Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình đối với tài sản chung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (589.33 KB, 85 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

LƢƠNG DANH TÙNG

QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CÁC THÀNH VIÊN
TRONG GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI TÀI SẢN CHUNG

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT DÂN SỰ
MÃ SỐ: 60380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN CỪ

HÀ NỘI - 2013


LỜI CẢM ƠN

Em xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu, các thầy cô giáo Khoa Sau
đại học – Trƣờng Đại học Luật Hà Nội đã nhiệt tình giúp đỡ, tạo điều kiện tốt
nhất để em hoàn thành khoá học cao học tại nhà trƣờng.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo Khoa Luật Dân sự Trƣờng Đại học Luật Hà Nội đã nhiệt tình giảng dạy, truyền đạt những tri
thức luật học quý báu cho các học viên.
Em trân trọng gửi lời cảm ơn và biết ơn sâu sắc tới giảng viên, Tiến sĩ
Nguyễn Văn Cừ - ngƣời thầy giáo đã tậm tâm chỉ bảo, truyền đạt kinh nghiệm
và kiến thức luật học giúp đỡ em hoàn thành tốt Luận văn này.
Lƣơng Danh Tùng




LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa
học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn
trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và
trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn
chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình
khoa học nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Lƣơng Danh Tùng


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLDS năm 1995

Bộ Luật Dân sự năm 1995

BLDS năm 2005

Bộ Luật Dân sự năm 2005

HĐTP

Hội đồng Thẩm phán

HN&GĐ


Hôn nhân và gia đình

Luật HN&GĐ năm 1959

Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959

Luật HN&GĐ năm 1986

Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986

Luật HN&GĐ năm 2000

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000

Nghị quyết số 35/2000/QH10

Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 9/6/2000
của Quốc hội Khoá 10

Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP

Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP
ngày 23/12/2000 của HĐTP TANDTC

Nghị định số 70/2001/NĐ-CP

Nghị định số 70/2001/NĐ-CP ngày

3/10/2001

của Chính phủ
TANDTC

Toà án nhân dân tối cao

TAND

Toà án nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU .................................................................................................. 1
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TÀI SẢN CHUNG CỦA CÁC
THÀNH VIÊN TRONG GIA ĐÌNH ................................................................ 5
1.1. KHÁI NIỆM GIA ĐÌNH ....................................................................... 5
1.2. XÁC ĐỊNH THÀNH VIÊN TRONG GIA ĐÌNH................................. 8
1.2.1. Theo quan hệ hôn nhân: Vợ - chồng. .............................................. 8
1.2.2. Theo quan hệ huyết thống: Cha mẹ - con, ông bà – cháu, anh chị
em ruột với nhau. .................................................................................... 11
1.2.3. Theo quan hệ nuôi dƣỡng: Cha mẹ nuôi – con nuôi, bố dƣợng và
mẹ kế - con riêng của một bên. ............................................................... 13
1.2.4. Các quan hệ khác tồn tại trong thực tế : Con đỡ đầu; ngƣời hƣởng
thừa tự; ngƣời sống nƣơng nhờ; tự nhận là anh - em nuôi; tự nhận là cha
mẹ nuôi và con nuôi của nhau. ................................................................ 16
1.3. CĂN CỨ XÁC ĐỊNH TÀI SẢN CHUNG .......................................... 18
1.3.1. Tài sản của vợ chồng đƣợc hình thành trong thời kỳ hôn nhân .... 18

1.3.2. Tài sản chung hình thành từ sự đóng góp của các thành viên trong
gia đình .................................................................................................... 19
CHƢƠNG 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ QUYỀN
VÀ NGHĨA VỤ CỦA CÁC THÀNH VIÊN TRONG GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI
TÀI SẢN CHUNG .......................................................................................... 21
2.1. QUYỀN CỦA CÁC THÀNH VIÊN TRONG GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI TÀI
SẢN CHUNG .................................................................................................. 21
2.1.1. Quyền sở hữu ................................................................................ 21
2.1.1.1. Quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt.................. 21
2.1.1.2. Quyền bảo vệ quyền sở hữu ....................................................... 30
2.1.1.3. Quyền đứng tên chủ sở hữu đối với tài sản phải đăng ký quyền
sở hữu ...................................................................................................... 32
2.1.2. Quyền sử dụng .............................................................................. 38


2.1.3. Quyền quản lý tài sản cho nhau .................................................... 42
2.1.4. Quyền đại diện cho nhau khi xác lập giao dịch dân sự liên quan
đến tài sản chung ..................................................................................... 45
2.1.5. Quyền yêu cầu chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân ........... 47
2.1.6. Quyền thừa kế liên quan đến tài sản chung .................................. 49
2.2. NGHĨA VỤ CỦA CÁC THÀNH VIÊN TRONG GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI
TÀI SẢN CHUNG ...................................................................................... 51
2.2.1. Nghĩa vụ theo quy định từ Điều 263 đến Điều 270 Bộ Luật Dân sự
năm 2005 ................................................................................................. 51
2.2.2. Nghĩa vụ duy trì và phát triển khối tài sản chung ......................... 55
2.2.3. Nghĩa vụ liên đới giữa các thành viên trong gia đình ................... 57
2.2.4. Nghĩa vụ thông báo cho những đồng sở hữu khi một thành viên
trong gia đình định đoạt phần tài sản của mình trong khối tài sản chung
................................................................................................................. 59
CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ

QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA CÁC THÀNH VIÊN TRONG GIA ĐÌNH
ĐỐI VỚI TÀI SẢN CHUNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ............................. 61
3.1. THỰC TIẾN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ
CỦA CÁC THÀNH VIÊN TRONG GIA ĐÌNH ĐỐI VỚI TÀI SẢN
CHUNG ....................................................................................................... 61
3.1.1. Một số vƣớng mắc còn tồn tại....................................................... 61
3.1.2. Nguyên nhân ................................................................................. 66
3.1.2.1. Nguyên nhân khách quan ........................................................... 66
3.1.2.2. Nguyên nhân chủ quan ............................................................... 68
3.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ......................................................................... 69
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 74


LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Các văn bản pháp luật nƣớc ta về hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) đƣợc ban
hành kể từ năm 1945 đến Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 (Luật HN&GĐ
2000) đã có nhiều lần thay đổi và có đóng góp lớn vào sự duy trì và ổn định đời
sống gia đình – một xã hội thu nhỏ trong đời sống xã hội nƣớc ta.
Tuy nhiên, do sự phát triển của văn hoá - kinh tế và chính trị nƣớc ta đã có
những bƣớc tiến bộ vƣợt bậc trong hơn một thập niên gần đây đã làm cho không ít
các quy định pháp luật HN&GĐ không còn phù hợp hoặc không dự trù, bao quát
đƣợc hết các tranh chấp phát sinh có khả năng xảy ra trong đời sống gia đình ở
nƣớc ta. Đặc biệt trong mối quan hệ về tài sản giữa các thành viên trong gia đình lại
không đƣợc quy định cụ thể và riêng biệt trong Luật HN&GĐ năm 2000, nhiều quy
định về tài sản chung của gia đình đƣợc quy định ở các luật khác nhƣ Bộ Luật Dân
sự năm 2005, Luật Đất đai năm 2003, Luật Nhà ở năm 2005… Mặt khác, việc tuyên
truyền và phổ biến pháp luật HN&GĐ còn có nhiều hạn chế trong khi nền văn hoá
nƣớc ta vẫn còn bị ảnh hƣởng nặng nề của tƣ tƣởng Nho giáo “trọng nam khinh

nữ”, nên sự hiểu biết của nhân dân về quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong
gia đình đối với tài sản chung còn có nhiều hạn chế. Đây là một trong những
nguyên nhân chính phát sinh tranh chấp tài sản giữa các thành viên trong gia đình
dẫn tới mâu thuẫn trong gia đình, gây mất ổn định xã hội, gây nên tình trạng khiếu
kiện kéo dài.
Các quy định về quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình đối với
tài sản chung tại các văn bản quy phạm pháp luật cũng chƣa có sự thống nhất dẫn
đến việc nhận thức trong việc giải quyết tranh chấp tài sản của các cơ quan Nhà
nƣớc, Toà án nhân dân có thẩm quyền cũng chƣa có sự thống nhất về phƣơng
hƣớng giải quyết.
Vì những lý do trên, tác giả mạnh dạn chọn đề tài Quyền và nghĩa vụ của các
thành viên trong gia đình đối với tài sản chung để làm luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu

1


Quan hệ về tài sản của các thành viên trong gia đình đã đƣợc nhiều tác giả
nghiên cứu, dƣới nhiều góc độ khác nhau. Có tác giả nghiên cứu riêng về chế độ tài
sản của vợ chồng, có tác giả nghiên cứu về chế định cấp dƣỡng, có tác giả nghiên
cứu về vấn đề chia tài sản khi vợ chồng ly hôn …
Một số giáo trình, công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo điển hình nhƣ:
“Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam năm 2000” do TS.Đinh
Thị Mai Phƣơng chủ biên; “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về Luật Hôn nhân và
gia đình năm 2000” của Ths.Nguyễn Văn Cừ và Ths.Ngô Thị Hƣờng biên soạn;
“Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam” của
TS.Nguyễn Văn Cừ, “Chế định cấp dưỡng trong Luật Hôn nhân và gia đình vấn đề
lý luận và thực tiễn” của Ts. Ngô Thị Hƣờng …
Vấn đề quyền tài sản của hộ gia đình, cá nhân cũng đã đƣợc nhiều tác giả
nghiên cứu, có thể kể đến một số luận án, luận văn nhƣ: “Quan hệ tài sản giữa các

thành viên trong gia đình theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000” của Lê Thị
Thu Hà, “Nguyên tắc vợ chồng bình đẳng trong chế định tài sản vợ chồng theo
Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam” của Đặng Thị Hồng Hoa, “Vấn đề hạn chế
quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên trong Luật Hôn nhân và gia đình
Việt Nam” của Đỗ Thị Thu Hƣơng, “Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn
nhân và gia đình Việt Nam” của Hoàng Ngọc Huyên, “Một số vấn đề cần sửa đổi,
bổ sung Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000” của Nguyễn Quỳnh Anh, “Thành
viên gia đình: một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Lê Văn Trung …
Một số bài viết trên các tạp chí chuyên ngành luật nhƣ: bài “Tặng cho quyền
sử dụng đất thực tiễn và tồn tại” đăng trên Tạp chí TAND số 3 năm 2008; bài
“Xác định quyền sử dụng đất là tài sản chung hay tài sản riêng” đăng trên Tạp chí
Nhà nƣớc và Pháp luật số 1 năm 2010; bài “Xác định tư cách chủ thể thành viên hộ
gia đình trong định đoạt quyền sử dụng đất là tài sản chung của hộ” đăng trên Tạp
chí Luật học số 2 năm 2012, bài “Về việc nuôi con nuôi giữa bố dượng hoặc mẹ kế
và con riêng của của vợ hoặc chồng theo Luật nuôi con nuôi” đăng trên Tạp chí
Luật học số 8 năm 2011, bài “Bình đẳng giới trong gia đình” đăng trên Tạp chí
Luật học số 5 năm 2012 …
Tuy nhiên các tác giả chỉ tập chung vào vấn đề tổng thể chung nhất là quyền
và nghĩa vụ của hộ gia đình hoặc xác định tài sản là của chung hay riêng của vợ,

2


chồng mà chƣa đi sâu làm rõ các quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong gia
đình đối với tài sản chung của gia đình.
Việc xác định các thành viên trong gia đình để từ đó xác định quyền và nghĩa
vụ của họ cũng chƣa thật sự đƣợc nghiên cứu một cách cụ thể do đó chƣa làm rõ
đƣợc các căn cứ để giải quyết các tranh chấp về tài sản chung nếu có phát sinh.
3. Mục đích nghiên cứu
Việc lựa chọn đề tài nghiên cứu của tác giả nhằm các mục đích sau:

- Xác định rõ các đối tƣợng là thành viên trong gia đình từ đó xác định các
quyền và nghĩa vụ của họ trong mối quan hệ về tài sản giữa họ với nhau.
- Chỉ ra đƣợc những sự bất cập thiếu thống nhất giữa các quy định pháp luật
có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình đối với tài sản
chung, từ đó đƣa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật.
- Tập trung nghiên cứu về quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình
đối với tài sản chung để đƣa ra phƣơng hƣớng nhận thức chung trong việc giải
quyết các tranh chấp phát sinh về quyền và nghĩa vụ của các thành viên đối với tài
sản chung của gia đình.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn triển khai nghiên cứu các vấn đề sau đây:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận cơ bản về gia đình và các thành viên trong
gia đình, vấn đề xác định tài sản chung của gia đình.
- Nghiên cứu các quyền và nghĩa vụ nói chung của các thành viên trong gia
đình trong việc sử dụng, quản lý và định đoạt đối với tài sản chung của gia đình.
- Nghiên cứu và đánh giá tình hình thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật
về quyền và nghĩa vụ thành viên trong gia đình về việc sử dụng, quản lý và định
đoạt tài sản chung là quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở (bởi đây là những
đối tượng tài sản thường xuyên có tranh chấp trong nhân dân).
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp luận đƣợc tác giả sử dụng trong nghiên cứu là phƣơng pháp luận
triết học Mác-Lênin, sử dụng phép biện chứng và duy vật lịch sử, phƣơng pháp
phân tích, so sánh và tổng hợp, hệ thống hoá… để xác định rõ tập hợp thành viên
trong gia đình, tài sản chung của gia đình, các quyền và nghĩa vụ của họ trong việc
sử dụng, quản lý và định đoạt tài sản chung của gia đình.

3


Trên cơ sở xác định các quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình,

tác giả tiến hành đối chiếu với các quy định pháp luật hiện hành để chỉ ra những bất
cập của quy định pháp luật trong việc tạo cơ sở pháp lý để các thành viên trong gia
đình thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.
6. Những đóng góp của luận văn
Nội dung luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận cơ bản về gia đình và các
thành viên trong gia đình, tài sản chung của gia đình, các quyền và nghĩa vụ của họ
đối với tài sản chung của gia đình theo quy định pháp luật. Luận văn có các đóng
góp sau:
- Nêu ra đƣợc các căn cứ để xác định một cá nhân đƣợc coi là thành viên trong
gia đình.
- Nêu ra đƣợc các căn cứ để xác định tài sản chung của gia đình.
- Tổng hợp đƣợc các quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình đối
với việc sử dụng, quản lý và định đoạt tài sản chung của gia đình đƣợc quy định rải
rác trong các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau.
- Phân tích một số nội dung của pháp luật hiện hành về quyền và nghĩa vụ của
các thành viên trong gia đình đối với tài sản chung để chỉ ra những điểm bất cập,
chƣa phù hợp thực tiễn và chƣa đảm bảo sự thống nhất giữa các quy định pháp luật.
- Trên cơ sở phân tích một số bản án của Toà án nhân dân trong việc xét xử
các tranh chấp có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong gia đình
đối với tài sản chung để đƣa ra hƣớng giải quyết phù hợp hơn. Nêu một số kiến nghị
nhằm hoàn thiện quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong
gia đình đối với tài sản chung.
7. Nội dung, kết cấu của luận văn
Ngoài phần Lời nói đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn đƣợc chia làm ba chƣơng:
Chƣơng 1: Lý luận cơ bản về tài sản chung của các thành viên trong gia đình.
Chƣơng 2: Quy định của pháp luật hiện hành về quyền và nghĩa vụ của các
thành viên trong gia đình đối với tài sản chung.
Chƣơng 3: Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật về quyền và nghĩa vụ của
các thành viên trong gia đình đối với tài sản chung và một số kiến nghị


