Tải bản đầy đủ (.pdf) (81 trang)

Hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh lâm đồng trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (572.35 KB, 81 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƢ PHÁP

TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ LÊ DUNG

HOẠT ĐỘNG CÔNG CHỨNG
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH LÂM ĐỒNG
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƢỚC VÀ PHÁP LUẬT

MÃ SỐ: 60 38 01

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN:
PGS.TS NGUYỄN MINH ĐOAN

Hà Nội 2011

LÊ THỊ HẠ


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dƣới sự
hƣớng dẫn của PGS. TS. Nguyễn Minh Đoan. Những kết quả và số liệu trong
luận văn chƣa đƣợc ai công bố dƣới bất kỳ hình thức nào. Tôi hoàn toàn chịu
trách nhiệm trƣớc nhà trƣờng về sự cam đoan này.
Đà Lạt, ngày 06 tháng 04 năm 2011


Tác giả

Nguyễn Thị Lê Dung


2

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chương trình cao học và viết luận văn này, tôi đã nhận
được sự hướng dẫn, giúp đỡ và góp ý nhiệt tình của quý thầy cô trường Đại học
Luật Hà Nội và trường Đại học Đà Lạt.
Trước hết, tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô trường Đại học Luật Hà
Nội, đặc biệt là những thầy cô đã nhiệt tình truyền đạt những kiến thức quý báu
cho chúng tôi trong suốt quá trình học tập.
Tôi xin chân thành cảm ơn Phó giáo sư – Tiến sĩ Nguyễn Minh Đoan,
người đã dành rất nhiều thời gian và tâm huyết hướng dẫn nghiên cứu và giúp
tôi hoàn thành luận văn.
Nhân đây, tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám hiệu trường Đại học Đà
Lạt cùng quý thầy cô trong trường đã tạo điều kiện để tập thể lớp chúng tôi học
tập và hoàn thành tốt khóa học.
Đồng thời, tôi cũng xin chân thành cảm ơn Ban Giám đốc Sở Tư pháp
Lâm Đồng, lãnh đạo phòng Công chứng số 1 và các anh chị em trong phòng,
trong Sở đã tạo điều kiện và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập, nghiên cứu và
hoàn thành luận văn.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã
động viên, khuyến khích tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Xin chân thành cảm ơn.
Đà Lạt, ngày 06 tháng 4 năm 2011
Tác giả
Nguyễn Thị Lê Dung



3

MỤC LỤC
Mở đầu ..............................................................................................................5
Chƣơng 1: Những vấn đề lý luận về hoạt động công chứng ......................10
1.1. Khái niệm công chứng, chức năng và mục đích của công chứng. ..... 10
1.1.1. Khái niệm công chứng ..................................................................... 10
1.1.2. Chức năng của công chứng .............................................................. 12
1.1.3. Mục đích công chứng ....................................................................... 21
1.1.4. Giá trị pháp lý của văn bản công chứng .......................................... 24
1.2. Chủ thể và đối tƣợng công chứng. ...................................................... 27
1.2.1. Chủ thể công chứng ......................................................................... 27
1.2.2. Đối tƣợng công chứng ..................................................................... 29
1.3. Quản lý nhà nƣớc về công chứng ....................................................... 31
Chƣơng 2: Thực trạng hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng
trong giai đoạn hiện nay ................................................................................37
2.1. Khái quát về những nhân tố có ảnh hƣởng đến hoạt động công chứng trên
địa bàn tỉnh Lâm Đồng .................................................................................... 37
2.2. Những kết quả đạt đƣợc trong hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh
Lâm Đồng. ....................................................................................................... 40
2.2.1. Về tổ chức hành nghề công chứng ................................................... 40
2.2.2. Về chất lƣợng công chứng ............................................................... 44
2.2.3. Về chính sách của chính quyền địa phƣơng trong lĩnh vực công chứng
......................................................................................................................... 45
2.3. Những tồn tại, hạn chế trong hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh Lâm
Đồng ................................................................................................................ 47
2.3.1. Hệ thống tổ chức hành nghề công chứng còn quá mỏng, không đáp ứng
đƣợc nhu cầu công chứng. .............................................................................. 47

2.3.2. Đào tạo công chứng viên chƣa đáp ứng về số lƣợng và chất lƣợng 48


4

2.3.3. Chất lƣợng văn bản và dịch vụ công chứng còn hạn chế ................ 49
2.3.4. Trình tự, thủ tục công chứng vừa gò bó đối với ngƣời thực hiện công
chứng, vừa không thuận lợi cho khách hàng .................................................. 49
2.3.5. Thiếu sự đầu tƣ cho cơ sở vật chất, phƣơng tiện làm việc cho các hoạt
động công chứng ............................................................................................. 50
2.3.6. Chế độ đãi ngộ đối với ngƣời thực hiện công chứng chƣa tƣơng xứng
với cƣờng độ làm việc và trách nhiệm. ........................................................... 51
2.3.7. Chƣa có cơ chế kiểm tra, thanh tra có hiệu quả đối với các hoạt động
công chứng ...................................................................................................... 52
Chƣơng 3: Phƣơng hƣớng và giải pháp nâng cao chất lƣợng hoạt động công
chứng ở tỉnh Lâm Đồng trong giai đoạn hiện nay ......................................54
3.1. Phƣơng hƣớng nâng cao chất lƣợng hoạt động công chứng ở tỉnh Lâm
Đồng trong giai đoạn hiện nay ........................................................................ 54
3.1.1. Mục tiêu tổng quát ........................................................................... 57
3.1.2. Mục tiêu cụ thể ................................................................................. 58
3.1.3. Định hƣớng phát triển ...................................................................... 59
3.2. Giải pháp nâng cao chất lƣợng hoạt động công chứng ở tỉnh Lâm Đồng
trong giai đoạn hiện nay .................................................................................. 60
3.2.1. Hoàn thiện pháp luật về công chứng................................................ 61
3.2.2. Phát triển cả về số lƣợng và chất lƣơng đội ngũ công chứng viên trên
địa bàn tỉnh ...................................................................................................... 65
3.2.3. Tăng cƣờng công tác thanh tra, kiểm tra nhà nƣớc về công chứng . 68
3.2.4. Các giải pháp khác ........................................................................... 70
Kết luận. ..........................................................................................................74
Danh mục tài liệu tham khảo .......................................................................78



