Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc và thực tiễn thực hiện trên địa bàn tỉnh phú thọ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.03 MB, 82 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

PHẠM LAN HƯƠNG

PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC VÀ
THỰC TIỄN THỰC HIỆN TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. ĐÀO THỊ HẰNG

HÀ NỘI - 2012


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn sâu sắc tới PGS.TS. Đào Thị
Hằng đã tận tình hướng dẫn, góp ý và động viên tôi trong suốt quá trình thực
hiện luận văn này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô Khoa Sau Đại học, Khoa Pháp
luật Kinh tế, Trường Đại học Luật Hà Nội đã tạo điều kiện trong suốt quá trình
được đào tạo tại hệ Cao học của trường.
Chân thành cảm ơn BHXH tỉnh Phú Thọ đã giúp đỡ tôi trong quá trình
thu thập số liệu và đóng góp ý kiến có giá trị thực tiễn cho tôi để tôi hoàn thành
luận văn.


Xin cảm ơn tới gia đình, bạn bè đã giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện
và hoàn thành luận văn này.

Phạm Lan Hương




MỤC LỤC
1. Tính cấp thiết của đề tài ..........................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu ..............................................................................................2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .........................................................................3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..........................................................................3
5. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................3
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ..............................................................4
7. Cơ cấu của luận văn ................................................................................................4
CHƯƠNG 1............................................................................................................5
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC VÀ NỘI
DUNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC .......5
1.1. Khái quát chung về bảo hiểm xã hội bắt buộc....................................................5
1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội bắt buộc............................................................5
1.1.2. Sự cần thiết của bảo hiểm xã hội bắt buộc ..................................................7
1.2. Nội dung pháp luật hiện hành về bảo hiểm xã hội bắt buộc ............................10
1.2.1. Đối tượng áp dụng chế độ BHXH bắt buộc và mức đóng góp.................10
1.2.2. Các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc.........................................................13
1.2.3. Quỹ bảo hiểm xã hội bắt buộc ....................................................................24
1.2.4. Xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp về BHXH bắt buộc ....................26
CHƯƠNG 2.......................................................................................................... 30
THỰC TIỄN THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ ..................................................................... 30

2.1. Khái quát tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Phú Thọ ............................................30
2.2. Tình hình thực hiện pháp luật về BHXH bắt buộc trên địa bàn tỉnh Phú Thọ32
2.2.1. Việc thực hiện các quy định về đối tượng áp dụng và đóng góp quỹ BHXH
bắt buộc ..................................................................................................................32
2.2.2. Tình hình chi trả các chế độ BHXH bắt buộc ...........................................38
2.2.3. Quản lý quỹ BHXH bắt buộc của BHXH tỉnh Phú Thọ ...........................41
2.2.4. Thực tiễn xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp về BHXH bắt buộc tại tỉnh
Phú Thọ ..................................................................................................................47
CHƯƠNG 3.......................................................................................................... 51
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT vµ NÂNG CAO
HIỆU QUẢ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ
THỌ...................................................................................................................... 51
3.1. Sửa đổi, bổ sung một số quy định của pháp luật ..............................................51
3.1.1 Về đối tượng áp dụng chế độ BHXH bắt buộc...........................................51


3.1.2. Về các chế độ BHXH bắt buộc...................................................................52
3.1.3. Về xử lý vi phạm BHXH bắt buộc .............................................................56
3.1.4. Về quỹ BHXH bắt buộc ..............................................................................61
3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả BHXH bắt buộc nói chung và trên địa
bàn tỉnh Phú Thọ nói riêng........................................................................................64
3.2.1. Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật về BHXH bắt buộc
.................................................................................................................................64

3.2.2. Tăng cường phối hợp giữa các cơ quan có liên quan đến BHXH bắt buộc65
3.2.3 Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra và giám sát hoạt động thực hiện
pháp luật BHXH bắt buộc .....................................................................................66
3.2.4. Bồi dưỡng cán bộ trong lĩnh vực BHXH ...................................................67
KẾT LUẬN……………………………………………………………………………… 69



1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lao động là hoạt động gắn với sự hình thành, tồn tại và phát triển của xã hội
loài người. Thông qua hoạt động lao động con người đã cải biến thế giới khách
quan để tạo ra của cải vật chất và sáng tạo nên những giá trị tinh thần nhằm thỏa
mãn nhu cầu của mình. Tuy nhiên, trong cuộc sống luôn chứa đựng những rủi ro có
khả năng làm suy giảm hoặc mất sức lao động của con người như: ốm đau, tai nạn
lao động, thất nghiệp, già yếu….Chính vì vậy, hệ thống an sinh xã hội ra đời như là
một cơ chế để phòng tránh và khắc phục những rủi ro của con người.
Khi nền kinh tế của đất nước ngày càng phát triển thì vấn đề an sinh xã hội
ngày càng được chú trọng. Đó là hệ thống chính sách nhiều tầng để tất cả các thành
viên trong xã hội tương trợ, giúp đỡ ở mức độ hợp lý khi bị giảm, mất thu nhập
hoặc gặp khó khăn hoạn nạn trong cuộc sống. Ở Việt Nam, các quy định nhằm mục
đích an sinh xã hội đã xuất hiện rất sớm nhưng trong thời gian gần đây vấn đề an
sinh xã hội được quan tâm nhiều hơn. An sinh xã hội vừa là mục tiêu hướng tới của
các chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, vừa là những nội dung,
những định hướng, những hoạt động cụ thể của các chính sách này. Những định
hướng chiến lược này nhằm hướng tới một nền an sinh xã hội cho toàn dân, bền
vững với đa tầng, đa lớp và đa hình thái, phù hợp với nền kinh tế thị trường, hội
nhập với thế giới hiện đại.
Trong hệ thống pháp luật an sinh xã hội thì pháp luật bảo hiểm xã hội bắt
buộc là một bộ phận đặc biệt quan trọng. Luật Bảo hiểm xã hội được Quốc hội
thông qua ngày 29/06/2006 (có hiệu lực từ 01/01/2007) đã đánh dấu một bước tiến
rất lớn về khung pháp lý của hệ thống pháp luật bảo hiểm xã hội bắt buộc nói riêng
và pháp luật về an sinh xã hội nói chung. Luật đã đi vào cuộc sống được 6 năm, tuy
nhiên thực tiễn thực hiện cùng các quy định của pháp luật vẫn còn nhiều điểm tồn
tại.

