguồn đóng góp để trợ cấp cho họ nhằm khắc phục những khó khăn về
kinh tế - xã hội do bị ngưng hoặc giảm thu nhập gây ra, bởi ốm đau, thai sản, tai
nạn, thất nghiệp, mất khả năng lao động, tuổi già, chết. Đồng thời đảm bảo chăm
sóc y tế và trợ cấp cho thân nhân người lao động và gia đình, góp phần đảm bảo an
toàn xã hội. Là một hình thức bảo hiểm với mục đích xã hội, phi lợi nhuận, BHXH
không chỉ đáp ứng nhu cầu phát triển và phù hợp với xu hướng chung của thời đại,
mà còn thể hiện tính ưu việt, bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa. Với
chiến lược phát triển là hướng tới mục tiêu vì con người, coi con người là vị trí
trung tâm, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển, Đảng và Nhà nước ta
đã hết sức quan tâm đến chế độ BHXH với tư cách là một chính sách xã hội rộng
lớn nhằm góp phần đảm bảo ổn định xã hội, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và tăng

trưởng kinh tế. Điều này đã được ghi nhận trong Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam (1959): “Người lao động có quyền được giúp đỡ về vật chất khi
già yếu, bệnh tật, hoặc mất sức lao động. Nhà nước mở rộng dần các tổ chức
BHXH, cứu tế và y tế để đảm bảo cho người lao động được hưởng điều đó”. Và tiếp
tục được khẳng định qua các kỳ Đại hội Đảng, như Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
X, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, điều này một lần nữa lại được khẳng định
“Phát triển hệ thống an sinh xã hội đa dạng, ngày càng mở rộng và hiệu quả. Phát
triển mạnh hệ thống bảo hiểm như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm
tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp… Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để
người lao động tiếp cận và tham gia các loại hình bảo hiểm”[8,Tr125].
Sau hơn 15 năm xây dựng và phát triển ngành BHXH đã có những đóng góp
không nhỏ vào việc ổn định trật tự xã hội và thúc đẩy kinh tế phát triển với độ bao
phủ rộng khắp tới mọi tầng lớp, người dân trong xã hội có tham gia hoặc không
tham gia vào quan hệ lao động. Với số người tham gia BHXH là 2,85 triệu người
vào đầu năm 1995 (năm thực hiện cải cách BHXH), đến cuối năm 2006 là 6,7 triệu,
năm 2008 (sau 2 năm thực hiện Luật BHXH) là 8,527 triệu và đến ngày 31/8/2011


2

(sau gần 5 năm thực hiện Luật BHXH) số người tham gia BHXH bắt buộc là trên
9,8 triệu người trong tổng số người tham gia BHXH và BHYT là xấp xỉ 54,8 triệu
người. Tỷ lệ thuận với số người tham gia đóng BHXH, BHYT số người thụ hưởng
từ chính sách BHXH, BHYT cũng tăng lên đáng kể. Trong 5 năm từ 2007 đến
2011, cơ quan BHXH đã tiếp nhận và giải quyết chế độ BHXH bắt buộc cho trên
600.000 người hưởng lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng; trên 2,4 triệu người
hưởng trợ cấp BHXH một lần; trên 20 triệu lượt người hưởng chế độ ốm đau, thai
sản, dưỡng sức- phục hồi sức khỏe; đã giải quyết cho trên 22.500 người hưởng
BHXH tự nguyện; trên 180.000 người hưởng bảo hiểm thất nghiệp [4]. Như vậy, có
thể nói đây là chính sách mang lại lợi ích cụ thể, lợi ích vật chất đối với những

người tham gia quan hệ BHXH. Tuy nhiên, chính sách BHXH cũng như các chính
sách xã hội khác nếu không được kiểm soát chặt chẽ với những chế tài phù hợp thì
rất dễ bị lạm dụng. Luật BHXH được ban hành năm 2006 đã tạo ra một bước ngoặt
lớn trong việc thực thi chính sách BHXH, chấm dứt thời kỳ thực hiện BHXH dựa
trên những văn bản dưới luật. Mặc dù đã có luật điều chỉnh và có các quy định về vi
phạm hành chính cùng các hình thức xử phạt vi phạm hành chính, nhưng đến nay,
chúng ta gần như vẫn chưa thể kìm chế được các hành vi vi phạm ở các mức độ
khác nhau. Thực tế đã cho thấy vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH đang gia
tăng nhanh chóng trong đời sống xã hội hiện nay. Tình trạng này có nhiều nguyên
nhân khác nhau, mà một trong những nguyên nhân đó là sự chưa hoàn thiện của hệ
thống pháp luật về BHXH, đó là những hạn chế, vướng mắc trong tổ chức thực hiện
pháp luật BHXH nhất là về vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực này.
Muốn hoạt động BHXH đạt hiệu quả cao, thực sự là một trong những chính
sách xã hội cơ bản của quốc gia hướng vào phát triển con người, làm giảm thiểu
nguy cơ gây bất ổn cho xã hội, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển
bền vững đất nước thì việc nghiên cứu một cách có hệ thống, phân tích thực trạng
hành vi vi phạm hành chính và quy định về xử phạt vi phạm hành chính lĩnh vực
BHXH nhằm đề xuất một số giải pháp hạn chế tình trạng lạm dụng BHXH là hết
sức cần thiết. Xuất phát từ lý do này tác giả lựa chọn nghiên cứu đề tµi : “Vi
phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH ở Việt
Nam hiện nay”.