5

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua, hoạt động công chứng đã thể hiện vai trò quan
trọng trong đời sống kinh tế, xã hội của đất nƣớc, góp phần thúc đẩy sự phát
triển nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm an toàn pháp
lý cho các giao dịch dân sự, kinh tế của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài
nƣớc.
Bên cạnh những kết quả đạt đƣợc nêu trên, trong quá trình phát triển, công
chứng nƣớc ta cũng đã bộc lộ những hạn chế, bất cập cả về mặt tổ chức và hoạt
động làm ảnh hƣởng đến các hoạt động giao lƣu dân sự, kinh tế của xã hội, hạn
chế sự phát triển của nền kinh tế thị trƣờng cũng nhƣ sự hội nhập của nền kinh tế
đó với thế giới, hạn chế hiệu quả quản lý của Nhà nƣớc.
Việc tăng cƣờng công tác công chứng trong tình hình hiện nay là yêu cầu
bức xúc của quản lý kinh tế, quản lý xã hội, hình thành một bƣớc quan trọng thể
chế kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa, giữ vững ổn định chính trị và
trật tự an toàn xã hội. Để phát huy hiệu quả của hoạt động công chứng, tăng
cƣờng quản lý xã hội bằng pháp luật và giúp đỡ pháp lý cho công dân, cơ quan
nhà nƣớc, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế. Với một thời gian ngắn trong vòng 10
năm, Nhà nƣớc ta đã ban hành 3 Nghị định về tổ chức và hoạt động công chứng
(Nghị định 45/HĐBT ngày 27/2/1991, Nghị định 31/CP ngày 18/5/1996; Nghị
định 75/2000 ngày 8/12/2000), đến ngày 29 tháng 11 năm 2006, tại kỳ họp thứ
10, Quốc hội nƣớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI đã thông qua
Luật công chứng. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2007. Điều
đó chứng tỏ tổ chức và hoạt động công chứng là một lĩnh vực không những đƣợc



6

xã hội chú ý mà còn đƣợc Nhà nƣớc luôn quan tâm để hoàn thiện pháp luật về
công chứng ở nƣớc ta.
Thông qua hoạt động của mình các tổ chức hành nghề công chứng ở tỉnh
Lâm Đồng những năm vừa qua trong chừng mực nào đó cũng đã đóng góp một
phần tích cực vào việc lập lại trật tự trong lĩnh vực giao dịch dân sự, kinh tế,
thƣơng mại, đã đi vào cuộc sống và có ý nghĩa thiết thực, đáp ứng yêu cầu của
công cuộc đổi mới đất nƣớc cũng nhƣ của tỉnh nhà.
Việc góp phần tháo gỡ những vƣớng mắc và đƣa ra một số giải pháp
hoàn thiện nhằm nâng cao chất lƣợng hoạt động công chứng ở tỉnh Lâm Đồng
trong giai đoạn hiện nay là vần đề cấp thiết và không chỉ là nhiệm vụ của các cấp
chính quyền địa phƣơng mà mỗi cá nhân ở vị trí công tác của mình cũng cần có
những đóng góp nhất định. Do vậy tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Hoạt động công
chứng trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng trong giai đoạn hiện nay” làm luận văn tốt
nghiệp cao học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu về tổ chức và hoạt động công chứng ở nƣớc ta hiện nay là
một vấn đề đang đƣợc quan tâm. Trƣớc đây đã có nhiều công trình khoa học
nghiên cứu lĩnh vực này nhƣ:
-

“Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng và hoàn thiện tổ chức và hoạt

động công chứng ở Việt Nam” – Đề tài cấp Bộ, mã số 92-98-224 năm 1993 của
Viện nghiên cứu khoa học pháp lý Bộ Tƣ pháp. Đây là công trình nghiên cứu
của các chuyên gia đầu ngành về lĩnh vực công chứng, đã xây dựng nên một hệ
thống cơ sở lý luận về công chứng, gồm: khái niệm công chứng, ý nghĩa pháp lý
của văn bản công chứng, phạm vi công chứng và trách nhiệm của công chứng
cũng nhƣ mô hình tổ chức, quản lý công chứng trên thế giới đồng thời nghiên



7

cứu về thực tiễn tổ chức và hoạt động công chứng ở Việt Nam và xây dựng các
chuyên đề khoa học.
-

“Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc xác định phạm vi, nội

dung hành vi công chứng có giá trị pháp lý của văn bản công chứng ở nƣớc ta
hiện nay” – Luận án tiến sĩ của tác giả Đặng Văn Khanh. Trong luận án này, tác
giả đã đi sâu nghiên cứu về xác định phạm vi, nội dung hành vi công chứng và
giá trị pháp lý của văn bản công chứng, đề ra giải pháp hoàn thiện pháp luật công
chứng về các nội dung nêu trên.
-

“Nâng cao hiệu quả hoạt động công chứng ở nƣớc ta trong giai đoạn

hiện nay” Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Chí Thiện. Trong luận văn, tác
giả đã đề cập đến hiệu quả hoạt động công chứng, quá trình hình thành và phát
triển công chứng ở nƣớc ta và những tồn tại, hạn chế ảnh hƣởng đến hoạt động
công chứng. Ngoài ra tác giả cũng nêu ra các biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt
động công chứng.
-

“Xã hội hóa công chứng ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Lê Thị

Phƣơng Hoa…
Ở những công trình nghiên cứu nêu trên, vấn đề đƣợc tập trung nghiên cứu

là các quy định pháp luật cụ thể của công chứng cũng nhƣ hoàn thiện tổ chức
hoạt động công chứng nói chung mà chƣa có công trình nào nghiên cứu cụ thể
cho riêng địa phƣơng Lâm Đồng.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Phạm vi nghiên cứu đề tài giới hạn ở những vấn đề lý luận và thực tiễn
hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng hiện nay. Trên cơ sở đó đề ra
những phƣơng hƣớng, giải pháp phù hợp nhằm nâng cao chất lƣợng hoạt động


