Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức hoạt động thi đua khen thưởng của viện kiểm soát nhân dân hai cấp thành phố đà nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.25 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
LỜI MỞ ĐẦU
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC PHONG TRÀO THI ĐUA
KHEN THƯỞNG
1.1.
1.2.
1.3.

Một số khái niệm
Vai trò của thi đua khen thưởng
Quy trình tổ chức chưởng trình thi đua, khen thưởng

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG THI ĐUA KHEN
THƯỞNG CỦA VIỆN KIỂM SOÁT NHÂN DÂN HAI CẤP THÀNH PHỐ
ĐÀ NẴNG
2.1.
2.1.1.
2.1.2.
2.2.
2.2.1.
2.2.2.
2.2.3.

2.3.
2.3.1.
2.3.2.

Giới thiệu về viện kiểm soát nhân dân Thành phố Đà Nẵng
Lịch sử hình thành


Tổ chức bộ máy
Thực trạng tổ chức hoạt động thi đua khen thưởng tại viện kiểm soát nhân
dân hai cấp Thành Phố Đà Nẵng
Về công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành trong thi đua khen thưởng
Về phát động, tổ chức thực hiện và kiểm tra, đánh giá công tác thi đua khen thưởng
Về bình xét các danh hiệu thi đua và đề nghị khen thưởng
2.2.4. Kết quả thực hiện công tác thi đua khen thưởng
Đánh giá chung
Những mặt tích cực
Những mặt hạn chế và tồn tại
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG
THI ĐUA KHEN THƯỞNG CỦA VIỆN KIỂM SOÁT NHÂN DÂN HAI CẤP
THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

3.1.
3.2.
3.3.
3.4.

Về công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành
Về công tác phát động, triển khai và tổng kết các phong trào thi đua
Đảm bảo nguyên tắc công bằng, dân chủ trong xét, duyệt các danh hiệu thi
đua và hình thức khen thưởng
Nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức làm công tác thi đua, khen
thưởng


3.5.
3.6.


Xây dựng hệ thống chỉ tiêu thi đua bám sát hệ thống chỉ tiêu nghiệp vụ theo
quy định của Ngành
Tăng cường công tác hướng dẫn, kiểm tra trong công tác thi đua khen thưởng
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Thi đua khen thưởng : TĐKT
Viện kiểm soát nhân dân: VKSND
Thành phố Đà Nẵng: TP ĐN


LỜI MỞ ĐẦU
Nhấn mạnh vai trò quan trọng của công tác Thi đua khen thưởng, Bác Hồ
từngnói: “Thi đua là gieo trồng, khen thưởng là thu hoạch”. Các chính sách nhân
sựtrong một tổ chức, doanh nghiệp nói chung cũng như chính sách thi đua
khenthưởng nói riêng phần nào thể hiện quan điểm của lãnh đạo công ty, văn hóa
côngty, góp phần quan trọng trong việc tuyển dụng, tuyển mộ nhân tài cho tổ chức.
Quychế Thi đua khen thưởng là văn bản đảm bảo cho sự hoạt động của công tác thi
đuakhen thưởng, các chương trình, hoạt động thi đua khen thưởng diễn ra theo
những nguyên tắc, mục tiêu nhất định và đem lại hiệu quả cao cho tổ chức
Với những yêu cầu mới, thách thức mới của việc thực hiện nhiệm vụ chính trị
được giao trong giai đoạn cả nước đang bước nhanh, bước mạnh, bước vững chắc
vào thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, tiến tới hội nhập sâu rộng hơn
vào nền kinh tế khu vực và thế giới thì vai trò, nhiệm vụ của cho các cấp, các
ngành ngày càng mở rộng. Luật Thi đua Khen thưởng 2003 (được sửa đổi, bổ
sung năm 2005 và 2013) và các nghị định, thông tư hướng dẫn các tiêu chí thi đua,
danh hiệu thi đua đã được cụ thể hóa làm cơ sở triển khai thực hiện các phong trào
thi đua, khen thưởng và tạo chuyển biến tích cực, tạo động lực cho các cấp, các

ngành thực hiện phong trào trong những năm qua. Công tác thi đua, khen thưởng
có vai trò quan trọng, vừa là mục đích vừa là động lực góp phần hoàn thành tốt
nhiệm của Ngành. Trong những năm qua công tác này luôn được lãnh đạo Viện
quan tâm. Hàng năm, sau khi có Chỉ thị về công tác thi đua của Viện trưởng
VKSND tối cao, VKSND thành phố đều kịp thời xây dựng Kế hoạch, phương
hướng, nhiệm vụ công tác thi đua, bám sát Chỉ thị, Kế hoạch công tác thi đua của
Ngành, đơn vị; phát động, theo dõi, đôn đốc, kiểm tra hướng dẫn, tổng hợp và
thông báo tiến độ, kết quả thi đua của VKSND hai cấp thành phố. Bên cạnh những
kết quả đạt được, công tác thi đua, khen thưởng vẫn còn một số tồn tại nhất định…
cần có các giải pháp để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác này tại VKSND hai
cấp thành phố trong thời gian tới.
Đó là những lý do mà em chọn đề tài “ Giải pháp nâng cao hiệu quả tổ chức
hoạt động thi đua khen thưởng của viện kiểm soát nhân dân hai cấp Thành
Phố Đà Nẵng” làm đề tài tiểu luận cho học phần “xây dựng quy chế thi đua khen
thưởng” của mình.


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC PHONG TRÀO THI ĐUA
KHEN THƯỞNG
Một số khái niệm
Thi đua
Trong luật thi đua khen thưởng cũng đã chỉ rõ: “ Thi đua là hoạt động có tổ chức
với sự tham gia tự nguyện của cá nhân, tập thể nhằm phấn đấu đạ được thành tích
tốt nhất trong xây dựng và bảo về tổ quốc”.
Khen thưởng
Theo luật thi đua khen thưởng: “ Khen thưởng là việc ghi nhận, biểu dương, tôn
vinh công trạng và khuyến khích bằng lợi ích vật chất đối với cá nhân, tập thể có
thành tích trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.
Thi đua khen thưởng

Thi đua khen thưởng là hoạt động nhằm thúc đẩy sự nỗ lực trong thực hiện công
việc của người lao động.
Tổ chức phong trào thi đua khen thưởng
Tổ chức phong trào thi đua khen thưởng là một quá trình gồm nhiều bước, được
xây dựng bởi sáng kiến của người lao động cùng với sự củng cố, giám sát của lãnh
đạo, công đoàn trên cơ sở một cách khoa học, hợp lý.
1.2.
Vai trò của thi đua khen thưởng
Đối với người lao động
Thi đua, khen thưởng có vai trò kích thích, thúc đẩy người lao động phát huy năng
lực, tư duy sáng tạo và làm việc khoa học.
Người lao động có cơ hội nâng cao thu nhập và giá trị bản thân, có cuộc sống gia
đình ấm no, hạnh phúc.
Có cơ hội nâng cao giá trị bản thân, được mọi người tôn trọng.
Người lao động họ sẽ tự tin hơn, có tâm lý tốt hơn khi thực hiện công việc vì họ
luôn tự xem xét chính mình, luôn chú ý cải sửa chính mình.
Được tổ chức tín nhiệm, cơ hội thăng tiến sẽ cao, tài năng sẽ được công nhận và
phát triển.
Có cơ gội gắn bó với tổ chức, yêu công việc.
Đối với tổ chức
Thi đua khen thưởng là biện pháp tuyên truyền, giáo dục tích cực để động viên ý
chí sáng tạo, ý chí quyết tâm, năng lực hoạt động thực tiễn của tập thể lao động
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ mà cấp trên giao.
Là phương tiện thu hút rộng rãi những nghười lao động tham gia vào quá trình sản
xuất.
1.1.











