Tải bản đầy đủ (.pdf) (190 trang)

Hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.34 MB, 190 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

TRẦN ĐĂNG VINH

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Lý luận và Lịch sử Nhà nước và pháp luật

Mã số chuyên ngành: 60.38.01.01

LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. TS. Lê Văn Long
2. PGS.TS. Nguyễn Thị Hồi

HÀ NỘI - 2012


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
nội dung được trình bày trong luận án là trung thực. Những kết luận
khoa học của luận án chưa từng được ai công bố trong bất kỳ một công
trình nào khác.


TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Trần Đăng Vinh


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU

1

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG
THAM NHŨNG

12

1.1. Khái niệm, vai trò của pháp luật về phòng, chống tham nhũng

12

1.2. Khái niệm hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng và tiêu chí
đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật về phòng, chống tham nhũng

26

1.3. Sự cần thiết và các yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về
phòng chống tham nhũng

33

1.4. Pháp luật phòng, chống tham nhũng trong triều đại nhà Lê và một số

quốc gia trên thế giới - những giá trị tham khảo cho việc hoàn thiện pháp luật
phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.

41

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ PHÒNG, CHỐNG THAM
NHŨNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

57

2.1. Các quy định pháp luật về phòng ngừa tham nhũng

57

2.2. Các quy định pháp luật về phát hiện, xử lý tham nhũng

84

2.3. Các quy định pháp luật về tổ chức, hoạt động của cơ quan phòng, chống
tham nhũng

96

2.4. Các quy định pháp luật về vai trò, trách nhiệm của công dân, tổ chức
trong phòng, chống tham nhũng

105

2.5. Các quy định pháp luật về hợp tác quốc tế trong phòng, chống tham
nhũng.


116

CHƯƠNG 3. QUAN ĐIỂM, YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN
PHÁP LUẬT PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

121

3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam
hiện nay.

121

3.2. Yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở
Việt Nam hiện nay.

124

3.3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam
hiện nay.

129

KẾT LUẬN

171

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN

173


QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

174


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

APEC

Asia Pacific Economic Cooperation
Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương

BCĐ

Ban chỉ đạo

BCH

Ban chấp hành

BLHS

Bộ luật Hình sự

CPIB

Corrupt Practices Investigation Bureau
Cơ quan Điều tra tham nhũng


CTN

Chống tham nhũng

HTPL

Hoàn thiện pháp luật

KTTT

Kinh tế thị trường

KTXH

kinh tế - xã hội

LHQ

Liên hợp quốc

MTTQ

Mặt trận Tổ quốc

PCTN

phòng, chống tham nhũng

TAND


Tòa án nhân dân

TI

Transparency International
Tổ chức Minh bạch Thế giới

TTCP

Thanh tra Chính phủ

TTND

Thanh tra nhân dân

UBTVQH

Ủy ban Thường vụ Quốc hội

UBND

Ủy ban nhân dân

NCC

National Committee Corruption
Ủy ban chống tham nhũng Quốc gia

VKSND


Viện Kiểm sát nhân dân

WB

World Bank
Ngân hàng Thế giới

WTO

World Trade Organization
Tổ chức Thương mại Thế giới

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


1
LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài.
Tham nhũng là hiện tượng tiêu cực của xã hội, nó xuất hiện cùng với sự ra đời
của nhà nước, gắn liền với quyền lực chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng... Tham
nhũng được hiểu là một sự lạm dụng quyền lực công để phục vụ cho lợi ích cá
nhân.
Tham nhũng đã gây thiệt hại rất lớn về tài sản của nhà nước, quyền và lợi ích
hợp pháp của tổ chức, cá nhân; làm thúc đẩy quá trình phân hoá giàu nghèo; làm
thay đổi cả chính sách, pháp luật; làm tha hoá đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước;
làm thay đổi những chuẩn mực đạo đức xã hội, làm vẩn đục những truyền thống tốt

đẹp của dân tộc; làm giảm niềm tin của nhân dân đối với nhà nước; làm suy giảm
uy tín quốc gia trong các quan hệ hợp tác phát triển.
Tham nhũng ngày nay không còn là vấn đề riêng của từng quốc gia mà trở
thành vấn đề chung của toàn cầu. Tham nhũng được các quốc gia trên thế giới xem
là hiểm họa liên quan đến sự sống còn của chế độ và nó cũng liên quan đến sự phát
triển chung của cả nhân loại. Ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng đã được nhiều quốc
gia xác định thành mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển KTXH của đất
nước. Để phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng, các quốc gia đã đưa ra nhiều
giải pháp khác nhau về kinh tế, chính trị, pháp lý... Tuỳ theo điều kiện, hoàn cảnh
của đất nước và tình hình, thực trạng tham nhũng, nhất là tính chất, mức độ nghiêm
trọng của tham nhũng mà mỗi quốc gia đưa ra những biện pháp PCTN phù hợp.
Ở nước ta, tham nhũng đã và đang kìm hãm sự phát triển kinh tế của đất nước,
làm xói mòn giá trị đạo đức, văn hoá, gia đình, xã hội. Điều đáng lo ngại là tham
nhũng vẫn diễn ra nghiêm trọng ở nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều lĩnh vực với phạm
vi rộng, tính chất phức tạp, gây hậu quả xấu về nhiều mặt. Đặc biệt, tham nhũng
làm giảm sút niềm tin của nhân dân, làm sai lệch các chủ trương, chính sách của
Đảng, dẫn đến nguy cơ chệch định hướng, “là một trong những nguy cơ lớn đe doạ


2
sự tồn vong của Đảng và chế độ ta” [2, tr.1]. Mặt khác, tham nhũng đã làm cản trở
quá trình hội nhập sâu vào thế giới.
Trước tình hình đó, trong nhiều nghị quyết, Đảng ta đã xác định rõ nhiệm vụ
là phải thực hiện có hiệu quả cuộc đấu tranh PCTN và yêu cầu các cấp ủy đảng,
chính quyền, các ngành, các cấp tập trung lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh, nâng cao
hiệu quả cuộc đấu tranh PCTN để nhanh chóng ngăn chặn, đẩy lùi được tệ nạn này.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng và Hội nghị lần thứ ba Ban chấp
hành Trung ương Đảng khoá X đã xác định: Đảng, hệ thống chính trị và toàn xã hội
phải quyết tâm thực hiện đồng bộ các biện pháp chính trị, tư tưởng, tổ chức hành
chính, kinh tế, hình sự trong việc đấu tranh PCTN để từng bước ngăn chặn, đẩy lùi