Phú Thọ là một tỉnh trung du, miền núi phía Bắc. Phú Thọ đang chú trọng
phát triển kinh tế nhằm nâng cao đời sống cho nhân dân do vậy, số lượng các doanh
nghiệp cũng như các đơn vị có sử dụng lao động trên địa bàn tỉnh ngày càng tăng
lên. Một trong những vấn đề mà người lao động đặc biệt quan tâm đó là bảo hiểm


2

xã hội nói chung và bảo hiểm xã hội bắt buộc nói riêng. Việc thực hiện các quy định
pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc thời gian qua trên địa bàn tỉnh ngoài những
thành tựu đã đạt được cũng đã bộc lộ không ít những vướng mắc, tồn tại. Điều này
cũng làm phát sinh nhu cầu tiếp tục nghiên cứu để tìm cách tháo gỡ vướng mắc,
hoàn thiện pháp luật. Xuất phát từ lý do trên, tác giả chọn vấn đề ““Pháp luật về
Bảo hiểm xã hội bắt buộc và thực tiễn thực hiện trên địa bàn tỉnh Phú Thọ” làm đề
tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong thời gian qua, cũng có một số công trình nghiên cứu có liên quan đến
pháp luật về bảo hiểm xã hội. Cụ thể:
* Đề tài nghiên cứu khoa học:
- Nguyễn Thị Kim Phụng (2006) “Hoàn thiện về pháp luật BHXH ở Việt
Nam”, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, Trường Đại học Luật Hà Nội.
* Một số khóa luận tốt nghiệp như:
- Vũ Thu Trang (2010) “Tuổi nghỉ hưu của người lao động – Những vấn đề
lý luận và thực tiễn trong quy định của pháp luật bảo hiểm xã hội Việt Nam”, Khóa
luận tốt nghiệp, Đại học Luật Hà Nội.
- Lê Thị Thanh Thảo (2009) “Chế độ bảo hiểm xã hội hưu trí ở Việt Nam –
Thực trạng và phương hướng hoàn thiện”, Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Luật Hà
Nội.
- Nguyễn Thị Huyền (2009) “Bảo hiểm xã hội đối với lao động nữ theo pháp
luật hiện hành – Thực trạng và phương hướng hoàn thiện”, Khóa luận tốt nghiệp,

Đại học Luật Hà Nội.
* Một số bài viết đăng trên Tạp chí như:
- Ts. Đỗ Ngân Bình “Những điểm mới về chế độ Bảo hiểm xã hội bắt buộc
của người lao động”, Tạp chí Luật học, Số 10/2007.
- Ts. Nguyễn Hiền Phương “Về các giải pháp cơ bản hoàn thiện pháp luật
bảo hiểm xã hội”, Tạp chí Luật học, Số 6/2008.
Các công trình nghiên cứu trên chủ yếu tập trung vào một mảng cụ thể của
pháp luật bảo hiểm xã hội như tuổi nghỉ hưu của người lao động, bảo hiểm hưu trí,
bảo hiểm xã hội với lao động nữ…hoặc giải quyết các vấn đề về thực trạng cũng


3

như phương hướng hoàn thiện của pháp luật bảo hiểm xã hội nói chung, có công
trình được thực hiện trước khi Luật BHXH được ban hành. Còn ở đề tài nghiên cứu,
bên cạnh việc nghiên cứu các quy định của pháp luật về BHXH bắt buộc, luận văn
tập trung chủ yếu vào thực tiễn thực hiện pháp luật bảo hiểm xã hội trên địa bàn tỉnh
Phú Thọ, từ đó có những đánh giá và đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật
BHXH bắt buộc, thông qua đó cũng giúp cho việc nâng cao hiệu quả thực hiện pháp
luật BHXH trên địa bàn tỉnh Phú Thọ. Như vậy, đây sẽ là một vấn đề nghiên cứu rất
mới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu đề tài là góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận về
BHXH bắt buộc, các quy định pháp luật liên quan và thực tiễn thực hiện trên địa
bàn tỉnh Phú Thọ, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần hoàn thiện pháp
luật và nâng cao hiệu quả BHXH trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
Với mục đích nghiên cứu như trên, nhiệm vụ nghiên cứu được xác định trên
những khía cạnh sau:
- Phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về BHXH bắt buộc
- Phân tích thực trạng các quy định pháp luật về BHXH bắt buộc và chỉ ra

những ưu điểm và hạn chế của các quy định đó
- Đánh giá tình hình thực hiện pháp luật về BHXH bắt buộc trên địa bàn tỉnh
Phú Thọ
- Đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về BHXH bắt buộc và
nâng cao hiệu quả thực hiện tại tỉnh Phú Thọ
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định pháp luật về BHXH bắt
buộc và thực tiễn thực hiện trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
Phù hợp với đề tài nghiên cứu, luận văn chỉ tập trung chủ yếu vào đối tượng
nghiên cứu nêu trên. Pháp luật nước ngoài về BHXH bắt buộc chỉ được luận văn đề
cập ở mức độ nhất định.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn chủ yếu dựa trên cơ sở phương
pháp luận của triết học Mác – Lênin, quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch


4

sử. Ngoài ra, các phương pháp nghiên cứu cụ thể phù hợp với từng lĩnh vực của đề
tài như phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, logic... cũng được sử dụng.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Những kết quả nghiên cứu của luận văn có giá trị tham khảo cho các cơ quan
hữu quan trong quá trình hoàn thiện và thực hiện pháp luật về BHXH bắt buộc, đặc
biệt các cơ quan BHXH, các doanh nghiệp… trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
Luận văn cũng có thể được sử dụng như một tài liệu tham khảo trong công
tác giảng dạy và nghiên cứu pháp luật, cũng như cho bất kỳ ai có quan tâm đến
pháp luật BHXH nói chung, pháp luật về BHXH bắt buộc nói riêng.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn chia
thành 3 chương. Cụ thể:

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bảo hiểm xã hội bắt buộc và nội dung
pháp luật hiện hành về bảo hiểm xã hội bắt buộc
Chương 2: Thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo hiểm xã hội bắt buộc trên
địa bàn tỉnh Phú Thọ
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả bảo hiểm xã hội
bắt buộc tại Phú Thọ


5

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC VÀ NỘI
DUNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI BẮT BUỘC

1.1. Khái quát chung về bảo hiểm xã hội bắt buộc
1.1.1. Khái niệm bảo hiểm xã hội bắt buộc
Trong hoạt động của đời sống xã hội cũng như trong hoạt động sản xuất kinh
doanh, ngoài những biến cố đã được con người tính toán khoa học và được dự báo
trước, con người luôn luôn phải đối mặt với những rủi ro bất ngờ có thể xảy ra do
rất nhiều nguyên nhân như: thiên tai (bão lụt, động đất, hạn hán, hỏa hoạn...), tai
nạn giao thông (máy bay, tàu thủy, tàu hỏa, ô tô, xe máy...), tai nạn trong lao động
sản xuất, ốm đau, dịch bệnh... Những bất trắc, rủi ro đó đã gây ra và đem đến cho
con người những tổn thất, hậu quả to lớn cả về mặt kinh tế, lẫn môi trường sinh thái
và môi trường xã hội. Chính vì vậy mà con người đã phải đưa ra nhiều biện pháp để
phòng ngừa, hạn chế và khắc phục những biến cố rủi ro đó.
Chúng ta đang tồn tại trong một xã hội có nhà nước mà nhà nước thì điều
chỉnh các quan hệ xã hội bằng pháp luật do vậy, những biện pháp phòng ngừa, né
tránh và hạn chế rủi ro được con người chủ động thể chế hóa thành quy định cụ thể
trong các văn bản pháp luật để buộc mọi đơn vị, mọi tổ chức và mọi thành viên
trong xã hội phải tuân thủ thực hiện.