8

công chứng trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng, đáp ứng với nhu cầu phát triển của xã
hội.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Phƣơng pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đƣợc sử dụng nhƣ
những phƣơng pháp chủ đạo, đảm bảo tính khách quan và tính khoa học. Ngoài
ra, chúng tôi áp dụng một số phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể khác:
- Phƣơng pháp lịch sử đƣợc sử dụng để nghiên cứu sự phát triển của khái
niệm công chứng cũng nhƣ hoạt động công chứng ở Việt Nam nói chung và ở
tỉnh Lâm Đồng nói riêng;
- Phƣơng pháp phân tích đƣợc sử dụng để làm rõ cụ thể từng vấn đề trong
việc xây dựng cơ sở lý luận cũng nhƣ thực trạng hoạt động công chứng trên địa
bàn tỉnh Lâm Đồng trong giai đoạn hiện nay;
- Phƣơng pháp tổng hợp đƣợc sử dụng để khái quát hóa các vấn đề đã
phân tích, khẳng định lại các nội dung chính;
- Phƣơng pháp thống kê đƣợc sử dụng để thu thập, diễn giải và trình bày
các dữ liệu nhằm cung cấp thông tin trung thực, khách quan và chính xác về các
số liệu mới nhất liên quan đến hoạt động công chứng tại địa phƣơng Lâm Đồng;
- Phƣơng pháp xã hội học đƣợc sử dụng để xem xét, điều tra tình hình
thực tế, thực trạng của vấn đề nghiên cứu.

5. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Đề tài đƣợc thực hiện dựa trên quan điểm của Đảng và của Nhà nƣớc về
cải cách hành chính, cải cách tổ chức và hoạt động của bộ máy tƣ pháp. Mặt
khác, những nội dung đó cũng là sự kế thừa, phát triển những ý kiến của các nhà
khoa học nghiên cứu chuyên sâu về công chứng và những ngƣời làm công tác
chuyên môn trực tiếp thực hiện hoạt động công chứng ở nƣớc ta.


9

Việc nghiên cứu đề tài nhằm mục đích đánh giá thực trạng hoạt động công
chứng trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng. Qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng
cao chất lƣợng hoạt động công chứng ở tỉnh Lâm Đồng trong giai đoạn hiện nay.
Nhiệm vụ của đề tài này tập trung nghiên cứu làm rõ các vần đề sau:
-

Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về hoạt động công chứng: Khái

niệm, chức năng, mục đích, chủ thể, nội dung công chứng và quản lý nhà nƣớc
về công chứng cũng nhƣ giá trị pháp lý của văn bản công chứng.
-

Nghiên cứu thực trạng hoạt động công chứng tại địa phƣơng: Khái

quát những nhân tố có ảnh hƣởng đến hoạt động công chứng, những kết quả đạt
đƣợc và những tồn tại, hạn chế trong hoạt động công chứng ở tỉnh Lâm Đồng.
-

Đề ra phƣơng hƣớng và giải pháp hoàn thiện nhằm nâng cao chất


lƣợng hoạt động công chứng ở tỉnh Lâm Đồng trong giai đoạn hiện nay.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của luận văn
Luận văn sẽ cung cấp những thông tin cần thiết về những vấn đề lý luận
về hoạt động công chứng nói chung, thực trạng hoạt động công chứng ở tỉnh
Lâm Đồng nói riêng cũng nhƣ nêu ra phƣơng hƣớng và giải pháp hoàn thiện
nhằm nâng cao chất lƣợng hoạt động công chứng trên địa bàn tỉnh Lâm Đồng
trong giai đoạn hiện nay.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn gồm: phần Mở đầu; phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo
và 3 chƣơng với 8 mục.


10

CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG CÔNG CHỨNG
1.1 Khái niệm công chứng, chức năng và mục đích của công chứng.
1.1.1 Khái niệm công chứng
Theo từ điển Tiếng Việt, công chứng là sự chứng thực của cơ quan nhà
nƣớc có thẩm quyền nhằm xác nhận về mặt pháp lý các văn bản và bản sao từ
bản gốc. [18, tr. 207]
Theo ngôn ngữ của một số nƣớc nhƣ Anh, Pháp, Nga, Đức thì thuật ngữ
công chứng có gốc Latine là Notarius nghĩa là viết, ghi chép, lập văn bản.
Ở Việt Nam, “công chứng” đƣợc chính thức sử dụng là thuật ngữ pháp lý
trong Nghị định ngày 01/10/1945 của Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp về việc bổ nhiệm
một công chứng viên là ngƣời Việt Nam đầu tiên thay thế cho công chứng viên
ngƣời Pháp tại văn phòng công chứng ở Hà Nội. [26, tr. 8]
Lần đầu tiên kể từ khi thành lập Nhà nƣớc Việt Nam dân chủ cộng hòa
(1945), khái niệm công chứng nhà nƣớc đƣợc đƣa ra ở Việt Nam tại Thông tƣ số
574/QLTPK ngày 10/10/1987 của Bộ Tƣ pháp hƣớng dẫn thực hiện các công

việc Công chứng nhà nƣớc, đánh dấu sự đổi mới về tƣ duy pháp lý, bƣớc đầu
đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế ở giai đoạn đầu của thời kỳ chuyển đổi. Do đây
là văn bản pháp lý đầu tiên về công chứng trong giai đoạn đầu của thời kỳ đổi
mới nên văn bản này không thể tránh hết đƣợc các hạn chế, đó là: chƣa xác định
đƣợc chủ thể, đối tƣợng của hoạt động công chứng cũng nhƣ nội dung việc công
chứng, chƣa phân biệt rõ hoạt động công chứng với hoạt động của các cơ quan
nhà nƣớc khác.


11

Việc xác định khái niệm công chứng là vấn đề mấu chốt của hoạt động công
chứng. Trong những năm qua, nhiệm vụ quản lý nhà nƣớc có những cải cách
nhất định do vậy khái niệm công chứng đƣợc nêu trong các văn bản pháp luật
của nhà nƣớc có sự khác nhau.
Khái niệm công chứng đã đƣợc nêu từ Nghị định số 45/HĐBT ngày
27/2/1991 về tổ chức và hoạt động Công chứng nhà nƣớc [4, tr.33], Nghị định số
31/CP ngày 18/5/1996 về tổ chức và hoạt động Công chứng nhà nƣớc [4, tr.62]
và Nghị định số 75/2000/NĐ-CP ngày 8/12/2000 về công chứng, chứng thực [4,
tr.100].Việc thể hiện cụ thể nội dung thuật ngữ này trong 3 Nghị định có sự khác
nhau nhƣng về cơ bản là giống nhau, thống nhất. Một cách chung nhất, công
chứng đƣợc quan niệm: “là việc công chứng viên chứng nhận tính xác thực, tính
hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác (sau đây gọi là hợp đồng, giao dịch)
bằng văn bản mà theo quy định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ
chức tự nguyện yêu cầu công chứng” (Điều 2, Luật Công chứng) [4, tr.156]
Nhƣ vậy, trong khái niệm nêu trên về công chứng có thể thấy các nội dung
quan trọng sau đây:
Một là: công chứng là hành vi của công chứng viên. Điều này phân biệt với
chứng thực là hành vi của ngƣời đại diện của cơ quan hành chính công quyền.
Hai là, tính xác thực của hợp đồng, giao dịch khác đƣợc công chứng viên

