Tải bản đầy đủ (.pdf) (83 trang)

Một số vấn đề lý luận về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường theo pháp luật cạnh tranh của việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (618.85 KB, 83 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN PHƯƠNG ANH

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ
THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG THEO PHÁP LUẬT CẠNH TRANH
CỦA VIỆT NAM

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ:

603850

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:TS. BÙI NGỌC CƯỜNG

HÀ NỘI - 2011


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU:……………………………………………………1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ
THỐNG

LĨNH


THỊ

TRƯỜNG

ĐỂ

HẠN

CHẾ

CẠNH

TRANH……………………………………………………………………. 5
1.1. KHÁI QUÁT VỀ HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH THỊ
TRƯỜNG ………………………………………………….. ……………... 5
1.1.1. Khái niệm……………………………………………………………. 5
1.1.2. Các dấu hiệu của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường…………. 8
1.1.3. Tác động của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh tới cạnh tranh nói riêng và
nền kinh tế nói chung……………………………………………. ................11
1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐỂ XÁC ĐỊNH HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ
THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG……………………………………………... 13
1.2.1. Xác định thị trường liên quan………………………………………. ..13
1.2.2 Xác định doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường……………… .19
1.3. KIỂM SOÁT BẰNG PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ
TRÍ THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG…………………………………... .........27
1.31. Vai trò của pháp luật đối với việc kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh thị trường………………………………………………………............... 27
1.3.2. Pháp luật đưa ra các dấu hiệu để kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh thị trường………………………………………………………............... 29
1.3.3. Kinh nghiệm của một số nước trong việc kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí

thống lĩnh thị trường………………………………………………….............. 32
CHƯƠNG 2: HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG
THEO PHÁP LUẬT CẠNH TRANH VIỆT NAM…………………………. 36


2.1. BÁN HÀNG HÓA, CUNG ỨNG DỊCH VỤ DƯỚI GIÁ THÀNH TOÀN BỘ
NHẰM LOẠI BỎ ĐỐI THỦ CẠNH TRANH………………. .......................36
2.2. ÁP ĐẶT GIÁ MUA, GIÁ BÁN HÀNG HÓA, DỊCH VỤ BẤT HỢP LÝ
HOẶC ẤN ĐỊNH GIÁ BÁN LẠI TỐI THIỂU GÂY THIỆT HẠI CHO KHÁCH
HÀNG…………………………………………………………...................... 41
2.3. HẠN CHẾ SẢN XUẤT, PHÂN PHỐI HÀNG HÓA, DỊCH VỤ, GIỚI HẠN THỊ
TRƯỜNG, CẢN TRỞ SỰ PHÁT TRIỂN KỸ THUẬT, CÔNG NGHỆ GÂY THIỆT
HẠI CHO KHÁCH HÀNG…………………………………... ..........................42
2.4. ÁP ĐẶT ĐIỀU KIỆN THƯƠNG MẠI KHÁC NHAU TRONG GIAO DỊCH
NHƯ

NHAU

NHẰM

TẠO

BẤT

BÌNH

ĐẲNG

TRONG


CẠNH

TRANH;…………………………………………………………………........ 45
2.5. ÁP ĐẶT ĐIỀU KIỆN CHO DOANH NGHIỆP KHÁC KÝ KẾT HỢP
ĐỒNG MUA, BÁN HÀNG HÓA, DỊCH VỤ HOẶC BUỘC DOANH NGHIỆP
KHÁC CHẤP NHẬN CÁC NGHĨA VỤ KHÔNG LIÊN QUAN TRỰC TIẾP
ĐẾN ĐỐI TƯỢNG CỦA HỢP ĐỒNG…………………….. .........................48
2.6. NGĂN CẢN VIỆC THAM GIA THỊ TRƯỜNG CỦA NHỮNG ĐỐI
THỦ CẠNH TRANH MỚI………………………………………………..... 52
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT CẠNH TRANH
LIÊN QUAN ĐẾN HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH THỊ
TRƯỜNG………………………………………………………………. ..................59
3.1. QUAN ĐIỂM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ
KIỂM SOÁT HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH THỊ
TRƯỜNG…………………………………………………………………...... 59
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường phải phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế và hướng tới mục đích đảm
bảo duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh……………………….............. 59
3.1.2. Pháp luật kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường phải phù
hợp với thông lệ quốc tế………………………………………………........... 62


3.1.3. Đảm bảo đồng bộ các yếu tố: xây dựng pháp luật, tổ chức bộ máy quản lý
cạnh tranh; cơ chế thực thi pháp luật……………………………................... 64
3.2. MỐT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT CẠNH TRANH
LIÊN QUAN ĐẾN HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH THỊ
TRƯỜNG…………………………………………………….......................... 66
3.2.1. Hoàn thiện các quy định về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường……………………………………………………………....................... 66
3.2.2. Tổ chức bộ máy Nhà nước kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị

trường……………………………………………………………... ...................69
3.2.3. Xây dựng cơ chế thực thi pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường……………………………………………………............ 72

KẾT LUẬN………………………………………………………….. .......76
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………....... 78


1

LỜI NÓI ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng ta khởi xướng từ năm
1986 đến nay đã đạt được những thành tựu quan trọng. Tuy nhiên bên cạnh
những thành công bước đầu đó chúng ta cũng phải đối mặt với những hệ quả
tiêu cực của cơ chế thị trường, đó là các hành vi hạn chế cạnh tranh trong đó
có hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường là hành vi còn mới đối với
Việt Nam mà chúng ta cần phải tìm hiểu thêm.
Mặc dù hạn chế cạnh tranh là một khuyết tật cố hữu của kinh tế thị
trường, nhưng trong điều kiện của Việt Nam, một nền kinh tế vừa thoát ra từ
cơ chế kế hoạch hóa tập trung, sự quản lý và điều tiết của nhà nước còn đang
tiến dần đến sự phù hợp với các nguyên tắc của kinh tế thị trường, sự thống trị
của các doanh nghiệp quốc doanh vẫn còn dai dẳng, sự gia tăng nhanh chóng
và không ngừng lớn mạnh của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư
nhân; sự hiện diện của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có sự vượt
trội về khả năng tài chính, tư duy kinh tế và kinh nghiệm thương trường...đã
khiến cho các hành vi hạn chế cạnh tranh mà trong đó có hành vi lạm dụng vị
trí thống lĩnh thị trường đang diễn ra một cách hết sức lộn xộn, gây ra những

hậu quả về kinh tế xã hội và ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường đầu tư.
Vì vậy, việc nghiên cứu tìm hiểu lý luận và thực tiễn nhằm xác định
hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường từ đó xây dựng chính sách pháp
luật có thể kiểm soát và ngăn chặn các hành vi trên, duy trì trật tự cạnh tranh
lành mạnh, bảo vệ lợi ích cho các chủ thể trong nền kinh tế là vấn đề có tầm
quan trọng đặc biệt được Đảng và nhà nước ta hết sức quan tâm trong thời
gian gần đây. Đặc biệt là từ khi Luật Cạnh tranh có hiệu lực từ tháng 7 năm