Thông thường có hai nhóm biện pháp khắc phục rủi ro là các biện pháp chấp
nhận rủi ro và bảo hiểm. Chấp nhận rủi ro là người gặp phải rủi ro phải chấp nhận
khoản tổn thất đó, tự bản thân họ phải tự bảo hiểm cho mình. Họ có thể chủ động
lập quỹ dự trữ, dự phòng trước để bù đắp, khắc phục những tổn thất do biến cố rủi
ro gây nên; hoặc cũng có thể đi vay ngân hàng, các tổ chức tài chính để bù đắp tổn
thất trong trường hợp không lập quỹ dự trữ, dự phòng trước.
Bảo hiểm là sự chuyển giao, san sẻ rủi ro giữa những người cùng tham gia bảo
hiểm trên cơ sở những nguyên tắc, chuẩn mực đã được thống nhất và quy định
trước, nhằm đảm bảo an toàn, ổn định sản xuất và đời sống kinh tế - xã hội của
những người tham gia bảo hiểm và cộng đồng xã hội. Bảo hiểm là công cụ quan
trọng và có hiệu quả nhất để khắc phục hậu quả tổn thất khi xảy ra rủi ro.


6

Mục đích của bảo hiểm là góp phần làm ổn định, an toàn kinh tế cho mọi
người, mọi tổ chức và mọi đơn vị có tham gia bảo hiểm, đảm bảo an toàn xã hội,
đồng thời tạo ra nguồn vốn quan trọng để tham gia đầu tư phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước.
BHXH đã được nhiều nhà khoa học đề cập và nghiên cứu một cách sâu sắc
dưới nhiều góc độ và khía cạnh khác nhau. BHXH đã xuất hiện và phát triển theo
cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của nhân loại. Hệ thống bảo hiểm xã
hội hình thành đầu tiên trên thế giới ở Đức dưới thời thủ tướng Bismark với cơ chế
ba bên (Nhà nước – giới chủ - giới thợ) cùng đóng góp nhằm bảo hiểm cho người
lao động trong một số trường hợp rủi ro. Đến nay, hầu hết các nước trên thế giới đã
thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội và coi nó là một trong những chính sách xã
hội quan trọng nhất trong hệ thống an sinh xã hội.
Trước hết, để hiểu được BHXH bắt buộc là gì thì cần tìm hiểu về bảo hiểm xã
hội nói chung. Bảo hiểm xã hội là đối tượng nghiên cứu của nhiều môn khoa học
khác nhau như kinh tế, xã hội, pháp lý... Do đó, hiện nay còn tồn tại nhiều quan

niệm khác nhau về BHXH, tuỳ thuộc vào góc độ nghiên cứu của các nhà khoa học.
Theo Từ điển Tiếng Việt thì BHXH là sự bảo đảm những quyền lợi vật chất
cho công nhân viên chức khi không làm việc vì ốm đau, sinh đẻ, già yếu, bị tai nạn
lao động.[23, tr39]
Từ điển Giải thích từ ngữ Luật học thì xác định, BHXH là bảo hiểm cho thu
nhập của người lao động trong một số trường hợp, do Nhà nước tổ chức quản lý.
Đặc trưng cơ bản để phân biệt BHXH với các hình thức bảo hiểm khác là sự kết
hợp nghĩa vụ của người sử dụng lao động, việc thực hiện chính sách bảo đảm xã hội
của nhà nước với sự tương trợ cộng đồng giữa những người lao động để ổn định
cho họ và gia đình họ trong và sau quá trình lao động [25, tr85]
Tổ chức lao động quốc tế (ILO) đưa ra khái niệm về BHXH như sau: BHXH
là sự bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành viên của mình thông qua một loạt
các biện pháp công cộng, nhằm chống lại những khó khăn về kinh tế và xã hội dẫn
đến việc ngừng hoặc giảm sút đáng kể về thu nhập gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai
nạn lao động, thất nghiệp, tàn tật, tuổi già, và chết; đồng thời bảo đảm chăm sóc y tế
và trợ cấp cho các gia đình đông con.


7

Như vậy, BHXH có thể được hiểu theo cách khái quát như sau: BHXH là sự
bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động khi họ gặp
phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động như ốm đau, thai sản, tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, tuổi già hoặc chết; gắn với quá trình
tạo lập một quỹ tiền tệ tập trung được hình thành bởi các bên tham gia đóng góp,
nhằm bảo đảm an toàn cho đời sống của người lao động và gia đình họ góp phần
bảo đảm an toàn xã hội.
Từ đây, có thể hiểu BHXH bắt buộc như sau: BHXH bắt buộc là sự bảo đảm
thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập đối với người lao động (và trong một số
trường hợp gồm cả thành viên gia đình) khi họ gặp rủi ro hoặc biến cố làm giảm

hoặc mất khả năng lao động do một số nguyên nhân nhất định gây ra (như ốm đau,
thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, già yếu hoặc chết) trên cơ sở nghĩa vụ
(bắt buộc) tham gia của người sử dụng lao động và người lao động.
Như vậy, BHXH bắt buộc là một hình thức đảm bảo về thu nhập cho người
lao động (và một số trường hợp là thành viên gia đình) trong những trường hợp rủi
ro nhất định. Việc đảm bảo này được thực hiện trên cơ sở nghĩa vụ phải tham gia
đóng góp của các đối tượng nhất định nhằm tạo lập nguồn chi trả. Nói cách khác,
các đối tượng không có quyền lựa chọn có được tham gia hay không tham gia mà
họ phải tham gia hình thức BHXH này khi thuộc các trường hợp pháp luật đã quy
định.
1.1.2. Sự cần thiết của bảo hiểm xã hội bắt buộc
Khi nền kinh tế càng phát triển, con người cũng chú trọng hơn đến việc bảo
đảm các khoản thu nhập bị giảm hoặc bị mất do những rủi ro, biến cố trong cuộc
sống gây nên. Mác đã khẳng định rằng vì nhiều rủi ro khác nhau nên đành phải
dành một số thặng dư nhất định cho quỹ BHXH để bảo đảm cho sự mở rộng theo
kiểu lũy tiến quá trình tái sản xuất ở mức độ cần thiết, phù hợp với sự phát triển của
nhu cầu và tình hình tăng dân số. [22]
Sự cần thiết của BHXH bắt buộc một mặt xuất phát từ lịch sử hình thành và
phát triển của BHXH nói chung.
Trong quá trình sinh tồn và trưởng thành của mỗi con người, nhằm thoả mãn
những nhu cầu thiết yếu nhất là ăn, ở, mặc, sinh hoạt, v.v..., con người phải lao