tham nhũng.
Về phía Nhà nước, để có cơ sở pháp lý trong việc đấu tranh PCTN, ngày 2911-2005, Quốc hội đã thông qua Luật PCTN. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban
hành 23 nghị định, quyết định, chỉ thị để cụ thể hóa Luật PCTN, trong đó có các
quy định về minh bạch tài sản, thu nhập; chuyển đổi vị trí công tác đối với cán bộ,
công chức, viên chức; quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức; kỷ luật, kỷ
cương hành chính trong giải quyết công việc của người dân và doanh nghiệp; tiêu
chuẩn, định mức trang thiết bị và phương tiện làm việc của cơ quan và cán bộ, công
chức, viên chức nhà nước; tặng quà, nhận quà và nộp lại quà tặng; thời hạn không
được kinh doanh trong lĩnh vực có trách nhiệm quản lý đối với những người là cán
bộ, công chức, viên chức sau khi thôi giữ chức vụ; trả lương qua tài khoản đối với
các đối tượng hưởng lương từ ngân sách; danh mục người có nghĩa vụ kê khai tài
sản, thu nhập; chế độ phụ cấp trách nhiệm trong hoạt động PCTN; xử lý trách
nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị để xẩy ra tham nhũng; vai trò,
trách nhiệm của xã hội trong PCTN… Các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan trực
thuộc Chính phủ, UBND các cấp ban hành 23.380 văn bản, sửa đổi, bổ sung 24.024
văn bản [18, tr.3] để thực hiện Luật PCTN và các nghị định của Chính phủ, quyết
định của Thủ tướng Chính phủ nhằm cụ thể hóa, hướng dẫn thực hiện pháp luật về
PCTN, trong đó có một số văn bản quy định sự phối hợp trong công tác PCTN như:


3
quan hệ phối hợp trong phát hiện, điều tra, xử lý các vụ việc có dấu hiệu tội phạm
do cơ quan thanh tra kiến nghị khởi tố; trao đổi, quản lý và sử dụng thông tin, dữ
liệu về PCTN…
Để bảo đảm cho việc PCTN được thực hiện một cách đồng bộ, hiệu quả và đạt
được mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài, Chính phủ đã ban hành Chiến lược Quốc
gia về PCTN đến năm 2020 tại Nghị quyết số 21/NQ-CP ngày 12/5/2009, Chủ tịch
nước đã phê chuẩn Công ước của LHQ về CTN tại Quyết định số 950/2009/QĐCTN ngày 30/6/2009. Trên cơ sở đó, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số

445/QĐ-TTg ngày 07/4/2010 ban hành Kế hoạch thực hiện Chiến lược Quốc gia

về PCTN đến năm 2020 và Kế hoạch thực hiện Công ước của LHQ về CTN.
Trên thực tế, qua 5 năm thực hiện Luật PCTN cho thấy “công tác PCTN đã có
những chuyển biến tích cực cả về nhận thức và hành động” [18, tr.13], tuy nhiên
vẫn “chưa đạt yêu cầu và mục tiêu ngăn chặn, từng bước đẩy lùi tham nhũng” [18,
tr.13]. Tham nhũng vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp,
xảy ra trên nhiều lĩnh vực, nhiều cấp, nhiều ngành, gây bức xúc, bất bình trong xã
hội; là thách thức lớn đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước [18,
tr.13]. Tình hình và thực trạng tham nhũng có nhiều nguyên nhân, trong đó có
nguyên nhân xuất phát từ các quy định của pháp luật về PCTN vẫn còn có những
hạn chế, bất cập, trong đó, có một số quy định không còn phù hợp với thực tiễn
cũng như yêu cầu của nhiệm vụ công tác PCTN, một số nội dung trong PCTN chưa
được pháp luật quy định, điều chỉnh, có một số quy định còn mâu thuẫn, chồng
chéo, đặc biệt, đối chiếu với Công ước của LHQ về CTN đã được phê chuẩn thì có
một số quy định chưa bảo đảm sự tương thích. Trong Kết luận Hội nghị lần thứ năm
Ban chấp hành Trung ương Đảng cũng như trong Chương trình công tác của Quốc
hội khóa XIII và Chương trình công tác của Chính phủ đã xác định rõ là phải tập
trung nghiên cứu sửa đổi Luật PCTN hiện hành và các văn bản có liên quan để đáp
ứng được yêu cầu công tác PCTN hiện nay.
Vì vậy, HTPL về PCTN hiện nay là một nhiệm vụ cấp thiết nhằm đáp ứng
mục tiêu, yêu cầu của công tác PCTN, bảo đảm nâng cao hiệu quả phòng ngừa, phát


4
hiện và xử lý tham nhũng. Để HTPL về PCTN, cần phải nghiên cứu cơ sở lý luận
của việc HTPL về PCTN; đánh giá được thực trạng pháp luật về PCTN, chỉ ra
những ưu điểm và hạn chế của pháp luật về PCTN hiện hành; từ đó, đề xuất quan
điểm, yêu cầu và giải pháp HTPL về PCTN. Do đó, tác giả nghiên cứu đề tài này
nhằm góp phần thực hiện nhiệm vụ trên.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài.
Vấn đề PCTN nói chung cũng như xây dựng pháp luật về PCTN nói riêng

được khá nhiều nhà khoa học, nhà quản lý ở nước ta và trên thế giới quan tâm
nghiên cứu. Nhiều công trình khoa học đã đi sâu nghiên cứu, đánh giá thực trạng
tham nhũng, các biện pháp PCTN, xây dựng pháp luật về PCTN, việc thực hiện
pháp luật về PCTN và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác PCTN, trong
đó, có nhiều giải pháp hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật nói chung và pháp
luật về PCTN nói riêng nhằm bảo đảm PCTN có hiệu quả. Có thể kể đến một số
công trình sau:
- Luận án Tiến sỹ Luật học “Tình hình, nguyên nhân và các biện pháp đấu
tranh phòng, chống các tội tham nhũng” của Nghiên cứu sinh Trần Công Phàn,
nghiên cứu lý luận và thực tiễn của cuộc đấu tranh CTN, nêu bật quan điểm của
Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh CTN, phân tích các tội tham nhũng ở nước ta
hiện nay và nguyên nhân của tình hình đó cùng các giải pháp đấu tranh phòng
chống các tội tham nhũng.
- Luận án Tiến sỹ Luật học “Tham nhũng trong Chính phủ Việt Nam: biểu
hiện và cách khắc phục” (Коррупцтя в органах государственной власти
въетнама: формы проявления и пути преодоления) của Nghiên cứu sinh Lê
Trung Kiên, nghiên cứu bản chất của tham nhũng, nguyên nhân, các hình thức, tính
năng và các biểu hiện của tham nhũng trong xã hội Việt Nam, trong tổ chức Chính
phủ; xác định các hướng đi, cách thức và phương tiện để khắc phục tham nhũng
trong điều kiện kinh tế và xã hội mới của nước ta.
- Luận án Tiến sỹ Luật học “Hoạt động của Viện kiểm sát Nhân dân trong đấu
tranh phòng, chống tội phạm về tham nhũng ở Việt Nam” của Nghiên cứu sinh


5
Nguyễn Hải Phong, nghiên cứu cơ sở lý luận, thực trạng tội phạm về tham nhũng,
dự báo, phương hướng, yêu cầu và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của
VKSND trong đấu tranh phòng, chống tội phạm về tham nhũng ở Việt Nam.
- Luận văn Thạc sỹ Luật học “Đổi mới tư duy pháp lý về đấu tranh phòng
CTN ở Việt Nam hiện nay” của Ngọ Duy Hiểu, nghiên cứu tham nhũng, đấu tranh