3

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính nói chung và ở các lĩnh
vực nói riêng không còn là một vấn đề mới mẻ, đã có rất nhiều công trình nghiên
cứu về vấn đề này. Có thể kể tên một số công trình nghiên cứu tiêu biểu trong thời

gian gần đây:
Luận văn thạc sỹ luật học “Hoàn thiện chế định thẩm quyền xử lý vi phạm
hành chính” của tác giả Nguyễn Thị Thủy, Trường Đại học Luật Hà Nội (2001) đi
sâu phân tích thực trạng pháp luật về thẩm quyền của các chủ thể được xử lý vi
phạm hành chính và nêu ra giải pháp hoàn thiện pháp luật về thẩm quyền xử lý vi
phạm hành chính;
Luận văn thạc sỹ luật học “Hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực hải quan ở nước ta hiện nay” của tác giả Kim Long Biên, Viện
Nhà nước và pháp luật phối hợp đào tạo với Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh
(2007) nghiên cứu thực trạng pháp luật xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
hải quan, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực này;
Luận văn thạc sỹ luật học “Pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực bảo vệ môi trường” của tác giả Phan Thị Tố Uyên, Trường Đại học Luật
Hà Nội (2011) nghiên cứu thực trạng pháp luật xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực môi trường ở Việt Nam từ đó đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp luật trong
lĩnh vực này.
Ngoài ra còn có những bài viết nghiên cứu về nội dung này trên tạp chí Luật học,
chẳng hạn: “Một số vấn đề hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính”
của tác giả Lê Vương Long; “Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính” của tác giả Bùi
Thị Đào; “Hệ thống chế tài xử phạt vi phạm hành chính - Những bất cập, hạn chế và
phương hướng hoàn thiện” của tác giả Bùi Xuân Đức...
Những nghiên cứu trên đây chủ yếu là về xử phạt vi phạm hành chính; trên cơ sở
phân tích lý luận và thực tiễn có liên quan, các tác giả đã giới thiệu, phân tích, đánh
giá về pháp luật và thực tiễn hoạt động xử phạt vi phạm hành chính, đồng thời đưa
ra những giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính nói


4


chung hoặc ở một số lĩnh vực quản lý nhà nước khác mà không đề cập đến vấn đề
vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH.
Đối với lĩnh vực BHXH, việc nghiên cứu được đưa ra trong thời gian khoảng
15 năm trở lại đây, với không nhiều đề tài nghiên cứu trong lĩnh vực này. Ví dụ:
Luận án phó tiến sỹ Luật học: “Hoàn thiện chế độ BHXH ở Việt Nam- lý luận và
thực tiễn” của tác giả Nguyễn Huy Ban, Trường Đại học Luật Hà Nội (1994); Luận
văn thạc sỹ “Tăng cường quản lý nhà nước trong lĩnh vực BHXH” của tác giả Trần
Xuân Vinh, Học viện Hành chính quốc gia (2000); Luận văn thạc sỹ “Hoàn thiện
hệ thống pháp luật về thu, chi BHXH” của tác giả Đỗ Trần Mai Thương, Viện Nhà
nước và Pháp luật (2004). Gần đây nhất là luận văn thạc sỹ luật học “Vi phạm pháp
luật trong đóng và hưởng BHXH” của tác giả Vũ Thị Hồng Minh (2011), Viện Nhà
nước và Pháp luật phối hợp đào tạo với Khoa Luật - Đại học quốc gia Thành phố
Hồ Chí Minh. Ở phạm vi hẹp là một số bài viết về tình hình thu và vi phạm về thu
BHXH hoặc những gian lận trong hưởng BHXH ở các địa phương được đăng tải
trên tạp chí BHXH và các website...
Các luận án, luận văn nêu trên tập trung nghiên cứu về chế độ chính sách
BHXH, trên cơ sở đó đề cập đến phương hướng hoàn thiện chế độ chính sách
BHXH; phân tích những vướng mắc, bất cập trong quá trình tổ chức thực hiện sự
nghiệp BHXH và đề xuất những giải pháp nhằm tăng cường quản lý nhà nước trong
lĩnh vực này ở giai đoạn trước khi Luật BHXH ra đời. Riêng luận văn thạc sỹ luật
học của tác giả Vũ Thị Hồng Minh đã đề cập đến hiện tượng vi phạm pháp luật về
đóng và hưởng BHXH (bao gồm cả BHXH, BHYT và bảo hiểm thất nghiệp).
Thông qua việc phân tích lý luận và thực tiễn có liên quan, tác giả đã đánh giá về
pháp luật BHXH và những vi phạm pháp luật nói chung nảy sinh trong quá trình
thực hiện quan hệ đóng - hưởng BHXH.
Như vậy, có thể nói chưa có đề tài luận văn, luận án nào đi sâu nghiên cứu về
vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH. Do vậy,
luận văn sẽ tập trung nghiên cứu vấn đề này với mong muốn cung cấp các luận cứ
khoa học và thực tiễn cho việc hoàn thiện pháp luật vi phạm hành chính và xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH nhằm nâng cao hiệu quả công tác đấu

tranh phòng, chống vi phạm trong lĩnh vực BHXH.


5

3. Phạm vi nghiên cứu đề tài:
Vì BHXH là một lĩnh vực rộng bao gồm BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện,
BHYT và bảo hiểm thất nghiệp liên quan trực tiếp đến đời sống trong suốt cuộc đời
người lao động (từ khi họ bắt đầu làm việc đến khi hết tuổi lao động và đến lúc
chết). Trong khuôn khổ đề tài này, tác giả đi sâu và làm rõ các hành vi vi phạm
hành chính và xử phạt vi phạm hành chính trong tổ chức thực hiện chính sách về
BHXH bắt buộc.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu đề tài:
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của lý thuyết hệ thống,
chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng, các quan điểm của Đảng
và Nhà nước về BHXH và vi phạm hành chính, xử phạt vi phạm hành chính lĩnh
vực BHXH để phân tích, đánh giá tính khả thi của các quy phạm pháp luật trong
thực tiễn thực hiện, những định hướng cho các giải pháp nhằm thực hiện tốt pháp
luật về vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH;
tìm hiểu về quá trình hình thành và phát triển của pháp luật vi phạm hành chính và
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH.
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu luận văn còn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu sau:
Phương pháp phân tích và so sánh được sử dụng nhằm làm sáng tỏ các vấn
đề về lý luận và thực tiễn liên quan đến hành vi vi phạm hành chính và xử phạt vi
phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH.
Phương pháp thống kê tổng hợp số liệu để đánh giá thực trạng vi phạm và dự
báo về hành vi vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
BHXH.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài

Mục đích quan trọng mà đề tài hướng tới trên cơ sở nghiên cứu lý luận về vi
phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính, thực trạng về hành vi vi phạm
hành chính và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH, phân tích các
nguyên nhân, điều kiện dẫn đến những hành vi vi phạm và những hạn chế, bất cập
trong xử phạt vi phạm hành chính về BHXH hiện hành. Từ đó, nghiên cứu, đề xuất
hệ thống giải pháp nâng cao hiệu quả của quản lý nhà nước về vi phạm hành chính