8

động để làm ra những của cải, vật chất cần thiết. Nhưng trong thực tế, không phải
lúc nào con người cũng gặp may mắn, thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi điều
kiện sinh sống bình thường. Trái lại, có rất nhiều trường hợp khó khăn, trắc trở, rủi
ro xảy ra do điều kiện tự nhiên, môi trường sống, hoặc điều kiện xã hội làm con
người bị giảm hoặc mất thu nhập như ốm đau, tai nạn, mất việc làm, mất người nuôi

dưỡng, già yếu, tử vong... Khi rơi vào các trường hợp này, các nhu cầu cần thiết của
cuộc sống không những không giảm đi mà còn tăng thêm, thậm chí còn phát sinh
nhu cầu mới như thuốc men, chữa trị... Vì vậy, để vượt qua những khó khăn, để tồn
tại và phát triển con người đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau.
Từ xa xưa, con người đã có ý thức san sẻ, cưu mang đùm bọc lẫn nhau trong
họ hàng, trong cộng đồng làng, xóm, thôn, bản... theo tinh thần tương thân tương ái,
“nhường cơm sẻ áo”, “lá lành đùm lá rách”. Sự tương trợ cộng đồng dần dần được
mở rộng và phát triển dưới nhiều hình thức khác nhau như việc lập quỹ tương tế,
các hội đoàn bằng tiền hoặc bằng hiện vật để trợ giúp lẫn nhau. Những hình thức trợ
giúp tự nguyện của cá nhân, của cộng đồng đã góp phần bảo đảm nguồn vật chất
cần thiết cho những người hoạn nạn vượt qua khó khăn, thiếu thốn. Đây chính là
hình thức manh nha của bảo hiểm, nhưng sự tương trợ này vẫn chỉ mang tính tự
phát và chỉ được thực hiện trong cộng đồng nhỏ.
Sự trợ giúp này là thụ động, cục bộ, không ổn định và không chắc chắn. Vì
vậy, đòi hỏi phải có sự trợ giúp có tổ chức, có quan hệ ràng buộc để đáp ứng nhu
cầu lớn hơn trong những trường hợp nhất định. Nhu cầu này ngày càng trở nên cấp
bách đặc biệt sau cuộc cách mạng công nghiệp. Quá trình công nghiệp hoá ở các
nước công nghiệp phát triển đã làm đội ngũ làm công ăn lương tăng nhanh, cuộc
sống của họ phụ thuộc chủ yếu vào thu nhập do lao động làm thuê mang lại. Sự
hẫng hụt về tiền lương khi bị ốm đau, tai nạn, rủi ro, mất việc làm, già yếu... luôn đe
doạ đối với người không có nguồn thu nhập nào khác ngoài tiền lương. Các cuộc
đấu tranh của người lao động đòi giảm giờ làm, tăng tiền lương và trợ cấp cho họ
khi bị ốm đau, tai nạn, rủi ro, già yếu... diễn ra ngày càng gay gắt ảnh hưởng không
nhỏ đến sản xuất, kinh doanh và trật tự, an toàn xã hội.
Trước sức ép của người lao động và để duy trì lực lượng làm công ăn lương những người tạo ra của cải vật chất cho xã hội, giới chủ buộc phải từng bước can


9

thiệp, cam kết đảm bảo cho người lao động có một khoản thu nhập nhất định gọi là

trợ cấp để họ trang trải những nhu cầu sinh sống thiết yếu khi ốm đau, tai nạn... Mặt
khác, khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, việc thuê mướn nhân công trở nên phổ
biến. Lúc đầu người chủ chỉ cam kết trả công lao động, nhưng về sau đã phải cam
kết cả việc bảo đảm cho người làm thuê có một số thu nhập nhất định để họ trang
trải những nhu cầu thiết yếu khi không may bị ốm đau, tại nạn, thai sản v.v... Trong
thực tế, nhiều khi các trường hợp trên không xảy ra và người chủ không phải chi ra
một đồng nào. Nhưng cũng có khi xảy ra dồn dập, buộc họ phải bỏ ra một lúc nhiều
khoản tiền lớn mà họ không muốn. Vì thế, mâu thuẫn chủ - thợ phát sinh, giới thợ
liên kết đấu tranh buộc giới chủ thực hiện cam kết. Cuộc đấu tranh này diễn ra ngày
càng rộng lớn và có tác động nhiều mặt đến đời sống kinh tế xã hội. Do vậy, Nhà
nước đã phải đứng ra can thiệp và điều hoà mâu thuẫn. Sự can thiệp này một mặt
làm tăng vai trò của Nhà nước, mặt khác buộc cả giới chủ và giới thợ phải đóng góp
một khoản tiền nhất định hàng tháng được tính toán chặt chẽ dựa trên cơ sở xác suất
rủi ro xảy ra đối với người làm thuê. Số tiền đóng góp của cả chủ và thợ hình thành
một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia. Quỹ này còn được bổ sung từ ngân
sách Nhà nước khi cần thiết nhằm đảm bảo đời sống cho người lao động khi gặp
phải những biến cố bất lợi. Chính nhờ những mối quan hệ ràng buộc đó mà cuộc
sống của người lao động và gia đình họ ngày càng được đảm bảo ổn định. Giới chủ
cũng thấy mình đỡ bị thiệt hại về kinh tế, ổn định lực lượng lao động để phát triển
sản xuất kinh doanh, tránh được những xáo trộn không cần thiết. Vì vậy, nguồn quỹ
tiền tệ tập trung được thiết lập ngày càng lớn mạnh nhanh chóng. Khả năng giải
quyết các phát sinh lớn của quỹ ngày càng đảm bảo.
Như vậy, BHXH ra đời và phát triển là một quá trình. Việc đảm bảo vật chất
cho NLĐ khi họ gặp biến cố, rủi ro, trong cuộc đời lao động sẽ khó được thực hiện
thường xuyên và đầy đủ nếu chỉ dựa vào sự tương trợ mang tính hảo tâm. Ngược
lại, nó chỉ có thể được đảm bảo chắc chắn, ổn định và bền vững khi có sự tham gia
của Nhà nước với những quy định về đóng góp mang tính bắt buộc để hình thành
nên một loại quỹ tiền tệ tập trung ở phạm vi lớn. Chính điều này là cơ sở cho việc
hình thành nên hình thức BHXH ở phạm vi lớn. Chính điều này là cơ sở cho việc
hình thành nên hình thức BHXH bắt buộc.