xác nhận. Tính xác thực của các tình tiết, sự kiện trong hợp đồng, giao dịch khác
là vô cùng quan trọng nhằm bảo đảm cho chúng có giá trị chứng cứ. Trong pháp
luật về tố tụng, khi nói đến chứng cứ thì bao giờ cũng đề cao tính xác thực của
các sự kiện, tình tiết có thực, khách quan đƣợc coi là chứng cứ. Sở dĩ pháp luật
coi văn bản công chứng có giá trị chứng cứ cũng là do tính xác thực của các tình


12

tiết, sự kiện có trong văn bản đó đã đƣợc công chứng viên xác nhận. Tính xác
thực này đƣợc công chứng viên kiểm chứng và xác nhận ngay khi nó xảy ra
trong thực tế, trong số đó có những tình tiết, sự kiện chỉ xảy ra một lần, không để
lại hình dạng, dấu vết về sau (ví dụ: sự tự nguyện của các bên khi ký kết hợp
đồng) và do đó, nếu không có công chứng viên xác nhận thì về sau rất dễ xảy ra
tranh chấp mà toà án không thể xác minh đƣợc.
Ba là, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác đƣợc công chứng viên
xác nhận. Đây là điểm khác biệt giữa trƣờng phái công chứng nội dung (công
chứng hệ Latine) và trƣờng phái công chứng hình thức (công chứng hệ
Anglosason). Trong công chứng hệ Latine thì các hợp đồng, giao dịch hợp pháp
mới đƣợc công chứng viên xác nhận, những hợp đồng, giao dịch bất hợp pháp
thì bị từ chối công chứng. Đặc điểm này của công chứng hệ Latine quy định
chức năng phòng ngừa các tranh chấp trong hợp đồng, giao dịch khác của công
chứng.
1.1.2 Chức năng của công chứng
Công chứng là hoạt động nhằm bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của
các cá nhân và tổ chức ở trong và ngoài nƣớc, ngăn ngừa vi phạm pháp luật và
tăng cƣờng pháp chế xã hội chủ nghĩa. Để đảm đƣơng vai trò này, công chứng có
một số chức năng cơ bản nhƣ sau:
 Chức năng hợp pháp hóa hợp đồng, giao dịch:
Nhƣ chúng ta đã biết, thông thƣờng chỉ có các văn bản, quyết định do cơ

quan nhà nƣớc hay những ngƣời có thẩm quyền ban hành mới đƣợc nhà nƣớc
đảm bảo thực hiện trong thực tế cuộc sống, do những văn bản đó có một giá trị
pháp lý nhất định. Tuy nhiên, đối với văn bản do các chủ thể nằm ngoài hệ thống


13

cơ quan nhà nƣớc tạo lập, giao kết mà đặc biệt là những văn bản do công dân tự
tạo lập thì vấn đề lại không đơn giản nhƣ vậy. Do những chủ thể này không phải
là cá nhân, tổ chức nằm trong hệ thống cơ quan nhà nƣớc nên những văn bản do
họ tạo lập không đƣợc đảm bảo thi hành bằng sức mạnh cƣỡng chế của quyền
lực nhà nƣớc. Do đó, giá trị pháp lý của những văn bản tự lập này, đặc biệt là
những văn bản đƣợc tạo lập, giao kết giữa các cá nhân với nhau, không có. Do
không có một sự ràng buộc đƣợc đảm bảo bằng sức mạnh quyền lực Nhà nƣớc
nên các bên tham gia giao kết hợp đồng, giao dịch có thể thay đổi ý chí, thỏa
thuận của mình bất kỳ lúc nào và hậu quả tất yếu của điều này là quyền và lợi ích
hợp pháp của các bên có thể bị xâm hại. Chính vì vậy, khi có tranh chấp xảy ra,
để xác định chính xác ý chí của các bên tại thời điểm giao kết hợp đồng, giao
dịch các cơ quan tài phán phải trải qua một quá trình xác minh, điều tra với
những trình tự, thủ tục rất phức tạp để làm sáng tỏ sự thật. Đặc biệt, công việc
này tạo một áp lực rất lớn lên các cơ quan tài phán, do số lƣợng tranh chấp ngày
càng nhiều, tính chất của những tranh chấp này cũng ngày càng phức tạp. Nhằm
ngăn ngừa những vi phạm pháp luật hay những tranh chấp có thể xảy ra, pháp
luật về công chứng của một số quốc gia trong đó có Việt Nam chúng ta quy định
chức năng hợp pháp hóa hợp đồng, giao dịch nhằm tạo ra cho những hợp đồng,
giao dịch này một giá trị pháp lý nhƣ văn bản do cơ quan công quyền ban hành.
Điều này có nghĩa là những giao dịch, hợp đồng đã công chứng cũng sẽ đƣợc
đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh của quyền lực Nhà nƣớc, giảm thiểu tranh
chấp giữa các bên tham gia giao kết hợp đồng, giao dịch. Cụ thể, tại Thông tƣ số
574/QLTPK ngày 10/10/1987 của Bộ Tƣ pháp, văn bản quy phạm pháp luật đầu

tiên quy định về công chứng, đã khẳng định công chứng có chức năng “hợp
pháp hóa các văn bản, sự kiện đó, làm cho các văn bản, sự kiện đó có hiệu lực