6

và xử phạt vi phạm hành chính lĩnh vực BHXH nhằm đảm bảo an sinh xã hội trước
những yêu cầu và thách thức mới trong công cuộc cải cách nền hành chính hiện nay.
Để đạt được mục đích nêu trên, đề tài có nhiệm vụ giải quyết các vấn đề sau:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận về hành vi vi phạm hành chính về BHXH,
xử phạt vi phạm hành chính cũng như những quy định của pháp luật hiện hành về vi
phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH.
- Phân tích thực trạng vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực BHXH ở Việt Nam hiện nay.
- Phân tích các nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, bất cập trong xác định
hành vi vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính về BHXH.
- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vi phạm hành chính
và xử phạt vi phạm hành chính lĩnh vực BHXH.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của đề tài
Trong thời gian qua đã có rất nhiều đề tài, luận văn nghiên cứu về pháp luật
xử phạt vi phạm hành chính, tuy nhiên đây là một công trình khoa học nghiên cứu
pháp luật một cách tương đối toàn diện và hệ thống về hành vi vi phạm hành chính
và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH.
Trên cơ sở đánh giá một cách có hệ thống về pháp luật vi phạm hành chính
và xử phạt vi phạm hành chính lĩnh vực BHXH, chỉ rõ được những bất cập trong
các quy định của pháp luật và tìm ra được những hạn chế trong thực tiễn áp dụng.

Từ đó, đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vi phạm hành chính và
xử phạt vi phạm hành chính về BHXH. Các kết quả nghiên cứu và một số kiến nghị của
đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo tại các cơ sở đào tạo và nghiên cứu về luật
học, các cơ quan xây dựng pháp luật khi nghiên cứu nhằm sửa đổi bổ sung, hoàn thiện pháp
luật BHXH nói chung và hoàn thiện các quy định về vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm
hành chính về BHXH nói riêng.
7.

Bố cục của đề tài
Ngoài Phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được

kết cấu gồm 3 chương như sau:


7

Chương I: Một số vấn đề lý luận về vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực BHXH;
Chương II: Thực trạng pháp luật và thực tiễn thi hành pháp luật về vi phạm hành
chính và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH ở Việt Nam hiện nay;
Chương III: Hoàn thiện pháp luật về vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực BHXH.


8

CHƢƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬNVỀ VI PHẠM HÀNH CHÍNH
VÀ XỬ PHẠT VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC BHXH
1.1.


Vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH

1.1.1. Khái niệm:
Vi phạm hành chính là một loại vi phạm pháp luật xảy ra khá phổ biến trong
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy mức độ nguy hiểm thấp hơn tội phạm
nhưng vi phạm hành chính cũng là hành vi gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại
cho lợi ích của nhà nước, tập thể, lợi ích cá nhân cũng như của toàn thể cộng đồng.
Nếu không được ngăn chặn, xử lý kịp thời thì vi phạm hành chính sẽ là nguyên
nhân dẫn tới tình trạng phạm tội nảy sinh.
Việc nghiên cứu về khái niệm vi phạm hành chính vừa có ý nghĩa lý luận
quan trọng vừa mang tính thực tiễn sâu sắc. Bởi lẽ, chỉ khi định nghĩa đúng về hành
vi vi phạm hành chính mới có thể xác định được các vi phạm cụ thể trong từng lĩnh
vực quản lý nhà nước. Xác định được đúng hành vi vi phạm hành chính (tức là xác
định đúng cơ sở xử phạt) từ đó việc thực hiện xử phạt hành chính mới đúng đắn,
mới đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, của tổ chức và cá nhân,
phát huy được hiệu quả và mục đích của việc xử phạt vi phạm hành chính là nhằm
lập lại trật tự quản lý nhà nước bị xâm hại, góp phần giáo dục người vi phạm và
cảnh báo, phòng ngừa vi phạm trong tương lai, tránh được sự tùy tiện trong xử phạt
hành chính.
Theo Từ điển pháp luật, vi phạm pháp luật theo nghĩa rộng là các việc sai,
trái pháp luật nói chung. Theo nghĩa hẹp là các việc sai, trái pháp luật chưa cấu
thành tội phạm và thường được gọi là vi phạm hành chính.
Trong thực tiễn thi hành và áp dụng pháp luật hiện nay, vi phạm hành chính
thường được hiểu một cách chung nhất là hành vi vi phạm các quy tắc quản lý của
nhà nước nhưng không phải là tội phạm và bị xử lý theo thủ tục hành chính mà
không viện đến Tòa án và các thủ tục tư pháp.
Trong pháp luật Việt Nam, khái niệm “vi phạm hành chính” lần đầu tiên
được định nghĩa một cách chính thức tại Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm
1989: vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện một cách cố ý

hoặc vô ý, xâm phạm quy tắc quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm hình sự


9

và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính. Định nghĩa này cho
chúng ta thấy được các dấu hiệu pháp lý cơ bản của vi phạm hành chính là: hành vi,
tính trái pháp luật của hành vi, lỗi, và bị xử phạt hành chính. Ngoài mặt khách quan
và mặt chủ quan thể hiện qua các dấu hiệu trên, định nghĩa này cũng đề cập đến yếu
tố chủ thể của cấu thành pháp lý của vi phạm hành chính. Đến Pháp lệnh xử lý vi
phạm hành chính 1995 và Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính 2002 thì khái niệm
vi phạm hành chính không được định nghĩa riêng biệt nữa mà được suy ra từ khái
niệm xử phạt vi phạm hành chính: Xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối
với cá nhân, cơ quan, tổ chức (sau đây gọi chung là cá nhân, tổ chức) có hành vi cố
ý hoặc vô ý vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải
là tội phạm và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành chính. Chúng ta có
thể thấy định nghĩa về vi phạm hành chính trong các Pháp lệnh về xử phạt/xử lý vi
phạm hành chính năm 1989, 1995, 2002 tuy có khác nhau về ngôn ngữ thể hiện
nhưng về bản chất là giống nhau.
Như vậy, vi phạm hành chính là hành vi do cá nhân, tổ chức thực hiện với lỗi
cố ý hoặc vô ý, vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không
phải là tội phạm và theo quy định của pháp luật bị xử phạt vi phạm hành chính
[10,Tr317]
Với mục đích nhằm giảm thiểu tác động của các rủi ro mà người lao động
thường phải đối mặt có thể làm cho tiền lương hàng tháng của họ bị gián đoạn hoặc
chấm dứt cũng như làm phát sinh chi phí về chăm sóc y tế, tìm kiếm việc làm... ảnh
hưởng tới thu nhập người lao động nói riêng và tới đời sống xã hội nói chung,
BHXH đã ra đời với việc quy định trách nhiệm đóng góp của người sử dụng lao
động kết hợp với dự phòng cá nhân có sự chia sẻ lẫn nhau dưới sự tổ chức, quản lý
của nhà nước. Đây là biện pháp hiệu quả để khắc phục hậu quả của các rủi ro đối