10

Mặt khác, BHXH bắt buộc còn là cần thiết xuất phát từ chính bản chất và chức
năng vốn có của BHXH nói chung. Đó là việc chia sẻ hậu quả của những rủi ro, tạo
ra sự san sẻ, tương trợ giữa người sử dụng lao động và người lao động cũng như
giữa những người lao động với nhau theo nguyên tắc “lấy của số đông bù cho số ít”.
Một điều kiện tiên quyết để có thể đạt được mục đích bảo đảm an toàn, an sinh xã
hội là phải có nguồn thu. Chỉ khi có nguồn thu ổn định, thường xuyên và lâu dài thì
các khoản chi trả mới được đảm bảo chắc chắn, mục tiêu BHXH mới đạt được. Tuy
nhiên, nếu để người lao động và đặc biệt là người sử dụng lao động tự nguyện đóng
góp cho quỹ BHXH thì trên thực tế sẽ khó có thể có được nguồn thu ổn định, bởi
khi đó việc đóng góp của các đối tượng chỉ mang ý nghĩa “tùy tâm”. Người sử dụng
lao động không phải khi nào cũng nhận thức được vai trò của BHXH, nhất là khi họ
chưa thấy được nhiều lợi ích từ việc đóng góp vào quỹ BHXH so với việc đầu tư
tiền vào sản xuất kinh doanh. Tương tự như vậy đối với người lao động, đặc biệt khi
thu nhập của phần lớn trong số họ chưa phải là cao và việc họ đóng góp vào quỹ
BHXH không có nghĩa chắc chắn sẽ được hưởng mọi chế độ BHXH. Tâm lý không
muốn tham gia BHXH (không đóng góp và cũng sẽ không hưởng) ngự trị trong
không ít người lao động. Trong bối cảnh đó rõ ràng BHXH sẽ không thể đảm bảo
được bản chất và chức năng của mình, an toàn xã hội cũng không đạt được.
Chính vì những lý do đó, việc quy định BHXH bắt buộc là cần thiết. BHXH
bắt buộc là nền tảng cơ bản, chủ đạo trong hệ thống BHXH của nhiều quốc gia. Ở
nước ta, trong một thời gian dài trước đây cũng chỉ tồn tại duy nhất hình thức
BHXH bắt buộc.
1.2. Nội dung pháp luật hiện hành về bảo hiểm xã hội bắt buộc
1.2.1. Đối tượng áp dụng chế độ BHXH bắt buộc và mức đóng góp
Việc tham gia BHXH có ý nghĩa rất lớn trong đảm bảo điều kiện sống và an
toàn xã hội cho người lao động và thậm chí cả thân nhân của họ trong trường hợp

họ gặp rủi ro. Để tạo nguồn thu ổn định, lâu dài cho quỹ BHXH đồng thời phải phù
hợp với điều kiện của người đóng góp, thì việc lựa chọn đối tượng áp dụng chế độ
BHXH bắt buộc rất quan trọng.
Theo quy định của Luật BHXH tại Điều 2, đối tượng áp dụng BHXH bắt
buộc cụ thể như sau:


11

* Đối với người lao động
Đó là người lao động là công dân Việt Nam, bao gồm: Người làm việc theo
hợp đồng lao động không xác định thời hạn, hợp đồng lao động có thời hạn từ đủ 3
tháng trở lên; cán bộ, công chức, viên chức; công nhân quốc phòng, công nhân công
an; sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp quân đội nhân dân; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp
vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật công an nhân dân; người làm công tác
cơ yếu hưởng lương như đối với quân đội nhân dân, công an nhân dân; hạ sĩ quan,
binh sĩ quân đội nhân dân và hạ sĩ quan, chiến sỹ công an nhân dân phục vụ có thời
hạn; người làm việc có thời hạn ở nước ngoài mà trước đó có đóng BHXH bắt buộc.
Như vậy, với quy định này của pháp luật thì đối tượng người lao động tham
gia BHXH bắt buộc khá phong phú, chiếm đại đa số người lao động tham gia vào
quan hệ lao động. Đây là đối tượng có thời hạn làm việc ổn định, lâu dài nên việc
quy định đối tượng này là đối tượng tham gia BHXH bắt buộc là hợp lý, từ đó có
thể tạo một nguồn thu ổn định cho quỹ BHXH bắt buộc nhằm đảm bảo mục tiêu của
BHXH.
Tuy nhiên, do đối tượng áp dụng hiện nay là công dân Việt Nam tham gia
hợp đồng lao động từ đủ ba tháng trở lên nên có nhiều trường hợp người sử dụng
lao động “lách” bằng cách ký rất nhiều hợp đồng “chuỗi” với thời hạn dưới 3 tháng
với người lao động nhằm né tránh nghĩa vụ đóng góp BHXH. Mặt khác, trong điều
kiện nước ta hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng, số lượng lao động nước
ngoài tham gia quan hệ lao động tại Việt Nam cũng tăng lên. Đây cũng là vấn đề

tính đến trong thời gian tới.
* Đối với người sử dụng lao động
Khoản 2 Điều 2 Luật BHXH quy định “Người sử dụng lao động tham gia
BHXH bắt buộc bao gồm cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp, đơn vị vũ trang nhân
dân; tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội tổ chức chính trị xã hội - nghề
nghiệp, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội khác; cơ quan, tổ chức nước
ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam; doanh nghiệp, hợp tác xã,
hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác, tổ chức khác và cá nhân có thuê mướn, sử dụng và
trả công cho người lao động”.
Như vậy, đối tượng tham gia BHXH bắt buộc là mọi cá nhân, tổ chức có
thuê mướn, sử dụng và trả công cho người lao động. Về cơ bản, quy định về đối


12

tượng người sử dụng lao động tham gia BHXH bắt buộc đã bao quát được mọi
trường hợp có sử dụng, thuê mướn lao động và có khả năng tham gia BHXH bắt
buộc.
* Mức đóng góp
Theo quy định tại khoản 2 Điều 5 Luật BHXH thì mức đóng BHXH bắt buộc
được tính trên cơ sở tiền lương, tiền công của người lao động. Theo quy định tại
Điều 91 và 92 Luật BHXH mức đóng góp của người lao động là 5% mức tiền công
vào quỹ hưu trí và tử tuất, từ năm 2010 trở đi cứ hai năm một lần đóng thêm 1%
cho đến khi đạt mức đóng là 8%; người sử dụng lao động đóng 16% (3% vào quỹ
ốm đau, thai sản; 1% vào quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; 11% vào quỹ hưu
trí và tử tuất); từ năm 2010 trở đi cứ hai năm một lần đóng thêm 1% vào quỹ hưu trí
và tử tuất cho đến khi đạt mức đóng là 14%.
Tổng mức đóng góp vào quỹ BHXH bắt buộc của cả người lao động và
người sử dụng lao động là 24% (trong đó: 3% đóng góp vào quỹ ốm đau, thai sản;
1% vào quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp và 20% vào quỹ hưu trí, tử tuất).