14

thực hiện”[4, tr.9]. Sau này, tuy không quy định chức năng hợp pháp hóa văn
bản đƣợc xác lập giữa các cá nhân, tổ chức của công chứng, nhƣng bằng việc
khẳng định văn bản công chứng (tức là các hợp đồng, giao dịch đã đƣợc công
chứng viên chứng nhận) có giá trị thi hành, chúng ta đã gián tiếp công nhận chức
năng này của công chứng. Khoản 3, điều 14, Nghị định số 75/2000/NĐ-CP quy
định “Hợp đồng đã được công chứng, chứng thực có giá trị thi hành đối với các
bên giao kết; trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của
mình thì bên kia có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết
theo quy định của pháp luật” [4, tr.103] và cụ thể nội dung khoản 1, điều 6, Luật
Công chứng: “Văn bản công chứng có hiệu lực thi hành đối với các bên liên
quan; trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình thì
bên kia có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật, trừ
trường hợp các bên tham gia hợp đồng, giao dịch có thỏa thuận khác” [4,
tr.157]. Căn cứ vào quy định này, văn bản công chứng không chỉ đơn thuần có
hiệu lực thi hành giữa các bên trực tiếp tham gia giao kết hợp đồng, giao dịch mà
nó có giá trị thực hiện đối với các bên có liên quan, ngay cả khi đó là những cơ
quan nằm trong hệ thống các cơ quan quản lý hành chính Nhà nƣớc hay thậm chí
là chính những cơ quan tƣ pháp hoặc bổ trợ tƣ pháp. Điều này có nghĩa là những
văn bản, hợp đồng đã đƣợc công chứng có giá trị pháp lý hơn hẳn những hợp
đồng, giao dịch cùng loại nhƣng không đƣợc công chứng. Sở dĩ nhƣ vậy là do
những văn bản, hợp đồng đó đã đƣợc một cá nhân đƣợc Nhà nƣớc trao cho
quyền năng hợp pháp hóa, hợp thức hóa. Tính ƣu việt của chức năng hợp pháp
hóa văn bản, hợp đồng, giao dịch chính là giá trị pháp lý nổi trội của những văn
bản công chứng so với những văn bản, hợp đồng cùng loại nhƣng không đƣợc

công chứng.


15

 Chức năng tạo lập và xác nhận chứng cứ:
Có thể nói đây là một trong những chức năng cơ bản nhất và lâu đời nhất
của công chứng nói chung cũng nhƣ công chứng nội dung nói riêng. Chính vì
chức năng tạo lập chứng cứ là một trong những chức năng lâu đời của công
chứng Việt Nam mà hiện nay hệ thống pháp luật của chúng ta, cũng nhƣ một số
quốc gia khác, đang xếp công chứng là một chế định bổ trợ tƣ pháp tức là công
chứng ra đời, tồn tại hƣớng đến phục vụ cho công tác tài phán mà trƣớc hết và
chủ yếu là của cơ quan Tòa án. Ngay tại Thông tƣ số 574/QLTPK, chức năng
này đã đƣợc khẳng định qua quy định mục đích của công chứng là “ngăn ngừa
vi phạm pháp luật, giúp cho việc giải quyết các tranh chấp được thuận lợi” [4,
tr.9]. Đây là một trong những quy định thể hiện trực tiếp nhất, cụ thể nhất chức
năng tạo lập chứng cứ của công chứng. Đặc biệt, chức năng tạo lập chứng cứ còn
đƣợc thể hiện thông qua các quy định về giá trị chứng cứ của văn bản công
chứng, sản phẩm nghề nghiệp của công chứng viên. Điều 1, Nghị định số
45/HĐBT quy định: “Các hợp đồng và giấy tờ đã được công chứng có giá trị
chứng cứ” [4, tr.33] trong khi “Các hợp đồng và giấy tờ đã được công chứng
Nhà nước chứng nhận hoặc Ủy ban nhân dân cấp có thẩm quyền chứng thực có
giá trị chứng cứ, trừ trường hợp bị tòa án nhân dân tuyên bố là vô hiệu” đƣợc
ghi nhận tại điều 1, Nghị định 31/CP [4, tr.62]. Đến khi nghị định số
75/2000/NĐ-CP ra đời, giá trị chứng cứ của văn bản công chứng đƣợc đẩy lên
một cấp độ cao hơn khi lần đầu tiên giá trị pháp lý trong đó có giá trị chứng cứ
của văn bản công chứng đƣợc quy định riêng tại một điều luật, cụ thể là: “Văn
bản công chứng, văn bản chứng thực có giá trị chứng cứ, trừ trường hợp được
thực hiện không đúng thẩm quyền hoặc không tuân theo quy định tại nghị định
này hoặc bị tòa án tuyên bố là vô hiệu” (khoản 2, điều 14, Nghị định số



16

75/2000/NĐ-CP) [4, tr.103]. Khoản 2, điều 6, Luật Công chứng đã nêu rõ: “Văn
bản công chứng có giá trị chứng cứ; những tình tiết, sự kiện trong văn bản công
chứng không phải chứng minh, trừ trường hợp bị Tòa án nhân dân tuyên bố là
vô hiệu” [4, tr.157]. Nói cách khác, khi bị tòa án tuyên bố là vô hiệu, văn bản
công chứng sẽ không có giá trị thi hành nghĩa là sẽ bị mất giá trị mang tính chất
quản lý hành chính nhƣng trong trƣờng hợp này nó vẫn có giá trị chứng cứ. Một
văn bản công chứng đƣợc tạo lập theo một trình tự phức tạp do luật định, đƣợc
xác lập dựa trên những giấy tờ, tài liệu đáng tin cậy… và đặc biệt là nó đƣợc tạo
lập trƣớc khi xảy ra tranh chấp, nên rõ ràng đây là những chứng cứ có giá trị
pháp lý cao hơn hẳn những nguồn chứng cứ khác hay còn gọi là những chứng cứ
không phải chứng minh.
 Chức năng tư vấn cho người có yêu cầu công chứng:
Mặc dù đến nay chức năng này vẫn chƣa đƣợc chính thức thừa nhận. Trên
các văn bản quy phạm pháp luật chỉ quy định công chứng viên có nhiệm vụ
hƣớng dẫn trình tự, thủ tục công chứng, giải thích quyền và nghĩa vụ cho các
bên tham gia giao kết hợp đồng, giao dịch. Tuy nhiên cũng có một số văn bản
pháp luật công chứng đề cập đến vấn đề này. Mục 2, phần I, Thông tƣ số
858/QLTPK nêu rõ “Để tránh trường hợp do không hiểu pháp luật, đương sự tự
gây tổn hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình, khi thực hiện các việc làm
công chứng, công chứng viên phải giải thích cho đương sự hiểu quyền, nghĩa vụ
và lợi ích hợp pháp của họ, đồng thời phân tích cho họ hiểu hậu quả pháp lý của
những việc làm công chứng không thích hợp đó” [4, tr.12] trong khi điểm 2, Chỉ
thị số 1106/CT-CC ngày 19/7/1994 của Bộ trƣởng Bộ Tƣ pháp triển khai thực
hiện Nghị quyết số 38/CP của Chính phủ về cải cách một bƣớc thủ tục hành



