Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế lý luận và thực tiễn tại việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (927.44 KB, 85 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRỊNH THỊ NGỌC DỰ

GIẢI QUYẾT XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TẠI VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Mã số: 60 38 60

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. BÙI XUÂN NHỰ

HÀ NỘI – 2012


BẢNG DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1.
2.
3.
4.
5.
6.

BLDS
ĐƢQT


HĐTTTP
TAND
PLTK
XHCN

Bộ luật dân sự
Điều ƣớc quốc tế
Hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp
Tòa án nhân dân
Pháp lệnh thừa kế
Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
Chƣơng 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT VỀ THỪA
KẾ .................................................................................................................................... 7
1.1. Khái niệm thừa kế và quan hệ thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài .................................. 7
1.1.1. Khái niệm thừa kế.................................................................................................. 7
1.1.2.Thừa kế trong Tƣ pháp quốc tế .............................................................................. 8
1.2.Mối quan hệ giữa quyền sở hữu có yếu tố nƣớc ngoài và thừa kế có yếu tố nƣớc
ngoài .............................................................................................................................. 12
1.3 Quyền sở hữu tại Việt Nam của ngƣời nƣớc ngoài, ngƣời Việt Nam định cƣ ở nƣớc
ngoài ............................................................................................................................. 14
1.3.1.Hiến pháp năm 1992 ............................................................................................. 14
1.3.2.Bộ luật dân sự năm 2005 ........................................................................................ 15
1.3.3.Luật đầu tƣ năm 2005 ........................................................................................... 15
1.3.4.Luật đất đai 2003 .................................................................................................. 16
1.3.5.Luật nhà ở năm 2005 ............................................................................................ 17

1.4.Phƣơng pháp điều chỉnh quan hệ thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài theo pháp luật Việt
Nam ............................................................................................................................... 19
1.4.1 Phƣơng pháp thực chất ......................................................................................... 20
1.4.2 Phƣơng pháp xung đột .......................................................................................... 20
1.5 Ý nghĩa của quan hệ thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài tại Việt Nam ........................... 21
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .............................................................................................. 24
Chƣơng 2 PHÁP LUẬT VÀ THỰC TIỄN VỀ XUNG ĐỘT PHÁP LUẬT VỀ THỪA
KẾ CÓ YẾU TỐ NƢỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM .................................................... 26
2.1.Giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế theo pháp luật các nƣớc ................ 26
2.1.1.Thừa kế theo luật .................................................................................................. 26
2.1.2 Thừa kế theo di chúc ............................................................................................ 27
2.2. Giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế qua các Điều ƣớc quốc tế giữa các nƣớc
trên thế giới .................................................................................................................... 28
2.3 Pháp luật điều chỉnh quan hệ thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài tại Việt Nam ............. 30


2.3.1 Nguyên tắc giải quyết các vấn đề thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài theo pháp luật
Việt Nam qua các thời kỳ .............................................................................................. 30
2.3.2 Các quy định về giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài
tại Bộ luật dân sự năm 2005 .......................................................................................... 33
2.3.2.1. Thừa kế theo pháp luật ..................................................................................... 33
2.3.2.2 Thừa kế theo di chúc ......................................................................................... 37
2.4 Vấn đề thừa kế trong các Hiệp định tƣơng trợ tƣ pháp mà Việt Nam ký kết
hoặc tham gia ................................................................................................................ 39
2.4.1.Tình hình ký kết Hiệp đinh tƣơng trợ tƣ pháp ...................................................... 39
2.4.2 Các quy định về thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài trong các Hiệp đinh ........................ 40
2.5. Vấn đề di sản không ngƣời thừa kế trong Tƣ pháp quốc tế ................................... 41
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .............................................................................................. 44
Chƣơng 3 THỰC TIỄN PHÁP LUẬT VỀ QUAN HỆ THỪA KẾ CÓ YẾU TỐ
NƢỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM VÀ PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP

LUẬT............................................................................................................................. 46
3.1. Thực tiễn pháp luật về quan hệ thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài tại Việt Nam ......... 46
3.1.1 Pháp luật về quyền thừa kế bất động sản tại Việt Nam của ngƣời nƣớc ngoài,
ngƣời Việt Nam định cƣ ở nƣớc ngoài .......................................................................... 46
3.1.1.1.Thời kỳ trƣớc khi Luật đất đai 2003 ra đời ....................................................... 47
3.1.1.2.Thời kỳ sau khi Luật đất đai 2003 ra đời........................................................... 48
3.1.2 Tình hình giải quyết tranh chấp về thừa kế trong Tƣ pháp quốc tế tại Việt Nam 53
3.1.3Thực tiễn vấn đề thừa kế tại Việt Nam của ngƣời nƣớc ngoài, ngƣời Việt Nam
định cƣ ở nƣớc ngoài ..................................................................................................... 54
3.1.3.1 Thừa kế nhà ở đƣợc mở trƣớc ngày 1-7-1991 ................................................... 55
3.1.3.2 Vấn đề quản lý kỷ phần của ngƣời không rõ địa chỉ ......................................... 57
3.1.3.3 Uỷ thác tƣ pháp về thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài ............................................. 58
3.1.3.4 Thời hiệu yêu cầu thi hành án và thực tiễn thi hành ......................................... 59
3.1.3.5 Việc giải quyết di sản thừa kế là tiền gửi của ngƣời nƣớc ngoài………….....60
3.2.Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài tại Việt Nam62
3.2.1.Quan điểm mang tính định hƣớng chung ............................................................. 62
3.2.2. Các giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quan hệ thừa kế có yếu tố
nƣớc ngoài tại Việt Nam................................................................................................ 65


KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 .............................................................................................. 68
KẾT LUẬN ................................................................................................................... 69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................... 72


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Thừa kế di sản chính là sự chuyển dịch tài sản và quyền sở hữu tài sản của cá

nhân ngƣời đã chết cho cá nhân, tổ chức có quyền hƣởng thừa kế; ngƣời thừa kế trở
thành chủ sở hữu của tài sản đƣợc hƣởng theo di chúc hoặc theo pháp luật.Với ý nghĩa
có tầm quan trọng nhƣ vậy, nên trong bất kỳ chế độ xã hội có giai cấp nào, vấn đề thừa
kế cũng có vị trí quan trọng trong các chế định pháp luật, là hình thức pháp lý chủ yếu
để bảo vệ các quyền của công dân. Và bản thân nó cũng phản ánh phần nào bản chất
chế độ xã hội đó, thậm chí còn phản ánh đƣợc tính chất từng giai đoạn trong quá trình
phát triển của một chế độ xã hội nói riêng. Chính vì vậy, thừa kế đã trở thành một nhu
cầu không thể thiếu đƣợc đối với đời sống của mỗi cá nhân, gia đình, cộng đồng xã
hội.
Mỗi Nhà nƣớc dù có các xu thế chính trị khác nhau, nhƣng đều coi thừa kế là
một quyền cơ bản của công dân và đƣợc ghi nhận trong Hiến pháp.Và đặc biệt là sự ra
đời của BLDS 1995, sau đó BLDS năm 2005 đã đánh dấu một bƣớc phát triển của
pháp luật thừa kế Việt Nam nói chung và pháp luật về thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài
nói riêng. BLDS 2005 đƣợc xem là kết quả cao của quá trình pháp điển hoá những quy
định của pháp luật về thừa kế. Nó kế thừa và phát triển những quy định phù hợp với
thực tiễn, không ngừng hoàn thiện để bảo vệ quyền lợi của ngƣời thừa kế một cách có
hiệu quả nhất.
Nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế ngày nay đã trở thành một đòi hỏi có tính tất
yếu khách quan của mọi quốc gia trong tiến trình phát triển. Trong bối cảnh năng
động tại các đô thị, thành phố lớn, Vấn đề tài sản thuộc sở hữu cá nhân ngày càng
phong phú, thừa kế di sản cũng nảy sinh nhiều dạng tranh chấp phức tạp, vƣợt ra khỏi
phạm vi của một quốc gia đòi hỏi phải đƣợc giải quyết kịp thời. Do đó, mặc dù sau
khi BLDS 2005 có hiệu lực, vấn đề thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài đã có sự phát triển
mạnh mẽ, nhƣng pháp luật không phải bao giờ cũng dự liệu hết để điều chỉnh. Thực
tiễn áp dụng vẫn còn bộc lộ nhiều vƣớng mắc, hạn chế nhất định. Điều này đã xâm phạm
đến quyền thừa kế của công dân, đôi khi còn gây bất ổn trong đời sống sinh hoạt của mỗi