Riêng đối với đối tượng hạ sỹ quan, binh sỹ quân đội nhân dân và hạ sỹ
quan, chiến sỹ công an nhân dân phục vụ có thời hạn, người sử dụng lao động đóng
BHXH cho đối tượng này bằng 21% mức lương tối thiểu chung (trong đó: 1% vào
quỹ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; 20% vào quỹ hưu trí, tử tuất).
Theo quy định tại Điều 94 Luật BHXH thì tiền công, tiền lương tháng đóng
BHXH đối với người lao động thực hiện chế độ lương do Nhà nước quy định là tiền
lương theo ngạch, bậc, cấp bậc, quân hàm và các khoản phụ cấp khác; đối với người
lao động đóng BHXH theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quy định
thì mức đóng BHXH theo quy định là tiền công, tiền lương kể cả phụ cấp (nếu có)
được ghi trong hợp đồng lao động. Mức đóng tối đa không quá 20 lần tháng lương
tối thiểu chung. Tuy nhiên, đối với đối tượng hưởng lương từ ngân sách nhà nước
thì việc quản lý lương tương đối dễ dàng nhưng trường hợp thường xảy ra vi phạm
là đối tượng hưởng lương do người sử dụng quyết định. Với quy định như luật hiện
hành sẽ dẫn đến tình trạng người sử dụng lao động ghi một mức tiền lương, tiền
công trong hợp đồng thấp hơn mức tiền lương thực tế người lao động nhận được để
giảm tiền đóng BHXH. Trong khi đó, bảng lương nộp cho cơ quan thuế lại cao hơn


13

để được khấu trừ thuế. Điều này sẽ dẫn đến thiệt thòi cho quyền lợi của người lao
động.
Mặt khác, quy định mức đóng tối đa không quá 20 lần mức lương tối thiểu
chung thì không hợp lý và gây thất thu cho quỹ BHXH bởi có nhiều đối tượng tham
gia BHXH bắt buộc có mức lương cao. Mà với quy định này thì mức cao nhất được
tham gia BHXH bắt buộc là hơn 20 triệu. Trên thực tế, có người lao động thu nhập
thực tế, thậm chí là lương trong hợp đồng lao động cao hơn mức này rất nhiều.
1.2.2. Các chế độ bảo hiểm xã hội bắt buộc
Theo quy định tại Điều 4 Luật BHXH, BHXH bắt buộc bao gồm các chế độ:
ốm đau; thai sản; tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp; hưu trí; tử tuất.

1.2.1.1. Chế độ bảo hiểm ốm đau
Ốm đau, tai nạn là điều mà con người không thể tránh khỏi trong suốt cuộc
đời. Đối với người lao động thì ốm đau là một rủi ro mà khi họ gặp phải người lao
động bị mất thu nhập tạm thời. Do đó, để bù đắp phần thu nhập bị mất này thì một
trong những cách mà con người sử dụng là bảo hiểm ốm đau.
 Đối tượng và điều kiện bảo hiểm
Người lao động tham gia BHXH bắt buộc là đối tượng áp dụng của chế độ
bảo hiểm này. Tuy nhiên, không phải tất các mọi trường hợp ốm đau người lao
động đều được hưởng bảo hiểm mà họ phải đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định
của pháp luật.
Theo Điều 22 Luật BHXH và Điều 8 Nghị định 152/2006 thì điều kiện để
hưởng chế độ bảo hiểm ốm đau là bản thân người lao động bị ốm đau, phải nghỉ
việc để điều trị (có thể là nội trú hoặc ngoại trú) và phải có xác nhận của cơ sở y tế.
Trường hợp ốm đau, tai nạn phải nghỉ việc do tự hủy hoại sức khỏe, do say rượu
hoặc sử dụng ma túy, chất gây nghiện khác thì không được hưởng chế độ ốm đau.
Theo quy định của pháp luật, người lao động ốm đau do bệnh tật hoặc tai nạn
(nhưng không phải tai nạn lao động) cũng được xem như là ốm đau và cũng thuộc
đối tượng được hưởng chế độ bảo hiểm ốm đau. Tuy nhiên, trường hợp ốm đau
không do lỗi của người lao động thì mới được hưởng chế độ này, còn ốm đau là
người lao động say rượu hay tự hủy hoại sức khỏe hoặc dùng chất ma túy, chất gây
nghiện thì không được hưởng chế độ bảo hiểm ốm đau. Đây cũng là quy định hợp
lý của pháp luật nước ta.


14

Ngoài điều kiện trên, thì pháp luật hiện hành cũng có quy định về những thủ
tục cần thiết mà người lao động cần phải làm để được hưởng chế độ bảo hiểm ốm
đau. Tùy từng trường hợp cụ thể mà giấy tờ trong hồ sơ phải có là văn bản đề nghị
của người sử dụng lao động, bệnh án, xác nhận y tế, giấy chứng nhận bệnh điều trị

dài ngày, quyết định cho hưởng BHXH của cơ quan BHXH có thẩm quyền… Trong
đó, giấy xác nhận của tổ chức y tế về sự kiện người lao động nghỉ việc để điều trị do
ốm đau, tai nạn rủi ro là điều kiện mang tính quyết định trong thủ tục để được
hưởng bảo hiểm.
Ngoài trường hợp chính người lao động bị ốm đau phải nghỉ việc được
hưởng chế độ ốm đau thì tr­êng hîp kh¸c còng ®­îc h­ëng chÕ ®é nµy nÕu có con
dưới bảy tuổi (con đẻ hoặc con nuôi hợp pháp, con ngoài giá thú được pháp luật
công nhận) ốm đau mà người lao động phải nghỉ việc để chăm sóc và có xác nhận
của cơ quan y tế có thẩm quyền. Nếu cả bố và mẹ đều tham gia BHXH thì chỉ một
người được hưởng chế độ này. Tuy nhiên, pháp luật có ưu tiên nữ giới hơn trong
trường hợp con ốm mà người mẹ nhờ được người chăm sóc để tiếp tục đi làm thì
vẫn được hưởng chế độ bảo hiểm ốm đau.
Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành thì người lao động tham gia
BHXH bị ốm đau hoặc tai nạn rủi ro phải nghỉ việc để điều trị, có xác nhận của tổ
chức y tế có thẩm quyền thì được hưởng chế độ bảo hiểm ốm đau hoặc người lao
động tham gia bảo hiểm xã hội có con dưới bảy tuổi bị ốm đau phải nghỉ việc để
chăm sóc con và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền. Những người lao
động phải nghỉ việc do say rượu, tự hủy hoại sức khỏe hoặc dung các chất ma túy,
các chất kích thích khác thì không thuộc đối tượng được hưởng chế độ bảo hiểm ốm
đau.
 Thời gian hưởng bảo hiểm ốm đau
Thời gian hưởng bảo hiểm ốm đau thường được tính theo số ngày làm việc
của người lao động. Việc quy định thời gian hưởng bảo hiểm ốm đau phụ thuộc vào
điều kiện lao động, thời gian tham gia BHXH, tình trạng bệnh tật của người lao
động và mục đích bảo hiểm của Nhà nước.
Việc khống chế thời gian hưởng là hợp lý trên cơ sở cân đối thu chi, điều
kiện lao động và tình trạng bệnh tật của người lao động. Theo Điều 23 Luật BHXH
thì người lao động làm việc trong điều kiện lao động bình thường được nghỉ việc



