Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Luật áp dụng trong hợp đồng mua bán quốc tế một số vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng tại vệt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (713.08 KB, 74 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN THỊ QUYÊN

LUẬT ÁP DỤNG TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN
QUỐC TẾ - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC
TIẾN ÁP DỤNG TẠI VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Mã số: 60 38 60
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS NGUYỄN HỒNG BẮC

HÀ NỘI - 2012


2

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn cô giáo, Tiến sỹ Nguyễn Hồng Bắc đã tận
tình hướng dẫn cho tôi trong suốt quá trình thực hiện đề tài này.
Tôi cũng trân trọng gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo tại Khoa Sau đại
học, đặc biệt là các thầy cô giáo đã giảng dạy lớp cao học khoá XVIII, khoa
pháp luật quốc tế - Trường đại học Luật Hà Nội, cảm ơn các anh chị em học


viên khoá XVIII đã giúp đỡ và tạo điều kiện cho tôi trong quá trình học tập và
nghiên cứu.
Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn !

Hà Nội, ngày 27 tháng 04 năm 2012
Học viên

Nguyễn Thị Quyên


3

DANH MỤC VIẾT TẮT
Bộ luật Dân sự

BLDS
CISG

United Nations Convention

Công ước của Liên hợp quốc về

on Contracts for the

mua bán hàng hoá quốc tế

International Sale of Goods
EU

European Union


Liên minh châu Âu

FOB

Free On Board,

Giao lên tàu
Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc

HĐMBHHQT

tế
ICC

International Chamber of

Phòng Thương mại quốc tế

Commerce
INCOTERMS

International Commerce

Các điều kiện thương mại quốc tế

Terms UCP

The Uniform Customs and


Quy tắc và Thực hành thống nhất

Practice for Documentary

Tín dụng chứng từ

Credits
UNCITRAL

UNIDROIT

United Nations Commission

Uỷ ban Luật Thương mại quốc tế

on International Trade Law)

của Liên Hợp quốc

The International Institute

Viện thống nhất tư pháp quóc tế

for the Unification of
Private Law
VCCI

Vietnam Chamber of
Commerce and Industry


VIAC

The Vietnam International

Phòng Thương mại và Công
nghiệp Việt Nam
Trung tâm trọng tài quốc tế Viêt

Arbitration Centre
WTO

World trade organization

Tổ chức thương mại thế giới


4

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ------------------------------------------------------------------------ 1
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài ---------------------------------------- 1
3. Mục đích và Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài --------------------------------------- 2
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài --------------------------------------------------------- 3
5.Ý nghĩa khoa học và đóng góp mới của luận văn ------------------------------- 3
6. Phương pháp nghiên cứu ---------------------------------------------------------- 4
7. Bố cục của luận văn ---------------------------------------------------------------- 4
CHƯƠNG I: LÍ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG
HÓA QUỐC TẾ VÀ LUẬT ÁP DỤNG TRONG HỢP ĐỒNG ------------- 5
1.1. Khái quát về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (HĐMBHHQT) ------- 5
1.1.1. Khái niệm Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. ------------------------- 5

1.1.2. Đặc trưng HĐMBHHQT ------------------------------------------------------ 7
1.2 Ý nghĩa và vai trò của việc xác định luật áp dụng trong HĐMBHHQT--10
1.3. Luật áp dụng trong HĐMBHHQT --------------------------------------------12
1.3.1. Điều ước quốc tế --------------------------------------------------------------13
1.3.2. Pháp luật quốc gia -------------------------------------------------------------15
1.3.3. Tập quán thương mại quốc tế------------------------------------------------17
1.4. Các chủ thể lựa chọn luật áp dụng trong giải quyết tranh chấp phát sinh từ
HĐMBHHQT -------------------------------------------------------------------------20
1.4.1. Các bên kí kết hợp đồng ------------------------------------------------------20
1.4.2. Các cơ quan giải quyết tranh chấp -----------------------------------------21
CHƯƠNG II: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ LUẬT ÁP
DỤNG TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ ------26
2.1. Luật áp dụng cho hình thức HĐMBHHQT. ---------------------------------26
2.2. Luật áp dụng cho nội dung HĐMBHHQT. ---------------------------------31
2.3. Luật áp dụng xác định điều kiện có hiệu lực của HĐMBHHQT----------37


5

CHƯƠNG III: THỰC TIỄN LỰA CHỌN LUẬT ÁP DỤNG TRONG
HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ TẠI VIỆT NAM VÀ
MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN ------------------------------------------44
3.1 Thực trạng quy định pháp luật Việt Nam về luật áp dụng trong
HĐMBHHQT -------------------------------------------------------------------------44
3.1.1. Ưu điểm-------------------------------------------------------------------------44
3.1.2. Nhược điểm --------------------------------------------------------------------45
3.2. Thực tiễn lựa chọn luật áp dụng trong HĐMBQT tại Việt Nam ----------50
3.2.1. Thực tiễn lựa chọn luật áp dụng trong HĐMBHHQT của các bên ký kết
hợp đồng. ------------------------------------------------------------------------------50
3.2.2. Thực tiễn lựa chọn luật áp dụng trong HĐMBHHQT của các cơ quan

có thẩm quyền (Trọng tài/Tòa án) --------------------------------------------------54
3.3. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả lựa chọn luật áp dụng trong
HĐMBHHQT -------------------------------------------------------------------------56
3.3.1. Hoàn thiện cơ sở pháp lí -----------------------------------------------------56
3.3.2. Nâng cao năng lực của các doanh nghiệp ký kết HĐMBHHQT --------60
3.3.3.Nâng cao năng lực cho các cơ quan giải quyết tranh chấp về
HĐMBHHQT--------------------------------------------------------------------------64
KẾT LUẬN ---------------------------------------------------------------------------66