2
gia đình, cộng đồng, xã hội và ảnh hƣởng không nhỏ đến mối quan hệ hợp tác giữa các

quốc gia. Pháp luật chỉ đi vào cuộc sống khi các quy định của nó phù hợp với thực tiễn
và từ thực tiễn mà nhà làm luật kịp thời sửa đổi, bổ sung pháp luật cho hoàn thiện. Bởi
vậy, quá trình hội nhập quốc tế đòi hỏi Việt Nam phải có một hệ thống pháp luật hoàn
thiện. Điều đó cũng có nghĩa là, cùng với việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật
phục vụ cho quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ
nghĩa, thì việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về dân sự có yếu tố nƣớc ngoài nói chung
và pháp luật điều chỉnh quan hệ thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài nói riêng là một yêu cầu
tất yếu khách quan và có tính cấp thiết hiện nay.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã chọn vấn đề: "Giải quyết xung đột
pháp luật về thừa kế - Lý luận và thực tiễn tại Việt Nam" để làm đề tài luận văn
thạc sĩ Luật học. Đây là một đề tài có ý nghĩa quan trọng cấp bách cả về phƣơng diện
lý luận cũng nhƣ thực tiễn nhất là trong bối cảnh hiện nay.
2.

Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thừa kế di sản là vấn đề rộng và phức tạp, vừa có lịch sử hình thành và phát

triển khá phong phú. Do vậy, thừa kế đã đƣợc nhiều nhà khoa học pháp lý quan tâm
nghiên cứu.
Trƣớc khi BLDS 1995 đƣợc ban hành, đã có một số sách nghiên cứu về thừa kế
dƣới góc độ sách pháp luật thƣờng thức nhƣ: "Câu hỏi và giải đáp PLTK" năm 1994
của Luật sƣ Lê Kim Quế; "Hỏi đáp về PLTK" năm 1995 của Trần Hữu Bền và TS.
Đinh Văn Thành.
Sau khi Nhà nƣớc ta ban hành BLDS 1995, BLDS 2005 thì việc nghiên cứu đề
tài về thừa kế vẫn tiếp tục đƣợc mở rộng. Ngay các luận văn thạc sĩ, tiến sĩ cũng đã có
một số tác giả nghiên cứu về thừa kế. Tiểu biểu là: TS. Phạm ánh Tuyết với đề tài "Thừa
kế theo di chúc theo quy định BLDS Việt Nam" năm 2003; TS. Phùng Trung Tập với đề
tài "Thừa kế theo pháp luật của công dân Việt Nam" năm 2001; Ths. Nguyễn Hải An
nghiên cứu đề tài "Một số vấn đề về thời hiệu khởi kiện về thừa kế trong pháp luật dân sự
Việt Nam" năm 2004. ..



3
Có thể nói, vấn đề thừa kế theo quy định của pháp luật Việt Nam là cả một công
trình nghiên cứu đồ sộ, đƣợc sự quan tâm đặc biệt của nhiều tác giả từ trƣớc tới nay. Tuy
nhiên, những công trình nghiên cứu khoa học về thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài thì lại
không nhiều. TS. Nguyễn Văn Quyền viết Chƣơng VII Thừa kế trong Giáo
trìnhTPQT Đại học luật Hà Nội, “Một số vấn đề thực tiễn về quan hệ thừa kế trong tư
pháp quốc tế” - Kỷ yếu hội thảo- Nhà pháp luật Việt Pháp năm 2005. Một số bài
nghiên cứu đăng trên các tạp chí, trên các báo trả lời các câu hỏi về áp dụng pháp luật
để điều chỉnh các quan hệ thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài, hỏi đáp các tình huống thực
tế về thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài, giải quyết XĐPL về thừa kế theo pháp luật trong
TPQT Việt Nam, giải quyết XĐPL về thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài theo một số
ĐƢQT mà Việt Nam ký kết với nƣớc ngoài…Một số tác giả đƣợc nhắc đến nhƣ TS.
Đỗ Văn Đại, TS. Nguyễn Hồng Bắc, TS. Đoàn Năng, Nguyễn Công Khanh, Nguyễn
Trung Tín…Các đề tài nghiên cứu khoa hoc, luận văn, luận án tiến sĩ, thạc sĩ về vấn
đề này chƣa có. Nhìn chung, các bài viết nghiên cứu nói trên, đã nêu ra nhiều vấn đề
cơ bản cả về lý luận và thực tiễn áp dụng pháp luật thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài .
Tuy nhiên, tính chất hệ thống, khái quát còn hạn chế. Hơn nữa, đa số các bài viết này
viết trƣớc năm 2005 , nên có rất nhiều điểm thay đổi cả về mặt pháp luật thực định và
thực tiễn cuộc sống. Việc chọn đề tài " Giải quyết xung đột pháp luật về thừa kế - Lý
luận và thực tiễn tại Việt Nam " để làm luận văn thạc sĩ luật không có sự trùng lặp
nào đối với các công trình nghiên cứu khoa học đã đƣợc công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn.
* Mục đích: Mục đích của luận văn là làm rõ một số vấn đề lý luận liên quan đến
pháp luật về thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài và đánh giá thực trạng pháp luật về thừa kế có
yếu tố nƣớc ngoài ở Việt Nam hiện nay. Qua đó rút ra những ƣu điểm, tồn tại, bất cập
của pháp luật để tiếp tục nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện pháp luật điều chỉnh
quan hệ thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài, phù hợp với mục tiêu xây dựng Nhà nƣớc
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam quản lý xã hội bằng pháp luật. Trên cơ sở đó,

kiến nghị về phƣơng hƣớng, giải pháp nhằm hoàn thiện, nâng cao hiệu quả điều chỉnh
của pháp luật về thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài ở nƣớc ta hiện nay.
*Nhiệm vụ: Để thực hiện mục tiêu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ sau


4
- Tìm hiểu những vấn đề lý luận về pháp luật thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài ở Việt
Nam nhƣ: khái niệm thừa kế và quan hệ thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài, quyền sở hữu tại
Việt Nam của ngƣời nƣớc ngoài, ngƣời Việt Nam định cƣ ở nƣớc ngoài một trong những
cơ sở quan trọng cho việc thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài tại Việt Nam. Đồng thời có tìm
hiểu pháp luật về thừa kế của một số nƣớc trên thế giới.
- Phân tích pháp luật về thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài ở Việt Nam. Cách thức giải
quyết XĐPL quan hệ thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài, quyền thừa kế tại Việt Nam của
ngƣời nƣớc ngoài, ngƣời Việt Nam định cƣ ở nƣớc ngoài, vấn đề thừa kế trong các
HĐTTTP. Thực trạng thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài tại Việt Nam. Qua đó, nhận xét,
đánh giá những ƣu điểm, nhƣợc điểm của pháp luật về thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài
hiện hành.
- Về phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật điều chỉnh quan hệ thừa kế có yếu tố
nƣớc ngoài, tác giả nêu lên một số quan điểm về phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật
điều chỉnh quan hệ thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài.
*Phạm vi nghiên cứu: Việc nghiên cứu đề tài này đƣợc xác định trong phạm vi các
quy phạm pháp luật về thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài ở Việt Nam qua các giai đoạn lịch
sử. Nhƣng đặc biệt tập trung nghiên cứu các quy phạm pháp luật về thừa kế từ năm 2005
đến nay. Cùng với việc nghiên cứu các quy phạm pháp luật, trong bản luận văn cũng
đề cập và phân tích thực tiễn thi hành và áp dụng các quy phạm thừa kế có yếu tố
nƣớc ngoài , nhất là thực tiễn giải quyết các tranh chấp thừa kế trong ngành TAND.
Tuy nhiên, để luận văn có độ sâu, rộng cần thiết, trong một chừng mực nhất định, tác giả
cũng đề cập đến một số quy định tƣơng ứng trong pháp luật một số nƣớc để so sánh và
đƣa ra những kết luận, kiến nghị có tính tham khảo nhất định.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu

Với đề tài liên quan đến một chế định pháp luật dân sự quan trọng mang đậm bản
chất giai cấp và có tác động đến chế độ kinh tế - xã hội, mối quan hệ giao lƣu, hợp tác
giữa các quốc gia trong thời đại hội nhập sâu rộng nhƣ hiện nay, do đó luận văn đƣợc
nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh,
quan điểm, đƣờng lối của Đảng và Nhà nƣớc về pháp luật. Đặc biệt là các quan điểm


5
của Đảng và Nhà nƣớc về sở hữu tƣ nhân, về thừa kế trong thời kỳ đổi mới, mở cửa
và hội nhập.
Đề tài đƣợc hoàn thành dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác-Lênin. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng một số
phƣơng pháp khoa học chuyên ngành khác nhƣ: phƣơng pháp lịch sử, phƣơng pháp
logíc, phƣơng pháp phân tích, phƣơng pháp so sánh, phƣơng pháp tổng hợp...
5.Những đóng góp về khoa học của luận văn
Là một trong những công trình khoa học nghiên cứu một cách khá toàn diện, có hệ
thống về quan hệ thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài tại Việt Nam, kết quả nghiên cứu của
đề tài sẽ mang lại những đóng góp mới về khoa học pháp lý nhƣ sau:
Thứ nhất, trên cơ sở nghiên cứu, phân tích và ứng dụng khái niệm "quan hệ dân sự
có yếu tố nƣớc ngoài" đã đƣợc pháp luật quy định, tác giả đƣa ra quan điểm của cá
nhân về quan hệ sở hữu có yếu tố nƣớc ngoài, quan hệ thừa kế, quan hệ thừa kế có yếu
tố nƣớc ngoài. Từ đó góp phần hoàn thiện hơn khoa học trong lĩnh vực thừa kế, đặc
biệt thừa kế trong TPQT ở Việt Nam.
Thứ hai, làm rõ các luận điểm khoa học về cơ sở lý luận và thực tiễn của pháp luật
điều chỉnh quan hệ thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài ở nƣớc ta hiện nay, đặc biệt trong mối
tƣơng quan với các quan hệ sở hữu có yếu tố nƣớc ngoài thông qua yếu tố tài sản - yếu
tố quan trọng nhất có giá trị chi phối và dễ làm phát sinh các tranh chấp trong giao lƣu
dân sự quốc tế. Điều chỉnh pháp luật đối với quan hệ thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài thực
sự là vấn đề cấp bách. Nhƣng từ khi BLDS 2005 đƣợc thông qua cho đến nay, có rất ít
các công trình khoa học nào nghiên cứu về vấn đề này.

Thứ ba, khẳng định bản chất tiến bộ, dân chủ và ngày càng phù hợp với thông lệ
quốc tế của pháp luật dân sự Việt Nam điều chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nƣớc
ngoài, trong đó có quan hệ về thừa kế. Thông qua đó, đề cao vai trò của pháp luật điều
chỉnh quan hệ thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài, góp phần ổn định các quan hệ xã hội dân
sự, phục vụ tích cực công cuộc đổi mới đất nƣớc.


6
Thứ tư, Về thực tiễn Luận văn đề ra các giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật
thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài sẽ có ý nghĩa thiết thực góp phần giúp cho những ngƣời
có thẩm quyền áp dụng luật để giải quyết tranh chấp thừa kế thuận lợi hơn. Ngoài ra
luận văn còn là tài liệu tham khảo phục vụ cho công dân trong quá trình thực hiện quyền
và nghĩa vụ dân sự của mình về lĩnh vực thừa kế trong xu thế hội nhập toàn cầu nhƣ hiện
nay.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn
gồm 3 chƣơng.


7

Chƣơng 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XUNG ĐỘT
PHÁP LUẬT VỀ THỪA KẾ
1.1 Khái niệm thừa kế và quan hệ thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài.
1.1.1 Khái niệm thừa kế
Pháp luật thừa kế đã có từ xa xƣa và gắn liền với lịch sử phát triển của xã hội loài
ngƣời. Tuy có những đặc thù riêng nhƣng dân tộc nào, đất nƣớc nào và từng con ngƣời
cụ thể đều chịu sự tác động của pháp luật thừa kế.
Thừa kế với ý nghĩa là một phạm trù kinh tế có mầm mống và xuất hiện ngay
trong thời kỳ sơ khai của lịch sử xã hội loài ngƣời. Ở thời kỳ này, việc thừa kế đƣợc

định nghĩa là nhằm di chuyển tài sản của ngƣời chết cho ngƣời còn sống đƣợc tiến
hành dựa trên quan hệ huyết thống và do những phong tục tập quán riêng của từng bộ
lạc, thị tộc quyết định.
Ngày nay, trong khoa học pháp lý, có nhiều cách định nghĩa, cách hiểu khác
nhau về khái niệm thừa kế. Trong một số Giáo trình Luật dân sự đƣợc xuất bản trong
những năm gần đây, khái niệm thừa kế thƣờng đƣợc hiểu là một hiện tƣợng xã hội tất
yếu, xuất hiện đồng thời với quan hệ sở hữu mà nội dung kinh tế của nó chính là sự
phản ánh quá trình dịch chuyển tài sản từ ngƣời chết sang ngƣời sống.[21, tr 168]
Theo từ điển Luật học định nghĩa, Thừa kế là sự truyền lại tài sản của ngƣời đã
chết cho ngƣời khác theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật.[58]
Thừa kế là tổng hợp các quy phạm pháp luật điểu chỉnh sự truyền lại tài sản của
ngƣời đã chết cho ngƣời khác theo di chúc hoặc theo quy định của pháp luật [25, tr
618] .
Theo quan điểm khoa học của Mác: "Thừa kế không sinh ra cái quyền của một
ngƣời chiếm dụng thành quả lao động từ túi của một kẻ khác-mà nó làm biến đổi chính
con ngƣời có cái quyền ấy…Giống nhƣ pháp luật dân sự nói chung, các quy định về
thừa kế không phải là nguyên nhân, mà là kết cục, là hậu quả pháp lý của sự tồn tại
hình thái kinh tế xã hội dựa trên chế độ sở hữu tƣ nhân về tƣ liệu sản xuất, tức là về đất
đai, tài nguyên, máy móc…”. [11, tr 383-384].