-

-


-




-

Tạo ra tinh thần doàn kết nhất trí trong tập thể lao động, giúp tổ chức giữ chân
nhân viên.
Nâng cao năng suất lao động, giảm giá thành sản phẩm, tăng tính cạnh tranh của tổ
chức, doanh nghiệp.
Giảm chi phí đào tạo, tuyển dụng,.. cho tổ chức.
Năng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Nâng cao uy tín của tổ chức.
Góp phần xây dựng quan hệ lao động, văn hóa tổ chức.
Giúp tổ chức thực thi quy định của pháp luật
1.3.
Quy trình tổ chức chưởng trình thi đua, khen thưởng
Quy trình tổ chức chưởng trình thi đua, khen thưởng gồm 3 bước:

Bước 1. Chuẩn bị
Xác dịnh mục tiêu của TĐKT
Thành lập hội đồng TĐKT
Xác định hình thức, nội dung TĐKT
Xây dựng tiêu chí đánh giá
Xác định thời gian, địa điểm, chi phí
Nhân lực tham gia
Lựa chọn tổ chức cung cấp dịch vụ
Xây dựng văn bản, giấy tờ cần thiết, công cụ sử dụng
Bước 2. Thực hiện
Tuyên truyền, phổ biến về cuộc thi
Thu hút, lựa chọn đối tượng dự thi
Theo dõi, đánh giá trong quá trình thi đua
Phối hợp các cấp và có điều chỉnh cần thiết
Tổng kết, trao giải
Bước 3. Đánh giá hiệu quả chương trình TĐKT
Chỉ tiêu đánh giá
Tỷ lệ hoàn thành mục tiêu
Số lượng lao động tham gia/ kế hoạch
Các danh hiệu đạt được
Kết quả/ chi phí
Thay đổi về quan hệ lao động, môi trường làm việc
Thay đổi về kết quả thực hiện công việc
Đánh giá hiệu quả
Mức độ hài lòng của người lao động
Tính chính xác, khách quan trong đánh giá
Mức độ phù hợp về thời gian, địa điểm
Sự phối hợp các cấp trong quá trình tổ chức



CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢ TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG THI ĐUA
KHEN THƯỞNG CỦA VIỆN KIỂM SOÁT NHÂN DÂN HAI CẤP THÀNH
PHỐ ĐÀ NẴNG
1.
1.1.

Tổng quát vê viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng
Lịch sử hình thành
Chiến thắng vĩ đại mùa xuân năm 1975 đưa đất nước ta bước vào kỷ nguyên
mới - Kỷ nguyên độc lập dân tộc thống nhất Tổ quốc và toàn vẹn lãnh thổ, mở đầu
thời kỳ cả nước đi lên chủ ngiã xã hội. Để thiết lập chính quyền chuyên chính vô
sản, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, cải tạo và xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở các vùng mới giải phóng.
Thi hành chủ trương của Trung ương và Khu uỷ Khu V về việc nhập tỉnh để đáp
ứng yêu cầu xây dựng kinh tế, phát triển văn hoá, củng cố quốc phòng, xây dựng
đất nước; căn cứ Quyết định số 119/QĐ ngày 04 tháng 10 năm 1975 của Uỷ ban
nhân dân cách mạng Khu Trung Trung bộ về việc sáp nhập tỉnh Quảng Nam, tỉnh
Quảng Đà, giải thể Uỷ ban nhân dân cách mạng hai tỉnh và thành lập Uỷ ban nhân
dân cách mạng tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng. Trên cơ sở đó, ngày 10 tháng 10 năm
1975 Uỷ ban nhân dân cách mạng Khu Trung Trung bộ ra Quyết định số 133/QĐ
về việc sáp nhập các Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam và tỉnh Quảng Đà


thành Viện kiểm sát tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng; đồng thời bổ nhiệm đồng chí
Hoàng Thị Kim Thành giữ chức vụ Viện trưởng, đồng chí Phan Chất nguyên Phó
Viện trưởng Viện kiểm sát Nam Hà giữ chức vụ Phó Viện trưởng.
Chiếu theo điều 10, 17 và điều 20 Sắc lệnh số 01 - SL/76 ngày 15 tháng 3 năm
1976 của Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời quy định tổ chức Toà án nhân
dân và Viện kiểm sát nhân dân các cấp; để đảm bảo pháp chế được chấp hành
nghiêm chỉnh và thống nhất ở các tỉnh Miền Nam sau giải phóng, ngày 23 tháng 4

năm 1976 Bộ trưởng Bộ Tư pháp ban hành Nghị định số 09 - BTP/NĐ về việc
thành lập các Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, trong
đó có Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, sau này được chia tách
thành: tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà Nẵng.
Thẩm quyền và nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh được quy định
trong Sắc lệnh số 01 - SL/76 ngày 15 tháng 3 năm 1976 của Hội đồng Chính phủ
cách mạng lâm thời. Nói về hệ thống kiểm sát, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm
sát nhân dân các tỉnh, thành phía Nam, đồng chí Nguyễn Văn Đức, Phó Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao viết:
“ ... tháng 6 năm 1976, Quốc hội quyết định thống nhất về mặt nhà nước và từ
đấy các Viện kiểm sát nhân dân các tỉnh, thành phía Nam được tổ chức và hoạt
động thống nhất theo Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân chung cho cả nước.
Lúc này, các Viện kiểm sát nhân dân địa phương từng bước thực hiện chức năng
kiểm sát, trước tiên vẫn tập trung làm công tác kiểm sát hình sự: Kiểm sát điều tra,
kiểm sát xét xử, giữ quyền công tố trước phiên toà xét xử các vụ án hình sự. Còn
về chức năng giám sát thi hành pháp luật qua phương thức kiểm sát chung cũng
được thực hiện từng bước, phát hiện những vi phạm pháp luật trong một số cơ
quan quản lý kinh tế, kiến nghị khắc phục sửa chữa.
Trong thời kỳ này, hệ thống kiểm sát cũng được hình thành đến cấp huyện, kể cả
những huyện xa, các huyện miền núi...” (Trích trong Tạp chí kiểm sát kỷ niệm 35
năm thành lập ngành).
Căn cứ Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân được công bố ngày 26 tháng 7 năm
1960, chức năng cơ bản của ngành là: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật, thực hành
quyền công tố, đảm bảo cho pháp luật được chấp hành một cách nghiêm chỉnh và
thống nhất, pháp chế dân chủ nhân dân được giữ vững.
Điều 3, Luật ghi rõ: Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân
địa phương các cấp thi hành nhiệm vụ trên bằng cách:
a) Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong các nghị quyết, quyết định, thông tư,
chỉ thị và biện pháp của các cơ quan thuộc Hội đồng Chính phủ và cơ quan Nhà
nước địa phương; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của nhân viên cơ quan Nhà

nước và của công dân.


1.2.