PCTN và việc đổi mới tư duy trong phòng ngừa và đấu tranh CTN ở Việt Nam.
- Luận văn Thạc sỹ Luật học “Hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham
nhũng ở Việt Nam hiện nay” của Trần Anh Tuấn, nghiên cứu cơ sở lý luận của việc
HTPL về PCTN, quá trình phát triển của pháp luật về PCTN và thực trạng pháp luật
về PCTN (đến năm 2006); nêu lên quan điểm, phương hướng và giải pháp HTPL về
PCTN của Việt Nam.
- Đề tài khoa học cấp nhà nước “Đấu tranh PCTN ở nước ta” của Ban Nội
chính Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam, nghiên cứu thực trạng tham nhũng,
nguyên nhân cơ bản dẫn đến thực trạng tham nhũng ở Việt Nam, kiến nghị các giải
pháp nhằm đấu tranh PCTN ở nước ta.
- Đề tài khoa học độc lập cấp nhà nước “Luận cứ khoa học cho việc xây dựng
chiến lược phòng ngừa và nâng cao hiệu quả đấu tranh PCTN ở Việt Nam cho đến
năm 2020” của tác giả Mai Quốc Bình, Phó Tổng Thanh tra cùng tập thể tác giả
thuộc TTCP, nghiên cứu một số vấn đề lý luận chung về tham nhũng và công tác
đấu tranh CTN, thực trạng, hậu quả và nguyên nhân tham nhũng, tình hình công tác
đấu tranh CTN ở Việt Nam, yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN với
nhiệm vụ PCTN, kinh nghiệm về PCTN trên thế giới, các giải pháp phòng ngừa và
nâng cao hiệu quả đấu tranh CTN và việc xây dựng Chiến lược PCTN ở Việt Nam.
- Đề tài khoa học cấp bộ “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác
chống tham nhũng của các cơ quan thanh tra nhà nước theo Luật PCTN” do TS.
Trần Ngọc Liêm, Phó Vụ trưởng Vụ IV, TTCP làm Chủ nhiệm, nghiên cứu thực
trạng, hiệu quả và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác PCTN của
các cơ quan thanh tra nhà nước.


6
- Đề tài khoa học cấp bộ “Các biện pháp đảm bảo quyền được thông tin của
công dân phục vụ công tác PCTN” do ThS. Đinh Văn Minh, Phó Viện trưởng Viện
Khoa học Thanh tra, TTCP làm Chủ nhiệm, nghiên cứu quyền được thông tin và
đưa ra các giải pháp bảo đảm quyền được thông tin của công dân góp phần PCTN.

- Đề tài khoa học cấp cơ sở “Một số vấn đề về tham nhũng trong khu vực tư và
PCTN trong khu vực tư ở Việt Nam hiện nay” do ThS. Nguyễn Vũ Quỳnh Lâm,
Viện Khoa học Thanh tra, TTCP làm Chủ nhiệm, đề cập đến khái niệm, lý luận và
thực tiễn tham nhũng trong khu vực tư, đưa ra dự báo và giải pháp PCTN trong khu
vực tư ở Việt Nam.
- Đề tài khoa học cấp cơ sở “Vai trò của Hội người cao tuổi và Hội cựu chiến
binh tham gia PCTN ở cơ sở” do ThS. Nguyễn Thế Huệ, Viện Nghiên cứu Người
cao tuổi Việt Nam làm Chủ nhiệm và Đề tài khoa học cấp cơ sở “Đoàn thanh niên
cộng sản Hồ Chí Minh với công tác PCTN ở Việt Nam” do tác giả Nguyễn Tuấn
Anh, Viện Khoa học Thanh tra, TTCP làm Chủ nhiệm nghiên cứu vai trò của Hội
Cựu chiến binh, Hội người cao tuổi, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh đối với
công tác PCTN và nêu lên các giải pháp hoàn thiện cơ chế hoạt động và nâng cao
hiệu quả hoạt động của các tổ chức nói trên trong công tác PCTN.
- Cuốn sách “Nhận diện tham nhũng và các giải pháp phòng, chống tham
nhũng ở Việt Nam hiện nay” do tập thể tác giả Phan Xuân Sơn, Phạm Thế Lực
(Đồng chủ biên) nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn để nhận diện và thiết lập các
biện pháp PCTN; vấn đề nhận diện, đặc điểm, nguyên nhân của tham nhũng ở Việt
Nam, thực trạng PCTN và phương huớng, giải pháp nâng cao hiệu quả trong đấu
tranh PCTN ở nước ta hiện nay.
Bên cạnh các công trình khoa học nêu trên còn có nhiều bài viết có nội dung
liên quan đến PCTN, pháp luật về PCTN đăng trên các tạp chí khoa học. Có thể kể
đến các bài sau:
- Bài “Cần thiết phải quy định trách nhiệm hình sự của pháp nhân” của tập thể
tác giả Nguyễn Anh Tuấn, Nguyễn Văn Chinh đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập
pháp số 195 tháng 5-2011, nghiên cứu sự cần thiết và cơ sở quy định trách nhiệm


7
hình sự của pháp nhân, đề xuất việc quy định trách nhiệm hình sự đối với pháp
nhân.

- Bài “Bàn về tham nhũng” của TS. Nguyễn Minh Đoan đăng trên Tạp chí
Nghiên cứu lập pháp số 2 năm 2004 đã phân tích khái niệm về tham nhũng; nguyên
nhân của tham nhũng và các giải pháp về PCTN như xác lập cơ chế kiểm soát lẫn
nhau, coi trọng phát hiện, xử lý tham nhũng, xây dựng cơ chế chỉ đạo và tổ chức
thực hiện công tác PCTN ở Việt Nam.
- Bài “Minh bạch hoá hoạt động của nhà nước” của TS. Lê Vương Long đăng
trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 11 năm 2005 đã đi sâu phân tích thực trạng
của việc minh bạch hoạt động trong các cơ quan, tổ chức, đơn vị của Nhà nước,
nguyên nhân của những hạn chế, bất cập và đề xuất một số giải pháp để minh bạch
hóa các hoạt động của Nhà nước.
- Bài “Kinh nghiệm phòng, chống tham nhũng của một số nước trên thế giới”
của TS. Nguyễn Thị Hồi đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật số 7 năm 2006
đã nghiên cứu thực trạng pháp luật và việc PCTN của một số nước trên thế giới,
trên cơ sở đó rút ra những kinh nghiệm và đề xuất một số giải pháp PCTN ở Việt
Nam.
- Bài “Sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự năm 1999 đối với các tội phạm về
tham nhũng”, của tác giả Đinh Văn Quế đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số
192 tháng 4-2011, nghiên cứu đề xuất bổ sung Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn đưa
hối lộ hoặc làm môi giới hối lộ; khôi phục lại Tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử
dụng trái phép tài sản của Nhà nước; quy định Tội nhũng nhiễu, Tội không thực
hiện nhiệm vụ, công vụ vì vụ lợi, Tội bao che cho người có hành vi vi phạm pháp
luật …
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu khoa học trong thời gian qua chủ yếu
đi sâu nghiên cứu làm rõ khái niệm, bản chất của tham nhũng, đặc điểm của tham
nhũng, phân tích thực trạng tham nhũng và pháp luật về PCTN, đồng thời đưa ra
phương hướng, giải pháp về PCTN, xây dựng và hoàn thiện pháp luật về PCTN,
nhưng đến thời điểm hiện nay chưa có công trình khoa học nào đưa ra được các giải