8
Nhƣ vậy, xét về bản chất, thừa kế đƣợc coi là một hiện tƣợng xã hội trong chế
độ có giai cấp, là hậu quả pháp lý tất yếu của sự tồn tại hình thái kinh tế xã hội dựa
trên chế độ sở hữu tƣ nhân về tƣ liệu sản xuất. Nói nhƣ thế, sự ra đời của chế định này
cũng đồng thời với sự xuất hiện Nhà nƣớc và pháp luật. Nhƣng trong khái niệm về
thừa kế của Mác, ta thấy khởi thủy chế định này xuất hiện và đƣợc coi nhƣ một biện
pháp chủ yếu nhằm bảo vệ quyền lợi tài sản (vật chất) của giai cấp bóc lột. Tất nhiên
càng về sau bản chất của chế định thừa kế càng thay đổi theo hƣớng dân chủ và tiến bộ
hơn trong pháp luật các nƣớc. Nhƣng tính chất giai cấp của nó- tùy thuộc vào mỗi hệ

thống pháp luật-lại đƣợc thể hiện chủ yếu thông qua các biện pháp đảm bảo (bằng di
chúc-ý chí của cá nhân, bằng pháp luật-ý chí của Nhà nƣớc) đối với quyền tài sản của
các bên trong quan hệ thừa kế, phù hợp với trình độ phát triển kinh tế xã hội ở mỗi
quốc gia trong từng giai đoạn nhất định.
Một ngƣời chỉ có thể để lại thừa kế những tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp
của mình. Nói cách khác, ngƣời hƣởng thừa kế chỉ đƣợc công nhận quyền sở hữu đối
với tài sản thừa kế, với điều kiện tài sản đó thuộc quyền sở hữu hợp pháp của ngƣời
chết. Thông thƣờng, sau khi nhận thừa kế, ngƣời hƣởng thừa kế phải thực hiện các
nghĩa vụ tài sản do ngƣời chết để lại.
Do đó, theo quan điểm của cá nhân, thừa kế phản ánh sự dịch chuyển tài sản
hay cụ thể là sự dịch chuyển các quyền và nghĩa vụ về tài sản từ ngƣời chết sang ngƣời
sống dƣới các hình thức khác nhau. Các hình thức dịch chuyển tài sản thừa kế (theo
pháp luật hoặc theo di chúc) là sự thể hiện quyền tự định đoạt tài sản của một ngƣời,
đồng thời lại là biện pháp xác lập quyền sở hữu tài sản đối với ngƣời khác đƣợc pháp
luật công nhận và đảm bảo thi hành.
1.1.2 Thừa kế trong tƣ pháp quốc tế
Theo giáo trình TPQT Đại học Luật Hà Nội thì : thừa kế trong TPQT là thừa kế
có yếu tố nƣớc ngoài [47, tr 174]. Quan hệ thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài đƣợc căn cứ
vào các yếu tố sau:
- Các bên tham gia quan hệ thừa kế (có thể một hoặc hai bên) là ngƣời nƣớc
ngoài, cơ quan hoặc tổ chức, pháp nhân hoặc ngƣời Việt Nam định cƣ ở nƣớc ngoài.


9
- Đối tƣợng của quan hệ thừa kế là di sản ở nƣớc ngoài.
- Sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ thừa kế xảy ra ở nƣớc
ngoài, theo pháp luật nƣớc ngoài…
Theo Từ điển Luật học định nghĩa: Thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài là trƣờng hợp
trong đó; ít nhất một ngƣời bên để lại di sản hoặc bên nhận thừa kế có yếu tố nƣớc
ngoài, thƣờng trú tại nƣớc ngoài, tài sản thừa kế gồm tài sản ở nƣớc ngoài, di chúc

đƣợc lập ở nƣớc ngoài [58].
Thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài là một loại quan hệ dân sự có yếu tố nƣớc ngoài, đã
xuất hiện từ lâu và đƣợc xem nhƣ một hiện tƣợng tất yếu khách quan của giao lƣu dân
sự quốc tế. Hiện nay trong BLDS cũng nhƣ các văn bản pháp luật dân sự khác, không
có quy định cụ thể nào về thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài.
Do đó, khái niệm về quan hệ thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài có thể đƣợc xây
dựng dựa trên khái niệm quan hệ dân sự có yếu tố nƣớc ngoài đƣợc quy định tại Điều
758 BLDS năm 2005: Thừa kế có yếu tố nước ngoài là quan hệ có ít nhất một bên chủ
thể là cá nhân người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài hoặc căn cứ
xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó xảy ra ở nước ngoài hoặc tài sản thừa kế ở
nước ngoài.
Trong cách hiểu về khái niệm quan hệ thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài trên đây, có
một số điểm tác giả xin đƣợc làm rõ nhƣ sau:
Thứ nhất, ,chủ thể tham gia quan hệ thừa kế nói chung và thừa kế có yếu tố nƣớc
ngoài nói riêng chủ yếu là cá nhân. Chỉ trong trƣờng hợp hết sức đặc biệt thì tổ chức, pháp
nhân hoặc Nhà nƣớc mới tham gia với tƣ cách ngƣời hƣởng di sản theo di chúc. Do vậy,
khi trong quan hệ thừa kế có ít nhất một bên tham gia là ngƣời nƣớc ngoài, thì quan hệ đó
là quan hệ thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài. Đó là dấu hiệu thứ nhất để xác định yếu tố nƣớc
ngoài trong quan hệ thừa kế.
Thứ hai, khi căn cứ pháp lý làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ thừa kế
xảy ra ở nƣớc ngoài. Trong trƣờng hợp công dân Việt Nam công tác, học tập, lao động
…ở nƣớc ngoài, không may bị chết trên lãnh thổ nƣớc ngoài hoặc trƣớc khi chết lập di


10
chúc ở nƣớc ngoài nhằm định đoạt tài sản của mình, thì đó là quan hệ thừa kế có yếu
tố nƣớc ngoài. Bởi sự kiện pháp lý (cái chết, việc lập di chúc) xảy ra trên lãnh thổ
nƣớc ngoài, cho nên pháp luật nƣớc ngoài cũng đƣợc áp dụng đối với quan hệ thừa kế
đó.
Thứ ba, khi tài sản - đối tƣợng của quan hệ thừa kế - tồn tại ở nƣớc ngoài vào

thời điểm mở thừa kế. Trong trƣờng hợp công dân Việt Nam để lại tài sản của mình ở
nƣớc ngoài trƣớc khi chết, thì trƣớc hết, phải xác định xem tài sản đó thuộc sở hữu hợp
pháp của ngƣời chết hay không. Mà việc xác định quyền sở hữu đối với tài sản đó lại
phải tuân theo pháp luật của nơi có tài sản (lex rei sitae), chứ không thể dựa vào pháp
luật của nƣớc mà ngƣời đó có quốc tịch hoặc có nơi cƣ trú.
Trong điều kiện giao lƣu và hợp tác quốc tế, quan hệ thừa kế có yếu tố nƣớc
ngoài vƣợt ra khỏi phạm vi điều chỉnh của hệ thống pháp luật của một quốc gia. Vấn
đề này có thể liên quan đến một vài hệ thống pháp luật khác nhau [25, tr 619]:
Thứ nhất, vì có sự dịch chuyển quyền sở hữu tài sản của ngƣời để lại thừa kế
cho ngƣời còn sống, quan hệ thừa kế là một quan hệ tài sản và do đó có quan hệ với
pháp luật nơi có tài sản.
Thứ hai, vì có sự dịch chuyển quyền sở hữu tài sản của ngƣời để lại thừa kế cho
ngƣời còn sống trên cơ sở huyết thống, quan hệ thừa kế là một quan hệ nhân thân và
do đó có quan hệ với pháp luật nhân thân của ngƣời để lại thừa kế.
Thứ ba, khi chết, ngƣời để lại thừa kế có thể chƣa chấm dứt các quan hệ dân sự
thiết lập với các đối tác khác (ngƣời thứ ba) nhất là quan hệ dân sự trong hợp đồng và
quan hệ dân sự ngoài hợp đồng, do vậy, quan hệ thừa kế cũng là quan hệ tài sản đối
với ngƣời thứ ba. Nói tóm lại, quan hệ thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài là một quan hệ
phức tạp, có quan hệ gắn bó với nhiều hệ thống luật khác nhau.
Xét trên phƣơng diện xã hội, thì việc tìm hiểu về những yếu tố tác động đến đến
sự hình thành và phát triển các giao lƣu dân sự quốc tế và làm nảy sinh quan hệ thừa
kế có yếu tố nƣớc ngoài, là điều rất có ý nghĩa. Chúng ta đều biết, các giao lƣu dân
sự quốc tế xuất hiện khi có sự tiếp xúc, trao đổi giữa các bộ phận dân cƣ từ các quốc
gia khác nhau. Sự tiếp xúc, trao đổi này diễn ra ngày càng mạnh mẽ trong bối cảnh