với người lao động và ngày càng có ý nghĩa quan trọng trong chính sách xã hội của
các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên ở đâu có quyền lợi thì ở đó rất dễ nảy sinh các
hành vi vi phạm, BHXH cũng là lĩnh vực không nằm ngoài quy luật này, nhất là
BHXH có liên quan trực tiếp và lâu dài tới đời sống của người lao động.
Căn cứ vào tính chất, phạm vi của hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực
BHXH; căn cứ vào định nghĩa về vi phạm hành chính, có thể định nghĩa về vi phạm
hành chính trong lĩnh vực BHXH như sau: Vi phạm hành chính trong lĩnh vực


10

BHXH là hành vi do cá nhân hoặc cơ quan, tổ chức thực hiện một cách cố ý hoặc
vô ý, xâm hại đến những quan hệ BHXH phát sinh trong quá trình thực hiện các quy
định của pháp luật BHXH mà theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt vi phạm
hành chính.
1.1.2. Các yếu tố cấu thành vi phạm hành chính về BHXH:
Giống như bất kỳ loại vi phạm pháp luật nào, vi phạm hành chính nói chung
và vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH nói riêng đều được cấu thành bởi 4
yếu tố: khách quan, chủ quan, chủ thể và khách thể.
Khách quan
Mặt khách quan của vi phạm hành chính bao gồm các dấu hiệu: hành vi, tính trái
pháp luật của hành vi, hậu quả gây thiệt hại mà hành vi gây ra cho xã hội, quan hệ
nhân quả, thời gian, địa điểm, phương tiện vi phạm…
Bất kỳ một hiện tượng nào cũng có hình thức biểu hiện của nó, vi phạm hành
chính có hình thức biểu hiện là hành vi. Không có hành vi thì không có vi phạm
pháp luật nói chung và vi phạm hành chính nói riêng. Hành vi vi phạm hành chính
có thể biểu hiện dưới hình thức hành động hoặc không hành động. Vi phạm hành
chính là hành vi có tính chất trái pháp luật thể hiện ở chỗ hành vi đó được thực hiện
ngược lại với yêu cầu của quy phạm pháp luật. Nói cách khác, đó là những hành vi
xâm phạm những quy định pháp luật nói chung được chế định trách nhiệm hành

chính bảo vệ. Cụ thể hơn, đó là hành động bị pháp luật hành chính cấm, hoặc không
thực hiện hay thực hiện không đúng hành động mà pháp luật hành chính buộc phải
thực hiện.
Khi vi phạm hành chính đã xảy ra hậu quả, cần xem xét mối liên hệ nhân quả
giữa hành vi vi phạm hành chính và hậu quả của hành vi. Khi xem xét mặt khách
quan của vi phạm hành chính trong những vụ việc cụ thể cần tính đến một số yếu tố
như thời gian, địa điểm, hoàn cảnh, phương tiện vi phạm.
Cũng như các hành vi vi phạm hành chính ở các lĩnh vực khác, yếu tố mặt khách
quan của hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH gồm trước hết là các
hành vi vi phạm và hậu quả cho xã hội mà hành vi vi phạm gây ra hoặc đe doạ gây
ra. Hành vi của vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH tương đối đa dạng tuy
nhiên có thể chia thành hai nhóm như sau:


11

Nhóm hành vi vi phạm trực tiếp các quy định làm nảy sinh sự kiện BHXH.
Bao gồm các hành vi vi phạm trực tiếp quy định về đóng và hưởng BHXH.
Các hành vi vi phạm quy định đóng BHXH như: Không đóng BHXH cho toàn bộ
số lao động, đóng không đủ số người thuộc diện phải đóng BHXH bắt buộc, chậm
đóng BHXH và hành vi đóng BHXH không đúng mức quy định. Nhóm hành vi này
gây thiệt hại trước hết là thiệt hại về tài chính cho quỹ BHXH, nguy hiểm hơn,
nhóm hành vi này xâm hại đến quyền được hưởng các chế độ BHXH của người lao
động cả ở hiện tại và trong tương lai.
Nhóm hành vi vi phạm các quy định về hưởng các chế độ BHXH gồm các
hành vi gian lận để được hưởng chế độ BHXH thể hiện bằng các hành vi: Kê khai
không đúng sự thật, sửa chữa, tẩy xóa hồ sơ, làm giả (một phần hoặc toàn bộ) hồ sơ
hưởng chế độ BHXH. Các loại hành vi này đều vi phạm quy định về hưởng BHXH,
gây thiệt hại về tài chính cho quỹ BHXH.
Nhóm các hành vi vi phạm liên quan đến tổ chức, hoạt động BHXH.

Thuộc về nhóm này có thể là những hành vi sau: Hành vi của người quản lý
trong hệ thống BHXH cố ý chiếm đoạt hoặc để người khác chiếm đoạt tiền của hệ
thống BHXH; hành vi của người có chức vụ, quyền hạn trong hệ thống BHXH, hệ
thống y tế, hệ thống cơ quan lao động cố ý giải quyết sai hoặc lạm dụng chính sách
của Nhà nước liên quan đến BHXH để trục lợi; hành vi của người có chức vụ,
quyền hạn trong hệ thống BHXH, cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý
và đầu tư quỹ BHXH.
Xét về hậu quả, hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH đều xâm
hại đến quan hệ BHXH, gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước (trong việc đảm bảo
an sinh xã hội), quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động (qua việc đóng và
hưởng BHXH). Về hình thức, hậu quả của những hành vi này có thể thể hiện dưới
dạng là thiệt hại trực tiếp về vật chất cho quỹ BHXH và thiệt hại gián tiếp cho
người lao động và cho xã hội. Đối với quỹ BHXH, thiệt hại vật chất được thể hiện
dưới dạng bị chiếm đoạt, bị thất thu (không thu được hoặc thu không đủ) hay bị thất
thoát. Đối với người lao động, thiệt hại vật chất có thể là những thiệt hại bị đe doạ
gây ra đối với lợi ích trước mắt như các quyền được hưởng chế độ ốm đau, thai sản,
tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp, chế độ BHYT, chế độ bảo hiểm thất