1

LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hiện nay với xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thì nhu cầu giao lưu hàng
hóa ngày càng cao. So với các lĩnh vực sản xuất và dịch vụ, hoạt động mua
bán hàng hóa luôn chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế quốc tế. Song hành
với hoạt động mua bán quốc tế là sự góp mặt của HĐMBQT. Đặc biệt là
trong điều kiện hiện nay xu hướng hội nhập khu vực và xu thế toàn cầu hóa
nền kinh tế thế giới đang là mối quan tâm hàng đầu trong sự nghiệp phát triển
của các quốc gia. Chính vì vây mà vai trò của hoạt động trao đổi hàng hóa
cũng như vai trò của HĐMBQT đã và đang trở nên quan trọng.
Ngày nay, sự phát triển của hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế đã và
đang ngày càng khẳng định vai trò của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Sự khác nhau về môi trường kinh doanh, phong tục tập quán và khoảng cách
địa lý đã làm cho các bên tham gia ký kết hợp đồng thường gặp khó khăn
trong việc tìm hiểu hệ thống pháp luật của phía đối tác. Từ đó, việc xác định
luật áp dụng cho hợp đồng cũng như để bảo vệ lợi ích của doanh ngiệp Việt
Nam khi giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tất yếu sẽ gặp nhiều
khó khăn. Pháp luật là một trong những yếu tố quan trọng nhất để đưa nền

kinh tế Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng hơn vào hoạt động kinh tế thế
giới. Chính vì vậy, để góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp Việt Nam cũng như góp phần đưa hệ thống pháp luật Việt Nam tiến
gần hơn các chuẩn mực pháp lý chung của quốc tế, việc tìm hiểu vấn đề xác
định luật áp dụng trong HĐMBHHQT là một điều cần thiết.
Với những lý do trên, tác giả đã chọn đề tài: “Luật áp dụng trong hợp
đồng mua bán quốc tế - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn áp dụng tại Việt
Nam.”
2. Tình hình nghiên cứu đề tài


2

Những vấn đề lý luận và thực tiễn về luật áp dụng trong HĐMBHHQT
tại Việt Nam tuy không phải là vấn đề mới nhưng là vấn đề cấp thiết hiện nay.
Chúng ta có thể tìm đọc những nội dung về HĐMBHHQT khá nhiều ở các bài
báo, tạp chí, khóa luận, luận văn. Mỗi môt công trình nghiên cứu đều tập
trung ở những khía cạnh khác nhau. Có công trình tập trung nghiên cứu về
chủ thế hợp đồng, đối tượng hợp đồng, giải quyết tranh chấp hợp đồng… Cụ
thể như sau:
Thạc sỹ Nguyễn Bá Bình với công trình nghiên cứu đã được công bố
năm 2008 như: “HĐMBHHQT, vài suy nghĩ về nội hàm khái niệm cũng như
việc xác định tính hợp pháp của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế”; tác giả
Minh Đức có bài trên trang Thông tin pháp luật dân sự ngày 01 tháng 10 năm
2009 “HĐMBHHQT – những nội dung doanh nghiệp cần quan tâm”;
Tiến sỹ Nguyễn Minh Hằng với một số công trình nghiên cứu đã công
bố trên các tạp chí chuyên ngành như: “Giải quyết HĐMBHHQT”, Tạp chí
Diễn đàn doanh nghiệp năm 2007;
Tiến sỹ Nguyễn Vũ Hoàng năm 2008 “ Pháp luật Việt nam về giao kết
HĐMBHHQT với thương nhân nước ngoài”,Viện Nhà nước Pháp luật…

Những công trình trên mới chỉ đề cập chung chung đến HĐMBHHQT
hoặc là chỉ đề cập đến một khía cạnh cụ thể HĐMBHHQT mà chưa có công
trình nào tập trung nghiên cứu về luật áp trong HĐMBHHQT. Nên chưa đi
vào khai thác được thức tiễn lựa chọn luật áp dụng của các doanh nghiệp Việt
Nam trong quá trình giao kết hợp đồng cũng như của các cơ quan giải quyết
tranh chấp trong quá trình giải quyết tranh chấp, để đề xuất các giải pháp
nhằm hoàn thiện hành lang pháp lý giúp bảo vệ các thương nhân Việt Nam
khi tham mua bán với thương nhân nước ngoài.
3. Mục đích và Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Bằng việc phân tích và nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt
Nam và pháp luật quốc tế, mục đích nghiên cứu của đề tài là làm rõ một số


3

vấn đề cơ bản về các quy định của pháp luật Việt Nam cũng như pháp luật
quốc tế về luật áp dụng cho HĐMBHHQT, phân tích những vướng mắc còn
tồn tại của pháp luật Việt Nam về luật áp dụng cho HĐMBHHQT cũng như
thức tiễn lựa chọn luật áp dụng của các bên tham gia hợp đồng và các cơ quan
giải quyết tranh chấp. Từ đó, đưa ra khuyến nghị cũng như phương hướng
hoàn thiện pháp luật.
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, nhiệm vụ của luận văn được đặt
ra là:
Nghiên cứu các vấn đề cơ bản của HĐMBHHQT và luật áp dụng trong
HĐMBHHQT.
Phân tích, lập luận, đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam
trong sự so sánh với các điều ước quốc tế và pháp luật một số quốc gia trên
thế giới.Từ đó chỉ ra các vướng mắc còn tồn tại của pháp luật Việt Nam.
Trên cơ sở nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam và thực
tiễn lựa chọn luật áp dụng trong HĐMBHHQT, từ đó đưa ra các giải pháp

hoàn thiện pháp luật và các giải pháp thức tế nhằm nâng cao hiệu quả lựa
chọn luật áp dụng cho HĐMBHHQT.
4. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Bài viết sẽ tập trung vào quy định pháp luật Việt Nam hiện hành về vấn
đề luật áp dụng cho HĐMBQT. Đồng thời, tìm hiểu các quy định của các điều
ước quốc tế, tập quán quốc tế và liên hệ pháp luật một số nước; Kết hợp với
việc nghiên cứu thực tiễn áp dụng tại Việt Nam.
5.Ý nghĩa khoa học và đóng góp mới của luận văn
5.1 Ý nghĩa khoa học của luận văn
Qua quá trình nghiên cứu, luận văn góp phần làm rõ hơn các vấn đề cơ
bản liên quan đến luật áp dụng trong HĐMBHHQT, tạo cơ sở khoa khoa học
để nghiên cứu chỉ ra những hạn chế mà pháp luật còn tồn tại, đồng thời rút ra