11
khi trên lãnh thổ của một nƣớc có những cá nhân mang quốc tịch khác nhau cùng tham
gia vào các quan hệ dân sự, điển hình là quan hệ hôn nhân và gia đình. Pháp luật của
hầu hết các nƣớc đều quy định vợ chồng, cha mẹ có quyền thừa kế đối với nhau. Nhƣ

vậy, khi trong gia đình đa quốc tịch (vợ chồng khác quốc tịch nhau, cha mẹ và con cái
khác quốc tịch nhau), thì điều tất yếu là giữa họ phát sinh quan hệ thừa kế có yếu tố
nƣớc ngoài. Pháp luật cần điều chỉnh đối với loại quan hệ này. Hiện tƣợng gia đình đa
quốc tịch ngày nay có thể nói là khá phổ biến. Mặc dù chƣa có sự tổng kết, nhƣng chắc
chắn các gia đình đa quốc tịch ở Việt Nam hiện nay cũng không phải là ít.
Có nhiều nguyên nhân khác dẫn đến tình trạng phát sinh quan hệ thừa kế có yếu
tố nƣớc ngoài ở Việt Nam, trong đó có nguyên nhân chiến tranh trƣớc đây hoặc do nhu
cầu đầu tƣ, kinh doanh, học tập, du lịch…của công dân Việt Nam ở nƣớc ngoài và của
ngƣời nƣớc ngoài tại Việt Nam… Chiến tranh có thể gây nên tình trạng một bộ phận
dân cƣ nƣớc này sang sinh sống ở nƣớc khác. Xét trong bối cảnh của Việt Nam, thì
trong thời kỳ chiến tranh, trên lãnh thổ Việt Nam không chỉ ngƣời Pháp, ngƣời Mỹ,
mà còn có những ngƣời nƣớc ngoài từ các quốc gia khác nữa (Trung Quốc, Đài Loan,
Hồng Koong, Thái Lan…) đến Việt Nam làm ăn, sinh sống, trong đó ngƣời Hoa chiếm
số lƣợng đáng kể nhất. Sự “xáo trộn” dân cƣ đó đã phá vỡ một trật tự xã hội vốn
đƣợc duy trì trƣớc đó nởi một hệ thống pháp luật, làm cho trong một thời điểm, trong
xã hội Việt Nam đã xuất hiện nhiều ngƣời thuộc các quốc tịch khác nhau cùng sinh
sống, tham gia vào các quan hệ hôn nhân và gia đình với nhau và đƣơng nhiên đã làm
phát sinh quan hệ thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài, đòi hỏi phải đƣợc pháp luật điều
chỉnh.
Mặt khác, khi xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu của con ngƣời ngày càng
phát sinh, trong đó có nhu cầu du lịch, du học, lao động…ở nƣớc ngoài. Đây cũng là
một thực tế làm gia tăng các quan hệ thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài. Cùng với đó , sự
phát triển của khoa học kĩ thuật và công nghệ đã làm cho khoảng cách giữa các quốc
gia dƣờng nhƣ ngắn lại, các giao lƣu dân sự quốc tế giờ đây có thể đƣợc thiết lập theo
những cách thức hoàn toàn mới mẻ, khác xa so với các cách truyền thống
Tất cả tình hình trên đây đã và đang có những tác động đối với các quốc gia nói
chung và trong bối cảnh của Việt Nam hiện nay nói riêng đã cho thấy rõ những hậu


12

quả (về mặt chính trị, pháp lý, xã hội) của sự tác động này. Sự gia tăng của các quan
hệ dân sự có yếu tố nƣớc ngoài, trong đó có quan hệ thừa kế là một nhu cầu tất yếu của
sự điều chỉnh pháp luật.
1.2 Mối quan hệ giữa quyền sở hữu có yếu tố nƣớc ngoài và thừa kế yếu tố
nƣớc ngoài
Thừa kế là một trong nhƣng chế định quan trọng của dân luật các nƣớc và cũng
là một chế định quan trong trong TPQT. Chế định thừa kế có mối quan hệ gắn bó hết
sức chặt chẽ với chế định sở hữu. Sự gắn bó biểu hiện ở chỗ việc để thừa kế và hƣởng
thừa kế sẽ dẫn đến vấn đề chuyển quyền sở hữu từ ngƣời để thừa kế cho ngƣời đƣợc
hƣởng quyền thừa kế chỉ có thể là đối tƣợng của chủ sở hữu. Từ đó thấy rõ tính tối
thƣợng của chế định sở hữu trong mối quan hệ với chế định thừa kế. Không có quyền
sở hữu sẽ không phát sinh vấn đề thừa kế [47, tr 173].
Nghiên cứu pháp luật và thực tiễn của nhiều nƣớc cho thấy, quan điểm đƣợc
thừa nhận chung hiện nay là khi quốc gia công nhận và bảo đảm quyền sở hữu của cá
nhân đối với tài sản hợp pháp của họ, thì quốc gia đồng thời cho phép ngƣời đó thực
hiện quyền tự định đoạt tài sản thuộc sở hữu của mình thông qua hình thức thừa kế. Sự
phát triển kinh tế -xã hội ở mỗi quốc gia đã có những tác động căn bản đối với chế độ
sở hữu, đồng thời khi “các quan hệ sở hữu thay đổi thì đƣơng nhiên cũng kéo theo sự
thay đổi trong lĩnh vực thừa kế”.[21, tr170] Trong mỗi hình thái kinh tế-xã hội, ở bất
kỳ giai đoạn nào trong tiến trình phát triển của xã hội loài ngƣời, đều song song tồn tại
hai phạm trù kinh tế có mối liên hệ gắn kết chặt chẽ với nhau đó là sở hữu và thừa kế.
Chúng “vừa là tiền đề, vừa là hậu quả đối với nhau. Nếu sở hữu là cơ sở làm xuất hiện
thừa kế thì chính thừa kế lại là phƣơng tiện để duy trì, củng cố và xác định quan hệ sở
hữu”[21,tr 171].
Do vậy, thừa kế cũng chính là sự công nhận của Nhà nƣớc việc chuyển quyền
sở hữu tài sản hợp pháp từ ngƣời chết sang ngƣời sống dựa trên các căn cứ luật định
hay theo ý chí của chủ sở hữu lúc còn sống. Quan hệ sở hữu phản ánh quyền năng
của chủ sở hữu đối với tài sản. Quan hệ thừa kế phản ánh sự tiếp nối thực hiện quyền
và nghĩa vụ giữa các chủ thể đối với tài sản ấy (thông qua sự dịch chuyển từ ngƣời
chết sang ngƣời sống). Thừa kế đƣợc coi là hệ quả tất yếu của sự công nhận quyền sở