2

2005, đã có rất nhiều vấn về phát sinh mà cần phải nghiên cứu, sửa đổi, bổ
sung cho phù hợp với thực tế tại Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Pháp luật cạnh tranh là lĩnh vực mới mẻ trong khoa học pháp lý của Việt
Nam, trong đó các hành vi hạn chế cạnh tranh là được nghiên cứu muộn hơn
cả. Do vậy, những nghiên cứu trong lĩnh vực này còn khá khiêm tốn. Tuy
nhiên đã có một số công trình nghiên cứu như: PGS.TS. Nguyễn Như Phát và
Ths.Nguyễn Ngọc Sơn (2006), Phân tích và luận giải các quy định của luật
cạnh tranh về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền
để hạn chế cạnh tranh, NXB Tư pháp; Đặng Vũ Huân (2002), Pháp luật về
kiểm soát độc quyền và chống cạnh tranh không lành mạnh tại Việt Nam, luận
án tiến sĩ luật học; PGS.TS Lê Danh Vĩnh, Ths. Hoàng Xuân Bắc, Ths
Nguyễn Ngọc Sơn (2010), Giáo trình Luật Cạnh tranh, Đại học Quốc gia TP.
Hồ Chí Minh.
Các nghiên cứu nói trên tiếp cận, xem xét các nội dung của hạn chế cạnh
tranh dưới góc độ kinh tế học và khoa học pháp lý. Có những công trình đã
nghiên cứu một cách toàn diện pháp luật về hạn chế cạnh tranh cũng như
nghiên cứu những khía cạnh, nội dung cụ thể của các chế định này. Tuy
nhiên, chưa có công trình nghiên cứu khoa học độc lập nào xem xét một cách

tổng thể, toàn diện và chuyên sâu về các khía cạnh của hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu các quy định của pháp luật cạnh
tranh hiện hành và các vấn đề lý luận và thực tiễn về hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường theo Luật Cạnh tranh của Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng để thực hiện đề tài là phương
pháp triết học Mác - Lênin mà hạt nhân là phép duy vật biện chứng và phép


3

duy vật lịch sử cũng như các quy luật, phạm trù cơ bản, nhất là quy luật cơ sở
hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, các quan hệ kinh tế quyết định các
quan hệ pháp luật. Trên nền tảng các phương pháp đó, tác giả sử dụng các
phương pháp nghiên cứu cụ thể của khoa học xã hội như phương pháp phân
loại.
Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, tác giả còn bám sát các chủ
trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ta về chính sách cạnh tranh và các
hành vi độc quyền, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường được thể hiện trong
các văn kiện của Đảng và hệ thống pháp luật của Nhà nước.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
* Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là tiếp cận nghiên cứu các vấn
đề có tính chất lý luận và thực tiễn của các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh
thị trường ở Việt Nam, từ đó có căn cứ để xác định hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường trong thực tiễn và đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn
thiện các quy định pháp luật về lĩnh vực trên.
* Nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài:
- Phân tích làm rõ những vấn đề lý luận về hành vi lạm dụng vị trí

thống lĩnh thị trường.
- Phân tích làm rõ nội dung pháp lý cơ bản của các hành vi lạm dụng vị
trí thống lĩnh thị trường kết hợp cùng việc tìm hiểu thực trạng, qua đó rút ra
những đánh giá chung trong việc thực thi pháp luật về kiểm soát, ngăn chặn
và xử lý các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường.
- Đề xuất các kiến nghị nhằm hoàn thiện và thực thi có hiệu quả pháp
luật điều chỉnh các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường.
6. Những kết quả nghiên cứu mới đề tài
- Kết quả tổng hợp, phân tích về các quy định pháp luật điều chỉnh các
hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường.
- Một số đánh giá về thực trạng pháp luật điều chỉnh hành vi lạm dụng


4

vị trí thống lĩnh thị trường.
- Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện cơ chế, tăng cường hiệu quả thực
thi pháp luật điều chỉnh hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được
chia làm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh.
Chương 2: Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường theo pháp
luật cạnh tranh của Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật cạnh tranh liên quan
đến hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường.


5


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ
THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG ĐỂ HẠN CHẾ CẠNH TRANH

1.1. KHÁI QUÁT VỀ HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG
LĨNH THỊ TRƯỜNG
1.1.1. Khái niệm
Khi Việt Nam chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền
kinh tế thị trường thì ngay lập tức cũng xuất hiện sự cạnh tranh. Cạnh tranh là
một trong những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường, là năng lực phát
triển của nền kinh tế thị trường. Đồng thời, cạnh tranh cũng dẫn đến việc triệt
tiêu lẫn nhau giữa các đối thủ cạnh tranh, quá trình cạnh tranh diễn ra đến một
mức độ nào đấy sẽ xuất hiện tình trạng thống lĩnh thị trường.
Vị trí thống lĩnh được hiểu là khả năng kiểm soát thực tế hoặc tiềm
năng đối với thị trường liên quan của một loại hoặc một nhóm hàng hóa, dịch
vụ của một hoặc một số doanh nghiệp. Với cách hiểu như vậy thì vị trí thống
lĩnh không chỉ được xem xét dưới góc độ vị trí của một doanh nghiệp mà còn
có thể là vị trí của một nhóm doanh nghiệp cùng hành động. Tức là giữa
nhóm doanh nghiệp này không có sự thỏa thuận trước nhưng đã cùng hành
động, cùng nhau thực hiện các hành vi như bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ
dưới giá thành toàn bộ để loại bỏ đối thủ.
Khi đã xác lập được vị trí thống lĩnh, các doanh nghiệp thống lĩnh tìm
mọi cách để duy trì vị trí thống lĩnh thị trường của mình với các cách thức
như: thôn tính, tiêu diệt các đối thủ cạnh tranh, ngăn cản không cho các đối
thủ tiềm năng gia nhập thị trường, tiếp tục củng cố ưu thế và sức mạnh thị
trường bằng việc lôi kéo các đối thủ liên kết tạo sức mạnh, phân chia thị
trường, định giá cả.
Các nhà kinh tế học đều thống nhất rằng thống lĩnh thị trường là hiện