4


CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ TÀI SẢN CHUNG CỦA CÁC THÀNH VIÊN
TRONG GIA ĐÌNH

1.1. KHÁI NIỆM GIA ĐÌNH
Khái niệm gia đình đã đƣợc nhiều ngành khoa học nghiên cứu dƣới nhiều góc
độ, lĩnh vực nghiên cứu khác nhau: Triết học, Xã hội học, Tâm lý học, Văn hoá …
Theo quan điểm Triết học Mác – Lê Nin thì hôn nhân và gia đình không
ngừng vận động và phát triển. Gia đình là một phạm trù lịch sử, trong quá trình phát
triển lịch sử đã tồn tại bốn hình thái gia đình: gia đình huyết tộc, gia đình Pu-na-luan, gia đình cặp đôi, gia đình một vợ một chồng.
Theo quan điểm Xã hội học, khái niệm gia đình trong Giáo trình Xã hội học
trƣờng Đại học Luật Hà Nội nhƣ sau: “Gia đình là một thiết chế xã hội, trong đó
những người có quan hệ ruột thịt (hoặc đặc biệt) cùng chung sống. Gia đình là một
phạm trù biến đổi mang tính lịch sử và phản ánh văn hoá của dân tộc và thời đại
…”
Dƣới góc độ pháp lý có một số các khái niệm cơ bản sau:
+ Theo quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000:
Khái niệm gia đình trong Luật HN&GĐ năm 2000 đƣợc giải thích tại khoản
10 Điều 8: “ Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan
hệ huyết thống hoặc do quan hệ nuôi dưỡng, làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền
giữa họ với nhau theo quy định của Luật này.”[46]. Khái niệm gia đình đƣợc các
nhà làm luật xác định dựa trên ba tiêu chí chính, đó là: quan hệ về hôn nhân, quan
hệ về huyết thống, quan hệ về nuôi dƣỡng. Quan hệ hôn nhân là quan hệ giữa ngƣời
vợ và ngƣời chồng sau khi hai ngƣời đã kết hôn (hợp pháp theo quy định pháp luật)
và đang còn trong thời kỳ hôn nhân (một bên chưa chết hoặc giữa họ tuy có yêu cầu
ly hôn nhưng chưa có bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án nhân

dân (TAND) có thẩm quyền quyết định việc cho ly hôn). Quan hệ huyết thống là
quan hệ giữa những ngƣời có cùng dòng máu về trực hệ là cha mẹ đối với con, ông

5


bà đối với cháu nội và cháu ngoại. Tuy các nhà làm luật chỉ liệt kê những ngƣời có
họ trong phạm vi ba đời tại khoản 12 Điều 8 Luật HN&GĐ năm 2000 nhƣng tại
khoản 2 Điều 4 Luật HN&GĐ năm 2000 đã có dự liệu “ cấm ngược đãi hành hạ
ông, bà, cha, mẹ, vợ, chồng, con, cháu, anh, chị, em và các thành viên khác trong
gia đình”. Các thành viên khác trong gia đình nếu mở rộng về quan hệ có thể còn
có quan hệ giữa cụ - chắt (đời thứ 4), kỵ - chít (đời thứ 5), các trƣờng hợp quan hệ
nhƣ trên rất ít trong thực tế đời sống xã hội nên các nhà làm luật không liệt kê tại
khoản 12 Điều 8 Luật HN&GĐ năm 2000. Quan hệ huyết thống không chỉ đƣợc
xác định là quan hệ giữa những ngƣời cùng dòng máu về trực hệ mà còn là quan hệ
giữa những ngƣời có cùng một gốc sinh ra đƣợc xác định là có họ trong phạm vi ba
đời.
Quan hệ nuôi dƣỡng đƣợc xác định là quan hệ giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi.
Quan hệ nuôi dƣỡng phát sinh khi có sự kiện nhận nuôi con nuôi và đƣợc cơ quan
Nhà nƣớc có thẩm quyền công nhận. Quy định về nuôi con nuôi đƣợc Luật
HN&GĐ năm 2000 (chưa sửa đổi) quy định tại Điều 67, theo đó: “Giữa người
nhận nuôi con nuôi và người được nhận làm con nuôi có các quyền, nghĩa vụ của
cha mẹ và con theo quy định của Luật này.” Hiện nay chế định về nuôi con nuôi đã
đƣợc luật hoá thành luật riêng, quan hệ giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi đƣợc quy
định cụ thể tại khoản 1 Điều 24 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 : “Kể từ ngày giao
nhận con nuôi, giữa cha mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của
cha mẹ và con, giữa con nuôi với các thành viên khác của gia đình cha mẹ nuôi
cũng có các quyền và nghĩa vụ đối với con nuôi theo quy định của pháp luật hôn
nhân và gia đình và pháp luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên
quan.”.[48]

+ Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình của trƣờng Đại học Luật Hà Nội đƣa
ra khái niệm gia đình nhƣ sau: “Gia đình theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam
là sự liên kết của nhiều người dựa trên cơ sở hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng, có
quyền và nghĩa vụ tương ứng với nhau, cùng quan tâm giúp đỡ lẫn nhau về vật chất
và tinh thần, xây dựng gia đình, nuôi dạy thế hệ trẻ dưới sự giúp đỡ của Nhà nước
và xã hội”.[21]. Nhƣ vậy, cũng tƣơng tự nhƣ quy định tại Luật HN&GĐ năm 2000,
giáo trình này cũng lấy ba tiêu chí chính để làm căn cứ xác định một gia đình: quan
hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dƣỡng.

6


+ Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình của Khoa Luật Đại học Cần Thơ nhìn
nhận gia đình dƣới góc độ tổ chức con ngƣời: “Gia đình là một tổ chức con người
vận hành theo quy định của pháp luật. Những mối quan hệ gia đình được chi phối
không chỉ bởi Luật Hôn nhân và gia đình mà cả bởi Luật Dân sự, Hành chính, Hình
sự …”[25]. Cho rằng gia đình là một tổ chức con ngƣời không phải là không có yếu
tố hợp lý, tuy nhiên nếu chỉ đơn thuần là tổ chức con ngƣời thì sẽ rất dễ nhầm lẫn
với những tổ chức con ngƣời khác có liên quan đến yếu tố gia đình nhƣ hộ kinh
doanh, tổ hợp tác…
-

Các hình mẫu gia đình tồn tại trong xã hội Việt Nam hiện nay:

Gia đình hiện đại trong xã hội nƣớc ta hiện nay thông thƣờng bao gồm hai thế
hệ: cha mẹ và con. Tuy nhiên, do ảnh hƣởng của đạo đức, phong tục, truyền thống
văn hoá – xã hội nên trong xã hội nƣớc ta vẫn tồn tại một số mô hình gia đình đặc
biệt.
+ Gia đình “tam đại đồng đƣờng”, “tứ đại đồng đƣờng”: là mô hình một gia
đình có ba hoặc bốn thế hệ liên tiếp nhau cùng chung sống, cƣ trú tại một địa điểm.

Sự tồn tại của mô hình gia đình nhiều thế hệ cùng chung sống dƣới một mái nhà có
nhiều nguyên nhân khác nhau nhƣ: có thể do nhu cầu nhân lực về sản xuất nông lâm nghiệp, hoặc do điều kiện khó khăn về kinh tế nên các cặp vợ chồng mới không
có khả năng tách hộ xây dựng nơi ở mới … Hiện nay mô hình gia đình nhiều thế hệ
đang đƣợc khôi phục trên cơ sở phong tục, truyền thống, đạo đức của dân tộc Việt
Nam: ông bà là tấm gƣơng cho con cháu noi theo, phụng dƣỡng cha mẹ thể hiện sự
biết ơn của con cháu, nhiều thế hệ cùng chung sống cũng thuận lợi cho việc thờ
cúng tổ tiên.
+ Gia đình – Hộ: Mô hình gia đình – hộ đƣợc các nhà làm luật lựa chọn khi
xây dựng Luật HN&GĐ năm 1959, năm 1986 và năm 2000. Mô hình gia đình – hộ
là một tổ chức gồm cha, mẹ và con, là đối tƣợng cơ bản của pháp luật hôn nhân và
gia đình.
Các khái niệm đã nêu trên tuy đã khái quát chung đƣợc các yếu tố cơ bản của
gia đình nhƣng chƣa bao quát đƣợc những yếu tố vốn đã tồn tại khách quan liên
quan trực tiếp đến quan hệ giữa các thành viên trong gia đình. Ví dụ: vợ, chồng ly
hôn nhƣng không phân chia tài sản chung và vẫn ở chung với con cái hoặc quan hệ
giữa ngƣời lập tự và ngƣời hƣởng thừa tự; hoặc quan hệ giữa ngƣời mà cha mẹ có