-

b) Điều tra những việc phạm pháp về hình sự và truy tố trước Toà án nhân dân
những người phạm pháp về hình sự.
c) Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc điều tra của cơ quan Công an và
của cơ quan điều tra khác;
d) Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử của các Toà án nhân dân
và trong việc chấp hành các bản án;
e) Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giam giữ của các trại giam;
g) Khởi tố, hoặc tham gia tố tụng trong những vụ án dân sự quan trọng liên quan
đến lợi ích của Nhà nước và của nhân dân.
Từ khi sáp nhập hai Viện kiểm sát (năm 1975) và thành lập mới (năm 1976),
trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân theo luật định và
hướng dẫn của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng
Nam - Đà Nẵng đã tiếp tục hoạt động cho đến hết năm 1996.
Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội khoá IX ngày 06 tháng 11 năm 1996 về việc
chia tách tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng thành hai tỉnh Quảng Nam và thành phố Đà
Nẵng, ngày 28 tháng 12 năm 1996 Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã
ban hành Quyết định số 15/QĐ-TC về việc thành lập Viện kiểm sát nhân dân thành
phố Đà Nẵng.
Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng bắt đầu hoạt động từ ngày 01 tháng
01 năm 1997.
Tổ chức bộ máy

Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng được thành lập vào năm 1997 trên
cơ sở chia tách từ Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Nam- Đà nẵng. Viện kiểm
sát nhân dân thành phố Đà Nẵng hiện nay có 11 phòng và 07 Viện kiểm sát nhân
dân quận, huyện, gồm:
LÃNH ĐẠO VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TP ĐÀ NẴNG
Viện trưởng: Đồng chí Trần Thanh Vân, Thành uỷ viên, Bí thư Ban cán sự
Các phó Viện trưởng gồm các đồng chí : Phan Trường Sơn, Nguyễn Hữu Linh
CÁC PHÒNG TRỰC THUỘC
Phòng Thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm án kinh
tế- chức vụ ( phòng 1)
Phòng Thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử sơ thẩm án trị
an- an ninh ( phòng 2)
Phòng Kiểm sát xử xử phúc thẩm, giám đốc thẩm tái thẩm hình sự ( phòng 3)
Phòng Kiểm sát người bị tạm giữ, tạm giam, quản lý, giáo dục người chấp hành
hình phạt tù ( phòng 4 )
Phòng Kiểm sát giải quyết án dân sự, ( phòng 5)
Phòng Kiểm sát giải quyết đơn khiếu nại tố cáo ( phòng 7 )


-

2.

Phòng Tổ chức - cán bộ ( phòng 9 )
Phòng Kiểm sát thi hành án ( phòng 10)
Văn phòng tổng hợp
Phòng Thống kê tội phạm và Công nghệ thông tin
Phòng phòng Kiểm sát giải quyết các vụ án hành chính, kinh tế, lao động và những
việc khác theo quy định của pháp luật (phòng 12 )
• CÁC VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN QUẬN, HUYỆN TRỰC

THUỘC
VKSND quận Hải Châu
VKSND quận Thanh Khê
VKSND quận Liên Chiểu
VKSND quận Sơn Trà
VKSND quận Ngũ Hành Sơn
VKSND quận Cẩm Lệ
VKSND huyện Hoà Vang
Thực trạng tổ chức hoạt động thi đua khen thưởng tại viện kiểm soát nhân
dân hai cấp Thành Phố Đà Nẵng”
Công tác thi đua khen thưởng tại VKSNDTP Đà Nẵng đã có nhiều chuyển biến
tích cực

2.1.

Chú trọng công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành trong thi đua khen thưởng
Trong những năm qua, công tác quản lý, chỉ đạo điều hành nói chung và trong
công tác thi đua khen thưởng nói riêng được Lãnh đạo Viện duy trì thường xuyên.
Thông qua các cuộc họp giao ban hàng tuần, hàng quý để rút kinh nghiệm công
tác, đánh giá những kết quả đã đạt được, những tồn tại và nguyên nhân cũng như
đề ra những biện pháp, giải pháp khắc phục. Lãnh đạo Viện phụ trách địa bàn
xuống họp với VKSND quận, huyện hàng tháng để nghe những khó khăn vướng
mắc của cơ sở, có chỉ đạo kịp thời.
Ngay từ đầu năm công tác, VKSND thành phố đã phát động phong trào xây
dựng các đề tài, sáng kiến về giải pháp công tác, sáng kiến về cải tiến phương pháp
làm việc để nâng cao hiệu quả công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt
động tư pháp cũng các hoạt động thực hiện nhiệm vụ khác. Trong 03 năm 20142016, Hội đồng Sáng kiến đã xét duyệt và công nhận 117 sáng kiến và đăng trên
Trang tin điện tử VKSND thành phố để cán bộ, công chức trong Ngành tham khảo,
vận dụng vào thực tiễn công việc.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Ngành,

VKSND thành phố đã cường ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản


lý,chỉ đạo điều hành. Các văn bản quản lý, chỉ đạo, điều hành, hướng dẫn về công
tác thi đua khen thưởng của Đảng, Nhà nước, VKSND Tối cao và VKSND thành
phố đều được đăng tải công khai trên trang tin điện tử tại địa chỉ vksdanang.gov.vn
hoặc mạng nội bộ của hai cấp Kiểm sát.
Lãnh đạo VKS hai cấp đã tổ chức nhiều buổi sinh hoạt đơn vị, trao đổi những
kiến thức về lý luận kiến thức nghiệp vụ; đánh giá tình hình của đơn vị, tình hình
vi phạm, tội phạm trên địa bàn… để quán triệt tinh thần rèn luyện cho toàn thể cán
bộ, Kiểm sát viên phải không ngừng rèn luyện nâng cao phẩm chất chính trị, nâng
cao hiệu quả công tác, xây dựng hình ảnh người cán bộ Kiểm sát theo lời Bác Hồ
dạy “Công minh, chính trực, khách quan, thận trọng, khiêm tốn”.
Bên cạnh việc bình xét thi đua và khen thưởng định kỳ 06 tháng, năm theo quy
định chung của Ngành, để động viên kịp thời và khích lệ tinh thần làm việc của cán
bộ công chức trong Ngành, Lãnh đạo VKSND thành phố còn chú trọng thực hiện
khen thưởng đột xuất cho những đơn vị và cá nhân có thành tích xuất sắc trong
những đợt thi đua ngắn hạn hoặc gắn với từng khâu công tác cụ thể như: Khen
thưởng tập thể và cá nhân có thành tích xuất sắc trong công tác tuyên truyền; Khen
thưởng cho tập thể và cá nhân có thành tích xuất sắc trong dịp kỷ niệm thành lập
Ngành….
2.2.