6

tượng khách quan, tồn tại trong tất cả các nền kinh tế. Nó là kết quả của quá
trình cạnh tranh, một yếu tố không thể thiếu để thúc đẩy nền kinh tế phát
triển. Vấn đề ở chỗ, các doanh nghiệp sau khi đã có được vị trí thống lĩnh thì
luôn có xu hướng lạm dụng vị trí của mình để duy trì và củng cố vị thế, thu
lợi nhuận, gây hại đến lợi ích của các chủ thể khác và của Nhà nước. Chính từ
thực trạng các doanh nghiệp khi có vị trí thống lĩnh thường lạm dụng vị trí
của mình đã làm cho pháp luật tất yếu phải có những quy định để điều chỉnh
và kiểm soát. Các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh để kiếm lợi và xâm phạm
đến lợi ích của các chủ thể khác thì bị coi là bất chính [15].
Để kiểm soát được một quan hệ nào đó thì trước hết pháp luật phải
nhận diện được đối tượng đó và những thuộc tính của nó. Tương tự như vậy,
để điều chỉnh hành vi thống lĩnh thị trường thì pháp luật về cạnh tranh và
chống lạm dụng vị trí thống lĩnh phải đưa ra được khái niệm về vị trí thống
lĩnh và những tiêu chí để xác định đâu là hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh.
Tùy theo đặc điểm kinh tế xã hội khác nhau mà pháp luật của mỗi nước cũng
đưa ra nhũng quan niệm và tiêu chí xác định hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh khác nhau.
Trong Luật cạnh tranh 2004 của Việt Nam chỉ đưa ra khái niệm chung
về hành vi hạn chế cạnh tranh mà không định nghĩa thế nào là hành vi lạm
dụng vị trí thống lĩnh, thế nào là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, theo đó, hành
vi hạn chế cạnh tranh là hành vi của doanh nghiệp làm giảm, sai lệch, cản trở
cạnh tranh trên thị trường, bao gồm thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng
vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền và tập trung kinh tế (khoản 3 Điều
3 Luật cạnh tranh). Ngoài ra, để cụ thể hóa, đạo luật đã liệt kê từng hành vi cụ
thể trong ba nhóm hành vi hạn chế cạnh tranh kể trên (Điều 8, 13, 14, 16 Luật
cạnh tranh)
Điều 79 Luật cạnh tranh của Canada quy định ba dấu hiệu của hành vi

lạm dụng vị trí thống lĩnh là: (i) một hoặc một nhóm doanh nghiệp kiểm soát


7

thị trường liên quan; (ii) thực hiện hành vi phản cạnh tranh được quy định
trong luật cạnh tranh; (iii) hành vi đó đã, đang hoặc có thể làm cản trở, làm
giảm cạnh tranh trên thị trường một cách đáng kể [8]. Bên cạnh đó, còn có
một xu hướng khác trong pháp luật cạnh tranh trên thế giới khi định nghĩa về
hành vi lạm dụng. Bộ quy tắc về cạnh tranh của Liên hợp quốc được thông
qua ngày 22 tháng 4 năm 1980 và Luật mẫu về cạnh tranh của tổ chức hợp tác
và phát triển Liên hợp quốc định nghĩa hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh và vị
trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh là hành vi hạn chế cạnh tranh mà doanh
nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền sử dụng để duy trì hay tăng cường
vị trí của nó trên thị trường bằng cách hạn chế khả năng gia nhập thị trường
hoặc hạn chế quá mức cạnh tranh [19, tr52]. Ở đây có sự khác nhau giữa
Luật Cạnh tranh của Canada và Bộ Quy tắc mẫu ở dấu hiệu chủ quan của
hành vi. Nếu như Luật Cạnh tranh của Canada mô tả hành vi lạm dụng luôn
mang trong mình nó khả năng (hậu quả) làm sai lệch, cản trở hoặc làm giảm
cạnh tranh, thì Bộ Quy tắc và luật mẫu về cạnh tranh lại nhấn mạnh đến mục
đích duy trì, củng cố vị trí của doanh nghiệp vi phạm bằng cách ngăn cản
người khác gia nhập thị trường hoặc hạn chế quá mức cạnh tranh.
Nếu so sánh từ góc độ lý luận, cách tiếp cận của Luật Cạnh tranh
Canada có vẻ trừu tượng hơn so với khái niệm của Luật mẫu về cạnh tranh,
bởi lẽ việc xác định mức độ sai lệch, giảm hoặc cản trở cạnh tranh không phải
là việc đơn giản, do cạnh tranh là khái niệm phản ánh mối quan hệ ganh đua
trên thương trường nên khó có đại lượng khách quan nào có thể cân đong
được mức độ của quan hệ cạnh tranh một cách chính xác. Trong khi đó, xác
định khả năng duy trì và củng cố vị trí của doanh nghiệp sẽ là đơn giản hơn,
người ta có thể dựa vào những thông số kinh tế, kỹ thuật trên thị trường liên

quan về số lượng doanh nghiệp, về thị phần, mức chênh lệch thị phần giữa
các doanh nghiệp... là có thể đưa ra các kết luận khá chính xác.


8

1.1.2. Các dấu hiệu của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường.
Cho dù được mô tả bằng cách thức nào đi nữa, hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường luôn có ba dấu hiệu nhận dạng.
Dấu hiệu thứ nhất: Chủ thể thực hiện hành vi là doanh nghiệp hoặc
nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh trên thị trường liên quan. Lý thuyết
cạnh tranh đã chỉ ra rằng vị trí thống lĩnh có thể được hình thành từ sự tích tụ
trong quá trình cạnh tranh; từ những điều kiện tự nhiên của thị trường như: sự
biến dị của sản phẩm, sự tồn tại của các rào cản gia nhập thị trường... Trong
những trường hợp nói trên, vị trí thống lĩnh là hợp pháp và đem lại cho doanh
nghiệp quyền lực thị trường, hay còn gọi là khả năng chi phối các quan hệ thị
trường. Theo cuốn Từ điển kinh tế học hiện đại quyền lực thị trường là khả
năng của một doanh nghiệp hoặc một nhóm các doanh nghiệp trong việc tác
động đến giá cả thị trường của một loại hàng hóa hoặc dịch vụ mà họ bán
hoặc mua [11, tr 682]
Về mặt học thuật, có hai vấn đề cần phải làm rõ là: thứ nhất, hành vi
lạm dụng chỉ xảy ra sau khi vị trí thống lĩnh trên thị trường liên quan đã được
xác lập. Do đó, pháp luật chống lạm dụng không nhằm đến việc xóa bỏ vị trí
thống lĩnh của doanh nghiệp, pháp luật chỉ hướng đến việc loại bỏ hành vi
lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để trục lợi hoặc để bóp méo cạnh tranh.
Một khi doanh nghiệp có quyền lực thị trường chưa có các biểu hiện của sự
lạm dụng thì chúng vẫn là chủ thể được pháp luật bảo vệ; thứ hai, chủ thể
thực hiện việc lạm dụng có thể là một doanh nghiệp đơn lẻ hoặc một nhóm
doanh nghiệp (tối đa là 4) có vị trí thống lĩnh trên thị trường liên quan.
Đối với vụ việc điều tra về hành vi lạm dụng của nhóm doanh nghiệp

có quyền lực thị trường, cơ quan có thẩm quyền cần phải phân biệt được hành
vi lạm dụng vị trí thống lĩnh với các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Bởi trong
pháp luật hạn chế cạnh tranh, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và hành vi lạm
dụng có một số điểm giống nhau, ví dụ (i) đều có thể do một nhóm doanh