8

pháp một cách toàn diện và đồng bộ trong việc HTPL về PCTN. Đứng dưới góc độ
lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật mà xem xét thì các công trình nghiên cứu
được nêu ở trên còn hạn chế trong việc hệ thống hoá các cơ sở lý luận, thực tiễn của
việc HTPL về PCTN và đưa ra những quan điểm, giải pháp HTPL về PCTN một
cách đồng bộ nhằm đáp ứng yêu cầu PCTN hiện nay ở Việt Nam. Liên quan trực
tiếp đến vấn đề HTPL về PCTN thì đáng chú ý nhất là Luận văn Thạc sỹ Luật học
“Hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay” của tác
giả Trần Anh Tuấn đã có những đóng góp là: mở rộng khái niệm tham nhũng, bao
gồm cả tham nhũng trong khu vực công và khu vực tư; đề xuất việc nghiên cứu xử
lý hành chính hành vi tham nhũng khi hành vi đó chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm
về tham nhũng; hoàn thiện một số quy định của pháp luật về PCTN cho phù hợp với
tình hình tham nhũng ở Việt Nam và phù hợp với Công ước của LHQ về CTN. Tuy
nhiên, do đây là đề tài nghiên cứu ở cấp độ là Luận văn Thạc sỹ, thời điểm nghiên
cứu cách đây 6-7 năm, lúc đó nhiều văn bản pháp luật về PCTN chưa được ban
hành, nhiều quy định của pháp luật chưa được nhìn nhận đánh giá từ thực tiễn thi
hành, cho nên về phạm vi và đối tượng nghiên cứu còn có những hạn chế nhất định
so với thời điểm hiện nay.
Mặc dù các công trình nghiên cứu khoa học pháp lý nói trên đã góp phần vào
việc xây dựng, HTPL về PCTN, nhưng các quy định của pháp luật về PCTN hiện
nay vẫn còn hạn chế, bất cập, gây khó khăn cho việc phòng ngừa, phát hiện, xử lý
tham nhũng, đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu để hoàn thiện.
Ý thức được điều đó nên tôi đã chọn đề tài “Hoàn thiện pháp luật về phòng,
chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay” làm luận án tiến sỹ luật học.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài.
3.1. Mục đích nghiên cứu.
Mục đích của luận án là giải quyết một số vấn đề lý luận về pháp luật, HTPL
về PCTN; đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật về PCTN hiện hành ở
nước ta, chỉ rõ những ưu điểm, hạn chế của pháp luật trong lĩnh vực đó; từ đó đề
xuất quan điểm, giải pháp HTPL về PCTN ở nước ta hiện nay.



9
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Luận án hoàn thành một số nhiệm vụ cơ bản sau đây:
- Làm sáng tỏ khái niệm tham nhũng, PCTN, pháp luật về PCTN, HTPL về
PCTN; vai trò của pháp luật đối với PCTN; các tiêu chí để HTPL về PCTN; sự cần
thiết và các yếu tố ảnh hưởng đến việc HTPL về PCTN.
- Hệ thống hoá các quy định của pháp luật về PCTN hiện hành, bao gồm các
quy định về phòng ngừa tham nhũng; phát hiện, xử lý tham nhũng; tổ chức, hoạt
động của cơ quan PCTN; vai trò, trách nhiệm của công dân, tổ chức trong công tác
PCTN; hợp tác quốc tế về PCTN, xác định các ưu điểm và đặc biệt là chỉ ra những
hạn chế của pháp luật về PCTN hiện hành.
- Đề xuất các quan điểm, yêu cầu và giải pháp HTPL về PCTN nhằm tạo
thuận lợi cho công tác đấu tranh PCTN có hiệu quả trong giai đoạn hiện nay.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài.
Luận án chỉ nghiên cứu các nội dung cơ bản của pháp luật về PCTN thể hiện
trong Luật PCTN và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật này, xác định ưu điểm,
hạn chế của pháp luật về PCTN, từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện quy định của
pháp luật về PCTN hiện hành, mà chủ yếu là hoàn thiện các quy định về phòng
ngừa tham nhũng; phát hiện, xử lý tham nhũng; tổ chức, hoạt động của cơ quan
PCTN; phát huy vai trò, trách nhiệm của công dân, tổ chức trong PCTN; hợp tác
quốc tế về PCTN; tổ chức, bộ máy các cơ quan nhà nước và cán bộ, công chức, viên
chức để bảo đảm PCTN có hiệu quả; đánh giá thực trạng tham nhũng, hiệu quả công
tác PCTN và HTPL một số lĩnh vực có nguy cơ tham nhũng cao.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu.
5.1. Phương pháp luận.
Luận án được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ
nghĩa duy vật biện chứng của Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Đồng thời, dựa
trên cơ sở quan điểm, chủ trương, phương hướng, nhiệm vụ của Đảng về PCTN
hiện nay, nhất là Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, XI, Nghị quyết Hội

nghị BCH Trung ương lần thứ 3 (Khoá X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối


10
với công tác PCTN, lãng phí, Kết luận của Hội nghị BCH Trung ương lần thứ 5
(Khoá XI).
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể.
Các phương pháp cụ thể được sử dụng trong quá trình nghiên cứu đề tài cơ
bản là các phương pháp truyền thống như: phân tích, so sánh, chứng minh, hệ thống
hoá, thống kê, tổng hợp... Trong đó, các phương pháp được sử dụng chủ yếu là: hệ
thống hoá các quy định của pháp luật về PCTN hiện hành, thống kê, tổng hợp việc
thực hiện các quy định của pháp luật về PCTN, so sánh quy định của pháp luật hiện
hành với lý luận và thực tiễn, phân tích, đánh giá những ưu điểm, hạn chế của pháp
luật về PCTN để làm cơ sở chứng minh, luận giải cho các giải pháp HTPL về
PCTN đã được đề xuất.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án.
- Kết quả nghiên cứu đề tài được trình bày trong luận án có thể được sử dụng
làm tài liệu tham khảo trong quá trình nghiên cứu, tìm kiếm cơ sở lý luận, cơ sở
thực tiễn để xây dựng, HTPL về PCTN ở nước ta hiện nay.
- Luận án là tài liệu tham khảo cho cán bộ, công chức nhà nước và các tổ
chức, cá nhân có liên quan trong việc nghiên cứu để đề ra các giải pháp cụ thể trong
công tác PCTN hoặc trực tiếp tham gia hoạt động PCTN, nhất là cán bộ, công chức
thuộc các cơ quan thanh tra nhà nước.
- Luận án là tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu, học tập, giảng dạy, tuyên
truyền pháp luật về PCTN, có thể sử dụng trong thực hiện Đề án “Đưa nội dung
PCTN vào chương trình giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng” đã được Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt tại Quyết định số 137/QĐ-TTg ngày 02/12/2009.
7. Những đóng góp mới của luận án.
Là công trình ở cấp độ luận án tiến sỹ luật học nghiên cứu một cách có hệ
thống pháp luật về PCTN của Việt Nam kể từ khi Luật PCTN được ban hành, luận