12

nghiệp... và những quyền lợi lâu dài mà người lao động được hưởng khi hết tuổi lao
động như quyền được hưởng lương hưu và chế độ tử tuất.
Khách thể
Khách thể của vi phạm pháp luật là cái mà hành vi vi phạm đó xâm hại.
Khách thể của vi phạm hành chính là những quan hệ xã hội được các quy phạm
pháp luật hành chính bảo vệ. Khách thể là yếu tố quan trọng quy định tính chất,
mức độ nguy hiểm của hành vi trái pháp luật. Khách thể của vi phạm hành chính rất
đa dạng. Đó là trật tự quản lý hành chính nhà nước , quyền sở hữu, quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân... Như vậy, khách thể của vi phạm hành chính không chỉ là

trật tự quản lý nếu hiểu theo nghĩa hẹp của các khái niệm đó. Mặt khác, không phải
toàn bộ các quan hệ quản lý nhà nước là khách thể của vi phạm hành chính, mà chỉ
những quan hệ được bảo vệ bởi trách nhiệm hành chính trong số đó mà thôi.
Dấu hiệu khách thể để nhận biết về vi phạm hành chính trong lĩnh vực
BHXH là hành vi vi phạm đã xâm hại đến quan hệ BHXH, được pháp luật hành
chính và pháp luật BHXH bảo vệ. Nói cách khác, vi phạm hành chính trong lĩnh
vực BHXH là hành vi trái với các quy định của pháp luật về quản lý nhà nước trong
lĩnh vực BHXH, được quy định phải bị xử phạt hành chính trong các văn bản pháp
luật, cụ thể là Nghị định của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực BHXH hoặc các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan. Quan hệ
BHXH bao gồm: Các quan hệ làm nảy sinh sự kiện bảo hiểm (quan hệ đóng, hưởng
BHXH); mối quan hệ về quản lý BHXH (quan hệ giữa cơ quan BHXH với các đơn
vị, doanh nghiệp; quan hệ giữa cơ quan tổ chức thực hiện BHXH với các cơ quan,
đơn vị quản lý nhà nước về BHXH.
Chủ thể
Chủ thể của vi phạm hành chính là cá nhân hay tổ chức có năng lực trách
nhiệm hành chính đã thực hiện hành vi vi phạm hành chính. Pháp luật hành chính
quy định chỉ truy cứu trách nhiệm hành chính đối với những cá nhân có năng lực
hành vi pháp luật hành chính. Người có năng lực hành vi pháp luật hành chính là
người có khả năng nhận thức được tính chất nguy hại cho xã hội của hành vi, hậu
quả của hành vi và điều khiển được hành vi đó. Những người hành động trong tình
thế cấp thiết, phòng vệ chính đáng và sự kiện bất ngờ, hoặc không có khả năng nhận
thức, điều khiển hành vi của mình thì không phải chịu trách nhiệm hành chính,


13

nghĩa là không bị xử phạt vi phạm hành chính. Các chủ thể phải chịu trách nhiệm
hành chính gồm: Cá nhân và tổ chức theo quy định tại Pháp lệnh xử lý vi phạm
hành chính.

Tương tự như vậy, chủ thể thực hiện hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh
vực BHXH có thể là cá nhân, tổ chức có năng lực chịu trách nhiệm hành chính theo
quy định của pháp luật hành chính và pháp luật BHXH. Có thể chia thành 2 nhóm
chủ thể là cá nhân và chủ thể là pháp nhân.
Nhóm chủ thể là cá nhân: Theo quy định của Luật BHXH thuộc về nhóm này
bao gồm công dân Việt Nam làm việc theo hợp đồng lao động không xác định thời
hạn, hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ ba tháng trở lên; cán bộ, công chức, viên
chức có hành vi vi phạm cụ thể trong lĩnh vực BHXH; có thể là những người có
chức vụ, quyền hạn nhất định trong hệ thống BHXH, hệ thống các bệnh viện có ký
hợp đồng khám chữa bệnh BHYT hay trong Hội đồng giám định y khoa các cấp (có
trách nhiệm khám và kết luận về mức suy giảm khả năng lao động cho người lao
động để hưởng BHXH)… Những hành vi vi phạm hành chính mà cá nhân thực hiện
trong lĩnh vực BHXH chủ yếu bao gồm: Các hành vi vi phạm quy định về hưởng
BHXH và các hành vi vi phạm liên quan đến tổ chức, hoạt động BHXH.
Nhóm chủ thể là pháp nhân: Thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc
được quy định tại Điều 2 Luật BHXH bao gồm: Cơ quan nhà nước; đơn vị sự
nghiệp; đơn vị vũ trang nhân dân; tổ chức chính trị; tổ chức chính trị - xã hội; tổ
chức chính trị xã hội - nghề nghiệp; tổ chức xã hội - nghề nghiệp; tổ chức xã hội
khác; cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt
Nam; doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác ... có
thuê mướn, sử dụng và trả công cho người lao động và các cơ quan, tổ chức khác
theo quy định của Luật BHXH có liên quan đến hoạt động quản lý về BHXH.
Hành vi vi phạm hành chính mà nhóm này thực hiện chủ yếu là hành vi vi
phạm các quy định về đóng BHXH và hoạt động quản lý BHXH.
Chủ quan
Mặt chủ quan của vi phạm hành chính thể hiện ở yếu tố lỗi của người vi
phạm. Lỗi là dấu hiệu pháp lý bắt buộc của vi phạm hành chính. Cần phân biệt hành
vi trái pháp luật với vi phạm pháp luật, nếu chưa xác định yếu tố chủ quan: Thái độ,
động cơ, ý chí của người vi phạm đối với hành vi của họ và đối với hậu quả của