7


nghĩa vụ cấp dƣỡng cùng sống chung với cha mẹ, các con … Vì vậy cần bổ sung
khái niệm gia đình để có thể bao quát rộng hơn các quan hệ hôn nhân và gia đình
tồn tại khách quan ở xã hội nƣớc ta hiện nay:
“ Gia đình là tập hợp những người gắn bó với nhau do hôn nhân, quan hệ
huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng hoặc do quan hệ khác được pháp luật thừa nhận,
làm phát sinh các nghĩa vụ và quyền giữa họ với nhau theo quy định của pháp
luật.”
1.2. XÁC ĐỊNH THÀNH VIÊN TRONG GIA ĐÌNH
Gia đình là một tập hợp những ngƣời gắn bó với nhau do quan hệ hôn nhân, có
quan hệ huyết thống, có quan hệ nuôi dƣỡng đƣợc pháp luật thừa nhận. Nhƣ vậy,

các thành viên trong gia đình là một tập hợp những ngƣời có quan hệ về hôn nhân,
quan hệ về huyết thống, quan hệ về nuôi dƣỡng hoặc do quan hệ khác mà giữa
những ngƣời này có quyền và nghĩa vụ về nhân thân và tài sản với nhau theo quy
định pháp luật nhằm xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, hạnh phúc và bền vững.
1.2.1. Theo quan hệ hôn nhân: Vợ - chồng.
Quan hệ hôn nhân là quan hệ cơ bản đầu tiên làm tiền đề cho việc hình thành
và duy trì một gia đình. Khi một ngƣời nam và một ngƣời nữ (đủ điều kiện kết hôn
theo quy định pháp luật) đăng ký kết hôn và đƣợc cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền
công nhận việc kết hôn thì quan hệ hôn nhân giữa vợ - chồng đƣợc xác lập. Trong
thực tế, có những trƣờng hợp ngƣời nam và ngƣời nữ có tổ chức đám cƣới nhƣng họ
không đi đăng ký kết hôn hoặc có đăng ký kết hôn trong khi họ chƣa đủ điều kiện
kết hôn hoặc nam nữ chung sống nhƣ vợ chồng, không có đăng ký kết hôn trƣớc
ngày 03/01/1987 thì tuỳ từng trƣờng hợp mà có sự điều chỉnh của pháp luật khác
nhau.
- Hôn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi hai ngƣời kết hôn theo quy
định pháp luật. Việc pháp luật công nhận quan hệ vợ chồng giữa một ngƣời nam với
một ngƣời nữ làm phát sinh quan hệ hôn nhân (hợp pháp). Sau khi đƣợc pháp luật
công nhận việc kết hôn thì về mặt pháp lý họ chính thức đƣợc xác định là thành
viên của một gia đình.
- Đối với các cặp đôi nam nữ có tổ chức lễ cƣới theo phong tục, tập quán và
sống chung với nhau nhƣng không đăng ký kết hôn, mặc dù xã hội coi họ là vợ

8


chồng nhƣng về mặt pháp lý thì họ không đƣợc pháp luật công nhận là vợ chồng.
Việc nam nữ sống chung với nhau nhƣ vợ chồng và có con với nhau thì quan hệ gia
đình giữa hai ngƣời đó chỉ có sự ràng buộc chủ yếu về mặt đạo đức, khi cần giải
quyết những vấn đề pháp lý phát sinh trong gia đình thì giữa ngƣời nam và ngƣời
nữ không thể có những quyền, nghĩa vụ của một thành viên trong gia đình một cách

đầy đủ.
Ví dụ: Năm 2005, anh A và chị B đƣợc bố mẹ hai bên tổ chức đám cƣới và về
cùng chung sống với nhau. Anh A và chị B tuy đủ điều kiện kết hôn nhƣng không
đi đăng ký kết hôn. Trong quá trình chung sống, anh A đã mua đƣợc 1 ngôi nhà,
nay thực hiện việc đăng ký quyền sở hữu tài sản thì anh A và chị B không thể đứng
tên sở hữu chung với tƣ cách là vợ chồng đƣợc bởi trƣớc pháp luật họ vẫn chƣa
đƣợc công nhận là vợ chồng.
Trƣờng hợp ngoại lệ đƣợc pháp luật thừa nhận là vợ chồng mặc dù nam nữ
sống chung nhƣ vợ chồng và không có đăng ký kết hôn. Đó là trƣờng hợp nam nữ
chung sống với nhau nhƣ vợ chồng từ trƣớc ngày 03/01/1987. Việc nam nữ chung
sống với nhau nhƣ vợ chồng trƣớc thời điểm ngày 03/01/1987 (trước khi Luật
HN&GĐ năm 1986 có hiệu lực) có hai dạng cụ thể sau là đƣợc pháp luật công nhận
mặc dù giữa ngƣời nam và ngƣời nữ không có đăng ký kết hôn:
+ Do nguyên nhân lịch sử và do nhận thức của nhân dân trong thời kỳ trƣớc
còn hạn chế, mặt khác do điều kiện của cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền về đăng
ký kết hôn cũng chƣa hoàn thiện nên pháp luật vẫn thừa nhận một số quan hệ vợ
chồng. Ví dụ: trƣờng hợp cán bộ miền Nam tập kết ra miền Bắc mà họ đã có vợ,
chồng trong miền Nam nay lấy vợ, chồng khác ở miền Bắc. Hoặc có thể những
ngƣời do điều kiện chiến tranh, nhiều ngƣời phải nhập ngũ nên không kịp đăng ký
kết hôn…
+ Nam nữ chung sống với nhau nhƣ vợ chồng trƣớc ngày 03/01/1987 chƣa
đăng ký kết hôn thì Nhà nƣớc khuyến khích tạo điều kiện để họ đi đăng ký kết hôn,
thời gian đi đăng ký không bị hạn chế. Nếu họ có nhu cầu xin ly hôn thì theo Nghị
quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/6/2000 của Quốc hội khoá 10 về thi hành Luật
HN&GĐ năm 2000; Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội
đồng Thẩm phán TANDTC hƣớng dẫn áp dụng một số quy định của Luật HN&GĐ
năm 2000; Thông tƣ liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày

9



03/01/2001 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tƣ
pháp thì Toà án sẽ giải quyết theo thủ tục ly hôn. Nhƣ vậy trong trƣờng hợp này thì
quan hệ hôn nhân giữa ngƣời nam và ngƣời nữ dù chƣa có đăng ký kết hôn vẫn
đƣợc pháp luật thừa nhận là vợ chồng.
Ngoài hai dạng ngoại lệ cụ thể trên thì các trƣờng hợp nam nữ sống chung với
nhau nhƣ vợ chồng sau ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001 mà không có đăng
ký kết hôn thì pháp luật quy định họ phải đi đăng ký kết hôn trong khoảng thời gian
02 năm. Nếu sau khoảng thời gian 02 năm (đến ngày 01/01/2003) mà họ không đi
đăng ký kết hôn thì pháp luật không công nhận họ là vợ chồng.
Tuy nhiên, theo quy định tại Chỉ thị số 02/2003/CT-BTP ngày 14/7/2003 của
Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp về việc tiếp tục đăng ký kết hôn cho các trƣờng hợp nam và
nữ sống chung với nhau nhƣ vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến ngày 01/01/2001 thì
nếu họ đăng ký kết hôn đúng thời hạn quy định tại Nghị quyết số 35/2000/QH10
nhƣng chƣa đƣợc cấp giấy đăng ký kết hôn thì quan hệ vợ chồng của họ đƣợc công
nhận kể từ thời điểm chung sống với nhau trên thực tế; còn nếu họ đăng ký sau thời
hạn quy định tại Nghị quyết số 35/2000/QH10 thì quan hệ vợ chồng chỉ đƣợc pháp
luật công nhận kể từ thời điểm đăng ký kết hôn.
- Trƣờng hợp có đăng ký kết hôn nhƣng không đƣợc coi là vợ chồng là trƣờng
hợp một trong hai ngƣời nam nữ hoặc cả hai ngƣời nam nữ đều chƣa có đủ các điều
kiện theo quy định pháp luật để kết hôn, nhƣng vì lý do nào đó họ đã đƣợc cơ quan
Nhà nƣớc có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận kết hôn. Đây là trƣờng hợp kết hôn
trái pháp luật nên vê nguyên tắc sẽ bị huỷ kết hôn trái pháp luật. Vì vậy ngƣời nam
và ngƣời nữ dù vẫn chung sống với nhau nhƣng hai ngƣời không có tƣ cách thành
viên gia đình một cách đầy đủ. Tuy nhiên, theo hƣớng dẫn của Nghị quyết số
02/2000/NQ-HĐTP khi giải quyết các trƣờng hợp huỷ việc kết hôn trái pháp luật
thì:
- Trƣờng hợp do hai bên nam nữ vi phạm quy định về tuổi kết hôn theo quy
định pháp luật: Nếu đến thời điểm yêu cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật mà cả hai
bên đã đến tuổi kết hôn, giữa hai ngƣời chung sống hạnh phúc, đã có con chung và

tài sản chung thì không quyết định huỷ việc kết hôn trái pháp luật.
- Trƣờng hợp ngƣời nam hoặc nữ đang có vợ hoặc đang có chồng nhƣng kết
hôn với ngƣời khác thì tuỳ trƣờng hợp giải quyết:

10


+ Trƣờng hợp cán bộ, bộ đội miền Nam tập kết ra Bắc hồi năm 1954, đã có vợ
hoặc chồng ở miền Nam mà lấy vợ hoặc chồng ở miền Bắc thì xử lý theo Thông tƣ
số 60/TATC ngày 22/02/1978 của Toà án nhân dân tối cao Hƣớng dẫn giải quyết
các trƣờng hợp cán bộ, bộ đội miền Nam tập kết ra Bắc mà lấy vợ, lấy chồng khác.
+ Nếu trong lần kết hôn trƣớc, giữa vợ chồng có mâu thuẫn trầm trọng, đời
sống chung không thể kéo dài mà một bên đã kết hôn với ngƣời khác; khi có yêu
cầu huỷ việc kết hôn trái pháp luật, họ đã ly hôn với vợ hoặc chồng của lần kết hôn
trƣớc, thì không quyết định huỷ việc kết hôn trái pháp luật đối với lần kết hôn sau.
1.2.2. Theo quan hệ huyết thống: Cha mẹ - con, ông bà – cháu, anh chị em
ruột với nhau.
Sự kiện ngƣời mẹ sinh ra ngƣời con trong thời kỳ hôn nhân làm phát sinh quan
hệ pháp luật giữa cha mẹ và con. Pháp luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam xác
định con trong giá thú là con của những cặp vợ chồng hợp pháp. Luật HN&GĐ năm
2000 quy định tại khoản 1 Điều 63: “Con sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc do
người vợ có thai trong thời kỳ đó là con chung của vợ chồng”. Nhƣ vậy Luật
HN&GĐ dựa trên nguyên tắc suy đoán pháp lý để xác định cha, mẹ, con trong thời
kỳ hôn nhân. Việc xác định quan hệ cha, mẹ và con trong giá thú đơn giản và mang
tính ổn định. Luật HN&GĐ cũng quy định ngƣời con đƣợc sinh ra trƣớc khi cha mẹ
đăng ký kết hôn nhƣng đƣợc cha mẹ thừa nhận thì cũng là con chung của vợ chồng.
Mối quan hệ cha mẹ và con trong trƣờng hợp này do pháp luật quy định nhƣ vậy là
tôn trọng sự tự nguyện nhận con của vợ, chồng.
Theo nguyên tắc suy đoán pháp lý thì ngƣời con đƣợc pháp luật thừa nhận là
con của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân thì sau khi quan hệ cha mẹ và con đƣợc

thiết lập thì cũng đƣơng nhiên thiết lập quan hệ ông, bà và cháu, quan hệ anh, chị,
em ruột với nhau. Nhƣ vậy, khi ngƣời nam và ngƣời nữ kết hôn với nhau để thiết
lập một gia đình thì ngƣời con đƣợc sinh ra trong thời kỳ hôn nhân đƣơng nhiên có
tƣ cách thành viên gia đình.
Với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, hiện nay trẻ em đƣợc sinh ra qua con
đƣờng thụ tinh nhân tạo khá phổ biến. Nhiều trƣờng hợp ngƣời chồng bị vô sinh
hoàn toàn nên không có khả năng lấy tinh trùng để thụ tinh nhân tạo mà là do lấy
của ngƣời đàn ông khác; hoặc trƣờng hợp ngƣời vợ bị vô sinh không có khả năng
lấy noãn để thụ tinh nên noãn đƣợc lấy từ ngƣời phụ nữ khác… Hoặc trƣờng hợp

11


mang thai hộ. Việc xác định mối quan hệ thực sự giữa cha, mẹ và con trong những
trƣờng hợp cụ thể này còn có nhiều sự tranh cãi. Theo quy định tại Điều 20 Nghị
định số 12/2003/NĐ-CP ngày 12/02/2003 của Chính phủ thì: “Trẻ ra đời do thực
hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản phải được sinh ra từ người mẹ trong cặp vợ chồng vô
sinh hoặc người phụ nữ sống độc thân”. Nhƣ vậy, theo quy định này cặp vợ chồng
vô sinh hoặc ngƣời phụ nữ độc thân đƣợc xác định là cha, mẹ đối với đứa trẻ đƣợc
sinh ra do thực hiện biện pháp hỗ trợ sinh sản. Pháp luật thừa nhận trẻ sinh ra là con
của vợ chồng do đó ngƣời con đƣơng nhiên là thành viên của gia đình.
Việc mang thai hộ và sinh sản vô tính bị nghiêm cấm tại Điều 6 Nghị định số
12/2003/NĐ-CP. Thực tế việc sinh sản vô tính con ngƣời hiện nay trên thế giới đều
chƣa đƣợc pháp luật quốc gia nào cho phép, tuy nhiên vấn đề mang thai hộ là vấn
đề cũng khá phổ biến hiện nay ở nƣớc ta. Hiện tƣợng phụ nữ Việt Nam ra nƣớc
ngoài mang thai hộ nhƣng vì lý do nào đó mà đứa trẻ không đƣợc ngƣời thuê mang
thai nhận vì thế ngƣời đã mang thai phải nuôi mặc dù đứa trẻ đó không có một chút
quan hệ huyết thống với ngƣời mẹ đẻ ra trẻ. Hiện nay việc xác định cha, mẹ và con
ở một số nƣớc thừa nhận việc mang thai hộ có xu hƣớng thừa nhận rằng đứa trẻ là
kết quả của việc kết hợp các yếu tố của hai vợ chồng thì ngƣời mang thai hộ chỉ