9

nghiệp thực hiện; (ii) nội dung của chúng giống nhau, như: phân chia thị
trường, hạn chế sản xuất, phân phối sản phẩm, hạn chế phát triển khoa học kỹ
`thuật... Tuy nhiên, khi một nhóm doanh nghiệp (với tổng thị phần kết hợp đủ
để thống lĩnh thị trường) thực hiện hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường để hạn chế cạnh tranh thì giữa họ không có sự thỏa thuận trước.
Ngược lại, nếu cơ quan nhà nước có thẩm quyền có đủ chứng cứ chứng minh
rằng đã tồn tại một thỏa thuận trong nhóm doanh nghiệp đó để thực hiện
những hành vi nói trên thì hành vi của họ sẽ được điều chỉnh bởi pháp luật
chống thoả thuận hạn chế cạnh tranh.
Dấu hiệu thứ hai: Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh là những hành vi
được Luật Cạnh tranh liệt kê. Ngoài những khái niệm căn bản mang tính học
thuật về hành vi hạn chế cạnh tranh nói chung, cần phải gọi tên được từng
hành vi lạm dụng. Dựa vào đó, người ta có thể phân tích bản chất của hành vi
dưới góc độ của lý thuyết, đồng thời trong công tác thực thi pháp luật, cơ
quan nhà nước có thẩm quyền có thể dễ dàng xác định sự vi phạm bằng cách
đối chiếu các hành vi thực tế với các quy định của pháp luật. Một hành vi của
doanh nghiệp thống lĩnh trên thị trường chỉ bị quy kết là lạm dụng để hạn chế
cạnh tranh khi nó mang đầy đủ các dấu hiệu của một hành vi nào đó đã được
luật quy định là lạm dụng. Khi chưa thể hoặc chưa có đủ chứng cứ cần thiết
để kết luận về việc doanh nghiệp đã thực hiện một trong số các dạng vi phạm
được quy định thì cũng không thể quy kết trách nhiệm về sự lạm dụng [15].
Dấu hiệu thứ ba: Hậu quả của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh là

làm sai lệch, cản trở hoặc giảm cạnh tranh trên thị trường liên quan. Dấu
hiệu này cho thấy khả năng hạn chế cạnh tranh của hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh và tác hại của nó đối với thị trường. Như đã phân tích, doanh
nghiệp thực hiện hành vi lạm dụng với mục đích duy trì, củng cố vị trí hiện có
hoặc tận hưởng các lợi ích có được từ việc bóc lột khách hàng. Các nhà hoạch
định chính sách cạnh tranh của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (viết tắt


10

là OECD) đẫ đưa ra nhiều khuyến nghị về việc xác định hành vi lạm dụng,
trong đó họ cảnh báo rằng chỉ có thể chống lại sự lạm dụng quyền lực thị
trường thành công, khi pháp luật và người thi hành nó xác định được những
hành vi cụ thể có thể gây hại cho cạnh tranh và đánh giá được những tác
động toàn diện của chúng trên thị trường có liên quan [20, tr 160]. Đối với
hành vi hạn chế cạnh tranh, lý luận và kinh nghiệm pháp lý của các nước đã
chỉ ra rằng, nhóm hành vi này có ba loại vi phạm với bản chất pháp lý khác
nhau là thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc
quyền và tập trung kinh tế, nên không thể đưa ra một khái niệm chung chứa
đựng những căn cứ cụ thể cho mọi trường hợp. Trong tình trạng đó, dấu hiệu
về hậu quả của hành vi hạn chế cạnh tranh chỉ được diễn tả rất khái quát,
mang tính định dạng về mặt lý luận hơn là lượng hóa bằng những căn cứ cụ
thể. Mặt khác, do hành vi vi phạm được liệt kê rất đa dạng bao gồm các hành
vi về việc định giá bán, giá mua sản phẩm, hành vi hạn chế sản lượng sản
xuất, phân phối, hạn chế thị trường; hành vi phân biệt đối xử; áp đặt các điều
kiện thương mại bất hợp lý đối với khách hàng..., mỗi hành vi có đối tượng
xâm hại khác nhau và mức độ thiệt hại có thể gây ra cũng không giống nhau,
nên việc đưa ra một tiêu chuẩn chung để làm căn cứ xác định hậu quả gây ra
của mọi hành vi là không thể. Vì thế, khoa học pháp lý và thực tiễn áp dụng
buộc phải dựa vào việc phân tích từng hành vi vi phạm để kết luận về khả

năng và mức gây thiệt hại của nó đối với thị trường. Theo đó, từng hành vi có
thể làm cản trở, giảm và sai lệch cạnh tranh ở mức độ khác nhau.
Dấu hiệu hậu quả của hành vi là căn cứ để phân biệt hành vi lạm dụng
với hiện tượng tập trung kinh tế (cũng là một loại hành vi hạn chế cạnh tranh).
Tập trung kinh tế được Luật cạnh tranh mô tả thông qua bốn biểu hiện cụ thể
là sáp nhập, hợp nhất, mua lại và liên doanh, là những chiến lược do doanh
nghiệp thực hiện có khả năng hình thành nên các thế lực độc quyền không
thông qua sự tích tụ dần từ hiệu quả kinh tế. Như vậy, nếu mức giảm, sai lệch


11

hoặc hạn chế cạnh tranh mà hành vi lạm dụng gây ra được chứng minh bằng
những lợi ích mà các doanh nghiệp khác, hoặc khách hàng phải gánh chịu, thì
đối với tập trung kinh tế, điều đó được chứng minh bằng những suy đoán là
việc các doanh nghiệp sáp nhập, hợp nhất, mua lại hay liên doanh có thể làm
thay đổi cấu trúc và tương quan cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên thị
trường do chúng đã tạo ra doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có quyền lực thị
trường. Nói cách khác, pháp luật chống lạm dụng hướng đến việc cấm đoán
hành vi, còn pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế có nhiệm vụ ngăn chặn khả
năng hình thành các thế lực có quyền lực trên thị trường bằng việc tiến hành
tập trung kinh tế.
1.1.3. Tác động của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh tới cạnh
tranh nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Giống như các hiện tượng khác, thống lĩnh có tác động rất lớn đối với
cạnh tranh nói riêng và nền kinh tế nói chung của mỗi quốc gia, theo cả chiều
hướng tích cực và tiêu cực.
Về mặt tích cực, thống lĩnh góp phần đẩy nhanh quá trình tích tụ, tập
trung các nguồn lực để phát triển, nhất là trong những ngành kinh tế mũi
nhọn. Sau khi đã xác lập được vị trí thống lĩnh, các công ty thống lĩnh thường