14

hành vi. Có hai hình thức là lỗi cố ý và lỗi vô ý. Lỗi cố ý thể hiện ở việc người có
hành vi vi phạm hành chính nhận thức được tính chất nguy hại cho xã hội của hành
vi nhưng vẫn thực hiện hoặc để mặc cho hậu quả hành vi đó xảy ra. Lỗi vô ý thể
hiện ở việc người có hành vi vi phạm hành chính không biết hoặc không nhận thức
được hành vi trái pháp luật mặc dù cần phải biết và nhận thức được, hoặc nhận thức
được nhưng cho rằng có thể ngăn ngừa được hậu quả.
Trong mặt chủ quan của nhiều vi phạm hành chính, yếu tố động cơ, mục đích
vi phạm cũng được tính đến khi xem xét để quyết định các hình thức và mức xử
phạt cụ thể. Khi xem xét, đánh giá một hành vi trái pháp luật có phải là vi phạm
hành chính hay không, cần xem xét đầy đủ các dấu hiệu, yếu tố cấu thành pháp lý
của vi phạm, từ đó có thể xác định là vi phạm gì để chọn chế tài đúng.
Không nằm ngoài những dấu hiệu trên, trong lĩnh vực BHXH, dấu hiệu nhận
biết về mặt chủ quan của hành vi vi phạm hành chính chính là yếu tố lỗi gồm lỗi cố
ý và lỗi vô ý của chủ thể vi phạm. Lỗi cố ý trong hành vi vi phạm hành chính về
BHXH thể hiện ở sự cố tình vi phạm khi nhận biết được rằng hành vi trốn đóng
BHXH, chậm đóng BHXH hoặc giả mạo giấy tờ để hưởng chế độ BHXH ...là hành
vi trái với quy định của Luật BHXH. Tuy nhiên vì lợi ích của doanh nghiệp hoặc lợi
ích của bản thân, các doanh nghiệp và cá nhân này đã cố tình vi phạm. Hoặc là lỗi
vô ý, không biết rằng hành vi cấp giấy chứng nhận nghỉ ốm, hay sửa chữa, tẩy xóa
hồ sơ để hưởng chế độ BHXH ....của mình là trái quy định của Luật BHXH hoặc sẽ
gây nên những hậu quả đối với quỹ BHXH, đối với quyền hưởng chế độ BHXH ...
Ngoài dấu hiệu bắt buộc là lỗi, ở một số trường hợp cụ thể, pháp luật còn xác
định dấu hiệu bắt buộc của một số loại hành vi trong vi phạm hành chính lĩnh vực
BHXH. Ví dụ, khoản 8 điều 10 Nghị định số 38/CP ngày 25/6/1996 của Chính phủ
quy định về xử phạt vi phạm hành chính về hành vi vi phạm pháp luật về lao động
là hành vi gian lận, lừa dối để hưởng chế độ BHXH. Như vậy, hành vi vi phạm ở
đây phải nhằm mục đích hưởng các chế độ BHXH chứ không để hưởng chế độ nào

khác.
1.1.3. Phân loại vi phạm hành chính lĩnh vực BHXH
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH có thể được phân loại theo nhiều tiêu chí
khác nhau:


15

- Căn cứ vào quan hệ đóng, hưởng và phương thức thực hiện BHXH có thể chia
thành 3 loại:
+ Hành vi vi phạm về nghĩa vụ đóng BHXH;
+ Hành vi vi phạm về điều kiện hưởng BHXH;
+ Hành vi vi phạm trong quản lý hoạt động BHXH.
- Căn cứ vào nội dung các chế độ BHXH, có thể phân loại vi phạm hành chính
trong lĩnh vực BHXH thành các loại sau:
+ Hành vi vi phạm chế độ ốm đau;
+ Hành vi vi phạm chế độ thai sản;
+ Hành vi vi phạm chế độ tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp;
+ Hành vi vi phạm chế độ hưu trí;
+ Hành vi vi phạm chế độ tử tuất;
+ Hành vi vi phạm chế độ bảo hiểm thất nghiệp;
+ Hành vi vi phạm chế độ BHYT...
-

Căn cứ vào địa vị pháp lý của chủ thể vi phạm có thể chia thành 3 loại:
+ Hành vi vi phạm do người sử dụng lao động thực hiện;
+ Hành vi vi phạm do người lao động thực hiện;
+ Hành vi vi phạm do tổ chức BHXH và các tổ chức khác vi phạm.

-


Căn cứ chủ thể thực hiện vi phạm, gồm có các hành vi:
+ Hành vi vi phạm do cá nhân thực hiện;
+ Hành vi vi phạm do pháp nhân thực hiện.

1.1.4. Đặc thù của vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH:
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH mang những nét đặc trưng của vi
phạm hành chính nói chung tuy nhiên nó cũng mang những nét đặc thù riêng có của
mình.
Thứ nhất: Vi phạm hành chính lĩnh vực BHXH là những vi phạm liên quan chủ yếu
đến đóng và hưởng các chế độ BHXH.
BHXH thuộc quan hệ lao động, người lao động tham gia BHXH nhất là
BHXH bắt buộc, BHXH tự nguyện và bảo hiểm thất nghiệp được hưởng lợi từ
chính sách BHXH dựa trên nguyên tắc đóng - hưởng. Nói cách khác bản chất của
BHXH chính là quan hệ đóng - hưởng. Trước hết đó là phần đóng góp của người sử
dụng lao động, người lao động và sự đóng góp hoặc hỗ trợ của nhà nước trong một


16

số trường hợp. Người lao động đóng BHXH để bảo hiểm cho chính mình trên cơ sở
trích một phần từ tiền lương/ thu nhập nhận được trong quá trình lao động. Người
sử dụng lao động hàng tháng trích từ quỹ lương của đơn vị/ doanh nghiệp để đóng
vào quỹ BHXH cho tổng số lao động mà đơn vị/ doanh nghiệp đó thuê mướn. Khi
có những rủi ro xảy ra làm giảm hoặc mất tiền lương/ thu nhập, người lao động
được nhận khoản trợ cấp đảm bảo cho mức sống tối thiểu do cơ quan BHXH trả.
Người lao động phải tham gia đóng BHXH thì mới có quyền được hưởng chế độ
BHXH theo quy định của Luật BHXH. Nguyên tắc “đóng- hưởng” có vị trí quan
trọng đối với việc hình thành, tồn tại quỹ BHXH nói riêng và hệ thống an sinh xã
hội của Việt Nam nói chung trong nền kinh tế thị trường. Có đóng góp mới hình