đóng vai trò là ngƣời hỗ trợ cần thiết cho sự ra đời của đứa trẻ. Một số ý kiến hiện
nay cũng cho rằng pháp luật HN&GĐ cần bổ sung các quy định về vấn đề mang
thai hộ; bởi đây là nhu cầu rất thực tế khi tình trạng các cặp vợ chồng vô sinh ngày
càng có xu hƣớng tăng. Trong khi chờ đợi có sự thay đổi, bổ sung của pháp luật thì
việc xác định tƣ cách thành viên trong gia đình theo ý kiến tác giả không phải là
không thể xác định đƣợc bởi quan hệ cha, mẹ và con còn đƣợc xác định dựa trên
yếu tố nuôi dƣỡng. Vì vậy khi cha, mẹ công nhận đứa trẻ là con của vợ chồng thì
pháp luật cần tôn trọng sự tự nguyện của họ.
* Quan hệ giữa anh, chị, em ruột (cùng cha khác mẹ hoặc cùng mẹ khác cha)
Nếu việc xác định cha, mẹ và con trong giá thú đơn giản và ổn định thì việc
xác định con ngoài giá thú khó khăn và phức tạp hơn nhiều. Hiện nay do tiến bộ của
khoa học kỹ thuật, việc giám định gien đã cho kết quả chính xác về quan hệ huyết
thống giữa cha, mẹ và con. Khi đã có căn cứ xác định ngƣời con đƣợc ngƣời vợ
sinh ra trong thời kỳ hôn nhân không phải là là con của ngƣời chồng (con riêng của
vợ) thì quan hệ giữa ngƣời con này với những ngƣời con khác của vợ chồng là quan
hệ anh, chị, em cùng một gốc sinh ra. Nếu ngƣời chồng vẫn thừa nhận là con mình
thì trƣớc pháp luật ngƣời con đó vẫn là con chung của vợ chồng và do đó vẫn có tƣ
cách thành viên trong gia đình một cách đầy đủ. Nếu ngƣời chồng chứng minh đƣợc

12


rằng đứa trẻ sinh ra không có huyết thống với mình và không thừa nhận trẻ là con
mình thì tƣ cách thành viên trong gia đình của đứa trẻ không đầy đủ nhƣ những đứa
trẻ là con đẻ của ngƣời chồng.. Cũng tƣơng tự nhƣ vậy, những ngƣời con sinh ra có
cùng một cha nhƣng khác mẹ hoặc cùng mẹ nhƣng khác cha cũng đƣơng nhiên
đƣợc xác định là có cùng một gốc sinh ra.
Tuy nhiên việc xác định thành viên trong gia đình của những ngƣời con có thể
khác nhau, về nguyên tắc, cha mẹ của ngƣời con ngoài giá thú không phải là vợ
chồng trƣớc pháp luật. Nếu ngƣời cha có những ngƣời con với ngƣời phụ nữ khác

không phải là ngƣời vợ hoặc ngƣời vợ có con với ngƣời đàn ông khác không phải là
chồng trong thời kỳ hôn nhân thì chỉ có thể là con ngoài giá thú (con riêng của
người chồng, người vợ). Ví dụ: anh A chị B kết hôn hợp pháp, họ có hai ngƣời con
chung là C và D. Trong thời kỳ hôn nhân, chị B đã có con là E với một ngƣời đàn
ông khác. E đƣợc xác định là con ngoài giá thú của chị B. Quan hệ giữa C, D và E
là quan hệ huyết thống họ hàng có chung một gốc sinh.
Trên thực tế có những trƣờng hợp có con ngoài giá thú sau:
+ Ngƣời con ngoài giá thú vẫn cùng chung sống với cha mẹ đẻ: Trƣờng hợp
này giữa ngƣời nam và ngƣời nữ cùng chung sống với nhau, tuy có đủ điều kiện kết
hôn nhƣng họ không đăng ký kết hôn, vì vậy trƣớc pháp luật họ không phải là vợ
chồng. Ngƣời con tuy có đầu đủ cha mẹ đẻ nhƣng do cha mẹ chƣa đƣợc pháp luật
công nhận là vợ chồng nên bị coi là con ngoài giá thú.
+ Ngƣời con ngoài giá thú cùng sống chung với mẹ đẻ.
+ Ngƣời con ngoài giá thú cùng sống chung với cha đẻ.
Ngƣời con ngoài giá thú sống chung với cha, mẹ đẻ thì dù cha, mẹ đẻ có sống
cùng nhau hay không sống cùng nhau thì ngƣời con vẫn là thành viên trong gia đình
của ngƣời cha, mẹ đẻ.
Cần có sự phân biệt giữa con sinh ngoài giá thú là con riêng của ngƣời vợ,
ngƣời chồng đƣợc sinh ra trong thời kỳ hôn nhân với con riêng của vợ, chồng có
trƣớc khi hai ngƣời kết hôn. Tính chất của hai mối quan hệ cha, mẹ và con trong hai
trƣờng hợp này là khác nhau. Nếu ngƣời con riêng của vợ, chồng có trƣớc khi kết
hôn thì quan hệ cha, mẹ và con trong trƣờng hợp này là quan hệ giữa cha dƣợng, mẹ
kế với con riêng.
1.2.3. Theo quan hệ nuôi dƣỡng: Cha mẹ nuôi – con nuôi, bố dƣợng và mẹ
kế - con riêng của một bên.
- Quan hệ cha, mẹ và con có thể đƣợc thiết lập qua việc nhận con nuôi. Nuôi
con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa ngƣời nhận nuôi con nuôi và

13



ngƣời đƣợc nhận nuôi. Sau khi đƣợc pháp luật công nhận thì giữa những ngƣời
nhận nuôi con nuôi và ngƣời đƣợc nhận nuôi hình thành quan hệ cha mẹ và con.
Ngƣời đƣợc nhận nuôi hoàn toàn có đầy đủ tƣ cách thành viên trong gia đình. Việc
nhận con nuôi là một yếu tố cơ bản để hình thành một gia đình. Khoản 1 Điều 24
Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định: “Kể từ ngày giao nhận con nuôi, giữa cha
mẹ nuôi và con nuôi có đầy đủ các quyền, nghĩa vụ của cha mẹ và con; giữa con
nuôi và các thành viên khác của gia đình cha mẹ nuôi cũng có các quyền, nghĩa vụ
đối với nhau theo quy định của pháp luật về hôn nhân và gia đình, pháp luật dân sự
và các quy định khác của pháp luật có liên quan”[48].Nhƣ vậy pháp luật đã quy
định rõ ràng, cụ thể về quyền và nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi với con nuôi và giữa
ngƣời con nuôi với những thành viên khác của gia đình. Theo tinh thần quy định tại
Điều 24 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 thì cha mẹ nuôi có nghĩa vụ yêu thƣơng
trông nom, nuôi dƣỡng, chăm sóc, giáo dục và đại diện cho con nuôi trƣớc pháp
luật, quản lý tài sản của con nuôi và có trách nhiệm liên đới bồi thƣờng thiệt hại do
con nuôi chƣa thành niên gây ra. Ngƣợc lại, con nuôi cũng có trách nhiệm yêu quý
kính trọng cha mẹ nuôi, hiếu thảo với cha mẹ nuôi, giữ gìn danh dự, truyền thống
tốt đẹp của gia đình, có trách nhiệm nuôi dƣỡng và chăm sóc cha mẹ nuôi khi họ
đau ốm, già cả.
Ngƣời con nuôi không chỉ có đầy đủ quyền và nghĩa vụ với cha mẹ nuôi mà
còn đối với các thành viên khác trong gia đình nhƣ ông bà nội, ngoại, anh, chị, em
trong gia đình cha mẹ nuôi. Khi ngƣời con nuôi có quan hệ chặt chẽ, gắn bó với các
thành viên gia đình, có các quyền và nghĩa vụ đối với các thành viên khác trong gia
đình cha mẹ nuôi nhƣ con đẻ thì mới có sự hoà nhập thực sự, tránh đƣợc sự phân
biệt đối xử giữa con đẻ và con nuôi.
Khoản 4 Điều 24 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 quy định: “ Trừ trường hợp
giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi có thoả thuận khác, kể từ ngày giao nhận con nuôi,
cha mẹ đẻ không có quyền, nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, cấp dưỡng, đại diện
theo pháp luật, bồi thường thiệt hại, quản lý, định đoạt tài sản riêng đối với con đã
cho làm con nuôi”. Nhƣ vậy, nếu không có thoả thuận riêng giữa cha mẹ đẻ với cha

mẹ nuôi thì kể từ thời điểm giao nhận con nuôi, cha mẹ đẻ không còn quyền, nghĩa
vụ chăm sóc, nuôi dƣỡng, cấp dƣỡng, đại diện theo pháp luật, bồi thƣờng thiệt hại
… cho ngƣời con đã cho làm con nuôi. Quy định này phù hợp với thực tế bởi khi đã