17

chính trong giải quyết công việc của công dân và tổ chức trong lĩnh vực công
chứng quy định: “Những yêu cầu công chứng của công dân và tổ chức mà thủ
tục, giấy tờ còn chưa đầy đủ hoặc công chứng viên và những người được giao
thực hiện công chứng của Ủy ban nhân dân huyện từ chối không thực hiện công
chứng, thì cần được giải thích, hướng dẫn cụ thể và nói rõ lý do để công dân và
đại diện các tổ chức không phải đi lại nhiều lần, làm mất thời gian công sức,
tiền bạc” [4, tr.55]. Sau đó những nội dung tƣơng tự cũng xuất hiện trong các
văn bản quy phạm pháp luật về công chứng tại nƣớc ta nhƣ quy định tại khoản 5,
điều 16, Nghị định số 45/HĐBTP: “Trường hợp cần thiết, giải thích cho người
yêu cầu công chứng hiểu rõ quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của họ, ý nghĩa
pháp lý của việc công chứng” [4, tr.36]; khoản 1 và khoản 4, điều 21, Nghị định
số 31/CP cũng đã nêu: “Giải thích cho người yêu cầu công chứng hiểu rõ quyền,
nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của họ, ý nghĩa pháp lý của việc công chứng” [4,
tr.66] và khoản 2, khoản 3, điều 37, Nghị định số 75/2000/NĐ-CP quy định:
“Tiếp nhận, kiểm tra giấy tờ do người yêu cầu công chứng, chứng thực xuất
trình, hướng dẫn thủ tục, trình tự thực hiện công chứng, chứng thực cho người
yêu cầu công chứng, chứng thực, nếu cần thiết”, “Giải thích cho người yêu cầu
công chứng, chứng thực hiểu rõ quyền, nghĩa vụ và lợi ích hợp pháp của họ, ý
nghĩa và hậu quả pháp lý của việc công chứng, chứng thực” [4, tr.112]… Đứng
trên phƣơng diện ngữ nghĩa, việc thông báo hậu quả pháp lý, quyền và nghĩa
vụ… cho đƣơng sự của công chứng viên không phải là hành vi tƣ vấn theo đúng
nghĩa của nó. Tuy nhiên, khi thực hiện việc “giải thích”, “hƣớng dẫn” về trình tự,
thủ tục cũng nhƣ quyền và nghĩa vụ cho đƣơng sự khi tác nghiệp, có thể thấy
công chứng viên đã thực hiện công việc của một nhà tƣ vấn thực thụ.


18


Từ đó chúng ta có thể nhìn nhận rằng mặc dù có những điểm khác biệt
nhất định so với chế định công chứng của các quốc gia khác nhƣng công chứng
viên hành nghề tại Việt Nam cũng có chức năng tƣ vấn cho ngƣời yêu cầu công
chứng. Tuy nhiên, từ những quy định thực định của pháp luật, chúng ta thấy
chứng năng tƣ vấn của công chứng viên hiện chƣa đƣợc pháp luật quy định một
cách cụ thể, chi tiết. Nếu có quy định thì cũng dừng ở mức độ giúp cho các bên
đƣơng sự hiểu rõ hậu quả pháp lý của việc giao kết hợp đồng, giao dịch; các điều
khoản và điều kiện của hợp đồng, giao dịch không vi phạm pháp luật hiện hành
cũng nhƣ những chuẩn mực đạo đức xã hội… Trên thực tế, khi thực hiện nhiệm
vụ theo quy định của Luật Công chứng, các công chứng viên cũng nhƣ các nhân
viên tổ chức hành nghề công chứng vẫn thực hiện chức năng tƣ vấn.
 Chức năng lưu trữ và cung cấp chứng cứ:
Có thể coi đây là chức năng quan trọng nhất, là yếu tố quyết định bản chất
bổ trợ tƣ pháp của công chứng đƣợc ghi nhận trong pháp luật về công chứng của
rất nhiều quốc gia trên thế giới. Có thể khẳng định văn bản công chứng là những
chứng cứ chủ yếu đƣợc lƣu giữ trong đó ghi nhận toàn vẹn và trung thực ý chí
của các bên tham gia giao kết hợp đồng, giao dịch. Chính vì vậy mà vấn đề lƣu
trữ văn bản công chứng đã đƣợc pháp luật về công chứng của nƣớc ta ghi nhận
từ rất sớm. Điểm 10, phần I, Thông tƣ số 858/QLTPK nêu rõ: “Các tài liệu công
chứng phải được bảo quản, lưu trữ tại cơ quan công chứng với đầy đủ hồ sơ kèm
theo. Việc lưu trữ, bảo vệ các tài liệu công chứng phải bảo đảm không hư hỏng,
mất mát và tiện sử dụng khi cần thiết” [4, tr.13] trong khi khoản 4, điều 16, Nghị
định số 45/HĐBT quy định nhiệm vụ của công chứng viên “Lưu trữ các văn bản
công chứng” [4, tr.35]; điểm 2, Chỉ thị số 1106/CT-CC ngày 19/7/1994 của Bộ


19

trƣởng Bộ Tƣ pháp triển khai thực hiện Nghị quyết số 38/CP của Chính phủ về
cải cách một bƣớc thủ tục hành chính trong giải quyết công việc của công dân và