thành được quỹ, càng nhiều người đóng góp, phạm vi tham gia BHXH ngày càng
mở rộng. Đóng góp càng cao, thụ hưởng càng cao và càng nhiều người đóng góp,
mức đóng góp cao thì quỹ BHXH càng có tính bền vững, đảm bảo cho hệ thống
BHXH, hệ thống an sinh ngày càng phát triển.
Thứ hai: Chủ thể của các hành vi vi phạm hành chính về BHXH là những đối tượng
tham gia quan hệ lao động hoặc được hưởng lợi từ chính sách BHXH của nhà nước
và các cá nhân, tổ chức có thẩm quyền trong hoạt động BHXH theo quy định của
pháp luật. Vì BHXH bắt nguồn từ quan hệ lao động do vậy, phần lớn nếu không nói
là tuyệt đại đa số các hành vi vi phạm hành chính về BHXH đều do các chủ thể
tham gia quan hệ lao động thực hiện (người lao động, người sử dụng lao động).
Thứ ba: Những thiệt hại mà hành vi vi phạm hành chính về BHXH gây ra đó là sự
mất ổn định đời sống người lao động, ảnh hưởng đến bảo toàn và cân đối quỹ
BHXH, làm giảm sút lòng tin của người lao động vào chính sách an sinh xã hội của
Đảng và Nhà nước. Vì BHXH đóng vai trò là trụ cột chính trong hệ thống chính
sách an sinh xã hội, bao gồm các chế độ đãi ngộ có liên quan trực tiếp đến đời sống
của người lao động và kéo dài từ lúc người lao động bắt đầu có quan hệ lao động
cho đến lúc chấm dứt quan hệ lao động, thậm chí đến lúc chết.
1.2. Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực Bảo hiểm xã hội
1.2.1. Khái niệm:
Trong những năm vừa qua, cùng với sự phát triển nhanh chóng của đời sống
kinh tế xã hội thì tình trạng vi phạm hành chính cũng ngày càng diễn ra phổ biến và
đa dạng về hình thức biểu hiện, gây ảnh hướng lớn đến an ninh trật tự an toàn xã hội


17

và sự phát triển nói chung, ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước trên mọi lĩnh
vực. Trước thực trạng vi phạm hành chính diễn ra hết sức phổ biến và đa dạng,
phức tạp như vậy, nhà nước ta đã dần hoàn thiện thể chế pháp lý về xử phạt vi phạm
hành chính, đồng thời kiện toàn bộ máy xử phạt vi phạm hành chính bao gồm cả

con người, trang thiết bị phương tiện và những vấn đề liên quan nhằm đáp ứng hữu
hiệu yêu cầu hiện nay.
Theo từ điển pháp luật, xử phạt vi phạm hành chính là hành vi của cơ quan
nhà nước, nhà chức trách có thẩm quyền áp dụng chế tài hành chính để xử lý đối
với các hành vi vi phạm pháp luật không thuộc phạm vi các tội hình sự đã được quy
định trong Bộ luật hình sự, và do các cá nhân, cơ quan hay tổ chức thực hiện một
cách cố ý hoặc vô ý. Các cơ quan có thẩm quyền xử phạt hành chính gồm có:
UBND các cấp, cơ quan cảnh sát, bộ đội biên phòng, hải quan, kiểm lâm, thuế vụ,
quản lý thị trường. Những cá nhân có quyền ra quyết định xử phạt hành chính là thủ
trưởng các cơ quan nói trên và cán bộ, chiến sĩ cảnh sát nhân dân, bộ đội biên
phòng, nhân viên hải quan, kiểm lâm, thuế vụ, thanh tra viên thực hiện chức năng
thanh tra nhà nước chuyên ngành đang thi hành công vụ theo các hình thức xử phạt
hành chính do luật định.
Hoạt động xử phạt vi phạm hành chính chủ yếu do các cơ quan quản lý nhà
nước có thẩm quyền theo quy định của pháp luật và do đó được áp dụng theo thủ
tục hành chính do các quy phạm thủ tục hành chính quy định.Vì vi phạm hành chính
là những vi phạm nhỏ và phổ biến nên việc xử phạt vi phạm hành chính không theo
thủ tục tư pháp như đối với truy cứu trách nhiệm hình sự và trách nhiệm dân sự, mà
theo thủ tục hành chính và chủ yếu do các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền
thực hiện. Tuy nhiên, không phải bất kỳ cơ quan quản lý nhà nước nào cũng có
thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính mà chỉ có một số cơ quan nhất định trong
số đó được nhà nước trao quyền hạn này. Hoạt động xử phạt vi phạm hành chính,
cũng như việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính (bao gồm: các hình
thức xử phạt vi phạm hành chính, các biện pháp khắc phục hậu quả, các biện pháp
ngăn chặn vi phạm và đảm bảo việc xử phạt vi phạm hành chính...), nằm ngoài hoạt
động xét xử của Tòa án.
Như vậy, hoạt động xử phạt vi phạm hành chính chỉ có thể diễn ra khi có vi
phạm hành chính và đây là một hoạt động cưỡng chế mang tính quyền lực nhà



18

nước. Hoạt động này là việc áp dụng các hình thức xử phạt và các biện pháp cưỡng
chế hành chính đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính. Nói cách khác, thực
chất của xử phạt vi phạm hành chính là việc áp dụng các chế tài xử phạt hành chính
và các biện pháp cưỡng chế hành chính khác do cơ quan nhà nước, người có thẩm
quyền tiến hành đối với cá nhân, tổ chức vi phạm hành chính theo quy định của
pháp luật.
Từ những phân tích trên, có thể định nghĩa xử phạt vi phạm hành chính là:
Việc các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền áp dụng những biện pháp cưỡng
chế hành chính (gồm các hình thức xử phạt vi phạm hành chính; các biện pháp
khắc phục hậu quả; các biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và đảm bảo việc
xử phạt vi phạm hành chính) đối với những cá nhân, tổ chức thực hiện vi phạm
hành chính nhằm đảm bảo trật tự và kỷ luật trong quản lý nhà nước, theo thủ tục do
pháp luật quy định.
Tương tự như vậy, có thể hiểu xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH
là: Việc các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền áp dụng những biện pháp
cưỡng chế hành chính (gồm các hình thức xử phạt vi phạm hành chính; các biện
pháp khắc phục hậu quả; các biện pháp ngăn chặn vi phạm hành chính và đảm bảo
việc xử phạt vi phạm hành chính) đối với những cá nhân, tổ chức thực hiện vi phạm
hành chính trong lĩnh vực BHXH nhằm đảm bảo trật tự và kỷ luật trong quản lý nhà
nước về BHXH, theo thủ tục do pháp luật quy định.
1.2.2. Các nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính
Các nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính là những tư tưởng chỉ đạo, định
hướng cho toàn bộ quá trình xử phạt vi phạm hành chính. Các nguyên tắc này được
quy định trong Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002, bao gồm:
Các nguyên tắc chung
- Nguyên tắc pháp chế: Pháp chế là nguyên tắc hiến định được áp dụng trong tổ
chức và hoạt động của mọi cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội, trong hành vi của
công dân. Trong lĩnh vực xử phạt vi phạm hành chính nội dung nguyên tắc này thể