13
hữu, là hình thức định đoạt tài sản của cá nhân, thể hiện sự công nhận của Nhà nƣớc
đối với quy luật phát triển khách quan của các giao lƣu dân sự thông qua các chế định
pháp luật. Nói cách khác, nếu đã thừa nhận quyền sở hữu tài sản của cá nhân, cũng tức
là thừa nhận quyền để lại thừa kế của họ đối với tài sản đó. “Pháp luật về sở hữu là cơ
sở cho việc ban hành các văn bản pháp luật về thừa kế” [29, tr 117]. Pháp luật đã điều
chỉnh quan hệ sở hữu, thì không thể không điều chỉnh quan hệ thừa kế.
Mặt khác, xét về mặt lý luận có thể khẳng định rằng, chính các quan hệ hôn
nhân và gia đình cũng đƣợc coi là tiền đề làm xuất hiện quan hệ thừa kế và nhu cầu
điều chỉnh các quan hệ này. Nếu xét trên khía cạnh bản chất của các quan hệ dân sự,
trong mối liên quan đến yếu tố quyền tài sản, thì chúng ta có thể khẳng định rằng, quan
hệ sở hữu là cái có trƣớc, là tiền đề của quan hệ thừa kế. Nhƣng xét trên khía cạnh căn
cứ nguồn gốc làm phát sinh quan hệ thừa kế, thì pháp luật của hầu hết các nƣớc hiện
nay đều thừa nhận hai hình thức thừa kế, tƣơng ứng với mỗi căn cứ pháp lý khác nhau.
Đó là thừa kế theo pháp luật (chủ yếu dựa trên quan hệ hôn nhân và gia đình, lấy
nguyên tắc quyền huyết thống làm chủ đạo) và thừa kế theo di chúc (dựa trên ý chí của
ngƣời chết, không dựa trên căn cứ hôn nhân và gia đình).
Do mối quan hệ gắn bó, sâu sắc qua lại nhƣ vậy giữa chế định sở hữu và thừa
kế, ta có thể khẳng định rằng khi quyền sở hữu tại Việt Nam của ngƣời nƣớc ngoài,
ngƣời Việt Nam định cƣ ở nƣớc ngoài đƣợc thừa nhận và bảo đảm thì đƣơng nhiên
quyền thừa kế của họ cũng đƣợc thừa nhận. Và tùy thuộc vào việc quyền sở hữu của
họ tại Việt Nam đƣợc mở rộng bao nhiêu thì quyền thừa kế cũng chịu ảnh hƣởng bấy
nhiêu. Đó là một trong những cơ sở căn bản, cái gốc rễ sâu xa quan trọng đảm bảo
quyền thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài tại Việt Nam.
Quan hệ sở hữu và quan hệ thừa kế là những mối quan hệ dân sự luôn gắn bó
với nhau, tồn tại trong một thể thống nhất, là tiền đề của nhau và tạo thành các chế
định trung tâm của pháp luật dân sự. Pháp luật không thể chỉ điều chỉnh quan hệ này
mà không điều chỉnh quan hệ khác. Sau đây, chúng ta sẽ tìm hiểu các quy định của

pháp luật Việt Nam về chế độ sở hữu của ngƣời nƣớc ngoài, ngƣời Việt Nam định cƣ
ở nƣớc ngoài.


14
1.3 Quyền sở hữu tại Việt Nam của ngƣời nƣớc ngoài, ngƣời Việt Nam
định cƣ ở nƣớc ngoài.
Dƣới đây, tác giả chủ yếu phân tích về cơ sở pháp lý về việc bảo đảm thực hiện
quyền sở hữu tại Việt Nam đối với ngƣời nƣớc ngoài và ngƣời Việt Nam định cƣ ở
nƣớc ngoài, trên cơ sở các quy định của Hiến pháp, BLDS và các văn bản pháp luật
chuyên ngành liên quan khác.
1.3.1 Hiến pháp 1992
Đây là cơ sở pháp lý cao nhất trong việc xác định quan hệ sở hữu có yếu tố
nƣớc ngoài. Chúng ta đều biết, theo truyền thống lập hiến và lập pháp ở nhiều quốc
gia, nhất là các nƣớc theo mô hình xã hội chủ nghĩa, thƣờng khẳng định nguyên tắc có
tính hiến định về phát triển chế độ kinh tế của Nhà nƣớc, làm cơ sở để xây dựng chế
độ sở hữu trong phạm vi lãnh thổ của quốc gia mình. Nói cách khác, các nguyên lý cơ
bản chi phối quá trình phát triển kinh tế ở một quốc gia thƣờng đƣợc ghi nhận trong
Hiến pháp và có ý nghĩa quyết định, tạo nền tảng thiết lập chế độ sở hữu ở quốc gia
đó.
Điều 25 Hiến pháp năm 1992 quy định: Nhà nƣớc khuyến khích các tổ chức, cá
nhân nƣớc ngoài đầu tƣ vốn, công nghệ vào Việt Nam phù hợp với pháp luật Việt
Nam, pháp luật và thông lệ quốc tế; bảo đảm quyền sở hữu hợp pháp đối với vốn, tài
sản và các quyền lợi khác của các tổ chức, cá nhân nƣớc ngoài. Doanh nghiệp có vốn
đầu tƣ nƣớc ngoài không bị quốc hữu hoá. Nhà nƣớc tạo điều kiện thuận lợi cho ngƣời
Việt Nam định cƣ ở nƣớc ngoài đầu tƣ về nƣớc.
Theo quy định tại Điều 81 Hiến pháp năm 1992 thì: Ngƣời nƣớc ngoài cƣ trú ở
Việt Nam phải tuân theo Hiến pháp và pháp luật Việt Nam, đƣợc Nhà nƣớc bảo hộ
tính mạng, tài sản và các quyền lợi chính đáng theo pháp luật Việt Nam. Quyền lợi
chính đáng ở đây phải bao gồm cả quyền thừa kế. Vì vậy, về nguyên tắc thì có thể

khẳng định ngƣời nƣớc ngoài ở Việt Nam đƣợc Nhà nƣớc Việt Nam bảo hộ quyền
thừa kế tài sản hợp pháp.
Nhƣ vậy, Điều 25 và Điều 81 của Hiến pháp quy định trực tiếp về việc bảo hộ
quyền sở hữu có yếu tố nƣớc ngoài, hiểu rộng ra là quyền sở hữu đối với cả động sản


15
và bất động sản tại Việt Nam của ngƣời nƣớc ngoài và ngƣời Việt Nam định cƣ ở
nƣớc ngoài. Đây đƣợc coi là cơ sở pháp lý cao nhất cho việc xây dựng, cụ thể hóa và
thực thi các nguyên tắc, quy phạm pháp luật về quyền sở hữu có yếu tố nƣớc ngoài
trong BLDS và các văn bản quy phạm pháp luật khác của Việt Nam, cũng nhƣ các
biện pháp bảo đảm thực hiện những quyền đó trên thực tế, phù hợp với điều kiện cụ
thể của Việt Nam.
1.3.2 Bộ luật dân sự năm 2005
BLDS 2005 là đạo luật quan trọng, cụ thể hóa các quyền dân sự cơ bản nói
chung và quyền sở hữu nói riêng. Đối với quyền sở hữu có yếu tố nƣớc ngoài, BLDS
điều chỉnh một cách trực tiếp cũng nhƣ gián tiếp thông qua các quy định dƣới đây:
- BLDS đƣợc áp dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nƣớc ngoài, trừ trƣờng
hợp ĐƢQT mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác
(Khoản 3 Điều 2).
- Ngƣời nƣớc ngoài có năng lực pháp luật dân sự tại Việt Nam nhƣ công dân
Việt Nam, trừ trƣờng hợp pháp luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quy định
khác (Khoản 2 Điều 761).
- Khoản 1 Điều 766, phần VII Quan hệ dân sự có yếu tố nƣớc ngoài, BLDS 2005:
Việc xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm dứt quyền sở hữu tài sản, nội dung quyền sở
hữu đối với tài sản đƣợc xác định theo pháp luật của nƣớc nơi có tài sản đó, trừ trƣờng
hợp quy định tại khoản 2 và khoản 4 Điều này.
Từ các quy định trên đây, có thể suy luận rằng, quan hệ sở hữu có yếu tố nƣớc
ngoài đƣợc BLDS 2005 bảo vệ, tuy mới chỉ là sự bảo vệ về mặt nguyên tắc pháp lý.
Bởi xét về câu chữ, thì ngoài quy định tại Khoản 1 Điều 766, trong BLDS 2005 chƣa

có điều khoản nào khác quy định cụ thể về quan hệ sở hữu có yếu tố nƣớc ngoài.
1.3.3 Luật đầu tƣ năm 2005
Luật đầu tƣ tại Việt Nam và các văn bản hƣớng dẫn thi hành luật này đã tạo cơ
sở pháp lý tƣơng đối đồng bộ điều chỉnh quan hệ sở hữu của nhà đầu tƣ nƣớc ngoài tại