tổ chức trong lĩnh vực công chứng cũng khẳng định: “Tất cả các loại hồ sơ, văn
bản đã được công chứng và sổ công chứng phải được lưu trữ, bảo quản đầy đủ,
chặt chẽ, lâu dài tại phòng công chứng nhà nước, nơi đã giải quyết yêu cầu công
chứng đó” [4, tr.55]. Nếu nhƣ tại Nghị định số 75/2000/NĐ-CP, các nhà làm luật
chỉ dành một điều (điều 62) để quy định về chế độ lƣu trữ văn bản công chứng
(và văn bản chứng thực) thì tại Luật Công chứng, các nhà làm luật đã dành hẳn
một chƣơng (chƣơng V), bao gồm 3 điều luật để quy định về “lưu trữ hồ sơ công
chứng”.
Căn cứ vào nội dung các quy định trên, có thể thấy việc lƣu trữ văn bản
công chứng không chỉ là việc lƣu trữ bản thân các văn bản đó mà bao gồm cả
việc lƣu trữ hồ sơ kèm theo văn bản. Những hồ sơ này có thể là bản chính, bản
photocopy, bản sao giấy tờ tùy thân của ngƣời yêu cầu công chứng, tài liệu
chứng minh tƣ cách pháp nhân của tổ chức cũng nhƣ chứng minh thẩm quyền
của ngƣời đại diện, các giấy tờ khác về chủ sở hữu đối với tài sản là đối tƣợng
của giao dịch, hợp đồng… Tuy nhiên, trong một số trƣờng hợp cụ thể, hồ sơ
công chứng còn bao gồm cả những văn bản ghi chép của công chứng viên hoặc
ngƣời yêu cầu công chứng trong quá trình tạo lập văn bản công chứng (ví dụ nhƣ
quá trình hoàn tất một bản chúc thƣ: băng ghi âm, ảnh chụp…) Nhìn chung, việc
lƣu trữ đƣợc tiến hành theo hai hệ thống là hệ thống hồ sơ và hệ thống dữ liệu
lƣu trên máy vi tính. “Ngoài việc lưu trữ hồ sơ công chứng, hồ sơ chứng thực,
cơ quan nhà nước có thẩm quyền công chứng, chứng thực cần nhập vào máy vi
tính các công việc công chứng, chứng thực hợp đồng, giao dịch” (khoản 1, điều
62, Nghị định số 75/2000/NĐ-CP) [4, tr.122]. Nhƣ vậy, nếu nhƣ hệ thống lƣu trữ


20

hồ sơ bao gồm cả văn bản công chứng và các giấy tờ liên quan thì việc lƣu trữ
trên máy vi tính lại chỉ đƣợc quy định cho văn bản công chứng. Tuy nhiên, lƣu
trữ văn bản công chứng cũng nhƣ hồ sơ đi kèm không chỉ là việc bảo quản, giữ

gìn những văn bản, tài liệu này ở trong một trạng thái tốt nhất mà nó còn bao
gồm cả việc tra cứu, sử dụng những thông tin đang đƣợc lƣu trữ ngày nay trong
quá trình tác nghiệp của công chứng viên. Đặc biệt pháp luật cũng quy định rất
chi tiết, cụ thể trình tự cũng nhƣ thẩm quyền khai thác các thông tin, tài liệu liên
quan đến công chứng của các cá nhân, tổ chức có nhu cầu. Ví dụ nhƣ khoản 3,
điều 54, Luật Công chứng quy định: “Trong trường hợp cơ quan nhà nước có
thẩm quyền yêu cầu bằng văn bản về việc cung cấp hồ sơ công chứng phục vụ
cho việc giám sát, kiểm tra, thanh tra, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án liên
quan đến việc đã công chứng thì tổ chức hành nghề công chứng có trách nhiệm
cung cấp bản sao văn bản công chứng và các giấy tờ khác có liên quan. Việc đối
chiếu bản sao văn bản công chứng với bản chính chỉ được thực hiện tại tổ chức
hành nghề công chứng nơi đang lưu trữ hồ sơ công chứng” [4, tr.174]. Nhƣ vậy,
không phải bất kỳ ai cũng có quyền tiếp cận hoặc yêu cầu cung cấp thông tin liên
quan đến văn bản công chứng và hồ sơ đi kèm mà căn cứ vào quy định hiện
hành, chỉ có một số đối tƣợng nhất định với một trình tự, thủ tục nhất định mới
đƣợc phép tiếp cận và yêu cầu tổ chức hành nghề công chứng cung cấp bản sao
văn bản công chứng cũng nhƣ các thông tin có liên quan.
1.1.3 Mục đích của công chứng
Mục đích của công chứng là nhằm “tạo ra những bảo đảm pháp lý để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, các cơ quan, tổ chức phù hợp với
Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, ngăn
ngừa vi phạm pháp luật, giúp cho việc giải quyết các tranh chấp được thuận lợi,


21

góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa” – theo Thông tƣ số
574/QLTPK hay “nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan
nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội (sau đây gọi chung là các tổ chức), góp
phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”theo quy định tại Nghị định 45/HĐBT và ghi nhận tại Nghị định số 31/CP, đến

Nghị định 75/2000/NĐ-CP là nhằm: “góp phần bảo đảm an toàn pháp lý trong
quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại và quan hệ xã hội khác, phòng ngừa vi
phạm pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa”… Xuyên suốt các khái
niệm chúng ta có thể nhận ra mục đích cuối cùng của công chứng chính là nhằm
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan nhà nƣớc, tổ chức
kinh tế, tổ chức xã hội, góp phần phòng ngừa vi phạm pháp luật, tăng
cƣờng pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Văn bản công chứng, sản phẩm của hoạt động công chứng, chứng nhận các
thỏa thuận tự nguyện giữa các bên; tại thời điểm công chứng các bên giao kết có
năng lực hành vi dân sự, tƣ cách pháp nhân phù hợp theo quy định của pháp luật;
các thỏa thuận không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội,
tức là hợp đồng, giao dịch cần thỏa mãn các điều kiện có hiệu lực của giao dịch
dân sự theo quy định ở Bộ Luật Dân sự. Chỉ cần hợp đồng, giao dịch không thỏa
mãn một trong các điều kiện có hiệu lực nêu trên thì hợp đồng, giao dịch đó là
vô hiệu.
Nhƣ vậy khi thực hiện công chứng, công chứng viên phải kiểm tra năng lực
hành vi, xác định nhân thân của đƣơng sự. Để xác định chính xác nhân thân của
đƣơng sự, công chứng viên đƣợc quyền yêu cầu đƣơng sự xuất trình các loại
giấy tờ chứng minh nhân dân, hộ chiếu, hộ khẩu... Công chứng viên không
những phải xác định chính xác nhân thân của ngƣời yêu cầu công chứng thông