4

kinh nghiệm cho các bên tham gia hợp đồng và các cơ quan giải quyết tranh
chấp trong việc lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng.
5.2 Đóng góp mới của luận văn
Một số đóng góp mới của luận văn được thể hiện qua việc nghiên cứu
thực tiễn những khó khăn của các doanh nghiệp Việt Nam gặp phải về việc
lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng trong quá trình giao kết HĐMBHHQT
với thương nhân nước ngoài và đưa ra một số giải pháp thực tiễn giúp các
doanh nghiệp lựa chọn luật áp dụng một cách hợp lý nhất.
Bên cạnh đó, luận văn cũng chỉ ra những hạn chế mà pháp luật Việt
Nam còn tồn tại, phương hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam về luật áp
dụng trong HĐMBHHQT trên cơ sở so sánh các quy định giữa pháp luật Việt
Nam và pháp luật quốc tế.
6. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành luận văn, tác giả đã sử dụng kết hợp nhiều phương pháp

khác nhau trong quá trình nghiên cứu. Đó là phương pháp duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử, phương pháp phân tích, so sánh, bình luận, thống kê.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mục lục, phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo. Phần nội dung của luận văn bao gồm ba chương:
Chương I: Lý luận chung về HDDMBHHQT và Luật áp dụng trong hợp
đồng
Chương II: Quy định của pháp luật Việt Nam về luật áp dụng trong
HĐMBHHQT
Chương III: Thực tiễn lựa chọn luật áp dụng trong HĐMBHHQT tại Việt
Nam và một số giải pháp hoàn thiện


5

CHƯƠNG I
LÍ LUẬN CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ
VÀ LUẬT ÁP DỤNG TRONG HỢP ĐỒNG

1.1. Khái quát về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (HĐMBHHQT)
1.1.1. Khái niệm Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Quan hệ hợp đồng có thể nói là loại quan hệ phổ biến, diễn ra trong hầu
hết các lĩnh vực của đời sống xã hội. Một cách chung nhất thì hợp đồng là sự
thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa
vụ nào đó.
Hợp đồng mua bán quốc tế là một loại hợp đồng thuộc phạm vi điều
chỉnh của tư pháp quốc tế. Trong thực tế, có nhiều tên gọi khác nhau cùng để
chỉ loại hợp đồng này như: hợp đồng mua bán ngoại thương, hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế, hợp đồng kinh doanh xuất nhập khẩu… Với mỗi khía
cạnh xem xét khác nhau dường như cách gọi tên loại hợp đồng này khác

nhau, và có lẽ cũng chính vì vậy mà không có một quan điểm thống nhất nào
về khái niệm của loại hợp đồng này.
Hiện nay, trong khoa học pháp lý Việt Nam cũng chưa có một khái
niệm thống nhất về hợp đồng mua bán quốc tế. Trong các văn bản pháp luật
Việt Nam chỉ sử dụng thuật ngữ “hợp đồng mua bán hàng hóa với thương
nhân nước ngoài”. HĐMBHHQT là hợp đồng có tính chất quốc tế (có yếu tố
nước ngoài). Tuy nhiên, các yếu tố nước ngoài trong một HĐMBHHQT được
luật pháp các nước và các điều ước quốc tế quy định khác nhau.
- Theo Công ước Lahaye năm 1964 về mua bán quốc tế các động sản
hữu hình: tính chất quốc tế thể hiện ở các tiêu chí như: các bên giao kết có
trụ sở thương mại ở các nước khác nhau và hàng hoá, đối tượng của hợp
đồng, được chuyển qua biên giới một nước, hoặc là việc trao đổi ý chí giao


6

kết hợp đồng giữa các bên được lập ở những nước khác nhau (Điều 1 của
Công ước).
Nếu các bên giao kết không có trụ sở thương mại thì sẽ dựa vào nơi cư
trú thường xuyên của họ. Yếu tố quốc tịch của các bên không có ý nghĩa trong
việc xác định yếu tố nước ngoài của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
- Theo Công ước Viên năm 1980 của Liên Hiệp Quốc về Hợp đồng
Mua bán Quốc tế Hàng hoá (United Nations Convention on Contracts for
International Sales of Goods, Vienna 1980 – CISG, gọi tắt là Công ước Viên
năm 1980): tính chất quốc tế được xác định chỉ bởi một tiêu chuẩn duy nhất,
đó là các bên giao kết hợp đồng có trụ sở thương mại đặt ở các nước khác
nhau (Điều 1 Công ước Viên năm 1980). Và giống như Công ước Lahaye
năm 1964, Công ước này cũng không quan tâm đến vấn đề quốc tịch của các
bên khi xác định tính chất quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
Khác với Công ước Lahaye năm 1964, Công ước Viên năm 1980

không đưa ra tiêu chí hàng hoá phải được chuyển qua biên giới của một nước
để xác định tính chất quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
- Theo pháp luật của Pháp: khi xác định yếu tố quốc tế của hợp đồng
mua bán hàng hoá quốc tế, người ta căn cứ vào hai tiêu chuẩn kinh tế và pháp
lý. Theo các tiêu chuẩn kinh tế, một hợp đồng quốc tế là hợp đồng tạo nên sự
di chuyển qua lại biên giới các giá trị trao đổi tương ứng giữa hai nước, nói
cách khác, hợp đồng đó thể hiện quyền lợi của thương mại quốc tế. Theo tiêu
chuẩn pháp lý, một hợp đồng được coi là hợp đồng quốc tế nếu nó bị chi phối
bởi các tiêu chuẩn pháp lý của nhiều quốc gia như quốc tịch, nơi cư trú của
các bên, nơi thực hiện nghĩa vụ hợp đồng, nguồn vốn thanh toán…
- Theo pháp luật của Việt Nam: Luật Thương mại năm 2005 không
đưa ra tiêu chí để xác định tính chất quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế mà liệt kê những hoạt động được coi là mua bán hàng hóa quốc tế.
Điều 27 nêu rõ mua bán quốc tế được thực hiện dưới các hình thức xuất khẩu,


7

nhập khẩu, tạm nhập tái xuất, tạm xuất tái nhập và chuyển khẩu.Các hình thức
này được giải thích rõ tại Điều 28, Điều 29, Điều 30 của Luật Thương mại
năm 2005. Thông qua nội dung này có thể thấy Luật Thương mại Việt Nam
đã sử dụng tiêu chí hàng hóa phải là động sản; hàng có thể được di chuyển
qua biên giới của Việt Nam hoặc qua biên giới của một nước (vùng lãnh thổ;
hoăc di chuyển qua khu chế xuất, khu vực hải quan riêng… để xem xét tính
quốc tế của HĐMBHHQT.
Từ những phân tích trên có thể khái quát về hợp đồng mua bán hang
háo quốc tế như sau: Hợp đồng mua bán hang hóa quốc tế là hợp đồng mua
bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài tham gia. Tuy nhiên, yếu tố nước ngoài
trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế được viện giải theo pháp luật
thương mại mỗi nước và điều ước quốc tế có những quan điểm khác nhau.