16
Việt Nam. Khoản 3 Điều 4 của Luật đầu tƣ 2005 khẳng định nguyên tắc: Nhà nƣớc
công nhận và bảo hộ quyền sở hữu tài sản, vốn đầu tƣ, thu nhập và các quyền, lợi ích
hợp pháp khác của nhà đầu tƣ; thừa nhận sự tồn tại và phát triển lâu dài của các hoạt
động đầu tƣ. Trong đó, vốn đầu tƣ gồm Vốn đầu tƣ là tiền và các tài sản hợp pháp
khác để thực hiện các hoạt động đầu tƣ theo hình thức đầu tƣ trực tiếp hoặc đầu tƣ gián
tiếp (Khoản 9 Điều 3).
Các văn bản pháp luật về đầu tƣ nƣớc ngoài đã quy định cụ thể, đầu đủ về quan
hệ sở hữu tài sản tại Việt Nam của nhà đầu tƣ nƣớc ngoài. Những văn bản này, một
mặt đã cụ thể hóa quy định của Hiến pháp 1992 về chính sách thu hút và ƣu đãi đầu tƣ
nƣớc ngoài của Việt Nam, mặt khác đã tạo ra các biện pháp bảo đảm pháp lý quan
trọng cho hoạt động của nhà đầu tƣ (là cá nhân ngƣời nƣớc ngoài hoặc pháp nhân nƣớc
ngoài) thực hiện dự án đầu tƣ tại Việt Nam. Nhà đầu tƣ là ngƣời nƣớc ngoài đƣợc Nhà
nƣớc Việt Nam bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp đối với vốn và tài sản, kể cả quyền thuê
đất để sử dụng cho việc thực hiện các dự án đầu tƣ tại Việt Nam, phù hợp với thời hạn
thực hiện dự án đầu tƣ.
1.3.4 Luật đất đai 2003
Luật đất đai, Luật nhà ở là các văn bản quan trọng điều chỉnh quan hệ sở hữu bất
động sản có yếu tố nƣớc ngoài.
Khoản 6, Khoản 7 Điều 9 Luật đất đai 2003 quy định Ngƣời Việt Nam định cƣ
ở nƣớc ngoài về đầu tƣ, hoạt động văn hoá, hoạt động khoa học thƣờng xuyên hoặc về
sống ổn định tại Việt Nam đƣợc Nhà nƣớc Việt Nam giao đất, cho thuê đất, đƣợc mua
nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở;
Tổ chức, cá nhân nƣớc ngoài đầu tƣ vào Việt Nam theo pháp luật về đầu tƣ

đƣợc Nhà nƣớc Việt Nam cho thuê đất.
Điều 121 sửa đổi quy định tại Luật số 34/2009/QH 12 quy định về quyền và
nghĩa vụ về sử dụng đất ở của ngƣời Việt Nam định cƣ ở nƣớc ngoài đƣợc sở hữu nhà
ở tại Việt Nam ta thấy, pháp luật đất đai không ngừng mở rộng các quyền của ngƣời
sử dụng đất. Bên cạnh các quyền lợi khác thì quyền thừa kế của công dân với đất đai
đã đƣợc pháp luật Việt Nam thừa nhận. Với việc ghi nhận và bảo hộ cac quyền năng


17
của ngƣời sử dụng đất, quyền sử dụng đất đã trở thành một loại quyền dân sự về tài
sản thuộc sở hữu tƣ nhân của ngƣời sử dụng đất. Ngoài ra, pháp luật đất đai còn từng
bƣớc xóa bỏ sự khác biệt trong các quy định về quyền và nghĩa vụ của ngƣời sử dụng
đất. Điều này thể hiện quyền và nghĩa vụ của ngƣời Việt Nam định cƣ ở nƣớc ngoài ,
cá nhân ngƣời nƣớc ngoài sử dụng đất đều đƣợc ghi nhận trong Luật đất đai năm 2003.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tích đã đạt đƣợc, cho đến thời điểm hiện nay,
nhìn lại nội dung của Luật đất đai 2003 và quá trình mƣời năm thi hành, có thể thấy
còn tồn đọng, chứa đựng khá nhiều điểm bức xúc trong thực tế. Hiện nay, chúng ta
đang trong quá trình xây dựng Dự thảo sửa đổi Luật đất đai năm 2003 nhằm khắc phục
những bất cập hiện nay. Có quan điểm cho rằng, điểm nghẽn lớn nhất, gốc của các bức
xúc về đất đai hiện nay là quyền sở hữu đất đai. “Trong khi chúng ta không quy định
quyền sở hữu tƣ nhân đối vơi đất đai, ít nhất là đối với đất ở của ngƣời dân, thì trên
thực tế, mảnh đất đó vẫn là tài sản hợp pháp của họ. Chúng ta đã hình thành một thứ
quyền pháp lý rất “đặc biệt”, với rất nhiều, nhiều hơn cả quyền sở hữu nhƣng lại thiếu
đi thứ quyền cốt lõi nhất là quyền định đoạt. Điều đó dẫn tới nhiều bất cập trong việc
quản lý, sử dụng, chuyển nhƣợng, thừa kế đất và từ đó này sinh nhiều hệ lụy”. 1
“Quyền định đoạt của Nhà nƣớc về thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất…đƣợc áp dụng
rộng hơn mức cần thiết, một mặt làm “méo” thị trƣờng và mặt khác gây nguy cơ tham
nhũng cao”2.
Có thể nói, pháp luật đất đai Việt Nam là vấn đề hết sức phức tạp và nhạy cảm.
Các quy định về đất đai không chỉ ảnh hƣởng trực tiếp tới một góc nhỏ là quyền thừa

kế của ngƣời nƣớc ngoài, ngƣời Việt Nam định cƣ ở nƣớc ngoài mà còn là vấn đề thực
sự gắn với lợi ích của ngƣời dân, gắn với lợi ích thực sự của đất nƣớc. Bởi vậy, có
đƣợc các quy định về pháp luật đất đai phù hợp, bảo đảm đƣợc quyền lợi của ngƣời
dân hiện nay là điều hết sức cần thiết.
1.3.5 Luật nhà ở năm 2005

1

Bảo Cầm, “Cần sửa đổi gì trong Luật đất đai: Điểm nghẽn lớn nhất là quyền sở hữu”,
Http://thanhnien.com.vn
2
GS.TSKH Đặng Hùng Võ, “Cần sửa đổi gì trong Luật đất đai: Tồn đọng những điểm nhạy cảm”,
Http://thanhnien.com.vn


18
Với quy định ngƣời Việt Nam định cƣ ở nƣớc ngoài đƣợc sở hữu nhà tại Việt
Nam theo quy định của Luật nhà ở năm 2005 đã gặp nhiều vƣớng mắc khi áp dụng
trên thực tế, phần đông ngƣời Việt Nam định cƣ ở nƣớc ngoài đều không thể mua
đƣợc nhà tại Việt Nam. Vì thế chúng ta đã tiến hành sửa đổi, bổ sung Luật nhà ở để
tạo sự bình đẳng giữa công dân Việt Nam trong nƣớc và công dân Việt Nam ở nƣớc
ngoài trong lĩnh vực nhà ở. Với quy định của Điều 126 sửa đổi, Luật số 34/2009/QH12
thì đại đa số ngƣời Việt Nam định cƣ ở nƣớc ngoài sẽ có quyền mua nhà tự do nhƣ
công dân Việt Nam trong nƣớc.
Khoản 2 Điều 9 Luật nhà ở năm 2005 quy định về đối tƣợng đƣợc sở hữu nhà ở
tại Việt Nam là ngƣời Việt Nam định cƣ ở nƣớc ngoài. Cụ thể Điều 126 sửa đổi quy
định tại Luật số 34/2009/QH12 quy định quyền sở hữu nhà ở tại Việt Nam của ngƣời
Việt Nam định cƣ ở nƣớc ngoài nhƣ sau:
1. Ngƣời Việt Nam định cƣ ở nƣớc ngoài thuộc các đối tƣợng sau đây đƣợc cơ
quan có thẩm quyền của Việt Nam cho phép cƣ trú tại Việt Nam từ ba tháng trở lên thì