Về phát động, tổ chức thực hiện và kiểm tra, đánh giá công tác thi đua khen
thưởng.
Lãnh đạo VKSND thành phố tiếp tục xác định công tác thi đua, khen thưởng là
một trong những công tác quan trọng, là trách nhiệm của toàn Ngành trong việc tổ
chức, triển khai xây dựng đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên đạt chất lượng cao nhất,
phục vụ tốt nhất việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Ngành và nhiệm vụ chính
trị địa phương, gắn liền với triển khai thực hiện kịp thời và đạt hiệu quả cao Nghị

quyết của Quốc hội, Luật tổ chức VKSND năm 2014; tăng cường kỷ cương, kỷ
luật và trật tự nội vụ theo các Chỉ thị của VKSND tối cao và của Ban Thường vụ
Thành ủy.
Hàng năm, ngay sau khi nhận được Chỉ thị công tác thi đua, khen thưởng của
VKSND Tối cao, Lãnh đạo VKSND thành đã tổ chức quán triệt đến thủ trưởng các
đơn vị trực thuộc và toàn thể cán bộ, Kiểm sát viên hai cấp kiểm sát. Trên cơ sở đó,
VKSND thành phố đã xây dựng Kế hoạch công tác thi đua, khen thưởng hàng
năm, trong đó xác định các nhiệm vụ trọng tâm, các chỉ tiêu cần đạt và đề ra các
biện pháp, giải pháp công tác để thực hiện. Các đơn vị trực thuộc cũng xây dựng
các Chương trình công tác thi đua của đơn vị mình để cụ thể hóa Chỉ thị công tác


thi đua, khen thưởng của VKSND Tối cao và Kế hoạch công tác thi đua, khen
thưởng của VKSND thành phố phù hợp với và theo quy định của Ngành và điều
kiện thực tế tại đơn vị.
Đồng thời, tổ chức cho 100% cán bộ, Kiểm sát viên 2 cấp đăng ký thi đua định
kỳ hàng năm, tổ chức ký giao ước thi đua giữa các đơn vị. Cùng với đăng ký thực
hiện thi đua theo những nội dung tiêu chí của các phong trào thi đua, các đợt thi
đua; cán bộ, Kiểm sát viên trong đơn vị còn tích cực gắn thi đua với việc thực hiện
có hiệu quả “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, với việc thực
hiện Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) và thực hiện các chỉ tiêu cơ bản, nhiệm
vụ, giải pháp trọng tâm được xác định trong các Nghị quyết của Quốc Hội, Chỉ thị
công tác hàng năm của Viện trưởng VKSND tối cao; Kế hoạch công tác của Viện
trưởng VKSND thành phố.
Công tác hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện các phong trào thi đua của
từng cán bộ, Kiểm sát viên được thực hiện thường xuyên; qua đó, kịp thời biểu
dương, khen thưởng những nhân tố điển hình, những tấm gương tiêu biểu; chấn
chỉnh, khắc phục những thiếu sót, hạn chế trong việc các phong trào thi đua.
Bên cạnh thực hiện các phong trào thi đua, khen thưởng do VKSND Tối cao và
UBND thành phố phát động, VKSND thành phố còn tổ chức nhiều hoạt động thi

đua tiêu biểu như:Thi tìm hiểu về Luật Tổ chức VKSND năm 2014; Thi “Chúng
tôi là Kiểm sát viên”; Tổ chức Hội nghị điển hình tiên tiến giai đoạn 2011-2015;
Tổ chức giải bóng đá mini, cầu lông, cờ vua, cờ tướng trong các dịp kỷ niệm thành
lập Ngành, các ngày lễ lớn của đất nước và thành phố Đà Nẵng … và các hoạt
động thi đua sôi nổi khác. Những hoạt động này vừa thực hiện các nhiệm vụ, chỉ
tiêu công tác nhưng cũng tạo ra một không khí thi đua làm việc, phấn đấu của cán
bộ, Kiểm sát viên trong toán Ngành.
2.3.

Về bình xét các danh hiệu thi đua và đề nghị khen thưởng.
VKSND hai cấp đã có nhiều cố gắng trong xây dựng các sáng kiến áp dụng
trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của VKSND hai cấp, đổi mới trong công tác
thi đua khen thưởng,…Đa số tập thể, cá nhân được bình xét đều đúng đối tượng,
đạt tiêu chuẩn và gửi đúng thời hạn theo qui định, nhiều đơn vị đã chú trọng đến
bình xét người lao động trong đơn vị, góp phần biểu dương những tập thể, cá nhân
tiêu biểu có đóng góp cho sự phát triển của VKSND hai cấp.
Trong quá trình bình xét các danh hiệu thi đua, các đơn vị đã căn cứ vào tiêu
chuẩn, mức độ hoàn thành các chỉ tiêu công tác của các cá nhân để đề nghị công


nhận các danh hiệu thi đua và khen thưởng hợp lý, công bằng. Tình trạng cộng dồn
các danh hiệu thi đua như thời kỳ trước hiện nay đã không còn mà thay vào đó
bằng việc xét và đề nghị khen thưởng những người xứng đáng, có thành tích hoặc
cống hiến trong công tác. Nguyên tắc bình đẳng, công bằng được Hội đồng thi đua
khen thưởng quán triệt và thực hiện triệt để. Công tác thi đua, khen thưởng trong
những năm gần đây của VKSND thành phố đã không để xảy ra tình trạng bất bình
đẳng, mất công bằng hay những khiếu nại của các tập thể và cá nhân có liên quan.
2.2.4.

-


Kết quả thực hiện công tác thi đua khen thưởng

Đối với tập thể:
- Tặng Cờ thi đua Ngành:
Đề nghị Viện trưởng VKSND tối cao tặng “Cờ thi đua ngành Kiểm sát
nhân dân” năm 2017cho 03 tập thể thuộc Viện kiểm sát nhân dân
thành phố Đà Nẵng,
Tặng Bằng khen:
Đề nghị Viện trưởng VKSND Tối cao tặng “Bằng khen”cho 02 tập thể
hai năm liên tục đạt danh hiệu tập thể lao động xuất sắc (2016 - 2017)
• Đối với cá nhân:
- Công nhận danh hiệu “Chiến sỹ thi đua Ngành”:
Đề nghị Viện trưởng VKSND Tối cao tặng danh hiệu“Chiến sỹ thi đua
Ngành kiểm sát nhân dân”cho 04 đồng chí đã ba năm liền đạt danh
hiệu Chiến sỹ thi đua .
- Tặng Bằng khen:
Đề nghị Viện trưởng VKSND Tối cao tặng “Bằng khen”cho 08 cá
nhân đủ

Đối với tập thể:
Tập thể lao động tiên tiến:
Viện trưởng VKSND thành phố Đà Nẵng công nhận danh hiệu“Tập thể lao động
tiên tiến”cho 19 đơn vị.
Tập thể lao động xuất sắc:
Viện trưởng VKSND thành phố Đà Nẵng công nhận danh hiệu“Tập thể lao động
xuất sắc” cho 06 đơn vị
Lao động tiên tiến:
Viện trưởng VKSND thành phố Đà Nẵng công nhận danh hiệu“Lao động tiên
tiến”cho 197 cá nhân.

Chiến sỹ thi đua cơ sở:


-

-

-

-


-

Viện trưởng VKSND thành phố Đà Nẵng công nhận danh hiệu“Chiến sỹ thi đua
cơ sở” năm 2017cho 30 cá nhân
Tặng Giấy khen của Viện trưởng VKSND TP Đà Nẵng cho các cá nhân có thành
tích xuất sắc trong công tác xây dựng sáng kiến năm 2017:
Viện trưởng VKSND thành phố Đà Nẵng tặng Giấy khen cho 15 cá nhân có
thành tích xuất sắc trong công tác xây dựng sáng kiến năm 2017.

3.
3.1.

Đánh giá chung
Những mặt tích cực
Nhìn chung, VKS hai cấp thành phố đã có nhiều cố gắng trong xây dựng các sáng
kiến, giải pháp công tác hữu ích áp dụng trong thực tiễn vào thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của VKS hai cấp, đổi mới trong công tác thi đua khen thưởng,…Đại đa
số tập thể, cá nhân được bình xét đều đúng đối tượng, đạt tiêu chuẩn theo qui

định; các văn bản qui định đối tượng, tiêu chuẩn xét các danh hiệu thi đua, khen
thưởng và các danh sách cá nhân, tập thể đủ tiêu chuẩn xét tặng các danh hiệu thi
đua, khen thưởng được công bố công khai lấy ý kiến trên trang thông tin điện tử
của VKSND thành phố, góp phần vinh danh những tập thể, cá nhân tiêu biểu.