án có những điểm mới chủ yếu về khoa học sau đây:
- Xây dựng được các khái niệm: tham nhũng, pháp luật về PCTN, HTPL về
PCTN, tiêu chí HTPL về PCTN và xác định được vai trò của pháp luật về PCTN.


11
- Phân tích, đánh giá khách quan thực trạng pháp luật về PCTN ở nước ta,
trong đó, bên cạnh nêu những mặt tích cực thì đã phát hiện, chỉ ra được những điểm
hạn chế của pháp luật về PCTN hiện hành.
- Đề xuất các giải pháp tương đối đồng bộ và sát với thực tiễn trong việc hoàn
thiện các quy định của pháp luật về PCTN.
8. Kết cấu của luận án.
Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 3
chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật về phòng, chống tham
nhũng.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam
hiện nay.
Chương 3: Quan điểm, yêu cầu, giải pháp hoàn thiện pháp luật về phòng,
chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay.


12
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ PHÒNG, CHỐNG THAM NHŨNG

1.1. Khái niệm, vai trò của pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
1.1.1. Khái niệm pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
1.1.1.1. Khái niệm tham nhũng.

Trong khoa học và thực tiễn đã có nhiều quan niệm khác nhau về tham nhũng.
Ban nghiên cứu thuộc Hội đồng châu Âu đã đưa ra khái niệm tham nhũng:
“Tham nhũng bao gồm những hành vi hối lộ và bất kỳ một hành vi nào khác của
những người được giao thực hiện một trách nhiệm nào đó trong khu vực nhà nước
hoặc tư nhân, nhưng đã vi phạm trách nhiệm được giao để thu bất kỳ một thứ lợi
bất hợp pháp nào cho cá nhân hoặc cho người khác” [93, tr. 21].
Theo Tổ chức Minh bạch Thế giới (TI), tham nhũng là hành vi “của người lạm
dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc cố ý làm trái pháp luật để phục vụ cho lợi ích cá
nhân”. Ngân hàng Thế giới (WB) cho rằng tham nhũng là “sự lạm dụng chức vụ
công để tư lợi” [77, tr. 9]. Ngân hàng Phát triển Châu Á có quan niệm khá rộng về
tham nhũng, đó là “lạm dụng chức vụ công hoặc chức vụ tư để tư lợi” [77, tr. 10]
Ban Tổng thư ký LHQ cho rằng:
“Tham nhũng bao hàm:
Một là: Hành vi của những người có chức, có quyền ăn cắp, tham ô và
chiếm đoạt tài sản của Nhà nước.
Hai là: Lạm dụng chức quyền để trục lợi bất hợp pháp thông qua việc sử
dụng các quy chế chính thức một cách không chính thức.
Ba là: Sự mâu thuẫn, không cân đối giữa các lợi ích chính đáng do thực
hiện nghĩa vụ xã hội với những món tư lợi riêng” [53, tr. 18-19].
Giáo sư J. Nai cho rằng “Tham nhũng bao hàm trong nội dung của nó cả tệ
nạn hối lộ, tệ bệnh gia đình chủ nghĩa và sự chiếm đoạt bất hợp pháp tài sản công
cộng và biến tài sản đó thành của riêng cá nhân” [93, 20].


13
Chủ tịch Hồ Chí Minh không sử dụng danh từ “tham nhũng”, nhưng Người
thường nói đó là tham ô – biểu hiện đặc trưng nhất của tham nhũng:
“Tham ô là gì?
- Đứng về phía cán bộ mà nói, tham ô là:
Ăn cắp của công làm của tư

Đục khoét của nhân dân
Ăn bớt của bộ đội.
Tiêu ít mà khai nhiều, lợi dụng của chung của Chính phủ để làm quỹ
riêng cho địa phương mình, đơn vị mình, cũng là tham ô.
- Đứng về phía nhân dân mà nói, tham ô là:
Ăn cắp của công, khai gian, lậu thuế" [45, tr. 488].
Người khẳng định: "Tham ô là hành động xấu xa nhất, tội lỗi đê tiện nhất
trong xã hội. Tham ô là trộm cắp của công, chiếm của công làm của tư" [46, tr. 110].
Tại Hội nghị quốc tế CTN lần thứ 13 diễn ra tháng 11/2008 tại Hy Lạp với chủ
đề: “Minh bạch toàn cầu: chống tham nhũng vì một tương lai bền vững” đã xác định
một phương trình (công thức) của tham nhũng là: C=M+D-A. Trong đó C là
Corruption: tham nhũng; M là Monopoly: độc quyền; D là Discretion: sự che chắn
của quan chức; A là Accountability: trách nhiệm giải trình.
Thực tế ở Việt Nam hiện nay cũng có nhiều quan niệm về tham nhũng. Theo
từ điển Tiếng Việt, “tham nhũng là sự lợi dụng quyền hạn để nhũng nhiễu dân và
lấy của”[90, tr. 910]. Theo Luật PCTN: “Tham nhũng là hành vi của người có chức
vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi” (khoản 2 Điều 1).
Nghiên cứu tham nhũng từ góc độ đạo đức xã hội, vi phạm pháp luật và tội
phạm thì GS. TS. Nguyễn Xuân Yêm, PGS. TS. Nguyễn Hòa Bình, TS. Bùi Minh
Thanh cho rằng:
“Tham nhũng là hiện tượng xã hội tiêu cực có tính lịch sử xuất hiện và
tồn tại trong xã hội phân chia giai cấp và hình thành nhà nước, được thể
hiện bằng hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vụ lợi cho cá nhân
hoặc người khác dưới bất kỳ hình thức nào, gây thiệt hại tài sản của nhà


14
nước, của tập thể, của công dân hoặc đe doạ gây thiệt hại cho hoạt động
đúng đắn của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội hoặc quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân” [93, tr.26].