phát triển nhanh chóng thành những tập đoàn hùng mạnh. Sự tích tụ và tập
trung nguồn lực vào tay một hoặc một nhóm doanh nghiệp tạo điều kiện đẩy
mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ, mở rộng quy mô, tăng năng
suất lao động, tạo ra những bước ngoặt mang tính đột phá cho bản thân doanh
nghiệp và cho ngành sản xuất đó [13, tr 32]. Sự mở rộng về quy mô sản xuất,
đến lượt nó sẽ tạo động lực kích thích trở lại các doanh nghiệp, bởi trên thực
tế ai cũng biết rằng lợi nhuận của một doanh nghiệp sẽ tăng lên theo quy mô
sản xuất kinh doanh. Không phải ngẫu nhiên mà nhà kinh tế học nổi tiếng
người Mỹ là Joseph Schumpeter (1883-1950) đã ủng hộ mô hình kinh tế trong
đó có sự tồn tại của các thế lực thống lĩnh và độc quyền.


12

Nhưng bên cạnh những tác động tích cực nói trên, thống lĩnh cũng có
những mặt trái của nó:
Thứ nhất, thống lĩnh đi ngược lại trật tự cạnh tranh lành mạnh, kìm hãm
động lực phát triển của nền kinh tế. Khi đã có vị trí thống lĩnh, vị trí độc
quyền, các doanh nghiệp luôn tìm cách duy trì vị trí thống lĩnh của mình bằng
cách tiêu diệt các đối thủ tiềm năng, hạn chế sự xuất hiện trên thị trường của
các đối thủ này. Bằng thủ đoạn bóp chết đối thủ cạnh tranh thực chất đã triệt
tiêu sự cạnh tranh trên thương trường, mà một khi không còn cạnh tranh thì sẽ
không còn áp lực để các doanh nghiệp phát triển.
Thứ hai, thống lĩnh tạo ra nguy cơ khủng hoảng và suy thoái của nền
kinh tế. Các doanh nghiệp thống lĩnh sử dụng vị thế này vào việc tự định giá
cả hàng hóa độc quyền, kìm hãm sản lượng hàng hóa để tăng giá bán nhằm
thu lợi nhuận siêu ngạch mà không chú trọng tới việc đổi mới công nghệ, tăng
năng suất nữa. Tình trạng này kéo dài sẽ làm cho năng lực của các công ty
thống lĩnh bị suy yếu, thậm chí dẫn đến bị suy giảm và suy thoái của cả một
ngành sản xuất nào đó. Sự khan hiếm của hàng hóa và giá cả leo thang do tình

trạng thống lĩnh gây ra sẽ là nguyên nhân đưa đến sự lạm phát và gây mất ổn
định nền kinh tế, làm tăng số người thất nghiệp.
Thứ ba, thống lĩnh tạo ra cho các công ty thống lĩnh những khoản thu
nhập bất chính từ lợi nhuận siêu ngạch, góp phần làm gia tăng khoảng cách
giàu nghèo, bất công trong xã hội. Lợi nhuận của các công ty thống lĩnh có
được thực chất là nhờ vào việc hưởng mức chênh lệch quá đáng của giá cả áp
đặt so với giá tự nhiên của hàng hóa, tức là đã bòn rút thu nhập của đại bộ
phận người tiêu dùng bỏ vào túi của một số ít các công ty thống lĩnh, đẩy
những người nghèo đi đến chỗ ngày càng nghèo thêm, còn các công ty thống
lĩnh thì phất lên nhanh chóng.


13

Thứ tư, thống lĩnh còn dẫn đến tình trạng “cửa quyền” hay “đặc quyền”
cho một nhóm người có lợi ích. Thống lĩnh tất yếu sẽ sản sinh ra cơ chế “xin cho”, “ban phát” và điều này ảnh hưởng không nhỏ đến sinh hoạt và sản xuất.
Ngoài ra thống lĩnh còn là bạn đồng hành với tiêu cực và tham nhũng.
Các doanh nghiệp thống lĩnh luôn có xu hướng liên hệ và tranh thủ của các cơ
quan quản lý Nhà nước để bảo vệ vị thế thống lĩnh của mình. Điều này làm
xuất hiện nguy cơ tham nhũng, tha hóa trong bộ máy công quyền. Kinh
nghiệm của Hàn Quốc cho thấy, khi các Cheabol vượt ra ngoài tầm kiểm soát,
chúng quay trở lại mua chuộc, lôi kéo các quan chức nhà nước, gây nên nạn
tham nhũng trầm trọng [21, tr 84]. Ở Việt Nam hiện nay cũng vậy, trong bối
cảnh dư luận xã hội đang lên tiếng mạnh mẽ phản đối tình trạng thống lĩnh,
độc quyền nhà nước, để duy trì vị trí thống lĩnh, các doanh nghiệp thống lĩnh
phải tìm cách “nuôi” bộ máy công quyền, mua chuộc những nhà chức trách có
thẩm quyền để họ lên tiếng bảo vệ sự thống lĩnh của mình. Một số vụ án kinh
tế lớn được đưa ra xét xử trong thời gian qua có liên quan đến các quan chức
cao cấp trong bộ máy Nhà nước đã phần nào chứng minh cho điều này.


1.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN ĐỂ XÁC ĐỊNH HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ
TRÍ THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG.
1.2.1. Xác định thị trường liên quan.
Khoản 1 Điều 3 Luật cạnh tranh quy định thị trường liên quan bao
gồm thị trường sản phẩm liên quan và trị trường địa lý liên quan.
Đánh giá về tầm quan trọng của việc xác định thị trường liên quan, Cục
thương mại công bằng của Anh đã nhận định định nghĩa thị trường là một giai
đoạn rất quan trọng trong bất cứ cuộc điều tra nào về hành vi lạm dụng. Bởi
lẽ, thị phần chỉ được tính toán sau khi những ranh giới của thị trường đã được
xác định. Do đó, nếu thị trường được xác định sai, thì tất cả những phân tích
tiếp theo dựa trên thị phần hoặc cấu trúc thị trường đều không hoàn thiện