3.2.

Những tồn tại và nguyên nhân
.Bên cạnh những kết quả đạt được vẫn còn một số đơn vị bình xét, đề xuất các
danh hiệu thi đua, khen thưởng không đúng đối tượng, không đủ tiêu chuẩn xét
danh hiệu thi đua, khen thưởng theo qui định.
Về đối tượng xét các danh hiệu thi đua: Một số đơn vị đề nghị xét các danh hiệu
thi đua “Lao động tiên tiến” đối với trường hợp không thuộc đối tượng xét thi đua,
khen thưởng của VKSND thành phố theo Điểm 2, mục I, Quy chế về việc xét thi
đua khen thưởng hàng năm ban hành kèm theo Quyết định số 05/QĐ-VKS, ngày
21/ 4/ 2014 của Viện trưởng VKSND thành phố quy định: “2. Đối tượng thi đua
khen thưởng là cán bộ, công chức và người lao động hợp đồng theo Nghị định
68/CP và các đơn vị trực thuộc Viện kiểm sát nhân dân thành phố Đà Nẵng” .Năm
2014 có 04 trường hợp: VKS T - 01 trường hợp, VKS S - 01 trường hợp, VKS N 02 trường hợp. Năm 2015 có 01 trường hợp nghỉ trên 40 ngày làm việc không
thuộc đối tượng xét thi đua, khen thưởng của VKSND thành phố nhưng vẫn được
Phòng 11 đề nghị xét danh hiệu thi đua “Lao động tiên tiến”. Việc đề nghị này là
không đúng theo quy định tại Khoản 6 Điều 5 Nghị định số 65/2014/NĐ-CP ngày
01/7/2014 của Chính phủ “Quy định chi tiết thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật thi đua, khen thưởng năm 2013”, và các Điều 1, 2 và Khoản 4, Điều
13, Quy chế thi đua, khen thưởng trong ngành Kiểm sát nhân dân, ngày 03/7/2008


của VKSND tối cao (gọi tắt là Quy chế 307) quy định tiêu chuẩn danh hiệu “Lao
động tiên tiến ”quy định:“Không xét tặng danh hiệu “Lao động tiên tiến” “Chiến
sỹ tiên tiến” đối với một trong các trường hợp: Mới tuyển dụng dưới 10 tháng,

nghỉ từ 40 ngày làm việc trở lên, bị kỷ luật từ hình thức khiển trách trở
lên.” và“Cá nhân nghỉ làm việc từ 40 ngày trở lên, không thuộc diện xem xét, bình
bầu các danh hiệu thi đua trong năm”.
Về tiêu chuẩn xét các danh hiệu thi đua: Một số cá nhân mặc dù được đơn vị
quản lý trực tiếp đánh giá, xếp loại công chức cuối năm “Hoàn thành nhiệm vụ”
song lại được đơn vị đề nghị Hội đồng Thi đua khen thưởng VKSND thành phố
tặng danh hiệu “Lao động Tiên tiến”. Việc đề nghị này là không đúng quy định tại
các Điều 1, 2 và Khoản 4, Điều 13, Quy chế thi đua, khen thưởng trong ngành
Kiểm sát nhân dân, ngày 03/7/2008 của VKSND tối cao (gọi tắt là Quy chế 307)
qui định tiêu chuẩn danh hiệu “Lao động tiên tiến” (Năm 2014 là 02 trường hợp).
Một số trường hợp không có sáng kiến, giải pháp công tác được Hội đồng sáng
kiến VKSND thành phố công nhận nhưng vẫn được đơn vị bầu, đề xuất và làm báo
cáo thành tích Chiến sĩ thi đua cơ sở là không đúng với quy định tại Khoản 3, Điều
13, Quy chế 307 qui định về tỉ lệ bình bầu và tiêu chuẩn “Chiến sĩ thi đua cơ sở”.
Trong năm 2015, có 01 trường hợp đã được Viện trưởng VKSND Tối cao công
nhận danh hiệu Chiến sỹ thi đua ngành năm 2014 nhưng năm 2015 đơn vị trực tiếp
vẫn tiếp tục đề nghị VKSND Tối cao tặng Bằng khen là không đúng với nguyên
tắc khen thưởng quy định tại Khoản 4 Điều 2 Nghị định số 65/2014/NĐ-CP ngày
01/7/2014 của Chính phủ “Quy định chi tiết thi hành Luật sửa đổi, bổ sung một
số điều của Luật thi đua, khen thưởng năm 2013”: “Thời gian để đề nghị khen
thưởng cho lần tiếp theo được tính từ khi có quyết định khen thưởng lần trước”.
Cá biệt, có 01 trường hợp (VKS S) đề nghị VKSND Tối cao tặng thưởng cho cả
03 hình thức: Chiến sỹ thi đua Ngành, Bằng khen của Viện trưởng VKSND tối cao,
và Chiến sỹ Thi đua Toàn quốc là vi phạm nguyên tắc khen thưởng quy định tại
Điểm b Khoản 2 Điều 6 Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thi đua, khen
thưởng năm 2013:“Một hình thức khen thưởng có thể tặng nhiều lần cho một đối
tượng; không tặng thưởng nhiều hình thức cho một thành tích đạt được”.
Bên cạnh nhiều đơn vị đã căn cứ vào tiêu chuẩn, mức độ hoàn thành các chỉ tiêu
công tác để bình xét thi đua, còn một số đơn vị, cá nhân không hoàn thành các chỉ
tiêu công tác hoặc để xảy ra nhiều sai sót trong công tác nghiệp vụ như: án hủy, án

đình chỉ có trách nhiệm của Kiểm sát viên, trả hồ sơ điều tra bổ sung vượt chỉ tiêu
qui định..; để xảy ra vi phạm kỷ luật nghiệp vụ, kỷ luật lao động…,nhưng vẫn đề
nghị Viện trưởng VKSND cấp trên khen thưởng.


Về đề xuất tỷ lệ khen thưởng: Đa số các đơn vị đã thực hiện nghiêm túc, chính
xác và đề xuất tỷ lệ khen thưởng hợp lý theo đúng hướng dẫn của VKSND Tối cao
và VKSND thành phố. Tuy nhiên, trong các phong trào thi đua định kỳ như phong
trào thi đua“Thực hiện cuộc vận động xây dựng đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên
vững về chính trị, giỏi về nghiệp vụ, tinh thông về pháp luật, công tâm và bản lĩnh,
kỷ cương và trách nhiệm” và phong trào thi đua “Thực hiện Nghị quyết Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ XI ” và hưởng ứng phong trào “Cả nước chung sức xây
dựng nông thôn mới” một số đơn vị chưa thực hiện tốt công việc này như các
VKSND quận C, L, N. Các vị chưa chấp hành nghiêm túc Hướng dẫn số 458/HDVKSTC-TĐKT của VKSND tối cao, đã đề nghị Viện trưởng VKSND tối cao tặng
Bằng khen vượt tỷ lệ từ 50% đến 60% so với quy định. Điều này không những trái
Hướng dẫn của VKSND tối cao mà còn gây khó khăn, kéo dài thời gian thẩm định
của Hội đồng Thi đua, khen thưởng.
Để khắc phục tình trạng không có thành tích nhưng vẫn đề nghị khen thưởng về
phong trào thi đua “Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI ” và
hưởng ứng phong trào “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới”, VKSND
thành phố đã có công văn số 236/VKS-VP, ngày 16/5/2016 về lưu ý trong đề nghị
xét, đề nghị khen thưởng trong các phong trào thi đua đợt 1 năm 2016, trong đó
lưu ý:Để việc khen thưởng đối với phong trào thi đua này có ý nghĩa thiết thực,
Hội đồng Thi đua - Khen thưởng chỉ xét, đề nghị khen thưởng cho các tập thể và
cá nhân thực hiện tốt nhiệm vụ và có những đóng góp thiết thực, cụ thể trong việc
xây dựng và phát triển nông thôn được nêu trong báo cáo thành tích đề nghị khen
thưởng; Không xét đề nghị khen thưởng cho các tập thể, cá nhân không có đóng
góp thiết thực và cụ thể trong việc xây dựng và phát triển nông thôn mới. Mặc dù
VKSND thành phố đã có hướng dẫn cụ thể như đã nêu trên, song một số đơn vị, cá
nhân không có đóng góp thiết thực, cụ thể trong việc xây dựng và phát triển nông