14


cho ngƣời con làm con nuôi thì cha mẹ đẻ thƣờng khó có điều kiện thực hiện việc
chăm sóc, nuôi dƣỡng con đẻ vì trẻ đã sống cùng với cha mẹ nuôi. Tuy nhiên nếu
giữa cha mẹ đẻ và cha mẹ nuôi có thoả thuận riêng thì cha mẹ đẻ vẫn có một số
quyền và nghĩa vụ cơ bản đối với con đẻ theo sự thoả thuận giữa hai bên. Ngƣời con
nuôi còn có thể đƣợc hƣởng các quyền lợi khác từ cha mẹ đẻ trong một số trƣờng
hợp đặc biệt, trƣớc đây đã đƣợc quy định tại Điều 74 Luật HN&GĐ năm 2000:
“… Con liệt sỹ, con thương binh, con của người có công với cách mạng được
người khác nhận làm con nuôi vẫn được tiếp tục hưởng mọi quyền lợi của con liệt
sỹ, con thương binh, con của người có công với cách mạng”(nay theo quy định Luật
Nuôi con nuôi). Ngƣời con nuôi đƣợc hƣởng các quyền lợi này từ cha mẹ đẻ thực
hiện theo quy định của Pháp lệnh Ƣu đãi ngƣời có công với cách mạng.
- Quyền và nghĩa vụ giữa bố dƣợng, mẹ kế với con riêng của một bên chỉ phát
sinh khi giữa họ có quan hệ nuôi dƣỡng. Con riêng có thể là con do ngƣời vợ hoặc
ngƣời chồng có trong các trƣờng hợp sau:
+ Con riêng đƣợc sinh ra trong cuộc hôn nhân trƣớc của mỗi ngƣời mà không
phải là cuộc hôn nhân đang tồn tại.
+ Ngƣời vợ và ngƣời chồng có con riêng với ngƣời khác trƣớc cuộc hôn nhân
hiện tại.
+ Con riêng của ngƣời chồng hoặc ngƣời vợ với ngƣời khác mà không phải là
vợ chồng trong khi cuộc hôn nhân vẫn đang tồn tại.
Nhƣ vậy con riêng có thể là con đƣợc sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc có
trƣớc thời kỳ hôn nhân.
Về nguyên tắc, giữa bố dƣợng mẹ kế với con riêng của một bên không có

quyền và nghĩa vụ nhƣ giữa cha mẹ với con nhƣng nếu giữa họ có sự tự nguyện
thƣơng yêu, chăm sóc, nuôi dƣỡng nhau nhƣ cha mẹ và con thì cũng phát sinh
quyền và nghĩa vụ trong mối quan hệ bố dƣợng, mẹ kế với con riêng theo quy định
tại Điều 38 Luật HN&GĐ năm 2000. Bố dƣợng, mẹ kế và con riêng có thể đƣợc
hƣởng thừa kế của nhau khi một trong hai bên chết trƣớc. Con riêng đang sống
chung cùng với bố dƣợng, mẹ kế cũng có thể trở thành ngƣời giám hộ cho bố
dƣợng, mẹ kế theo quy định tại Điều 82 Luật HN&GĐ năm 2000: “Trong trường
hợp bố dượng, mẹ kế không có người giám hộ theo quy định tại Điều 72 của Bộ

15


Luật Dân sự thì con riêng đang sống chung với bố dượng, mẹ kế là người giám hộ,
nếu có đủ điều kiện làm người giám hộ”.
1.2.4. Các quan hệ khác tồn tại trong thực tế : Con đỡ đầu; ngƣời hƣởng
thừa tự; ngƣời sống nƣơng nhờ; tự nhận là anh - em nuôi; tự nhận là cha mẹ nuôi và
con nuôi của nhau.
Trong thực tế đời sống xã hội nƣớc ta còn tồn tại một số mối quan hệ có tính
chất gia đình nhƣng chƣa đƣợc pháp luật điều chỉnh mà chủ yếu do các bên duy trì
mối quan hệ dựa trên các quy phạm đạo đức, theo phong tục, tập quán truyền thống.
Các quan hệ có tính chất gia đình đó thƣờng có các dạng cơ bản sau:
- Quan hệ giữa cha, mẹ đỡ đầu với con đỡ đầu: đây là mối quan hệ giữa một
bên nhận làm cha, mẹ đỡ đầu với một bên là trẻ đƣợc nhận đỡ đầu. Việc nhận đỡ
đầu xuất phát tự phong tục cha mẹ đẻ do khó khăn trong việc sinh con, nuôi con nên
tìm ngƣời có nhân cách, đạo đức, có sức khoẻ để nhờ nhận làm cha, mẹ đỡ đầu cho
con đẻ của mình với mục đích mong con đƣợc hƣởng phúc đức của cha, mẹ đỡ đầu
mà dễ nuôi, khoẻ mạnh, thông minh. Nhƣ vậy giữa cha, mẹ đỡ đầu và con đỡ đầu
không có quan hệ huyết thống và có thể có hoặc không có quan hệ nuôi dƣỡng
nhƣng giữa họ vẫn duy trì mối quan hệ cha mẹ và con trên danh nghĩa.
Quan hệ HN&GĐ giữa ngƣời đỡ đầu và ngƣời đƣợc nhận đỡ đầu trƣớc đây

đƣợc Luật HN & GĐ năm 1986 quy định tại Điều 46: “Việc đỡ đầu được thực hiện
trong trường hợp cần bảo đảm việc chăm nom, giáo dục và bảo vệ quyền lợi của
người chưa thành niên mà cha mẹ đã chết hoặc tuy cha mẹ còn sống nhưng không
có đủ điều kiện làm việc đó.”[45]. Việc cử ngƣời đỡ đầu phải đƣợc sự công nhận
của Ủy ban nhân dân cấp xã, phƣờng. Qua nội dung quy định trên có thể nhận thấy
có sự giống nhau giữa chế định ngƣời đỡ đầu trƣớc đây với chế định ngƣời giám hộ
trong pháp luật dân sự hiện hành.
- Quan hệ giữa ngƣời có tài sản nhƣng không có ngƣời nối dõi với ngƣời sẽ
đƣợc hƣởng tài sản của ngƣời có tài sản và có nghĩa vụ lo hậu sự và thờ cúng ngƣời
có tài sản sau khi ngƣời này chết đƣợc gọi là ngƣời hƣởng thừa tự. Quan hệ này
phát sinh từ phong tục, tập quán thờ cúng ngƣời đã chết. Thông thƣờng thì giữa
ngƣời có tài sản và ngƣời sẽ đƣợc hƣởng tài sản có quan hệ họ hàng và có tình cảm

16


quý mến nhau. Giữa hai bên thƣờng không tồn tại sự ràng buộc về mặt pháp lý mà
chỉ thƣờng dựa trên sự thỏa thuận, dựa trên lòng tin.
Quan hệ giữa ngƣời lập tự và ngƣời hƣởng thừa tự cũng đã đƣợc pháp luật
Việt Nam điều chỉnh tại Thông tƣ số 81/TANDTC ngày 24/7/1981 của Toà án nhân
dân tối cao hƣớng dẫn giải quyết các tranh chấp về thừa kế. Theo hƣớng dẫn tại
Phần A Mục III quy định về diện và hàng thừa kế thì hàng thừa kế thứ nhất còn
gồm “người được nhận làm người thừa tự thì coi như con nuôi của người lập tự và
được thừa kế di sản của người đó.”[63]. Đây là văn bản pháp luật duy nhất điều
chỉnh vấn đề quan hệ giữa ngƣời lập tự với ngƣời hƣởng thừa tự, BLDS năm 1995
và BLDS năm 2005 đều không đề cập đến mối quan hệ này.
- Quan hệ giữa ngƣời sống nƣơng nhờ với các thành viên trong gia đình:
Thông tƣ số 81/TANDTC ngày 24/7/1981 của Toà án nhân dân tối cao hƣớng dẫn
giải quyết các tranh chấp về thừa kế. Theo hƣớng dẫn tại Phần A Mục III quy định
về diện và hàng thừa kế có hƣớng dẫn nếu ngƣời sống nƣơng nhờ sống cùng với