14

[18]. Do đó, pháp luật cạnh tranh của các nước cho đến nay vẫn đang nỗ lực
tìm kiếm những căn cứ và phương pháp hiệu quả để đánh giá chính xác thị
trường liên quan.
Dưới góc độ kinh tế, thị trường là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu về một
loại hàng hóa hoặc dịch vụ nhất định. Nếu như các sản phẩm trên thị trường có
thể thay thế hoàn toàn cho nhau (giống hệt nhau) thì người tiêu dùng có thể
lựa chọn bất cứ doanh nghiệp nào trong số các doanh nghiệp đang cung cấp
sản phẩm trên thị trường. Lúc này, mỗi nhà cung cấp đều phải chịu sức ép
cạnh tranh từ doanh nghiệp khác. Tuy nhiên, thực tế lại cho thấy rất hiếm khi
tồn tại một thị trường mà các sản phẩm lại có thể thay thế hoàn toàn cho nhau.
Các doanh nghiệp luôn tìm mọi cách để dị biệt hóa sản phẩm của mình trước
thói quen tiêu dùng của khách hàng. Khi đã được dị biệt hóa, các sản phẩm chỉ
còn có thể liên quan đến nhau khi có khả năng thay thế cho nhau theo sự lựa
chọn của khách hàng. Vì thế, xác định thị trường liên quan là xác định số
lượng doanh nghiệp là đối thủ cạnh tranh của nhau cũng như vị trí của chúng

trong khu vực thị trường nhất định. Luật Cạnh tranh năm 2004 quy định thị
trường liên quan bao gồm thị trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý
liên quan. Trong đó, thị trường sản phẩm liên quan là thị trường của những
hàng hóa, dịch vụ có thể thay thế cho nhau về đặc tính, mục đích sử dụng và
giá cả; thị trường địa lý liên quan là một khu vực địa lý cụ thể trong đó, có
những hàng hóa, dịch vụ có thể thay thế cho nhau với các điều kiện cạnh tranh
tương tự và có sự khác biệt đáng kể với các khu vực lân cận. Kinh nghiệm
thực thi pháp luật của các nước trên thế giới đã cho thấy, việc điều tra và xác
định thị trường liên quan có rất nhiều nội dung cần làm rõ. Trong đó tập trung
vào những vấn đề sau:
+ Thị trường địa lý liên quan.
Việc xác định khu vực không gian liên quan được thực hiện dựa trên
quan điểm của người sử dụng về khả năng thay thế cho nhau của những sản


15

phẩm được sản xuất hoặc được mua bán tại những địa điểm khác nhau. Nếu
người đang sử dụng sản phẩm được bán hoặc được sản xuất tại một địa điểm
nhất định chuyển sang mua sản phẩm tương tự tại địa điểm khác để phản ứng
lại việc tăng giá đáng kể trong một thời gian đủ dài, khi đó hai địa điểm được
xem xét nằm trong khu vực địa lý mà các sản phẩm có thể thay thế cho nhau,
nói cách khác là chúng có cùng thị trường địa lý liên quan và ngược lại.
Theo quy định của Luật cạnh tranh, thị trường địa lý liên quan là: (i)
khu vực địa lý cụ thể có sự hiện diện của những sản phẩm có khả năng thay
thế cho nhau; (ii) có sự tồn tại của các điều kiện cạnh tranh tương tự trong
khu vực đó; (iii) giữa khu vực đó với các khu vực lân cận tồn tại những sự
khác biệt về điều kiện cạnh tranh. Khu vực địa lý là những vùng thị trường
được đo bằng khoảng cách không gian, bao gồm địa điểm mà tại đó những
sản phẩm có thể thay thế cho nhau được phân phối cho khách hàng, có thể là

một quận, một thành phố, hoặc trong phạm vi cả nước... Trong ranh giới của
khu vực địa lý đó có cơ sở kinh doanh của doanh nghiệp tham gia phân phối
sản phẩm liên quan và khu vực địa lý lân cận đủ gần có cơ sở kinh doanh của
doanh nghiệp khác để có thể tham gia phân phối sản phẩm liên quan trên khu
vực địa lý nói trên. Các điều kiện cạnh tranh được xem xét để xác định bao
gồm chi phí vận chuyển, thời gian vận chuyển giữa các địa điểm trong cùng
một khu vực thị trường hoặc giữa vùng thị trường này và vùng thị trường
khác; sự tồn tại của các rào cản gia nhập vùng thị trường được xem xét.
Như đã trình bày ở trên, xác định thị trường địa lý suy cho cùng là
việc đi tìm kiếm những căn cứ để đánh giá tâm lý của người tiêu dùng có sẵn
sàng chuyển thói quen mua sản phẩm ở một địa điểm nào đó sang mua sản
phẩm tương tự ở một địa điểm khác hay không. Do đó, ngoài việc phải xác
định những địa điểm có khả năng nằm trong một khu vực thị trường địa lý,
những người có trách nhiệm còn cần phải phân tích mọi yếu tố có thể tác
động đến nhu cầu, tâm lý tiêu dùng của khách hàng như chi phí và thời gian


16

đi lại giữa các địa điểm khác nhau... và khả năng tham gia phân phối trong
khu vực đó. Bởi khi thay đổi địa điểm mua sản phẩm từ địa điểm này sang địa
điểm khác chỉ vì sự tăng giá của sản phẩm đang sử dụng, người tiêu dùng sẽ
phải cân nhắc xem các chi phí phát sinh và thời gian bỏ ra cho việc đi lại là có
lợi hơn cho sự tăng lên của giá cả hay không. Nếu họ chấp nhận được thì các
địa điểm khác nhau đó được coi là cùng một khu vực mà các sản phẩm có thể
thay thế cho nhau, và ngược lại. Theo Nghị định số 116/2005/NĐ-CP, mức
chi phí vận chuyển và thời gian vận chuyển giữa các địa điểm trong khu vực
được suy đoán là người tiêu dùng chấp nhận nếu nó không làm giá bán lẻ sản
phẩm tăng quá 10%. Do đó nếu, chi phí vận chuyển hoặc thời gian vận
chuyển có thể làm giá bán lẻ tăng quá 10% thì việc thay đổi nhu cầu sẽ không

thể xảy ra.
+ Thị trường sản phẩm liên quan.
Khả năng thay thế cho nhau phản ánh mức độ cạnh tranh giữa các sản
phẩm khác nhau. Bởi lẽ, khi các sản phẩm có thể thay thế cho nhau, tức là
chúng cùng phục vụ cho một nhu cầu của thị trường. Trong thị trường hiện
đại, sự đa dạng của nhu cầu thị trường đã kéo theo sự phân hóa, dị biệt hóa
các sản phẩm, các dòng sản phẩm. Thậm chí các doanh nghiệp sản xuất cùng
loại sản phẩm cũng đã và đang cố gắng tạo ra cho sản phẩm của mình sự khác
biệt nhất định so với sản phẩm của người khác. Do đó, sẽ có nhiều khó khăn
cho việc tìm kiếm khả năng thay thế cho nhau giữa các sản phẩm. Thông
thường, Luật Cạnh tranh của các nước không quy định thế nào là khả năng
thay thế cho nhau của sản phẩm mà chỉ đưa ra ba tiêu chí để xác định, đó là
đặc tính, mục đích sử dụng và giá cả của sản phẩm. Kế thừa những kinh
nghiệm đó, Luật Cạnh tranh và chủ ý lập pháp của nhà làm luật Việt Nam khi
chi tiết hóa Luật Cạnh tranh đã đưa ra hai căn cứ để xác định khả năng thay
thế của sản phẩm là (i) tính chất của sản phẩm thể hiện thông qua hai tiêu chí
đầu tiên nói trên và (ii) phản ứng của người tiêu dùng khi có sự thay đổi giá