Trong đó, yếu tố trụ sở thương mại của các bên trong hợp đồng đặt tại các
quốc gia khác nhau được pháp luật nhiều quốc gia thừa nhận như một tiêu
chuẩn cơ bản và quan trọng trong việc xác định một hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế.
1.1.2. Đặc trưng HĐMBHHQT
Trước hết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mang đầy đủ những đặc
điểm của một hợp đồng mua bán hàng hóa nói chung, thể hiện ở những khía
cạnh sau:
- Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là sự thỏa thuận giữa các bên
nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ mua bán hàng hóa. Theo đó,
bên bán có nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu tài sản là đối tượng của hợp đồng
cho bên mua; còn bên mua có nghĩa vụ nhận hàng và thanh toán giá trị hàng
hóa cho bên bán theo thỏa thuận.
- Đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là hàng hóa được
phép lưu thông trên thị trường theo pháp luật quốc gia nhất định.


8

- Chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cũng bao gồm bên
bán và bên mua, bình đẳng với nhau trong quan hệ mua bán, không phụ thuộc
vào quốc tịch, quy mô, loại hình doanh nghiệp…
- Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cũng là hợp đồng song vụ, có
đền bù. Điều này thể hiện ở chỗ, các bên trong hợp đồng đều có nghĩa vụ (bên
bán có nghĩa vụ giao hàng và chuyển quyền sở hữu, ngược lại bên mua có
nghĩa vụ thanh toán tiền hàng…). Mặt khác, khi nhận được lợi ích nhất định,
các bên cũng phải đền bù lại một giá trị tương đương.
Tính quốc tế đã hình thành nên những đặc điểm mang tính chất đặc
trưng của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế so với các hợp đồng mua bán
hàng hóa khác. Cụ thể:

a. Về chủ thể hợp đồng
Chủ thể thường xuyên và chủ yếu của hợp đồng mua bán hàng hoá là
các thương nhân. Theo khoản 1 Điều 6 Luật Thương mại 2005 quy định:
“Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân
hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh
doanh”.Thương nhân có thể là cá nhân hoặc tổ chức. Và chủ thể của hợp
đồng mua bán hàng hoá quốc tế là các thương nhân có trụ sở thương mại ở
các nước khác nhau. Trụ sở thương mại thường được hiểu là nơi thường
xuyên tiến hành các hoạt động thương mại của thương nhân, hoặc là nơi đặt
cơ quan điều hành của thương nhân. Tuy nhiên, trên thực tế có trường hợp
thương nhân không có trụ sở thương mại hoặc có nhiều trụ sở thương mại ở
các nước khác nhau. Điều 10 CISG quy định trong trường hợp này cần phải
chú ý đến trụ sở thương mại liên quan mật thiết với hợp đồng, còn nếu các
bên không có trụ sở thương mại thì cần phải xác định địa điểm thường trú của
họ.
b. Về đối tượng của hợp đồng


9

Hàng hóa là đối tượng của HĐMBHHQT cũng có các đặc tính của
hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con
người thông qua trao đổi, mua bán với hai thuộc tính giá trị và giá trị sử dụng
Hàng hoá là đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế thường
được dịch chuyển qua biên giới.
Theo pháp luật của các nước trên thế giới thì hàng hoá là những động
sản hữu hình.
Theo pháp luật Việt Nam, hàng hoá được định nghĩa tại khoản 2 Điều 5
Luật Thương mại 2005 bao gồm: “(a) Tất cả các loại động sản, kể cả động
sản hình thành trong tương lai; (b) những vật gắn liền với đất đai”. Tuy

nhiên, chỉ những hàng hoá được phép xuất khẩu, nhập khẩu, không thuộc
danh mục cấm lưu thông, cấm xuất khẩu được ban hành kèm theo Nghị định
12/2006/NĐ-CP ban hành ngày 23/01/2006, quy định chi tiết thi hành Luật
Thương mại 2005 và các văn bản luật chuyên ngành mới có thể trở thành đối
tượng của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
Mặt khác, mỗi quốc gia lại có những quy định khác nhau về những loại
hàng hoá được phép mua bán, căn cứ vào chính sách kinh tế - xã hội, chủ
trương phát triển và mục đích bảo hộ nền sản xuất trong nước và khuyến
khích xuất khẩu của từng nước, và các cam kết quốc tế trong từng thời kỳ cụ
thể. Ví dụ, khi Việt Nam đã chính thức tham gia tổ chức thương mại thế giới
WTO, thì những mặt hàng xuất - nhập khẩu mà Nhà nước kiểm soát phải thay
đổi cho phù hợp với các quy định chung của Tổ chức: đồng ý cho nhập khẩu
thuốc lá điếu, xì gà từ thời điểm gia nhập, nhưng chỉ có một doanh nghiệp
Nhà nước được quyền nhập khẩu toàn bộ mặt hàng này.
Tóm lại, hàng hoá là đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế
là động sản hữu hình, và phải thuộc danh mục được phép mua bán, xuất nhập khẩu theo pháp luật của nước bên mua và bên bán, không thuộc nhóm
hàng bị hạn chế xuất khẩu, nhập khẩu (được quản lý theo hạn ngạch), hoặc


10

phải đáp ứng các yêu cầu về kĩ thuật, điều kiện vệ sinh an toàn thực phẩm.
v.v...
c. Nhiều hệ thống pháp luật áp dụng trong hợp đồng mua bán hàng
hoá quốc tế
Trong khi hợp đồng mua bán hàng hoá trong nước thường chỉ do pháp
luật quốc gia điều chỉnh thì hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế lại có nhiều
nguồn luật điều chỉnh hơn, có thể là pháp luật nước ngoài, các điều ước quốc
tế, tập quán thương mại quốc tế, một số trường hợp còn chịu sự chi phối của
án lệ. Có thể lý giải hiện tượng này là do tính chất quốc tế của loại hợp đồng