Nghiên cứu tham nhũng từ nhiều góc độ, GS.TSKH. Phan Xuân Sơn và ThS.
Hoàng Thế Lực cho rằng: “Tham nhũng là một hiện tượng xã hội, trong đó các tổ
chức, tập đoàn, cá nhân… lợi dụng những ưu thế về chức vụ, cương vị, uy tín, nghề
nghiệp, hoàn cảnh của mình hoặc người khác, lợi dụng những sơ hở của pháp luật
để trục lợi bất chính” [53, tr. 37].
Có quan điểm cho rằng tham nhũng là hành vi được thực hiện bởi người có
chức vụ, quyền hạn hoặc nhiệm vụ công vụ được giao đã lợi dụng chức vụ, quyền
hạn hoặc nhiệm vụ công vụ đó để vụ lợi cá nhân và thông thường gắn với quá trình
quản lý nhà nước hay tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước. Trong khi đó, có ý
kiến cho rằng tham nhũng không chỉ giới hạn bởi các hành vi thuộc các cơ quan nhà
nước mà còn ở những mối quan hệ khác trong xã hội, nó được xem như là một sự
lợi dụng, biến lợi ích của tập thể thành lợi ích của cá nhân. Tham nhũng được thực
hiện cả trong phạm vi ngoài nhà nước hay còn gọi là trong cả khu vực tư. Mặc dù
được diễn đạt khác nhau, song hầu hết các quan điểm trên đều giống nhau ở chỗ cho
rằng tham nhũng là hành vi của những người có chức vụ, quyền hạn hoặc được giao
thực hiện công vụ, nhiệm vụ nhưng đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc công vụ,
nhiệm vụ đó để trục lợi cá nhân.
Như vậy, tham nhũng là hành vi trái pháp luật của người có chức vụ, quyền
hạn hoặc được giao thực hiện công vụ, nhiệm vụ nhưng đã lợi dụng chức vụ, quyền
hạn hoặc công vụ, nhiệm vụ đó để vụ lợi cá nhân, làm thiệt hại hoặc đe doạ gây
thiệt hại đến lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Từ khái niệm trên, nhìn dưới góc độ là một loại vi phạm pháp luật, tham
nhũng có các dấu hiệu sau:
Thứ nhất, chủ thể của tham nhũng là người có chức vụ, quyền hạn hoặc được
giao công vụ, nhiệm vụ nhưng đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc công vụ, nhiệm
vụ đó để vụ lợi.


15
Thứ hai, khách thể của tham nhũng là những quan hệ xã hội được pháp luật

bảo vệ, thể hiện ở các lợi ích vật chất, phi vật chất mà chủ thể tham nhũng hướng
tới.
Thứ ba, về mặt chủ quan của tham nhũng thì lỗi của người thực hiện hành vi
tham nhũng là lỗi cố ý. Trong nhiều trường hợp chủ thể tham nhũng còn sử dụng
các thủ đoạn hết sức tinh vi để che dấu và gây khó khăn cho việc phát hiện hành vi
tham nhũng. Về động cơ tham nhũng thì phần lớn các trường hợp chủ thể tham
nhũng đều có động cơ xuất phát từ ham muốn cá nhân để thoả mãn nhu cầu về vật
chất, tinh thần của họ, tức là động cơ vụ lợi. Mục đích mà các chủ thể tham nhũng
muốn đạt được chủ yếu là những giá trị vật chất. Ngoài ra, trong một số trường hợp
cụ thể, lợi ích vật chất và phi vật chất đan xen.
Thứ tư, mặt khách quan của tham nhũng là những biểu hiện ra bên ngoài của
chủ thể tham nhũng, bao gồm hành vi tham nhũng, hậu quả tham nhũng và mối
quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả tham nhũng.
Hành vi tham nhũng là hành vi trái pháp luật của người có chức vụ, quyền
hạn, được thể hiện bằng hành động hay không hành động. Hành động ở đây thường
là việc người có chức vụ, quyền hạn không thực hiện đúng yêu cầu, giới hạn mà
pháp luật cho phép; không hành động thường là không thực hiện chức trách, nhiệm
vụ được giao. Luật PCTN quy định 14 hành vi tham nhũng, mặc dù vậy, các hành
vi này nếu so với thực tế thì vẫn chưa đầy đủ và cần phải tiếp tục nghiên cứu để bổ
sung một số hành vi cho phù hợp.
Hậu quả của tham nhũng là sự thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Phần lớn các hành vi
tham nhũng đã trực tiếp làm thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân, người thực hiện hành vi tham nhũng đã chiếm đoạt được
lợi ích vật chất, phi vật chất. Tuy nhiên, cũng có những trường hợp chưa có thiệt hại
xẩy ra nhưng đã đe dọa gây thiệt hại lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp
pháp của tổ chức, cá nhân.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả tham nhũng là mối quan hệ



16
biện chứng, hậu quả xẩy ra xuất phát từ hành vi của chủ thể tham nhũng.
1.1.1.2. Khái niệm phòng, chống tham nhũng.
Phòng, chống tham nhũng là nhiệm vụ được các quốc gia trên thế giới quan
tâm thực hiện. PCTN được hiểu là các hoạt động “phòng ngừa tham nhũng” và
“phát hiện, xử lý tham nhũng” nhằm thực hiện mục tiêu ngăn chặn, đẩy lùi được
tình trạng tham nhũng.
Phòng ngừa tham nhũng là biện pháp để đề phòng, ngăn ngừa sự phát sinh các
hành vi tham nhũng (không để tham nhũng xẩy ra). Tuỳ theo điều kiện hoàn cảnh
kinh tế, chính trị, xã hội mà mỗi nước có những cách thức, biện pháp phòng ngừa
khác nhau. Trong đó đáng kể nhất là các biện pháp tiền đề được các quốc gia trên
thế giới áp dụng, đó là tăng cường tính công khai, minh bạch đối với các hoạt động
của nhà nước; minh bạch tài sản, thu nhập của công chức; kiểm soát chặt chẽ tài
sản, thu nhập của những người có chức vụ, quyền hạn; cải cách thủ tục hành chính,
đưa ứng dụng công nghệ vào quản lý; thực hiện tốt thanh toán không dùng tiền mặt,
nâng cao trách nhiệm của người đứng đầu, thực hiện tốt quy tắc ứng xử, quy tắc đạo
đức nghề nghiệp; tăng cường công tác quản lý nhà nước, quản lý KTXH trên các
lĩnh vực. Việc thực hiện các biện pháp này là điều kiện cần thiết để đề phòng, ngăn
ngừa các hành vi tham nhũng nẩy sinh trên thực tế.
Đi đôi với phòng ngừa tham nhũng, các quốc gia trên thế giới đều sử dụng các
công cụ để phát hiện và xử lý những người có hành vi tham nhũng. Phát hiện và xử
lý hành vi tham nhũng là biện pháp quan trọng nhất trong công tác đấu tranh PCTN,
thể hiện thái độ phản ứng của nhà nước đối với tham nhũng.
Phát hiện tham nhũng là quá trình tìm ra các hành vi tham nhũng được thực
hiện bởi các chủ thể cụ thể. Do chủ thể tham nhũng thường là những người có chức
vụ, quyền hạn và một số trường hợp được che đậy bằng các thủ đoạn hết sức tinh
vi, thậm chí còn được các công cụ quyền lực bảo vệ, che chắn, do đó việc phát hiện
tham nhũng là một trong những công việc hết sức khó khăn. Để phát hiện tham
nhũng, các quốc gia trên thế giới áp dụng nhiều cách thức, nhưng chủ yếu là thông
qua các nhánh quyền lực, trong đó, có những công cụ phát hiện của nhà nước nhưng