thôn mới, thậm chí trong báo cáo thành tích đề nghị khen thưởng của một số tập
thể, cá nhân chỉ báo cáo chung chung, không nêu được những công việc thiết thực
và cụ thể trong việc xây dựng và phát triển nông thôn mới nhưng vẫn được đơn vị
bình bầu đề nghị khen thưởng (Bằng khen, Giấy khen). Do đó, Hội đồng Thi đuakhen thưởng đã không xét khen thưởng cho một số tập thể và 16 cá nhân không đủ
tiêu chí khen thưởng.
Về công tác xây dựng sáng kiến:Bên cạnh kết quả đạt được, công tác xây dựng
sáng kiến còn một số tồn tại như: một số tác giả chưa hiểu đúng, hiểu rõ thế nào là
sáng kiến và thủ tục xét, công nhận sáng kiến; Một số sáng kiến chất lượng chưa
cao như: tên sáng kiến và nội dung không phù hợp; có sáng kiến quá sơ sài (chưa
tới 05 trang), trình bày cẩu thả, để sai nhiều lỗi chính tả; giải pháp nêu ra chung
chung, ngoài chức năng, nhiệm vụ của VKSND hai cấp; thậm chí có giải pháp


công tác có thể áp dụng “rộng rãi” ở “nhiều ngành, nhiều lĩnh khác nhau” và“
trong phạm vi cả nước”; Có một số sáng kiến trình bày như bản báo cáo thành tích
cá nhân, có sáng kiến về giải pháp công tác không có phần thực trạng (kết quả, tồn
tại, nguyên nhân) cần giải quyết; Cá biệt có một số sáng kiến có một số nội dung
“cắt dán” trùng nhau, có sáng kiến không có tính khả thi…
Nguyên nhân của những tồn tại này đó là:
Về chủ quan, trước hết do lãnh đạo một số đơn vị chưa thật sự chú trọng và quan
tâm chỉ đạo, đổi mới công tác thi đua; chưa bám sát vào các tiêu chí để phát động
thi đua, cũng như bình xét thi đua. Vì vậy, trong quá trình thực hiện chức năng,
nhiệm vụ nói chung và thực hiện các nhiệm vụ công tác thi đua nói riêng chưa thật
sự đi sâu, chưa quán triệt, đôn đốc, kiểm tra đối với cán bộ, Kiểm sát viên. Hai là,
bộ phận tham mưu cho các đơn vị chưa tập trung, nghiên cứu kỹ Luật thi đua khen
thưởng và các văn bản liên quan cũng như các hướng dẫn của Ngành và VKSND
thành phố.
Về khách quan, như trên đã nói, Luật thi đua khen thưởng đã được sửa đổi bổ
sung cùng với các văn bản hướng dẫn mới đã có hiệu lực thi hành nhưng Quy chế
307 đã lạc hậu, chậm được sửa đổi, bổ sung. VKSND Tối cao chậm ban hành bộ

tiêu chí chấm điểm thi đua trong toàn Ngành cũng là một trở ngại. Bên cạnh đó,
công chức làm công tác thi đua, khen thưởng thay nhau đi học phần nào cũng ảnh
hưởng tới chất lượng trong công tác này.
Nhìn chung, công tác thi đua, khen thưởng trong thời gian qua của VKSND
thành phố đã có nhiều chuyển biến tích cực. Những tồn tại trong công tác này dần
đần được khắc phục. Đồng thời, qua mỗi đợt thi đua Hội đồng Thi đua khen
thưởng VKSND thành phố đều đã có Thông báo rút kinh nghiệm, chi ra những tồn
tại của các đơn vị để khắc phục kịp thời.

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ TỔ CHỨC
PHONG TRÀO THI ĐUA KHEN THƯỞNG TẠI VKSNDTP ĐÀ NẴNG
3.1.
Về công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành
VKS hai cấp tổ chức quán triệt sâu sắc và thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 34 của
Bộ Chính trị, Chỉ thị số 38 của Thành ủy Đà Nẵng, Chỉ thị số 08 của Viện trưởng
VKSND tối cao về tiếp tục đổi mới công tác thi đua, khen thưởng, trong đó xác


3.2.

định rõ vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu trong việc tổ chức các phong trào
thi đua nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức trong lãnh đạo, chỉ đạo
công tác thi đua, khen thưởng; triển khai Thông tư của VKSND tối cao về Thi đua,
khen thưởng và hệ thống chỉ tiêu cơ bản đánh giá, chấm điểm thi đua đối với VKS
hai cấp; Tiếp tục nâng cao chất lượng các sáng kiến, giải pháp công tác của các tập
thể, cá nhân trong cả hai cấp Kiểm sát; sửa đổi, bổ sung các Quy chế Thi đua, khen
thưởng; Quy chế xét công nhận sáng kiến của VKSND thành phố cho phù hợp với
các quy định mới của Nhà nước và của Ngành.
Nhận thức đúng vị trí, vai trò quan trọng của công tác thi đua, khen thưởng, nên
những năm qua, lãnh đạo VKSND hai cấp đã lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, bằng