này.
Ví dụ: doanh nghiệp A của Việt Nam ký hợp đồng mua bán hàng hoá
với doanh nghiệp B của Pháp.Hợp đồng có điều khoản về các điều kiện
thương mại theo điều kiện FOB cảng Hải Phòng (Việt Nam) theo Incoterms
2000, và điều khoản về luật áp dụng cho hợp đồng là luật Anh. Như vậy, hợp
đồng này vừa áp dụng tập quán thương mại quốc tế (Incoterms 2000) vừa áp
dụng pháp luật nước ngoài (pháp luật Anh là pháp luật nước ngoài đối với cả
hai bên chủ thể).
Ngoài ra, HĐMBHHQT còn được đặc trưng bởi đồng tiền thanh toán
(tiền tệ dùng để thanh toán thường là nội tệ hoặc có thể là ngoại tệ đối với các
bên); ngôn ngữ của hợp đồng ( thường được ký kết bằng tiếng nước ngoài,
trong đó phần lớn là được ký bằng tiếng Anh); cơ quan giải quyết tranh chấp
(có thể là Tòa án hoặc Trọng tài nước ngoài).
1.2. Ý nghĩa và vai trò của việc xác định luật áp dụng trong
HĐMBHHQT
Xuất phát từ yếu tố chủ quyền quốc gia, mỗi quốc gia đều ban hành hệ
thống pháp luật để điều chỉnh các quan hệ xã hội. Do sự khác biệt về tập
quán, trình độ phát triển kinh tế xã hội, chế độ chính trị, …nên quy định của
pháp luật các quốc gia khác nhau thì sẽ khác nhau trong việc điều chỉnh các


11

quan hệ xã hội Đây là nguyên nhân dẫn đến hiện tượng cùng một vấn đề trong
hợp đồng mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài khi áp dụng các hệ thống
pháp luật của các quốc gia khác nhau có cách giải quyết khác nhau dẫn đến
kết quả cũng khác nhau. Chính vì vậy, việc xác định luật áp dụng cho hợp
đồng mua bán hàng hoá đóng vai trò quyết định đối với việc bảo đảm quyền
lợi của các bên chủ thể trong quá trình thực hiện hợp đồng, đồng thời bảo đảm
sự công bằng cho các bên trong việc giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp

đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Xác định pháp luật áp dụng điều chỉnh hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế là việc làm cần thiết nhằm điều chỉnh quyền
và nghĩa vụ các bên chủ thể của hợp đồng. Trên cơ sở xác định luật áp dụng
đối với hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, cơ quan xét xử sẽ có thêm cơ sở
pháp lý để giải quyết tranh chấp giữa các bên. Việc xác định luật áp dụng luật
chính xác của các cơ quan này sẽ đóng vai trò là kim chỉ nam để giải quyết
đúng đắn tranh chấp, đảm bảo quyền lợi của các bên liên quan đến vụ việc.
Việc chọn luật áp dụng để điều chỉnh các vấn đề có liên quan là hoạt
động xuyên suốt quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng. Nếu không được giải
quyết một cách triệt để thì hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế sẽ không thể
thực hiện được trên thực tế hoặc nếu thực hiện thì khi phát sinh tranh chấp sẽ
không thể giải quyết được. Chính vì vậy, việc lựa chọn hệ thống pháp luật để
áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là một yêu cầu có ý nghĩa
hết sức quan trọng đối với các bên khi tham gia hợp đồng.
Hợp đồng được coi là luật cao nhất của bên mua và bên bán. Nếu trong
hợp đồng quy định đầy đủ quyền và nghĩa vụ, dự kiến hết các tình huống có
thế phát sinh thì không cần bất kỳ luật nào điều chỉnh. Tuy nhiên,
HĐMBHHQT dù được soạn thảo hoàn chỉnh, chi tiết đến đâu, bản thân nó
cũng không thể dự kiến, chưa đựng hết tất cả những vấn đề, những tình huống
có thế phát sinh trong thực tế. Do đó, cần phải bổ sung cho hợp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế một cơ sở pháp lý cụ thể bằng cách lựa chọn luật cho hợp


12

đồng đó. Luật áp dụng bổ khuyết những vấn đề mà các bên chưa thỏa thuận
hoặc thỏa thuận không rõ ràng trong hợp đồng. Việc này cũng tạo điều kiện
thuận lợi cho các bên trong việc chọn luật để điều chỉnh phù hợp với ý chí của
mình khi có tranh chấp xảy ra. Đây là nguyên tắc lựa chọn luật áp dụng được
luật quốc tế và luật của nhiều quốc gia thừa nhận.

Tuy nhiên, hiện nay, ý nghĩa của việc lựa chọn luật áp dụng cho hơp
đồng chưa được quan tâm đúng mức và chưa được nhấn mạnh đầy đủ, đôi khi
các bên còn không thỏa thuận rằng luật nào sẽ được áp dụng cho hợp đồng,
hoặc chỉ quy định chung chung là tranh chấp sẽ được giải quyết theo “các
nguyên tắc chung của luật pháp”. Một tình huống nguy hiểm có thể xảy ra khi
không quy định luật áp dụng trong hợp đồng là: nó không chỉ làm phức tạp
việc giải quyết tranh chấp mà thường còn dẫn đến tranh chấp mới là luật nào
sẽ được áp dụng trong việc xét xử. Đến khi tranh chấp được đưa ra trọng tài
giải quyết thì trước tiên các bên cần thuyết phục trọng tài áp dụng luật mà
mình thấy hợp, trước khi bắt đầu tranh biện về các tình tiết vụ việc làm cho
việc giải quyết tranh chấp chậm trễ tốn kém.
Tuy nhiên, nên chọn nguồn luật nào và làm thế nào để chọn được
nguồn luật thích hợp nhất để có thể bảo vệ được quyền lợi của các bên tham
gia hợp đồng thì các bên cần phải xem xét kỹ lưỡng, am hiểu được nguồn luật
đó, để việc áp dụng sao cho phù hợp, có lợi và tránh được rủi ro.
1.3. Luật áp dụng trong HĐMBHHQT
Luật điều chỉnh áp dụng cho hợp đồng có ý nghĩa vô cùng quan trọng,
là một phần không thể thiếu được trong hợp đồng. Tuy nhiên, việc lựa chọn
nguồn luật nào thích hợp nhất để có thể bảo vệ được quyền lợi cho mình là
một việc hết sức khó khăn và không đơn giản đối với các bên tham gia hợp
đồng. Các bên cần phải nghiên cứu tất cả các nguồn luật nói trên, cách áp
dụng và giá trị pháp lý của từng nguồn luật đối với hợp đồng. Trong thực tế,
không chỉ các bên tham gia hợp đồng phải tìm hiểu luật áp dụng cho hợp