17
cũng có những công cụ từ xã hội. Công cụ chính để phát hiện tham nhũng mà nhiều
quốc gia trên thế giới áp dụng đó là thông qua hoạt động của các cơ quan chức
năng, chuyên trách về PCTN như: thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, điều tra, kiểm sát.
Ngoài ra, trên thực tế hiện nay, có nhiều hành vi tham nhũng được phát hiện xuất
phát từ nguồn cung cấp thông tin từ phía tổ chức, cá nhân, trong đó không thể
không nói đến vai trò của các cơ quan thông tấn báo chí và việc tố cáo hành vi tham
nhũng của công dân. Để phát huy vai trò của các tổ chức, cá nhân trong xã hội, nhà
nước cũng xây dựng cơ chế để họ có điều kiện tham gia vào việc phát hiện tham
nhũng thông qua nhiều hình thức, nhất là cung cấp thông tin về tham nhũng cho các
cơ quan chức năng của nhà nước.
Xử lý tham nhũng là áp dụng các biện pháp trừng phạt của nhà nước đối với
người có hành vi tham nhũng. Việc xử lý tham nhũng không chỉ nhằm mục đích
trừng trị người có hành vi tham nhũng mà còn có mục đích răn đe, giáo dục những
người khác để họ không dám thực hiện hành vi tham nhũng. Cho dù phát hiện thông
qua con đường nào đi chăng nữa thì việc kết luận và xử lý người có hành vi tham
nhũng vẫn thuộc về các cơ quan chức năng của nhà nước và theo một trình tự, thủ
tục nhất định. Việc kết luận một người có hành vi tham nhũng hay không và trách
nhiệm pháp lý như thế nào, chế tài xử lý ra sao căn cứ vào tính chất, mức độ và hậu
quả của hành vi tham nhũng. Tuỳ theo tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi
tham nhũng mà các quốc gia quy định hình thức, biện pháp xử lý người thực hiện
hành vi tham nhũng khác nhau. Thông thường nhà nước áp dụng các biện pháp xử
lý kỷ luật, hành chính, trừng phạt về kinh tế hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự,
trong đó việc truy cứu trách nhiệm hình sự được áp dụng đối với những hành vi
tham nhũng ở mức độ nghiêm trọng, gây nguy hiểm cho xã hội. Đối với các hành vi
tham nhũng gây nguy hiểm cho xã hội không lớn thì pháp luật quy định các biện
pháp xử lý hành chính. Trong trường hợp hành vi tham nhũng gây thiệt hại về tài
sản, quyền tài sản thì buộc khắc phục hậu quả hoặc bồi thường thiệt hại, những tài

sản do tham nhũng mà có thì được thu hồi nộp vào ngân sách nhà nước hoặc trả lại
cho chủ sở hữu.


18
Như vậy, phòng, chống tham nhũng là các biện pháp mà nhà nước áp dụng để
phòng ngừa, ngăn chặn sự phát sinh các hành vi tham nhũng, phát hiện được và xử
lý các hành vi tham nhũng.
1.1.1.3. Khái niệm pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
Để PCTN, các cơ quan nhà nước đã áp dụng nhiều cách thức, biện pháp khác
nhau, với những công cụ khác nhau, trong đó có pháp luật. Pháp luật là công cụ hữu
hiệu nhất để nhà nước quản lý xã hội nhằm thiết lập trật tự, kỷ cương xã hội. Xuất
phát từ tính ưu việt của pháp luật là: do nhà nước ban hành, mang tính chất bắt buộc
chung và được bảo đảm thực hiện bằng các tổ chức, biện pháp mang tính chất
quyền lực nhà nước nên pháp luật luôn giữ vai trò quan trọng trong PCTN.
Để bảo đảm việc PCTN có hiệu quả và tuân theo một trật tự nhất định, nhà
nước ban hành các quy định pháp luật nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham
nhũng. Pháp luật xác định rõ hành vi nào là tham nhũng, thẩm quyền của các cơ
quan của nhà nước trong công tác PCTN, trình tự, thủ tục xử lý tham nhũng, đồng
thời, quy định trách nhiệm và cơ chế để phát huy vai trò của các tổ chức, cá nhân
trong xã hội tham gia vào công tác PCTN.
Trong khoa học pháp lý, pháp luật về PCTN chưa được coi là một ngành luật
độc lập với đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh riêng biệt. Pháp luật về
PCTN có thể được hiểu theo nghĩa rộng, đó là các quy định góp phần vào việc
phòng ngừa, phát hiện và xử lý tham nhũng. Tuy nhiên, nếu hiểu theo nghĩa này thì
khó có thể hệ thống hóa một cách đầy đủ và rút ra được những đặc điểm riêng của
pháp luật về PCTN. Mặt khác, trong một số trường hợp cụ thể rất khó có thể xác
định được những quy phạm pháp luật nào thuộc pháp luật PCTN bởi các quy phạm
pháp luật về PCTN nằm rải rác ở nhiều văn bản của nhiều ngành luật khác nhau như
luật hình sự, luật hành chính, luật kinh tế… Đồng thời, cũng khó để nghiên cứu tìm

ra phương thức, phương pháp HTPL về PCTN.
Pháp luật về PCTN cũng có thể được hiểu theo nghĩa hẹp, đó là tổng thể các
quy phạm pháp luật được thể hiện trong Luật PCTN và các văn bản hướng dẫn thi
hành. Nhưng hiểu theo nghĩa này thì cũng có điểm không hoàn toàn chính xác vì


19
bên cạnh Luật PCTN và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật PCTN, còn rất nhiều
văn bản thuộc nhiều ngành luật khác nhau cũng có tác dụng PCTN và có thể được
xem là pháp luật về PCTN.
Nhìn chung, pháp luật PCTN có một số đặc điểm đặc thù riêng và có thể phân
biệt được với pháp luật trong các lĩnh vực khác, đó là:
- Pháp luật về PCTN xác định rõ những hành vi nào là hành vi tham nhũng và
những biện pháp cưỡng chế nhà nước cần áp dụng đối với các chủ thể có hành vi
đó. Các biện pháp được áp dụng có thể là biện pháp hình sự, hành chính hoặc kinh
tế, tùy theo tính chất, mức độ của hành vi tham nhũng.
- Pháp luật về PCTN điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa các cơ quan, tổ
chức, cá nhân trong phòng ngừa tham nhũng và các quan hệ giữa các cơ quan chức
năng của nhà nước với các tổ chức, cá nhân trong việc phát hiện, xử lý các hành vi
tham nhũng; quy định các biện pháp được áp dụng để phòng ngừa tham nhũng,
đồng thời, quy định vai trò, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong PCTN.
- Pháp luật về PCTN còn gồm các quy định về tổ chức và hoạt động của các
cơ quan PCTN, các quy định về hợp tác quốc tế và phát huy vai trò, trách nhiệm
của tổ chức, cá nhân trong PCTN, đồng thời quy định các biện pháp bảo đảm nhằm
PCTN có hiệu quả.
- Pháp luật về PCTN sử dụng các cách thức, phương pháp tác động nhằm hạn
chế, ngăn chặn, phòng ngừa, phát hiện, xử lý hành vi tham nhũng để bảo vệ lợi ích
của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Các phương pháp
điều chỉnh của nó mang tính quyền uy, phục tùng, buộc mọi chủ thể pháp luật phải
tuân theo. Ngoài ra, trong một số ít trường hợp, nó sử dụng phương pháp điều chỉnh