17

cả của các sản phẩm có liên quan. Tính chất của sản phẩm được thể hiện bằng
việc phân tích các đặc tính lý hóa và mục đích sử dụng.
Theo đó, các sản phẩm được coi là có thể thay thế cho nhau về mục
đích sử dụng, về đặc tính nếu như chúng có mục đích sử dụng, có nhiều tính
chất vật lý, tính chất hóa học, tác động phụ với người sử dụng giống nhau. Nói
cách khác, các sản phẩm được coi là cạnh tranh với nhau khi tính chất của nó
giống nhau. Dưới góc độ khoa học, có hai nội dung cần phải xem xét là: Thứ
nhất, mục đích sử dụng là những yếu tố cơ bản được nhìn nhận dưới con mắt
của người sử dụng. Các sản phẩm cho dù có khác nhau nhưng nếu có chung

một mục đích sử dụng thì được người sử dụng coi là có thể thay thế cho nhau.
Trong trường hợp này, khoản 3 Điều 4 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP quy
định mục đích sử dụng của hàng hóa, dịch vụ được xác định căn cứ vào mục
đích sử dụng chủ yếu nhất của hàng hóa, dịch vụ đó. Thứ hai, xác định sự
tương tự về đặc tính của sản phẩm đòi hỏi phải phân tích các yếu tố trong
cấu tạo vật chất của sản phẩm như các yếu tố lý hóa, các tác dụng phụ đối với
người sử dụng ...Bởi lẽ các sản phẩm không tương đồng nhau về những yếu tố
trên thì không thể thay thế cho nhau, ví dụ các loại Vitamin không thể thay thế
cho nhau vì thành phần dinh dưỡng, đặc tính vật lý, nguyên lý chuyển hóa chất
khi sử dụng ...của chúng không giống nhau. Có thể nói, việc xác định tương
đồng về các yếu tố vật chất lý hóa của sản phẩm là khâu quan trọng hàng đầu
trong việc điều tra thị trường liên quan, chỉ khi có kết luận về vấn đề này cơ
quan điều tra mới có thể khoanh vùng các sản phẩm có khả năng nằm trong
một vùng thị trường và thực hiện các bước điều tra tiếp theo.
Xác định phản ứng của người tiêu dùng khi có sự thay đổi giá cả của
sản phẩm. Việc xác định khả năng thay thế về tính chất của sản phẩm nhằm
mục đích tìm kiếm sự tương tự nhau giữa các sản phẩm khác nhau, từ đó
khẳng định chúng đều đáp ứng cho cùng một nhu cầu sử dụng. Tuy nhiên nhu
cầu sử dụng là phạm trù diễn tả thái độ của khách hàng (đại diện cho nhu cầu


18

của thị trường) đối với sản phẩm. Do đó, việc điều tra về khả năng có thể thay
thế giữa các sản phẩm cần phải được kiểm chứng từ phản ứng của thị trường
thông qua thái độ của khách hàng đối với sản phẩm khi có sự thay đổi giá cả
của chúng trên thị trường. Một khi khách hàng bày tỏ thái độ sẵn sàng thay
đổi thói quen sử dụng một mặt hàng nhất định nào đó bằng sản phẩm khác, có
nghĩa là cả hai sản phẩm nói trên có khả năng thay thế cho nhau. Điểm C
khoản 5, khoản 7 Điều 4 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP quy định:

Hàng hóa dịch vụ được coi là có thể thay thế được cho nhau về giá cả
nếu trên 50% của lượng ngẫu nhiên trong tổng số 1000 người tiêu dùng sinh
sống tại khu vực địa lý liên quan chuyển sang mua hoặc có ý định mua hàng
hóa, dịch vụ khác có đặc tính, mục đích sử dụng giống với hàng hóa dịch vụ
họ đang sử dụng hoặc có ý định sử dụng trong trường hợp giá của hàng hóa,
dịch vụ đó tăng lên quá 10% và được duy trì trong sáu tháng liên tiếp.
Trường hợp số người tiêu dùng sinh sống tại khu vực địa lý liên quan quy
định tại điểm này không đủ 1000 người thì lượng mẫu ngẫu nhiên được xác
định tối thiểu bằng 50% tổng số người tiêu dùng. Trong đó trường hợp cần
thiết, cơ quan quản lý cạnh tranh, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh có thể
xác định thêm nhóm người tiêu dùng sinh sống tại khu vực địa lý liên quan
không thể chuyển sang mua hàng hóa, dịch vụ khác có đặc tính sử dụng, mục
đích sử dụng giống với hàng hóa, dịch vụ mà họ đang sử dụng hoặc có ý định
sử dụng trong trường hợp giá của hàng hóa dịch vụ đó tăng lên quá 10% và
đươc duy trì trong sáu tháng liên tiếp.
Có thể thấy hướng giải quyết hai vấn đề đã nói trên mà các nhà làm luật
Việt Nam đưa ra là, mức độ tăng giá thể hiện ở mức tăng lên quá 10% (không
khống chế tối đa) so với giá bán lẻ hiện tại và thời hạn tăng giá là 6 tháng liên
tiếp (không phải là tăng giá quá độ); đồng thời, số lượng khách hàng có thể
thay đổi nhu cầu tiêu dùng là trên 50% của 1000 số mẫu thống kê ngẫu nhiên
từ người tiêu dùng trên thị trường thực tế.