13

đồng mua bán đã ký mà cả tòa án (hoặc trọng tài) có thẩm quyền giải quyết
tranh chấp phát sinh cũng phải nghiên cứu vấn đề luật áp dụng cho hợp đồng
để có hướng giải quyết hợp lý và đúng đắn các tranh chấp. Luật áp dụng để

điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế có thể là điều ước quốc tế về
thương mại, pháp luật quốc gia, tập quán thương mại quốc tế.
1.3.1. Điều ước quốc tế
Điều ước quốc tế là “một thỏa thuận quốc tế được ký kết bằng văn bản
giữa các quốc gia và được pháp luật quốc tế điều chỉnh, dù được ghi nhận
trong một văn kiên duy nhất hoặc trong hai hay nhiều văn kiện có quan hệ với
nhau và với bất kể tên gọi riêng của nó là gì.” (Theo điểm a, khoản 1, Công
ước Viên năm 1969 về Luật Điều ước quốc tế).
Vì điều ước quốc tế là sự thỏa thuận giữa các quốc gia, do đó, các điều
ước này chỉ có giá trị áp dụng bắt buộc đối với các nước thành viên trên cơ sở
nguyên tắc tự nguyện thực hiện cam kết quốc tế (Pacta sunt servanda). Như
vậy, khi các nước ký kết hoặc tham gia các điều ước quốc tế về thương mại
thì các quy phạm ghi nhận trong các điều ước này sẽ đương nhiên áp dụng
điều chỉnh hành vi của các quốc gia trong hoạt động thương mại quốc tế.
Nhằm khuyến khích thương mại quốc tế phát triển, nhiều điều ước
quốc tế đã được xây dựng nhằm thống nhất hóa các quy phạm pháp luật trong
lĩnh vực hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Có thể kể đến các điều ước
quốc tế sau:
Trên thực tế, nỗ lực thống nhất nguồn luật áp dụng cho hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế đã được khởi xướng từ những năm 30 của thế kỷ 20 bởi
UNIDROIT (Viện thống nhất tư pháp quốc tế). UNIDROIT đã cho ra đời hai
Công ước La Haye năm 1964: một Công ước có tên là“Luật thống nhất về
thiết lập hợp đồng muabán quốc tế các động sản hữu hình”, Công ước thứ hai
là về “Luật thống nhất cho mua bán quốc tế các động sản hữu hình”. Công
ước thứ nhất điều chỉnh việc hình thành hợp đồng (chào hàng, chấp nhận chào


14

hàng). Công ước thứ hai đề cập đến quyền và nghĩa vụ của người bán, người

mua và các biện pháp được áp dụng khi một/các bên vi phạm hợp đồng. Trên
thực tế, hai công ước này rất ít được áp dụng.
Công ước Rome 1980 về luật áp dụng đối với quan hệ nghĩa vụ hợp
đồng. Đây là một điều ước quốc tế xây dựng các quy phạm luật xung đột
trong lĩnh vực hợp đồng trong khuôn khổ Hội nghị La Haye về tư pháp quốc
tế. Công ước này được áp dụng rộng rãi tại các nước thành viên Liên minh
châu Âu.
Công ước La Haye ngày 15/06/1955 về luật áp dụng đối với hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế. Theo Công ước này, hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế phải tuân thủ theo luật mà các bên lựa chọn. Nếu không có sự thỏa
thuận thống nhất của các bên về luật áp dụng thì luật của nước nơi người bán
thường trú sẽ được áp dụng trừ một số trường hợp ngoại lệ.
Công ước Viên năm 1980 của Liên hợp quốc về mua bán hàng hóa
quốc tế. Đây là Công ước quốc tế nhiều bên được ký ngày 14/4/1980 tại Viên
(Áo) và có hiệu lực từ ngày 1/1/1980. Nội dung của Công ước này là quy định
các vấn đề pháp lý cơ bản về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Đây được
coi là công ước quan trọng nhất, bao gồm các quy phạm thực chất thông nhất
trong lĩnh vực hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Các điều ước quốc tế không phải đương nhiên được áp dụng mà chỉ
được áp dụng trong các trường hợp sau:
Thứ nhất, những điều ước quốc tế về thương mại mà Nhà nước đã tham
gia ký kết hoặc gia nhập, đương nhiên được áp dụng đối với các hợp đồng
trong mua bán hàng hoá quốc tế. Điều ước quốc tế chỉ có giá trị pháp lý bắt
buộc đối với các bên chủ thể trong giao dịch thương mại quốc tế nếu các bên
chủ thể này có quốc tịch hoặc có nơi cư trú ở các quốc gia là các nước thành
viên của điều ước quốc tế đó.


15


Thứ hai, những điều ước quốc tế về thương mại mà nhà nước chưa ký
kết hoặc chưa tham gia thì được áp dụng để điều chỉnh hợp đồng nếu các bên
thỏa thuận áp dụng các điều khoản của điều ước đó. Điều này xuất phát từ
nguyên tắc tự do thỏa thuận của các bên trong hợp đồng. Theo đó, pháp luật
Việt Nam quy định các bên có quyền chọn luật điều chỉnh giao dịch của mình,
nếu việc áp dụng luật đó không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật
Việt Nam. Ví dụ: Mặc dù Việt Nam chưa phải là thành viên của Công ước
Viên 1980 về mua bán hàng hóa nhưng nếu các bên lựa chọn Điều ước này để
điều chỉnh hợp đồng thì điều ước trên vẫn có thể được áp dụng để điều chỉnh
các vấn đề phát sinh trong hợp đồng.
Thứ ba, Điều ước quốc tế có thể được áp dụng theo sự lựa chọn của
trọng tài thương mại quốc tế. Khoản 2 Điều 14 của Luật Trọng tài 2010 cũng
quy định: “Đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài, Hội đồng trọng tài áp
dụng pháp luật do các bên lựa chọn, nếu các bên không có thỏa thuận về luật
áp dụng thì Hội đồng trọng tài quyết định áp dụng pháp luật mà Hội đồng
trọng tài cho là phù hợp nhất.”
1.3.2. Pháp luật quốc gia
Pháp luật của mỗi quốc gia là tổng thể các quy tắc, quy định điều chỉnh
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội quốc gia đó. Các quy tắc, quy phạm đó tùy
theo pháp luật của mỗi nước được thể hiện dưới hình thức thành văn hay bất
thành văn. Cũng như mọi lĩnh vực khác, trong hoạt động mua bán quốc tế,
pháp luật cũng đóng vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh hoạt động của
các chủ thể. Cùng với sự hoàn thiện dần về kỹ thuật lập pháp của các quốc
gia, các quy định trong pháp luật của các nước để điều chỉnh hợp đồng cũng
dần hình thành, phát triển và hoàn thiện theo hướng chặt chẽ hơn, đồng bộ
hơn. Khi một tranh chấp phát sinh từ hợp đồng mà không tìm thấy sự điều
chỉnh trong hợp đồng, trong điều ước quốc tế có liên quan thì phải dùng luật
quốc gia để điều chỉnh, để giải quyết. Như vậy, luật quốc gia trở thành nguồn