nhiều giải pháp đồng bộ, đưa công tác này vào nền nếp, có nhiều đổi mới, sáng tạo,
đạt hiệu quả thiết thực. Có thể khẳng định rằng sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo sâu
sát, kịp thời của Ban cán sự đảng, các cấp ủy, lãnh đạo VKS hai cấp là nhân tố
quan trọng, quyết định trong thực hiện tốt các phong trào thi đua, góp phần đưa
công tác này ngày càng đi vào chiều sâu và thực chất hơn. Công tác thi đua đã trở
thành là một trong những động lực quan trọng để các đơn vị, cá nhân hoàn thành
tốt nhiệm vụ chuyên môn.
Lãnh đạo Viện, Đảng VKSND thành phố, Chi ủy, các Viện trưởng, các Trưởng
phòng phải trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo và chịu trách nhiệm về chất lượng, hiệu quả
công tác thi đua, khen thưởng; cần thường xuyên tăng cường kiểm tra, giám sát,
kịp thời phát hiện, ngăn ngừa tiêu cực trong công tác thi đua, khen thưởng, tránh
tình trạng khen thưởng tràn lan, không thực chất, không trọng tâm, không đúng đối
tượng. Mỗi chi bộ, đảng viên cần phát huy tốt vai trò tiên phong, gương mẫu và là
hạt nhân trong các phong trào thi đua ở cơ sở, gắn với việc "Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh", làm cho phong trào thi đua trở thành phong trào
hành động sâu rộng, thường xuyên, chất lượng trong toàn ngành kiểm sát thành
phố Đà Nẵng.
Về công tác phát động, triển khai và tổng kết các phong trào thi đua
Để công tác này đạt hiệu quả cao, trước hết phải tạo sự thống nhất về tư tưởng
trong việc tổ chức thực hiện công tác thi đua, khen thưởng trong VKS hai cấp
thành phố. Đây là động lực phấn đấu đối với mỗi cán bộ, công chức, người lao
động tỏng ngành, là tiền đề cơ bản, quan trọng nhất trong việc tổ chức thực hiện có
hiệu quả, thành công công tác thi đua, khen thưởng. Vì vậy, các cấp ủy, chi bộ
Đảng cần tăng cường sự lãnh đạo của mình đối với công tác thi đua khen thưởng;
các tổ chức đoàn thể cần phối hợp vào cuộc một cách quyết liệt để công tác thi đua
khen thưởng phát triển đồng bộ, sâu rộng, đạt kết quả và thường xuyên được duy
trì; mỗi đơn vị cần xác định công tác thi đua khen thưởng là nhiệm vụ chính trị


3.3.


quan trọng; mỗi cán bộ, công chức cần xác định tư tưởng thi đua, phấn đấu hết
mình trong từng nhiệm vụ công tác, trong các lĩnh vực của đời sống, nâng cao chất
lượng công tác về mọi mặt, hoàn thiện bản thân. Như vậy, yêu cầu đặt ra là mỗi
cấp ủy, đoàn thể phải tăng cường trách nhiệm quản lý, vận động và nâng cao hiệu
quả tổ chức thực hiện các phong trào, các hoạt động chuyên môn của tổ chức mình
cũng như các phong trào thi đua do ngành phát động. Khi đã phát động phong trào
thi đua thì phải huy động cả hệ thống chính trị trong đơn vị cùng tham gia. Thông
qua việc tham gia thực hiện phong trào thi đua đối với cán bộ, công chức và người
lao động là một tiêu chí để đánh giá khen thưởng hàng năm. Phải tạo cho được
hiệu ứng trong phong trào thi đua, mang tính cạnh tranh cao, lành mạnh, giữa cá
nhân với cá nhân, giữa tập thể với tập thể, giữa đơn vị này và đơn vị khác.
Thường trực Hội đồng thi đua khen thưởng cần nhanh nhạy, nắm bắt những vấn
đề bức xúc, nổi cộm, những khâu yếu, việc khó của các đơn vị và hơn nữa phải chủ
động, tích cực nghiên cứu, tìm tòi, đề xuất nội dung và phương thức để tháo gỡ
thông qua việc tổ chức các phong trào thi đua theo chuyên đề, phong trào thi đua
đột xuất. Vì là phong trào thi đua theo đợt, theo chuyên đề, chỉ có khoảng thời gian
nhất định, nên trước hết, cấp ủy, lãnh đạo và người đứng đầu phải xác định quyết
tâm cao trong thực hiện chuyên đề đã xác định,phải tập trung nhân lực và các
nguồn lực để hướng vào giải quyết những khó khăn, tồn tại đó.
Một vấn đề quan trọng là đã phát động phong trào thi đua thì phải có sơ, tổng
kết khen thưởng và nhân rộng điển hình tiên tiến. Đưa tiêu chí phát động phong
trào thi đua thường xuyên, theo chuyên đề, theo đợt là một trong tiêu chí hàng đầu
để Hội đồng thi đua khen thưởng xét danh hiệu thi đua cho đơn vị, cá nhân. Đơn vị
nào mà phát động thi đua mang tính hình thức, không triển khai sơ, tổng kết, nhân
rộng điển hình tiên tiến thì người đứng đầu đơn vị đó phải chịu trách nhiệm về
những thiếu sót trên.
Đảm bảo nguyên tắc công bằng, dân chủ trong xét, duyệt các danh hiệu thi đua
và hình thức khen thưởng
Có thể nói đây là một trong những vấn đề quan trọng nhất trong công tác thi đua

khen thưởng và cũng là quá trình mà một số đơn thường hay gặp những vướng
mắc, tồn tại như nêu ở trên. Để làm tốt vấn đề này, bên cạnh sự lãnh đạo sâu sát
của Cấp ủy, Chi bộ, lãnh đạo các đơn vị, sự thống nhất trong tư tưởng và hành
động trong chỉ đạo, tổ chức các phong trào thi đua thì trách nhiệm, sự nỗ lực, ý
thức của mỗi cán bộ, công chức, người lao động trong ngành đóng một vai trò hết
sức quan trọng, bởi nó phát huy được sức mạnh của cả tập thể trong việc phấn đấu,
hướng tới mục tiêu chung của toàn Ngành.
Trước hết, lãnh đạo các đơn vị phải quán triệt đến toàn thể công chức và người
lao động trong đơn vị mình các văn bản pháp luật về thi đua, khen thưởng, nhất là


tinh thần thi đua lành mạnh, không tiêu cực. Từ đó, hình thành ý thức chấp hành và
thực hiện nghiêm túc các quy định của pháp luật và của Ngành về thi đua, khen
thưởng trong cán bộ, công chức và người lao động. Trong quá trình xét thi đua và
đề nghị khen thưởng đơn vị phải căn cứ vào tiêu chuẩn, mức độ hoàn thành các chỉ
tiêu công tác của các cá nhân và của tập thể mình để bình xét thi đua và đề nghị
khen thưởng. Tỷ lệ đề nghị khen thưởng phải không vượt quá tỷ lệ theo tiêu chuẩn
mà Ngành và VKSND thành phố đã thông báo, tránh trường hợp đề nghị vượt quá
tỷ lệ so với số lượng biên chế của đơn vị mình.
Bên cạnh đó, Thường trực Hội đồng thi đua khen thưởng cần tiếp tục nâng cao
trách nhiệm hơn nữa trong việc tham mưu cho Hội đồng thi đua khen thưởng trong
việc xét các danh hiệu thi đua và khen thưởng, đề nghị khen thưởng các tập thể và
cá nhân xứng đáng. Vấn đề này trong thời gian qua đã dần đần được khắc phục,
những sai sót về đối tượng, tiêu chuẩn xét thi đua và tỷ lệ đề nghị khen thưởng đã
được Thường trực Hội đồng báo cáo, tham mưu và Hội đồng thi đua khen thưởng
kiên quyết không xét thi đua, khen thưởng cho các tập thể, cá nhân không đúng đối
tượng, không đủ tiêu chuẩn và vượt quá tỷ lệ khen thưởng. Việc này đã được
Thường trực Hội đồng thi đua khen thưởng có thông báo rút kinh nghiệm để các
đơn vị khắc phục và hoàn thành tốt hơn trong thời gian tới.
3.4.