15

hưởng bảo hiểm ốm đau tối đa là 30 ngày/năm nếu đã đóng BHXH dưới 15 năm; tối
đa 40 ngày/năm nếu đã đóng BHXH từ đủ 15 năm đến dưới 30 năm và tối đa 60
ngày/năm nếu đã đóng BHXH từ đủ 30 năm trở lên. Người lao động làm nghề hoặc
công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm theo danh mục do nhà nước quy định hoặc
làm việc ở vùng có phụ cấp khu vực hệ số 0,7 trở lên được nghỉ hưởng bảo hiểm ốm
đau với khoảng thời gian tương ứng với mức ở trên cộng thêm 10 ngày. Riêng
người lao động mắc bệnh cần điều trị dài ngày theo danh mục do Bộ lao động –
Thương binh và xã hội ban hành thì không bị giới hạn thời gian nghỉ việc. Trường
hợp, người lao động làm việc trong lực lượng vũ trang bị ốm đau, tai nạn rủi ro có
xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền thì không bị giới hạn thời gian nghỉ việc
hưởng chế độ ốm đau.
Trường hợp con bị ốm đau thì theo quy định của pháp luật người lao động
nghỉ việc hưởng bảo hiểm tối đa là 20 ngày/năm nếu con dưới 3 tuổi và tối đa 15
ngày/năm nếu con từ đủ 3 tuổi đến dưới 7 tuổi. Nếu cả cha và mẹ đều tham gia
BHXH mà một người đã hết thời hạn hưởng chế độ nhưng con vẫn ốm đau thì
người kia được hưởng chế độ trong khoảng thời gian nói trên.
 Mức hưởng bảo hiểm
Người lao động bị ốm đau được khám bệnh và điều trị tại các cơ sở y tế theo
chế độ bảo hiểm y tế và hưởng trợ cấp ốm đau.
Mức trợ cấp ốm đau theo Điều 25 Luật BHXH được tính bằng 75% mức
lương làm căn cứ đóng BHXH của tháng liền kề trước khi nghỉ. Người lao động
mắc bệnh cần điều trị dài ngày theo danh mục do Nhà nước quy định thì được
hưởng bảo hiểm bằng 75% mức tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm của tháng
liền kề trước khi nghỉ trong thời hạn 180 ngày đầu. Từ ngày thứ 181 trở đi, mức bảo
hiểm bằng 65% mức tiền lương nói trên nếu đã đóng bảo hiểm đủ 30 năm trở lên,
bằng 55% mức tiền lương nói trên nếu đã đóng bảo hiểm từ đủ 15 năm đến dưới 30
năm và bằng 45% mức tiền lương nói trên nếu đã đóng BHXH dưới 15 năm. Mức
bảo hiểm ốm đau trong trường hợp này không được thấp hơn mức tiền lương tối

thiểu chung do nhà nước quy định.
Riêng người lao động làm việc trong lực lượng vũ trang nhân dân thì mức
hưởng bảo hiểm ốm đau là 100% mức tiền lương làm căn cứ đóng BHXH.


16

Ngoài ra, theo Điều 26 Luật BHXH người lao động còn được hưởng chế độ
dưỡng sức, phục hồi sức khỏe. Theo Điều 12 Nghị định 152/2006/NĐ-CP, thời gian
nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe trong một năm tính cả ngày nghỉ lễ, tết, nghỉ
hàng tuần, ngày đi và ngày về (nếu nghỉ tại cơ sở tập trung): 10 ngày đối với người
lao động sức khỏe còn yếu sau thời gian ốm đau do mắc bệnh cần điều trị dài ngày;
7 ngày đối với người lao động sức khỏe còn yếu sau thời gian ốm đau do phẫu
thuật; 5 ngày đối với các trường hợp khác. Mức nghỉ dưỡng sức cụ thể do người sử
dụng lao động và ban chấp hành công đoàn quyết định nhưng không vượt quá mức
tối đa do Nhà nước quy định.
Mức hưởng dưỡng sức, phục hồi sức khỏe một ngày bằng 25% mức lương
tối thiểu chung nếu nghỉ dưỡng sức tại gia đình, bằng 40% mức lương tối thiểu
chung nếu nghỉ dưỡng sức tại cơ sở tập trung.
Đối với trường hợp con ốm đau, người lao động nghỉ việc thì được hưởng
bằng 75% mức tiền lương tháng làm căn cứ đóng bảo hiểm của người lao động
trước khi nghỉ.
1.2.1.2. Chế độ bảo hiểm thai sản
 Điều kiện hưởng
Theo quy định tại Điều 27 Luật BHXH thì đối tượng được nghỉ việc hưởng
trợ cấp thai sản là lao động nữ là đối tượng tham gia BHXH bắt buộc và thuộc một
trong các trường hợp: lao động nữ mang thai, sinh con; người lao động nam hoặc nữ
nhận nuôi con sơ sinh dưới 4 tháng tuổi theo quy định của Luật hôn nhân và gia
đình có thời gian đóng bảo hiểm từ đủ 6 tháng trở lên trong thời gian 12 tháng trước
khi sinh con hoặc nhận nuôi con nuôi hoặc thực hiện các biện pháp tránh thai đều

được nghỉ việc hưởng trợ cấp.
Người lao động để được hưởng chế độ thai sản phải có sổ bảo hiểm xã hội và
có giấy xác nhận của cơ sở y tế có thẩm quyền trong các trường hợp lao động nữ đi
khám thai, sảy thai, nạo, hút thai hoặc thai chết lưu. Đối với người lao động làm
việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; làm việc theo chế độ 3 ca; làm việc thường
xuyên ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số từ 0,7 trở lên; hoặc lao động nữ là người tàn
tật phải có giấy xác nhận của người sử dụng lao động. Nếu nhận con nuôi dưới 4
tháng tuổi phải có giấy xác nhận của cơ quan có thẩm quyền cho nuôi con nuôi.


17

 Thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản
- Thời gian nghỉ khám thai
Lao động nữ được nghỉ việc để đi khám thai 5 lần, mỗi lần 1 ngày. Trong
trường hợp người lao động có thai làm việc ở xa cơ sở y tế hoặc người mang thai có
bệnh lý hoặc thai không bình thường thì được nghỉ việc hưởng trợ cấp 2 ngày cho
mỗi lần khám thai. Thời gian này tính theo ngày làm việc không kể ngày nghỉ lễ,
Tết, ngày nghỉ hàng tuần.
- Thời gian nghỉ khi bị sảy thai, nạo, hút thai
Để giúp phụ nữ phục hồi sức khỏe Điều 30 Luật BHXH quy định người lao
động nữ được nghỉ việc hưởng trợ cấp 10 ngày nếu thai dưới 1 tháng; 20 ngày nếu
thai từ 1 tháng đến dưới 3 tháng; 40 ngày nếu thai từ 3 tháng đến 6 tháng; 50 ngày
nếu thai từ 6 tháng trở lên. Thời gian nghỉ việc này tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết,
ngày nghỉ hàng tuần.
- Thời gian nghỉ sinh con
Điều 31 Luật BHXH quy định lao động nữ sinh con được nghỉ việc hưởng
chế độ thai sản như sau: 4 tháng, nếu làm nghề hoặc công việc trong điều kiện lao
động bình thường; 5 tháng nếu làm nghề hoặc công việc nặng nhọc, độc hại, nguy
hiểm thuộc danh mục do Bộ lao động – Thương binh xã hội và Bộ Y tế ban hành;