hiện ở chỗ cá nhân, tổ chức chỉ bị xử phạt hành chính khi có vi phạm hành chính do
pháp luật quy định; việc xử lý vi phạm hành chính phải do người có thẩm quyền
tiến hành theo đúng quy định của pháp luật.


19

- Nguyên tắc mọi vi phạm hành chính phải được phát hiện kịp thời, xử lý công
minh, nhanh chóng theo đúng pháp luật . Nguyên tắc này đòi hỏi các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền phải phản ứng mau lẹ với các hành vi vi phạm hành chính, tuân
theo nghiêm ngặt những quy định về thời hiệu xử phạt và thực hiện quyết định xử
phạt một cách khách quan, xử lý đúng người, đúng vi phạm, không thiên vị; chỉ
được chọn các chế tài, biện pháp xử lý đã được pháp luật quy định.
- Việc xử phạt vi phạm hành chính phải căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm, nhân
thân người vi phạm và những tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng để quyết định hình thức,
biện pháp xử lý thích hợp.
- Không xử phạt vi phạm hành chính trong các trường hợp thuộc tình thế cấp thiết,
phòng vệ chính đáng, sự kiện bất ngờ hoặc vi phạm hành chính trong khi đang mắc
bệnh tâm thần hoặc các bệnh khác làm mất khả năng nhận thức hoặc khả năng điều
khiển hành vi của mình.
Các nguyên tắc kỹ thuật:
- Một hành vi vi phạm hành chính chỉ bị xử phạt hành chính một lần;
- Nhiều người cùng thực hiện một hành vi vi phạm hành chính thì mỗi người vi
phạm đều bị xử phạt;
- Một người thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành chính thì bị xử phạt về từng hành
vi vi phạm.
Là một lĩnh vực thuộc nhà nước quản lý, xử phạt vi phạm hành chính lĩnh vực
BHXH cũng mang đầy đủ những nguyên tắc xử phạt vi phạm hành chính như đã
nêu trên.
1.2.3. Đặc thù của xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH

Ngoài những đặc điểm chung giống như xử phạt vi phạm hành chính trong
các lĩnh vực khác là:
- Được thực hiện trên cơ sở có vi phạm hành chính xảy ra;
- Do các chủ thể có thẩm quyền theo quy định của pháp luật thực hiện;
- Nội dung cơ bản của hoạt động xử phạt vi phạm hành chính là xem xét,
đánh giá tính chất mức độ vi phạm và quyết định hình thức, mức độ xử phạt;
- Được thực hiện theo trình tự, thủ tục được pháp luật quy định.


20

Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH có những đặc thù gắn liền
với những đặc thù của loại hành vi vi phạm này như đã phân tích ở phần trên, cụ
thể:
Một là: Do hành vi vi phạm hành chính là những vi phạm liên quan chủ yếu đến các
quan hệ làm phát sinh sự kiện bảo hiểm đó là quan hệ đóng và hưởng các chế độ
BHXH. Vì vậy, cơ sở để xử phạt vi phạm hành chính lĩnh vực BHXH chủ yếu là
những hành vi vi phạm quan hệ đóng và hưởng BHXH. Bao gồm hệ thống các mức
xử phạt đối với các hành vi không đóng BHXH, đóng không đủ số người thuộc diện
phải tham gia BHXH bắt buộc, chậm đóng, đóng không đúng mức quy định hoặc
gian lận (sửa chữa, tẩy xóa, làm giả một phần hoặc toàn bộ...) trong việc lập hồ sơ
hưởng chế độ BHXH...
Hai là: Đối tượng xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực BHXH là cá nhân, tổ
chức tham gia vào quan hệ BHXH. Do hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực
này là những cá nhân, tổ chức có tham gia quan hệ lao động (người lao động và
người sử dụng lao động) hoặc tham gia vào quan hệ quản lý BHXH (cá nhân, đơn vị
thuộc hệ thống cơ quan BHXH, thanh tra lao động, Hội đồng giám định y khoa...)
theo quy định của pháp luật BHXH.
Ba là: Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính lĩnh vực BHXH gồm: Chủ tịch
UBND các cấp và Thanh tra chuyên ngành (Lao động - Thương binh và Xã hội).

Tuy nhiên, việc quy định này cũng mang tính hình thức, trên thực tiễn không hiệu
quả. Bởi không riêng gì lĩnh vực BHXH mà hầu hết trong các lĩnh vực khác, vai trò
xử phạt vi phạm hành chính của Chủ tịch UBND là rất mờ nhạt, tất cả trông chờ vào
thanh tra chuyên ngành. Trong khi lực lượng này rất hạn chế và BHXH chỉ là một
mảng trong nghiệp vụ thanh tra lao động. Do vậy, hoạt động xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực BHXH hầu hết được thực hiện trên cơ sở các đợt kiểm tra,
thanh tra về BHXH gồm, thanh tra đột xuất, thanh tra định kỳ theo quý, hoặc năm.
Bên cạnh đó, hiện tại vẫn thiếu cơ chế phối hợp giữa hệ thống kiểm tra, xử phạt vi
phạm hành chính của cơ quan quản lý nhà nước và hệ thống kiểm tra nội bộ của cơ
quan tổ chức sự nghiệp BHXH. Dẫn tới tình trạng chậm trễ trong xử phạt vi phạm
hành chính. Vì BHXH là một chính sách có phạm vi ảnh hưởng rộng lớn và liên
quan trực tiếp đến đời sống xã hội, trước tình trạng vi phạm đang ngày càng gia


×