Nâng cao trách nhiệm của cán bộ, công chức làm công tác thi đua, khen
thưởng:
Hiện nay, theo quy định của Ngành, chỉ ở VKSND cấp tỉnh mới có công chức
chuyên trách làm công tác thi đua, khen thưởng. Đối với VKSND cấp huyện, công
tác thi đua khen thưởng thường giao cho một công chức kiêm nhiệm, thường là cán
bộ phụ trách tổng hợp thực hiện. Đối với VKSND thành phố được biên chế 01
công chức chuyên trách công tác thi đua, khen thưởng thuộc Văn phòng tổng hợp.
Tuy nhiên, ngay cả biên chế này cũng là kiêm nhiệm, cán bộ tổng hợp giúp Chánh
Văn phòng (Thường trực Hội đồng thi đua khen thưởng) trong công tác thi đua,
khen thưởng. Ở các VKSND quận, huyện, do kiêm nhiệm nên quá trình triển khai,
thực hiện, sơ kết, tổng kết các phong trào thi đua và đề nghị khen thưởng vẫn còn
lúng túng, vẫn để xảy ra một số sai sót nhất định. Vì vậy, cán bộ, công chức trong
Ngành nói chung và cán bộ làm công tác thi đua, khen thưởng nói riêng phải không
ngừng nghiên cứu, tìm hiểu đường lối, chủ trương của Ðảng, tư tưởng về thi đua
yêu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh; chính sách, pháp luật của Nhà nước về thi
đua, khen thưởng, trong đó chú trọng chú trọng Luật Thi đua, khen thưởng và các
văn bản hướng dẫn thi hành. Qua đó, nhận thức rõ nét hơn, cụ thể hơn về vai trò, vị
trí và tầm quan trọng của công tác thi đua, khen thưởng cũng như trách nhiệm,
nghĩa vụ, quyền lợi của chính bản thân mình đối với công tác này.


Bên cạnh đó, việc kiện toàn bộ máy làm công tác thi đua, khen thưởng của
VKSND thành phố là một yêu cầu cấp bách nhằm tạo sự thống nhất, ổn định lâu
dài. Đồng thời, Hội đồng Thi đua - Khen thưởng, Hội đồng Sáng kiến phải được
thường xuyên kiện toàn để phù hợp với các quy định của Luật Thi đua, khen
thưởng và đảm bảo chất lượng hoạt động hiệu quả hơn, sâu sát hơn. Tăng cường
công tác tham mưu cho Hội đồng Thi đua - Khen thưởng khen thưởng và đề nghị
khen thưởng đúng người đúng việc, đúng thành tích, bảo đảm dân chủ, công khai.
Chú trọng khen thưởng người tốt, việc tốt. Thành tích mức nào thì khen mức đó.
Quan tâm đến những đơn vị những thành tích nổi bật, có cách làm hay, cá nhân là

người lao động, công chức nữ.
3.5.
Xây dựng hệ thống chỉ tiêu thi đua bám sát hệ thống chỉ tiêu nghiệp vụ
theo quy định của Ngành:
Tiếp tục hoàn thiện thể chế về công tác thi đua, khen thưởng theo Luật Thi đua,
khen thưởng (Sửa đổi, bổ sung năm 2013) và các văn bản hướng dẫn thi hành cũng
như Luật tổ chức VKSND năm 2014, trong đó, tập trung triển khai, thực hiện tốt
hệ thống chỉ tiêu cơ bản đánh giá, chấm điểm thi đua ngay sau khi VKSND Tối cao
ban hành Bộ tiêu chí chấm điểm thi đua của toàn Ngành. Trên cơ sở hệ thống chỉ
tiêu cơ bản của VKSND tối cao và Quy chế Thi đua, khen thưởng của Ngành Kiểm
sát nhân dân (sửa đổi, bổ sung), Thường trực Hội đồng Thi đua khen thưởng phối
hợp với các Phòng nghiệp vụ, VKSND quận, huyện xây dựng tiêu chí cơ bản đánh
giá, chấm điểm từng Phòng nghiệp vụ và các VKSND quận, huyện. Tiếp tục nâng
cao chất lượng công tác xây dựng sáng kiến của các tập thể, cá nhân trong cả hai
cấp; sửa đổi, bổ sung Quy chế Thi đua, khen thưởng của VKSND thành phố cho
phù hợp với quy định mới.
3.6.
Tăng cường công tác hướng dẫn, kiểm tra trong công tác thi đua khen
thưởng
Chúng ta có thể thấy rõ tác dụng của việc hướng dẫn kịp thời, chính xác cùng
với việc kiểm tra việc triển khai và thực hiện các phong trào thi đua là một trong
những nguyên nhân làm cho hiệu quả trong công tác này ngày càng được nâng lên.
Căn cứ vào từng thời điểm cụ thể (Hàng quý, sáu tháng), Thường trực Hội đồng
Thi đua - Khen thưởng tham mưu cho Viện trưởng VKSND thành phố kiểm tra
việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ cũng như các chỉ tiêu nghiệp vụ của các đơn vị
và cá nhân với những yêu cầu, nội dung, mục tiêu cụ thể nhằm tạo sự chuyển biến
mạnh mẽ về ý thức thi đua, phấn đấu hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ công tác của
Ngành gắn với yêu cầu phục vụ nhiệm vụ chính trị của địa phương. Các Trưởng
Phòng và các Viện trưởng VKSND quận, huyện phải chú trọng đôn đốc, kiểm tra
trong công tác này. Đặc biệt, trong những đợt thi đua cao điểm như sáu tháng, cuối

năm nên tạo điều kiện về thời gian và giảm khối lượng công việc cho cán bộ làm


công tác thi đua, khen thưởng của đơn vị mình để họ tập trung nâng cao hiệu quả
các báo cáo, hồ sơ thi đua, khen thưởng theo yêu cầu./.

KẾT LUẬN
Thi đua, khen thưởng là biện pháp quan trọng của công tác quản lý nhà nước nói
chung. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về công tác thi đua, khen
thưởng cần tập trung thực hiện tốt 8 nội dung quản lý nhà nước mà Luật Thi đua,
Khen thưởng đã xác định, nhất là việc xây dựng ban hành các văn bản pháp luật;
xây dựng kế hoạch, chiến lược phát triển hằng năm và giai đoạn; kiện toàn bộ máy
tổ chức; đào tạo bồi dưỡng; đa dạng các hình thức, đối tượng thanh tra, kiểm tra và
đẩy mạnh hơn nữa cải cách hành chính.
Vấn đề thi đua khen thưởng kỷ luật trong ngành là một vấn đề quan trọng, nó
quyết định sự nỗ lực của các thành viên trong ngành kiểm soát nhằm mang lại lợi
ích và doanh thu cao nhất cho viện kiểm soát nhân dân Thành Phố Đà Nẵng.
Đồng thời nó cũng là thước đo năng lực của mỗi người trong công ty, để cấp
trên lựa chọn người phù hợp và các vị trí bên dưới.
Để đạt được những con số thi đua chính xác thì việc cần làm là trung thức,
không gian lận trong thi đua, phải kiểm tra kỹ và chi tiết các báo cáo trước khi xét
duyệt thi đua để khen thưởng đúng người và phạt đúng lỗi.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bài giảng “Xây dựng quy chế thi đua khen thưởng”, TS. Nguyễn Thị Thu Hà
Luật thi đua khen thưởng
Quy chế Thi đua – Khen thưởng ngành viện kiểm soát nhân dân
Quyết định 30/2015/QĐ- UBND Quyết định ban hành Quy định về công tác
thi đua, khen thưởng của UBND thành phố Đà Nẵng
Trang thông tin điện tử viện kiểm soát nhân dân thành phố Đà Nẵng

6. Thực trạng và một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác Thi đua, khen
thưởng của VKSND hai cấp thành phố Đà Nẵng năm 2016
Một số trang web:
- />1.
2.
3.
4.

5.

7.


-

-

/> />


×