có quyền sở hữu nhà ở để bản thân và các thành viên trong gia đình sinh sống tại Việt
Nam:
a) Ngƣời có quốc tịch Việt Nam;
b) Ngƣời gốc Việt Nam thuộc diện ngƣời về đầu tƣ trực tiếp tại Việt Nam theo
pháp luật về đầu tƣ; ngƣời có công đóng góp cho đất nƣớc; nhà khoa học, nhà văn hoá,
ngƣời có kỹ năng đặc biệt mà cơ quan, tổ chức của Việt Nam có nhu cầu và đang làm
việc tại Việt Nam; ngƣời có vợ hoặc chồng là công dân Việt Nam sinh sống ở trong
nƣớc.
2. Ngƣời gốc Việt Nam không thuộc các đối tƣợng quy định tại điểm b khoản 1
Điều này đƣợc cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam cấp Giấy miễn thị thực và đƣợc
phép cƣ trú tại Việt Nam từ ba tháng trở lên thì có quyền sở hữu một nhà ở riêng lẻ
hoặc một căn hộ chung cƣ tại Việt Nam để bản thân và các thành viên trong gia đình
sinh sống tại Việt Nam.”
Với quy định nêu trên, chúng ta có thể kết luận rằng, pháp luật về nhà ở của
Việt Nam, một mặt bảo đảm quyền bình đẳng giữa công dân Việt Nam với nhau,


19
không phân biệt nơi cƣ trú trong hay ngoài nƣớc, mặt khác vẫn tạo điều kiện cho
những ngƣời nƣớc ngoài có gốc Việt Nam đƣợc có cơ hội sở hữu nhà tại Việt Nam với
một số điều kiện nhất định. Luật nhà ở đã phân biệt rạch ròi giữa công dân Việt Nam
và ngƣời có gốc Việt Nam định cƣ ở nƣớc ngoài. Theo đó, ngƣời có quốc tịch Việt
Nam định cƣ ở nƣớc ngoài (tức công dân Việt Nam) sẽ có quyền sở hữu nhà tại Việt
Nam nhƣ công dân Việt Nam trong nƣớc, không cần thêm bất cứ điều kiện nào khác.
Tóm lại, đánh giá về tình hình chính sách, pháp luật của nƣớc ta về quyền sở
hữu có yếu tố nƣớc ngoài nói chung và quyền ở hữu bất động sản (nhà ở) nói riêng của
ngƣời nƣớc ngoài tại Việt Nam, xét một cách tổng thể, có thể đi đến nhận định rằng,
quyền sở hữu tài sản nói chung của ngƣời nƣớc ngoài tại Việt Nam đƣợc pháp luật bảo
hộ, trong đó quyền sở hữu bất động sản tại Việt Nam của ngƣời nƣớc ngoài chỉ đƣợc
pháp luật bảo hộ một cách hạn chế. Tùy thuộc vào từng đối tƣợng ngƣời nƣớc ngoài

(nhà đầu tƣ, ngƣời định cƣ…), pháp luật quy định bảo đảm quyền sở hữu nhà ở (bất
động sản) cho họ trên các mức độ khác nhau, nhƣng nhìn chung theo hƣớng ngày càng
mở rộng hơn, tạo nhiều thuận lợi hơn cho ngƣời nƣớc ngoài, ngƣời Việt Nam định cƣ
ở nƣớc ngoài thực hiện quyền sở hữu tại Việt Nam.
Đặc biệt từ khi Luật số 34/2009/QH 12 sửa đổi Điều 126 Luật nhà ở năm 2005
và Điều 121 Luật đất đai năm 2003 ra đời cùng các văn bản hƣớng dẫn đã mở rộng đối
tƣợng cũng nhƣ quyền lợi của các Việt kiều khi đƣợc sở hữu nhà tại Việt Nam. Với
chính sách pháp luật nhƣ vậy đã tạo tâm lý yên tâm, sự tin tƣởng và điều này thu hút
ngày càng nhiều bà con kiều bào Việt Nam ở nƣớc ngoài về sinh sống, làm ăn, đầu tƣ
cho quê hƣơng, đất nƣớc.
1.4. Phƣơng pháp điều chỉnh quan hệ thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài theo
pháp luật Việt Nam
Bất kỳ quan hệ xã hội nào thuộc đối tƣợng điều chỉnh của pháp luật, cũng đều
đƣợc điều chỉnh bằng phƣơng pháp nhất định, phù hợp với tính chất của ngành luật đó.
Mỗi ngành luật có phƣơng pháp điều chỉnh riêng. Thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài là một
loại quan hệ nằm trong các loại quan hệ dân sự theo nghĩa rộng có yếu tố nƣớc ngoài.
Bởi vậy, pháp luật Việt Nam điều chỉnh các quan hệ thừa kế có yếu tố nƣớc ngoài


20
cũng chủ yếu bằng các phƣơng pháp cơ bản đã đƣợc thừa nhận chung, bao gồm
phƣơng pháp thực chất và phƣơng pháp xung đột.
1.4.1.Phương pháp thực chất
Đó là cách gọi khá thống nhất của các luật gia Việt Nam về phƣơng pháp điều
chỉnh các quan hệ dân sự có yếu tố nƣớc ngoài thông qua việc áp dụng các quy phạm thực
chất thống nhất trong các ĐƢQT mà Việt Nam ký kết hoặc gia nhập. Lợi thế của phƣơng
pháp này là ở chỗ, góp phần trực tiếp giải quyết XĐPL liên quan đến quan hệ dân sự có
yếu tố nƣớc ngoài. Khi áp dụng quy phạm pháp luật thực chất (là quy phạm trực tiếp quy
định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, kể cả biện pháp chế tài) để giải quyết tranh chấp
phát sinh, Tòa án có thể thấy rõ ngay hậu quả của việc áp dụng pháp luật là phù hợp hay

trái với nguyên tắc tôn trọng trật tự công cộng của quốc gia mình.
Thực tiễn tƣ pháp ở nhiều nƣớc cho thấy, phƣơng pháp thực chất chỉ tỏ ra có hiệu
quả khi điều chỉnh các quan hệ kinh tế - thƣơng mại hoặc liên quan đến thƣơng mại có
yếu tố nƣớc ngoài . Đối với Việt Nam, trƣớc yêu cầu của quá trình hội nhập kinh tế khu
vực và quốc tế, nƣớc ta ngày càng ký kết, gia nhập ĐƢQT song phƣơng và đa phƣơng về
kinh tế nói chung và liên quan đến lĩnh vực tƣ pháp có yếu tố nƣớc ngoài nói riêng. Đây
chính là lợi thế quan trọng trong điều chỉnh các quan hệ kinh tế thƣơng mại có yếu tố
nƣớc ngoài.
Tuy nhiên, thực tiễn của Việt Nam và các nƣớc cho thấy, không phải tất cả các
quan hệ dân sự có yếu tố nƣớc ngoài đều có thể đƣợc điều chỉnh bằng các quy phạm
thực chất thống nhất. Trong nhiều trƣờng hợp khi quan hệ dân sự có yếu tố nƣớc ngoài
không đƣợc điều chỉnh bằng phƣơng pháp thực chất, đặc biệt là quan hệ nhân thân phi
tài sản, khi đó nhà làm luật phải sử dụng phƣơng pháp khác – phƣơng pháp xung đột là
phƣơng pháp khá phổ biến đƣợc nhiều nƣớc áp dụng – để điều chỉnh các quan hệ này.
1.4.2. Phương pháp xung đột
Là phƣơng pháp gián tiếp, không trực tiếp quy định quyền và nghĩa vụ của các
chủ thể tham gia quan hệ dân sự có yếu tố nƣớc ngoài, mà chỉ ra việc lựa chọn một
trong các hệ thống pháp luật liên quan để điều chỉnh quan hệ đó. Quan niệm này đƣợc


×