mang tính chất tùy nghi. Mặc dù việc áp dụng phương pháp tùy nghi trong pháp luật
về PCTN là rất hạn chế song việc đảm bảo tính chất quyền uy nhưng mềm dẻo,
không gò bó, xơ cứng cũng cho thấy sự phù hợp với thông lệ quốc tế, lợi ích quốc
gia, lợi ích của công dân, phù hợp với tâm lý, đặc điểm truyền thống của dân tộc,
chẳng hạn như: Điều 20 Công ước của LHQ về PCTN quy định trách nhiệm hình sự
của pháp nhân là điều khoản tùy nghi, trong đó, khi phê chuẩn Công ước của LHQ


20
về CTN, Việt Nam tuyên bố bảo lưu quy định này, vì BLHS Việt Nam không quy
định pháp nhân là tội phạm, điều này phù hợp với nguyên tắc của pháp luật Việt
Nam; hoặc việc tặng quà, nhận quà tặng suy cho cùng thì vẫn ẩn chứa sự vụ lợi và
được nhưng do nó có tính chất phổ biến và phù hợp với phong tục tập quán, văn hóa
của con người nên vẫn được pháp luật thừa nhận trong một số trường hợp, pháp luật
cũng tạo ra hành lang pháp lý để các quan hệ tặng quà, nhận quà vận động trong
một khuôn khổ, trật tự nhất định.
Pháp luật về PCTN được thể hiện theo cấu trúc lô gic bao gồm các nguyên tắc
chung, các chế định pháp luật và các quy phạm pháp luật cụ thể. Các văn bản quy
phạm pháp luật về PCTN được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành theo
trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, trong đó chứa đựng các qui tắc xử sự chung
được nhà nước đảm bảo thực hiện nhằm điều chỉnh các quan hệ pháp luật về PCTN
theo ý chí của nhà nước. Hình thức của pháp luật về PCTN được thể hiện theo
nhiều cách khác nhau, có khi được thể hiện bằng một văn bản luật điều chỉnh riêng
về PCTN nhưng thường là nằm rải rác ở nhiều văn bản khác nhau trong hệ thống
các văn bản quy phạm pháp luật.
Từ các đặc điểm nêu trên cho thấy, pháp luật về PCTN điều chỉnh những quan
hệ xã hội phát sinh trong hoạt động phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng bằng
các phương pháp, cách thức điều chỉnh khác nhau, tùy theo tính chất, mức độ của
các chủ thể có hành vi tham nhũng.
Có thể định nghĩa: Pháp luật về phòng, chống tham nhũng là tổng thể các quy

phạm pháp luật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành nhằm xác định các
biện pháp phòng ngừa, phát hiện, xử lý tham nhũng; tổ chức, hoạt động của cơ
quan phòng, chống tham nhũng; phát huy vai trò, trách nhiệm của công dân, tổ
chức trong phòng, chống tham nhũng; hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng
và các biện pháp bảo đảm nhằm phòng, chống tham nhũng có hiệu quả.
1.1.2. Vai trò của pháp luật về phòng, chống tham nhũng.
Vai trò của pháp luật về PCTN thể hiện ở những điểm sau đây:
Thứ nhất, pháp luật về PCTN là cơ sở pháp lý để nhận diện tham nhũng.


21
Để nhận diện tham nhũng, trước hết pháp luật đưa ra khái niệm tham nhũng và
các dấu hiệu đặc thù của tham nhũng. Tùy theo thực trạng tham nhũng và mục tiêu,
yêu cầu của việc đấu tranh PCTN mà Nhà nước ban hành các quy định để nhận diện
tham nhũng thông qua các dấu hiệu đặc thù của tham nhũng (Luật PCTN quy định
ba dấu hiệu đặc thù của tham nhũng là: a) do người có chức vụ, quyền hạn thực
hiện; b) có hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn; c) có yếu tố vụ lợi). Bên cạnh đó,
pháp luật quy định cụ thể các hành vi tham nhũng với các dấu hiệu đặc trưng của nó
và sự phân hóa về tính chất. Với việc quy định các hành vi tham nhũng, pháp luật
đã tạo điều kiện nhận diện tham nhũng, nhận biết được các hành vi tham nhũng xẩy
ra trên thực tế, đồng thời, phân biệt được hành vi tham nhũng với hành vi vi phạm
pháp luật khác, giữa hành vi tham nhũng này với hành vi tham nhũng khác.
Thứ hai, pháp luật tạo lập khuôn khổ pháp lý để phòng ngừa tham nhũng.
Kinh nghiệm CTN của các nước trên thế giới cho thấy phòng ngừa tham
nhũng có vai trò cực kỳ quan trọng trong CTN. Việc đề cao phòng ngừa tham
nhũng sẽ là cơ sở để hạn chế sự phát sinh các hành vi tham nhũng trên thực tế. Các
biện pháp phòng ngừa không ngừng được rà soát, sửa đổi, bổ sung cho phù hợp.
Để có tác dụng trong việc phòng ngừa tham nhũng, một mặt các quy định của
pháp luật trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội cần phải bảo đảm sự chặt chẽ
cả về nội dung lẫn hình thức nhằm hạn chế sự lợi dụng kẽ hở của pháp luật để trục

lợi hoặc nếu có lợi dụng thì cũng có đủ điều kiện để phát hiện ra. Bên cạnh đó, pháp
luật quy định rõ các biện pháp phòng ngừa tham nhũng cụ thể, trong đó nêu rõ cách
thức, nội dung và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong xã hội đối
với việc thực hiện các biện pháp phòng ngừa tham nhũng. Tùy theo điều kiện cụ thể
mà mỗi quốc gia quy định cách thức, biện pháp phòng ngừa tham nhũng khác nhau.
Ở nước ta, pháp luật về PCTN rất coi trọng phòng ngừa tham nhũng và thực tế các
quy phạm pháp luật về phòng ngừa tham nhũng chiếm tỷ lệ rất lớn trong Luật
PCTN nhằm tạo lập khuôn khổ và xây dựng ý thức phòng ngừa tham nhũng trong
các đối tượng và lĩnh vực có nguy cơ tham nhũng cao trong xã hội.
Thứ ba, pháp luật về PCTN tạo lập khuôn khổ pháp lý để phát hiện, xử lý


×