16

luật điều chỉnh hợp đồng trong HĐMBHHQT khi nó được đem áp dụng để
giải quyết một số vấn đề phát sinh từ hợp đồng hay có liên quan tới hợp đồng.
Nhưng không phải luật quốc gia của bất kỳ nước nào cũng được đem áp dụng,
mà luật quốc gia của một nước sẽ được đem áp dụng cho hợp đồng trong các
trường hợp sau:
Thứ nhất là, thông qua sự lựa chọn của các bên trong hợp đồng. Có hai
cách thể hiện điều này. Cách thứ nhất là các bên quy định về luật áp dụng
ngay từ giai đoạn đàm phán, ký kết hợp đồng, bằng cách chỉ rõ trong hợp
đồng rằng luật của một nước nào đó sẽ được áp dụng cho hợp đồng. Trường
hợp này gọi là các bên đã quy định trong hợp đồng điều khoản luật áp dụng
cho hợp đồng. Ví dụ:
“Mọi vấn đề không được quy định hoặc quy định không đầy đủ trong
hợp đồng này sẽ được giải quyết theo luật Việt Nam.”
Hoặc:
“ Các vấn đề phát sinh từ hoặc liên quan đến hợp đồng này được giải
quyết theo luật nước người bán”.
Cách thứ hai là các bên thỏa thuận lựa chọn luật quốc gia là luật áp
dụng cho hợp đồng sau khi ký kết hợp đồng, thậm chí khi tranh chấp phát
sinh. Cách này được các bên áp dụng khi trong hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế mà các bên đã ký trước đó không có điều khoản về luật áp dụng.
Trong thực tế, cách này là rất khó áp dụng vì khó có thể đạt được một sự nhất
trí về việc chọn luật áp dụng khi mà tranh chấp đã phát sinh bởi ai cũng chỉ
muốn chọn luật bảo vệ được quyền lợi của mình. Trong trường hợp các bên
không thể thỏa thuận luật áp dụng pháp luật của một trong các bên thì có thể
thỏa thuận áp dụng pháp luật của nước thứ ba. Pháp luật của nước thứ ba ở
đây được hiểu là pháp luật của nước có liên quan đến hợp đồng.
Thứ hai là, pháp luật quốc gia sẽ được áp dụng nếu có quy phạm xung
đột dẫn chiếu đến. Trong trường hợp này, các bên không thỏa thuận luật áp



17

dụng nhưng trong các nguồn luật liên quan có quy phạm dẫn chiếu đến hệ
thống pháp luật của quốc gia nào đó thì pháp luật được dẫn chiếu sẽ được áp
dụng để điều chỉnh hợp đồng. Ví dụ: Để xác định năng lực ký kết và thực hiện
hợp đồng, tư pháp quốc tế của hầu hết các nước đều quy định áp dụng luật
quốc tịch của các bên chủ thể. Theo đó, pháp luật của nước mà các bên chủ
thể mang quốc tịch sẽ là pháp luật quy định về năng lực pháp luật và năng lực
hành vi giao kết hợp đồng của các bên. Vậy, ở đây dù các bên không thỏa
thuận luật áp dụng nhưng khi xác định năng lực pháp luật của các bên chủ thể
trong hợp đồng, người ta vẫn áp dụng pháp luật quốc gia do quy phạm xung
đột dẫn chiếu đến để xem xét hiệu lực của hợp đồng về tư cách chủ thể của
các bên.
Thứ ba là khi tòa án hoặc trọng tài quyết định. Khoản 2 Điều 14 của
Luật Trọng tài 2010 quy định: “Đối với tranh chấp có yếu tố nước ngoài, Hội
đồng trọng tài áp dụng pháp luật do các bên lựa chọn, nếu các bên không có
thỏa thuận về luật áp dụng thì Hội đồng trọng tài quyết định áp dụng pháp
luật mà Hội đồng trọng tài cho là phù hợp nhất.” Như vậy, Trọng tài thương
mại Việt Nam sẽ có quyền chọn luật áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế khi phát sinh tranh chấp nếu các bên không thỏa thuận được luật áp
dụng.
1.3.3. Tập quán thương mại quốc tế
Tập quán quốc tế là những quy tắc xử sự được hình thành trong một
thời gian dài, được áp dụng khá liên tục và một cách hệ thống, đồng thời được
sự thừa nhận của đông đảo các quốc gia. [25, tr25]
Phụ thuộc vào tính chất và giá trị hiệu lực của tập quán quốc tế mà có
thể chia tập quán ra làm các loại sau:
Tập quán có tính chất nguyên tắc: là những tập quán cơ bản, bao trùm

được hình thành trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế và luật
quốc gia như nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia, nguyên tắc bình đẳng