làm việc theo chế độ 3 ca; làm việc thường xuyên ở nơi có phụ cấp khu vực hệ số từ
0,7 trở lên hoặc là nữ quân nhân, nữ công an nhân dân; 6 tháng đối với lao động nữ
là người tàn tật theo quy định của pháp luật về người tàn tật (suy giảm từ 21% trở
lên).
Trong trường hợp lao động nữ sinh đôi trở lên thì tính từ đứa con thứ hai trở
đi, cứ mỗi con người mẹ được nghỉ thêm 30 ngày. Trong trường hợp sau khi sinh
con, nếu con dưới 60 ngày tuổi chết thì mẹ được nghỉ việc 90 ngày tính từ ngày sinh
con; nếu con từ 60 ngày tuổi trở lên bị chết thì được nghỉ việc 30 ngày tính từ ngày
con chết nhưng không vượt quá thời gian nghỉ sinh con theo quy định chung là
4,5,6 tháng và không tính vào thời gian nghỉ việc riêng hàng năm theo quy định của
pháp luật lao động.
Trường hợp chỉ có cha hoặc mẹ tham gia BHXH hoặc cả cha và mẹ đều
tham gia BHXH mà mẹ thì chết sau khi sinh con, thì cha hoặc người trực tiếp nuôi


18

dưỡng được hưởng chế độ thai sản cho đến khi con đủ 4 tháng tuổi. Thời gian
hưởng chế độ thai sản khi lao động nữ sinh con tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày
nghỉ hàng tuần.
Hết thời hạn nghỉ việc sinh con theo những quy định này, nếu như có nhu
cầu thì người mẹ có thể nghỉ thêm với điều kiện được người sử dụng lao động đồng
ý nhưng không được hưởng trợ cấp BHXH. Trường hợp lao động nữ muốn đi làm
trước khi hết hạn nghỉ sinh con theo quy định thì phải báo trước và được người sử
dụng lao động đồng ý nếu đã nghỉ được từ đủ 60 ngày trở lên tính từ khi sinh con và
phải có xác nhận của cơ sở y tế về việc đi làm sớm không có hại cho sức khỏe.
Trong trường hợp này, ngoài tiền lương, tiền công lao động nữ vẫn được hưởng trợ
cấp thai sản cho đến hết thời gian nghỉ theo quy định của pháp luật.
- Thời gian nghỉ khi nhận nuôi con nuôi
Người lao động khi nhận nuôi con nuôi dưới 4 tháng tuổi được nghỉ việc

hưởng trợ cấp thai sản cho đến khi con đủ 4 tháng tuổi.
- Thời gian nghỉ khi thực hiện các biện pháp tránh thai
Theo Điều 33 Luật BHXH, thời gian hưởng chế độ khi thực hiện các biện
pháp tránh thai như sau: Khi đặt vòng tránh thai người lao động được nghỉ việc 7
ngày; khi thực hiện biện pháp triệt sản người lao động được nghỉ việc 15 ngày. Thời
gian nghỉ việc cho các trường hợp trên tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết và nghỉ hàng
tuần.
 Các loại và mức bảo hiểm thai sản
Trợ cấp thai sản theo quy định của pháp luật có hai loại: trợ cấp thay lương
và trợ cấp một lần. Tùy từng trường hợp mà người lao động được hưởng một hoặc
cả hai loại trợ cấp này.
Trợ cấp thay lương bằng 100% mức bình quân tiền lương, tiền công hàng
tháng đóng bảo hiểm của 6 tháng liền kề trước khi nghỉ việc. Nếu người lao động
đóng bảo hiểm chưa đủ 6 tháng thì mức hưởng chế độ thai sản cho các trường hợp
khám thai, thai chết lưu, nạo, hút thai hoặc thực hiện các biện pháp tránh thai là
mức bình quân của các tháng đóng BHXH.
Khoản trợ cấp một lần bằng 2 tháng tiền lương tối thiểu chung cho mỗi con.


19

Ngoài các chế độ trên thì theo Điều 37 Luật BHXH, lao động nữ mà chưa
phục hồi sức khỏe sau thời gian hưởng chế độ khi bị sảy thai, nạo, hút thai hoặc thai
chết lưu, sinh con thì được nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe. Thời gian nghỉ từ 5
đến 10 ngày trong một năm tính cả ngày nghỉ lễ, nghỉ Tết, ngày nghỉ hàng tuần,
ngày đi và về nếu nghỉ tại cơ sở tập trung. Số ngày nghỉ cụ thể do người sử dụng lao
động và Ban chấp hành công đoàn quyết định: tối đa là 10 ngày đối với lao động nữ
sinh một lần từ 2 con trở lên; tối đa 7 ngày đối với lao động nữ sinh con phải phẫu
thuật; bằng 5 ngày đối với các trường hợp khác. Mức hưởng dưỡng sức, phục hồi
sức khỏe một ngày bằng 25% mức lương tối thiểu chung nếu nghỉ dưỡng sức, phục

hồi sức khỏe tại gia đình; bằng 40% mức lương tối thiểu nếu nghỉ dưỡng sức, phục
hồi sức khỏe tại cơ sở tập trung; mức hưởng này tính cả tiền đi lại, tiền ăn và ở.
1.2.1.3. Chế độ bảo hiểm tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp
Tai nạn lao động là tai nạn gây tổn thương bất kỳ bộ phận, chức năng nào
của cơ thể người lao động hoặc gây tử vong, xảy ra trong quá trình lao động, gắn
liền với việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động.
Bệnh nghề nghiệp là bệnh phát sinh do điều kiện có hại của nghề nghiệp tác
động đối với người lao động.
 Đối tượng và điều kiện hưởng bảo hiểm
Người lao động tham gia BHXH bắt buộc khi đáp ứng được một trong các
điều kiện sau đây thì được hưởng chế độ bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề
nghiệp:
- Làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại hoặc trực tiếp tiếp xúc với môi
trường độc hại theo danh mục do Nhà nước quy định bị bệnh thuộc danh mục bệnh
nghề nghiệp được bảo hiểm do Bộ Y tế và Bộ lao động – Thương binh và xã hội
quy định và bị suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên. Trong trường hợp người
lao động bị bệnh thuộc danh mục bệnh nghề nghiệp trong thời gian làm việc trong
điều kiện lao động bình thường hoặc không tiếp xúc với các chất độc hại có liên
quan tới bệnh đó thì cần phải tìm hiểu nguyên nhân và nguồn gốc dẫn tới bệnh. Nếu
trước đó người lao động đã từng làm việc trong điều kiện nặng nhọc, độc hại và
bệnh của họ là hậu quả do thời gian làm việc đó thì cần lưu ý đến thời gian bảo đảm
của bệnh nghề nghiệp. Nếu thời gian bảo đảm còn thì người lao động được hưởng


×