22

qua các giấy tờ tùy thân do họ xuất trình mà còn phải khẳng định những cá nhân
này có đủ độ tuổi để giao kết hợp đồng, giao dịch; có khả năng nhận thức hậu
quả pháp lý do hành vi giao kết hợp đồng, giao dịch gây ra; không bị lừa dối khi
giao kết hợp đồng, giao dịch và có khả năng điều khiển hành vi đó tức là giao kết
hợp đồng, giao dịch trong trạng thái tinh thần tỉnh táo, không bị ép buộc. Đồng
thời phải khẳng định chữ ký trên văn bản công chứng là của ngƣời yêu cầu công

chứng (hay ngƣời đại diện) ký trƣớc mặt công chứng viên tại thời điểm công
chứng. Tất cả những hành động nêu trên của công chứng viên đều nhằm bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch. Ví dụ: Có trƣờng hợp
Nguyễn Văn T mƣợn đƣợc giấy tờ nhà đất của ngƣời em là Nguyễn Văn A đem
đến ngân hàng làm thủ tục xin vay 500 triệu. Khi mang hợp đồng thế chấp đến
phòng Công chứng thì do ông T và ông A là anh em ruột nên khi công chứng
viên S nhận dạng ông A bằng hình dán trên chứng minh nhân dân thấy cũng
giống nên vẫn cho ông ký hợp đồng thế chấp. Tuy nhiên để đảm bảo ngƣời ký
hợp đồng chính là ông A, công chứng viên S đã yêu cầu ông T điểm chỉ, sau khi
so sánh dấu vân tay giữa chứng minh nhân dân và điểm chỉ của ông T thấy
không khớp. Công chứng viên S yêu cầu ông A phải có mặt để ký hợp đồng thế
chấp nhƣng ông A không thể đến vì đang ở nƣớc ngoài nên công chứng viên S từ
chối công chứng hồ sơ thế chấp của ông T. Việc công chứng viên S từ chối công
chứng hợp đồng thế chấp của ông T đã bảo vệ đƣợc quyền cũng nhƣ lợi ích của
ông A và ngân hàng. Ngoài ra, công chứng viên S cũng đã góp phần ngăn ngừa
đƣợc việc vi phạm pháp luật của ông T.
Có thể thấy, trong hoạt động công chứng văn bản công chứng là căn cứ để
hai bên thực hiện. Công chứng viên tự chịu trách nhiệm về việc công chứng của
mình nên luôn ý thức tuân thủ pháp luật, chấp hành nghiêm chỉnh các quy định


23

của pháp luật có liên quan. Qua đó, giáo dục mọi ngƣời nhất là các chủ thể liên
quan hiểu biết và chấp hành đúng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
chính mình và của các chủ thể khác. Mặt khác, qua hoạt động công chứng, trong
quá trình tác nghiệp của mình công chứng viên kịp thời phát hiện những dấu
hiệu vi phạm pháp luật. Ví dụ, đất đã có quyết định thu hồi, đất thuộc quy hoạch
giải tỏa nhƣng vẫn cố tình mang giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đến các tổ
chức hành nghề công chứng để thực hiện công chứng tặng cho hoặc có trƣờng

hợp nhận chuyển nhƣợng với giá 5 tỷ sau đó về cạo sửa giá chuyển nhƣợng trong
hợp đồng đã đƣợc công chứng thành 15 tỷ nhằm mục đích bổ túc hồ sơ xin vay
vốn của ngân hàng. Ngân hàng duyệt cho vay 10 tỷ và yêu cầu công chứng hợp
đồng thế chấp. Nhƣ vậy ngƣời yêu cầu công chứng đã cố tình làm sai lệch hồ sơ
thế chấp nâng số tiền vay vƣợt quá giá trị tài sản. Bằng phƣơng tiện (hệ thống
lƣu trữ của phòng) và nghiệp vụ của mình, công chứng viên đã ngăn chặn đƣợc
hành vi lừa đảo của đƣơng sự.
Pháp luật với nhiều quy định điều chỉnh các quan hệ khác nhau. Các quy
định pháp luật chỉ phát huy tác dụng và hiệu quả nếu đƣợc thực thi nghiêm minh
trong cuộc sống. Hoạt động công chứng giúp mọi ngƣời nắm bắt và hành xử theo
đúng pháp luật. Chính việc tuân thủ các quy định, thủ tục trong hoạt động công
chứng là bảo chứng cho việc thực thi của các hợp đồng, giao dịch. Sự tác động
đó không nằm ngoài mục đích bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ
quan nhà nƣớc, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, phòng ngừa vi phạm pháp luật,
nâng cao ý thức pháp luật và bảo đảm tăng cƣờng pháp chế.


24

1.1.4 Giá trị pháp lý của văn bản công chứng
Đây là vấn đề rất quan trọng, quyết định lý do tồn tại của thiết chế công
chứng trong đời sống xã hội.
Theo thông lệ của các nƣớc có hệ thống công chứng Latine, văn bản công
chứng có giá trị chứng cứ và giá trị thi hành. Giá trị thi hành và giá trị chứng cứ
của văn bản công chứng thể hiện ở chỗ: các hợp đồng, giao dịch đã đƣợc công
chứng thì có hiệu lực thi hành đối với các bên trong hợp đồng, giao dịch đó và có
hiệu lực với ngƣời thứ ba. Nếu vì một lý do nào đó mà một bên không thực hiện
nghĩa vụ của mình thì bên kia không cần phải kiện ra tòa án mà chỉ cần xuất
trình văn bản hợp đồng, giao dịch đã đƣợc công chứng đó cho cơ quan có thẩm
quyền (ví dụ: thừa phát lại) để cƣỡng chế thi hành. Trong trƣờng hợp muốn bác

bỏ hiệu lực của văn bản công chứng đó thì phải kiện ra tòa án và khi đó thì các
tình tiết, sự kiện đã ghi trong hợp đồng, giao dịch đó sẽ trở thành chứng cứ hiển
nhiên trƣớc tòa, không cần phải xác minh, ngƣời muốn bác bỏ nó phải xuất trình
đƣợc chứng cứ ngƣợc lại. Đặc điểm nêu trên của văn bản công chứng có ý nghĩa
rất lớn thể hiện vai trò phòng ngừa, bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên trong
hợp đồng, giao dịch đồng thời hạn chế đƣợc rất nhiều các vụ kiện tụng ra tòa án
gây tốn kém, lãng phí.
Nghị định số 75/2000/NĐ-CP quy định: “Văn bản công chứng, văn bản
chứng thực có giá trị chứng cứ, trừ trường hợp được thực hiện không đúng thẩm
quyền hoặc không tuân theo quy định tại Nghị định này hoặc bị toà án tuyên bố
là vô hiệu. Hợp đồng đã được công chứng, chứng thực có giá trị thi hành đối với
các bên giao kết; trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ
của mình, thì bên kia có quyền yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải


×