19

1.2.2 Xác định doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường.
Điều 11 Luật cạnh tranh năm 2004 quy định:
- Doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu có thị
phần từ 30% trở lên trên thị trường liên quan hoặc có khả năng gây hạn chế
cạnh tranh một cách đáng kể;

- Nhóm doanh nghiệp được coi là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu
cùng hành động nhằm gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể và thuộc một
trong các trường hợp sau: hai doanh nghiệp có tổng thị phần từ 50% trở lên
trên thị trường liên quan; ba doanh nghiệp có tổng thị phần từ 65% trở lên
trên thị trường liên quan; bốn doanh nghiệp có tổng thị phần từ 75% trở lên
trên thị trường liên quan.
Như đã phân tích, một trong ba dấu hiệu của hành vi lạm dụng là chủ
thể thực hiện hành vi có vị trí thống lĩnh hoặc vị trí độc quyền trên thị trường
liên quan. Do đó, trong vụ việc cạnh tranh về các hành vi lạm dụng, nếu
không có đủ cơ sở để kết luận về vị trí thống lĩnh thị trường của doanh nghiệp
bị điều tra thì không thể kết luận là có sự vi phạm. Mặt khác, căn cứ vào các
quy định nói trên, sự việc xác định vị trí thống lĩnh thị trường hoặc vị trí độc
quyền được thực hiện qua hai bước cơ bản: (i) xác định thị trường liên quan;
(ii) xác định mức độ thống lĩnh hoặc độc quyền của doanh nghiệp trên thị
trường dựa vào các căn cứ luật định. Luật cạnh tranh đặt ra hai căn cứ để xác
định vị trí thống lĩnh của doanh nghiệp trên thị trường liên quan, áp dụng theo
thứ tự ưu tiên là thị phần của doanh nghiệp; và khả năng gây hạn chế cạnh
tranh một cách đáng kể.
Thứ nhất: xác định theo thị phần của doanh nghiệp. Thị phần của
doanh nghiệp đối với một loại hàng hóa, dịch vụ nhất định là tỷ lệ phần trăm
giữa doanh thu bán ra của doanh nghiệp này với tổng doanh thu của tất cả
doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hóa, dịch vụ đó trên thị trường liên quan
hoặc tỷ lệ phần trăm giữa doanh số mua vào của doanh nghiệp này với tổng


20

doanh số mua vào của tất cả các doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hóa,
dịch vụ đó trên thị trường liên quan theo tháng, quý, năm.
Như vậy, căn cứ để xác định thị phần là: (i) tổng doanh thu hoặc

doanh số của tất cả các doanh nghiệp cùng trên một thị trường liên quan; (ii)
doanh thu hoặc doanh số của doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp bị điều tra
theo Điều 9 Nghị định 116/2006/NDD-CP Doanh thu, doanh số mua vào đối
với một loại hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp được xác định theo quy định
của pháp luật về thuế, chuẩn mực kế toán Việt Nam. Ngoài ra Nghị định còn
quy định một số trường hợp xác định doanh thu, doanh số mua vào đối với
nhóm doanh nghiệp liên kết trực tiếp về tổ chức và tài chính; doanh nghiệp
kinh doanh bảo hiểm; tổ chức tín dụng tại các Điều 10, 11 và 12.
Dưới góc độ lý thuyết, thị phần là một tiêu chí quan trọng để xác định
sự thành công của nhà kinh doanh trên thị trường, là tỷ lệ chiếm hữu thị
trường liên quan của doanh nghiệp. Vì thế, pháp luật của nhiều quốc gia coi
thị phần như một căn cứ cơ bản và quan trọng để xác định vị trí thống lĩnh. Sự
khác nhau trong pháp luật của các nước chủ yếu là ấn định mức thị phần mà
doanh nghiệp chiếm giữ để được coi là có quyền lực thị trường. Ví dụ, ở
Vương quốc Anh, một doanh nghiệp được xem là có vị trí thống lĩnh khi mua
hoặc bán 25% trở lên của một loại hàng hóa, trong nước hoặc trên một khu
vực nhất định. Trong khi đó, luật của Mông cổ và Ucraina cho rằng vị trí
thống lĩnh của một hoặc một nhóm công ty chỉ xuất hiện khi chúng chiếm trên
50% mức cung ứng của một loại sản phẩm nào đó; mức Liên bang Nga đưa
ra là 65% [18, tr 52, 53]
Luật cạnh tranh của Việt Nam đưa ra bốn mức thị phần tương ứng với
số lượng doanh nghiệp là 30% (nếu là một doanh nghiệp); 50% (2 doanh
nghiệp); 65% (3 doanh nghiệp); 75% (4 doanh nghiệp). Cơ sở để đề xuất mức
thị phần như trên là dựa vào thực tiễn thị trường Việt Nam, trong đó, có đến
96% doanh nghiệp tham gia kinh doanh là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Do đó,


21

số doanh nghiệp có được thị phần từ 30% trở lên không phải là nhiều. Hơn

nữa, các văn bản pháp luật tương ứng như Pháp lệnh bưu chính viễn thông
cũng đang sử dụng ngưỡng thị phần 30% để xác định doanh nghiệp viễn
thông có vị trí thống lĩnh [7]. Tóm lại, tất cá các doanh nghiệp hoặc nhóm
doanh nghiệp có thị phần đạt mức tối thiểu nói trên đều được coi là có vị trí
thống lĩnh thị trường.
Như vậy, pháp luật Việt Nam đã sử dụng phương pháp định lượng (ấn
định mức thị phần cụ thể) để xác định vị trí thống lĩnh thị trường. Do đó, chỉ
cần xác định doanh nghiệp bị điều tra có thị phần bằng hoặc vượt ngưỡng quy
định là kết luận có vị trí thống lĩnh thị trường mà không cần chứng minh
doanh nghiệp đó có khả năng kiểm soát thị trường trên thực tế hay không. Với
cách tiếp cận này, pháp luật không cần đưa ra khái niệm mang tính học thuật
mà chỉ quy định căn cứ pháp lý để xác định vị trí thống lĩnh. Do đó, có thể dễ
dàng kết luận một doanh nghiệp đang thống lĩnh thị trường nếu đã xác định
được thị trường liên quan và thị phần của doanh nghiệp đó. Pháp luật của
nhiều nước (đặc biệt là những nước có nhiều kinh nghiệm trong việc xử lý các
vụ việc về hạn chế cạnh tranh như các nước trong cộng đồng châu Âu, Hoa
Kỳ, Canađa...) ưu tiên sử dụng cách đánh giá đa tiêu chí theo từng vụ việc cụ
thể để xác định vị trí thống lĩnh thị trường. Với quan niệm cho rằng doanh
nghiệp có vị trí thống lĩnh là doanh nghiệp có khả năng kiểm soát thị trường
trên thực tế hoặc là doanh nghiệp có khả năng thoát khỏi cạnh tranh, không
chịu sự ràng buộc của thị trường và đóng vai trò chủ đạo trên thị trường, án lệ
của các nước đều khẳng định thị phần là một trong những nhân tố quan trọng
song chưa phải là duy nhất cấu thành nên quyền lực thị trường. Tại Pháp, việc
xác định vị trí thống lĩnh thị trường được tiến hành dựa trên nhiều tiêu chí,
trong đó chủ yếu là các tiêu chí sau: thị phần của doanh nghiệp; sự mất cân
đối giữa các lực lượng trên thị trường (quy mô của doanh nghiệp, doanh
nghiệp có trực thuộc tập đoàn, khả năng tài chính, sự yếu kém của các đối thủ



×