18

giữa các dân tộc. Ví dụ: Toà án (hoặc trọng tài) của nước nào thì có quyền áp
dụng các quy tắc tố tụng của nước đó khi giải quyết những vấn đề về thủ tục
tố tụng trong các tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
Tập quán thương mại quốc tế chung: là các tập quán thương mại
được nhiều nước công nhận và được áp dụng ở nhiều nơi, nhiều khu vực trên
thế giới. Ví dụ: INCOTERMS (International Commercial Terms), tạm dịch là
các điều kiện thương mại quốc tế. Đây là văn bản tập hợp các quy tắc giải
thích một cách thống nhất các tập quán thương mại quốc tế do Phòng thương
mại quốc tế (International Chamber of Commerce –ICC) soạn thảo và ban
hành lần đầu tiên năm 1936, sau đó được bổ sung và sửa đổi nhiều lần.
INCOTERMS 2000 có hiệu lực ngày 1/1/2000. Hiện nay bản mới nhất là
INCOTERMS 2010, trong đó quy định về 11 phương thức giao hàng, chia
làm 2 nhóm. Tập quán này được hầu hết các chủ thể trong hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế áp dụng.
Bên cạnh đó, còn có Những nguyên tắc cơ bản hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế (PICC) của Viện thống nhất Tư pháp quốc tế - UNIDROIT cũng
có vai trò quan trọng, đây không phải là văn bản pháp lý quốc tế, mà chỉ là
văn bản của một tổ chức liên chính phủ, vì lẽ đó nó là văn bản có tính chất
tham khảo và có giá trị như tập quán thương mại quốc tế. PICC được xây
dựng trên cơ sở hài hòa hóa các quy phạm khác nhau của các hệ thống pháp
luật trên thế giới nhằm hướng tới một cách giải quyết công bằng chung cho
các vấn đề phát sinh. Hay UCP 500 do ICC ban hành đưa ra các quy tắc để
thực hành thống nhất về thư tín dụng cũng được nhiều quốc gia trên thế giới
áp dụng vào hoạt động thanh toán quốc tế.

Tập quán thương mại khu vực (địa phương): là các tập quán thương
mại quốc tế được áp dụng ở từng nước, từng khu vực hoặc từng cảng. Ví dụ:
ở Hoa Kỳ cũng có điều kiện cơ sở giao hàng FOB. Điều kiện FOB Hoa Kỳ
được đưa ra trong “Định nghĩa ngoại thương của Mỹ sửa đổi năm 1941”, theo


19

đó có 6 loại FOB mà quyền và nghĩa vụ của bên bán, bên mua rất khác biệt so
với điều kiện FOB trong INCOTERMS năm 2000. Chẳng hạn, với FOB
người chuyên chở nội địa quy định tại điểm khởi hành nội địa quy định
(named inland carrier at named inland point of departure), người bán chỉ có
nghĩa vụ đặt hàng hoá trên hoặc trong phương tiện chuyên chở hoặc giao cho
người chuyên chở nội địa để bốc hàng.
Trong đó, tập quán nguyên tắc có giá trị bắt buộc chung đối với các
quốc gia. Còn tập quán quốc tế chung và tập quán quốc tế khu vưc chỉ có giá
trị pháp lý ràng buộc các quốc gia khi được các quốc gia đó thừa nhận hoặc
chấp nhận ràng buộc đối với mình.
Tập quán thương mại quốc tế chỉ được áp dụng trong những trường hợp
sau:
Thứ nhất, tập quán thương mại đó được các bên thỏa thuận áp dụng,
ghi trong hợp đồng. Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các bên nên các bên chủ
thể có quyền thỏa thuận áp dụng tập quán thương mại điều chỉnh quyền và
nghĩa vụ của họ. Khi đó, tập quán có giá trị ràng buộc đối với các bên. Tuy
nhiên, theo quy định của luật pháp hầu hết các nước thì việc thỏa thuận áp
dụng tập quán phải thỏa mãn một số nguyên tắc nhất định.
Pháp luật Việt Nam cũng thừa nhận việc áp dụng tập quán.Ví dụ: theo
quy định khoản 2 Điều 5 Luật Thương mại 2005 thì “Các bên trong giao dịch
thương mại có yếu tố nước ngoài được thỏa thuận áp dụng pháp luật nước
ngoài, tập quán thương mại quốc tế…”

Thứ hai là Tập quán thương mại được các điều ước quốc tế liên quan
quy định áp dụng. Trong trường hợp điều ước quốc tế về thương mại có quy
định sẽ áp dụng một hoặc một số tập quán thương mại quốc tế thì các tập
quán thương mại quốc tế này sẽ đương nhiên được áp dụng cho các quan hệ
của các bên chủ thể mang quốc tịch hoặc có trụ sở ở các nước thanh viên của
điều ước quốc tế đó. Điều này có nghĩa là kể cả trong trường hợp khi giao kết


20

hợp đồng các bên chủ thể này đã không thỏa thuận dẫn đến một tập quán
thương mại quốc tế thì tập quán quốc tế vẫn được áp dụng nếu nó được quy
định trong điều ước quốc tế về thương mại có liên quan.
Thứ ba, Tập quán thương mại quốc tế được luật trong nước quy định áp
dụng. Trong trường hợp luật trong nước điều chỉnh quan hệ thương mại giữa
các bên quy định áp dụng tập quán thương mại quốc tế thì tập quán thương
mại quốc sẽ được áp dụng.(Khoản 4, Điều 759 Bộ luật Dân sự)
Thứ tư, Cơ quan xét xử cho rằng các bên chủ thể đã mặc nhiên áp dụng
tập quán thương mại quốc tế trong giao dịch của họ. Khoản 3, Điều 14 Luật
Trọng tài thương mại năm 2010 quy định: “Trường hợp pháp luật Việt Nam,
pháp luật do các bên lựa chọn không có quy định cụ thể liên quan đến nội
dung tranh chấp thì Hội đồng trọng tài được áp dụng tập quán quốc tế để giải
quyết tranh chấp nếu việc áp dụng hoặc hậu quả của việc áp dụng đó không
trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.”
1.4. Các chủ thể lựa chọn luật áp dụng trong giải quyết tranh chấp
phát sinh từ HĐMBHHQT
1.4.1. Các bên kí kết hợp đồng
Chủ thể của HĐMBHH là các thương nhân. Thương nhân có thể là tổ
chức hoặc cá nhân. Trong một số trường hợp nhất định, nhà nước cũng là chủ
thể đặc biệt của quan hệ này. Việc xác định chủ thể của HĐMBHHQT tùy

theo từng quốc gia nhất định, nhưng nhìn chung các quốc gia đều quy định
chủ thể của HĐMBHHQT được phép hoạt động thương mại quốc tế.
Về lý thuyết, luật điều chỉnh nội dung hợp đồng trước hết là luật do các
bên thoả thuận lựa chọn (vì bản thân nội dung hợp đồng là sự thoả thuận của
các bên). Đó có thể là luật nơi giao kết hợp đồng, luật nơi thực hiện hợp đồng,
luật của nước nơi có hàng hoá là đối tượng của hợp đồng, v.v… Các bên khi
giao kết hợp đồng có thể lựa chọn bất kỳ hệ thống pháp luật nào để điều chỉnh


×