ngƣời cấp dƣỡng thì sẽ đƣợc hƣởng một phần di sản của ngƣời cấp dƣỡng. BLDS
năm 1995 và BLDS năm 2005; Luật HN&GĐ năm 1986 và Luật HN&GĐ năm
2000 không đề cập đến đối tƣợng này. Trong thực tế thì ngƣời sống nƣơng nhờ có
thể hoặc không có quan hệ họ hàng với các thành viên gia đình. Ví dụ: ông A bà B
là vợ chồng, hai ngƣời có con trai chung là C. Ông A chết sớm để lại ngƣời mẹ đẻ
của mình cho bà B nuôi. Bà B tái giá với ông D và sinh đƣợc con gái E. Bà B và
ông D vẫn tiếp tục nuôi mẹ đẻ của ông A. Xét về quan hệ huyết thống thì E và mẹ
đẻ ông A không có quan hệ họ hàng nhƣng anh cùng mẹ khác cha với E là C lại là
cháu ruột bà này. Mẹ đẻ ông A cũng không có quan hệ họ hàng hoặc bà là ngƣời
nuôi dƣỡng ông D. Nhƣng những ngƣời này vẫn sống chung với nhau, vẫn có quyền
và nghĩa vụ đối với nhau.
- Những ngƣời không có quan hệ huyết thống với nhau nhƣng do quý mến
nhau thì họ có thể kết thân với nhau bằng nhiều cách thức để tăng cƣờng tình cảm
hai bên với nhau nhƣ nhận nhau là anh em nuôi, anh em kết nghĩa hoặc nhận nhau
là cha mẹ nuôi và con nuôi. Những ngƣời này thƣờng tự nguyện gánh vác các công
việc gia đình của ngƣời mà mình nhận là anh em nuôi, cha mẹ nuôi nhƣng giữa họ
không tồn tại một thoả thuận có tính pháp lý nào nên các quan hệ này chỉ có tính
chất kết thân chứ không hoàn toàn mang tính chất gia đình.

17


1.3. CĂN CỨ XÁC ĐỊNH TÀI SẢN CHUNG
1.3.1. Tài sản của vợ chồng đƣợc hình thành trong thời kỳ hôn nhân
- Tài sản do vợ chồng tự tạo lập, do đƣợc tặng cho chung, đƣợc thừa kế chung.
Khoản 1 Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định: “Tài sản chung của vợ
chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất,
kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân;
tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung…”[46]. Quy
định trên đã cụ thể hóa Điều 58 Hiến pháp năm 1992 về quyền sở hữu của công

dân: “Công dân có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, nhà ở, tư
liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn và tài sản khác trong doanh nghiệp hoặc trong
các tổ chức kinh tế khác”. [30]
Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng cùng nhau lao động để tạo ra thu nhập
nhằm nuôi sống và phát triển gia đình. Việc tạo ra tài sản là việc vợ, chồng dựa theo
năng lực, chuyên môn và những điều kiện khác trực tiếp tạo ra tài sản bằng chính
sức lao động của mình. Tài sản cũng đƣợc gián tiếp tạo ra thông qua việc thiết lập
các giao dịch dân sự để thu lợi nhuận hoặc là những hoa lợi, lợi tức mà vợ chồng
thu đƣợc khi khai thác các giá trị của tài sản mà họ đã có. Việc tạo ra tài sản không
nhất thiết phải do cả hai ngƣời cùng lao động để tạo ra. Tài sản chung của vợ chồng
có thể chỉ do một ngƣời vợ hoặc ngƣời chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân. Thông
thƣờng trong cuộc sống gia đình Việt Nam thì ngƣời phụ nữ thƣờng mất nhiều thời
gian, công sức cho việc sinh đẻ, nuôi dạy con cái và làm các công việc nội trợ; vì
vậy cần phải coi làm các công việc nhà cũng là tham gia vào việc duy trì và phát
triển cuộc sống của gia đình. Điểm a khoản 2 Điều 95 Luật HN&GĐ 2000 quy
định: “lao động của vợ, chồng trong gia đình được coi như lao động có thu nhập”.
Khi một ngƣời thực hiện các công việc trong gia đình thì lao động của ngƣời tạo ra
thu nhập đã bao hàm cả lao động của ngƣời thực hiện các công việc trong gia đình.
Tài sản chung của vợ chồng không chỉ do lao động mà còn bao gồm cả các thu
nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Nghị quyết số
02/2000/NQ-HĐTP quy định những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng quy định
tại khoản 1 Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000 có thể là tiền thƣởng, tiền trợ cấp, tiền
hƣu trí, tiền trúng xổ số mà vợ chồng có đƣợc. Cũng có thể là những loại tài sản mà
vợ chồng có đƣợc thông qua việc xác lập quyền sở hữu theo quy định của BLDS

18


2005 nhƣ: xác lập quyền sở hữu trong điều kiện pháp luật quy định đối với vật bị
chôn giấu, bị chìm đắm đƣợc tìm thấy; vật bị đánh rơi, bị bỏ quên; gia súc gia cầm

bị thất lạc; vật nuôi dƣới nƣớc di chuyển tự nhiên.
Tài sản chung của vợ chồng có thể đƣợc hình thành qua con đƣờng nhận thừa
kế, nhận tặng cho chung. Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có thể đƣợc ngƣời thân,
bạn bè để thừa kế, tặng cho tài sản cho chung cả hai ngƣời. Những tài sản này là
một phần trong khối tài sản chung của vợ chồng.
- Tài sản riêng của vợ, chồng nhƣng đƣợc thoả thuận là tài sản chung hoặc
đƣợc xác định là tài sản chung. Những loại tài sản mà do thỏa thuận là tài sản chung
thông thƣờng là tài sản riêng của ngƣời vợ hoặc ngƣời chồng và về nguyên tắc thì
đây là tài sản riêng nhƣng vì lý do nào đó trong thời kỳ hôn nhân vợ, chồng thỏa
thuận với nhau sáp nhập tài sản riêng này vào tài sản chung của vợ chồng. Pháp luật
quy định nhƣ trên là phù hợp thực tế bởi khi gia đình đƣợc thiết lập thì việc một
ngƣời đƣa tài sản riêng của mình để sử dụng chung, phục vụ chung cho các nhu cầu
sinh hoạt của các thành viên gia đình cũng là nhằm để duy trì và phát triển gia đình.
Pháp luật tôn trọng sự định đoạt của chủ sở hữu (trong trƣờng hợp này là ngƣời vợ,
ngƣời chồng) trong việc định đoạt số phận pháp lý đối với tài sản thuộc quyền sở
hữu của riêng họ.
- Khoản 1 Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định: “Quyền sử dụng đất mà
vợ chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Quyền sử dụng đất
mà vợ hoặc chồng có được trước khi kết hôn, được thừa kế riêng chỉ là tài sản
chung khi vợ chồng có thỏa thuận”. Quyền sử dụng đất là một loại tài sản đặc biệt
có giá trị rất lớn. Pháp luật hôn nhân và gia đình quy định quyền sử dụng đất mà vợ
chồng có đƣợc sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng là nhằm bảo đảm
quyền bình đẳng giữa ngƣời vợ và ngƣời chồng trong quan hệ tài sản. Quyền sử
dụng đất là tài sản riêng của vợ, chồng chỉ đƣợc coi là tài sản chung của vợ chồng
khi vợ hoặc chồng đồng ý sáp nhập vào tài sản chung của vợ chồng.
1.3.2. Tài sản chung hình thành từ sự đóng góp của các thành viên trong
gia đình
- Các thành viên trong gia đình đóng góp vào khối tài sản chung của gia đình
tùy theo điều kiện kinh tế, khả năng lao động của mỗi ngƣời. Việc mỗi thành viên
trong gia đình đóng góp tài sản riêng của mình hoặc thỏa thuận với các thành viên


19


×