Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Pháp luật về đào tạo nghề trong doanh nghiệp ở việt nam thực trạng và phương hướng hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (509.27 KB, 68 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ TƯ PHÁP

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI

NGUYỄN MAI ANH

PHÁP LUẬT VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ TRONG
DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ
PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Xuân Thu

HÀ NỘI - 2011


LỜI CẢM ƠN

Bằng tấm lòng kính trọng và sự biết ơn sâu sắc, em xin trân trọng cảm
ơn Ban Giám hiệu, Khoa Sau đại học trường Đại học Luật Hà Nội và các
giảng viên đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn và tạo điều kiện giúp đỡ em trong
quá trình học tập và nghiên cứu. Đặc biệt, em xin gửi lời cảm ơn chân thành
đến thầy giáo TS. Nguyễn Xuân Thu đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn em
hoàn thành luận văn này.



1

NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

1. BLLĐ:

Bộ luật Lao động

2. DN:

Doanh nghiệp

3. ĐTN:

Đào tạo nghề

4. NLĐ:

Người lao động

5. HĐLĐ

Hợp đồng lao động


2

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................... 4
Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ VÀ PHÁP

LUẬT VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ TRONG DOANH NGHIỆP.............................. 10
1.1. Khái niệm đào tạo nghề và đào tạo nghề trong doanh nghiệp............ 10
1.1.1. Đào tạo nghề .................................................................................... 10
1.1.2. Đào tạo nghề trong doanh nghiệp ................................................... 13
1.2. Vai trò của đào tạo nghề trong doanh nghiệp ..................................... 15
1.3. Điều chỉnh pháp luật về đào tạo nghề trong doanh nghiệp ................ 18
1.3.1. Nguyên tắc ....................................................................................... 18
1.3.2. Nội dung điều chỉnh pháp luật về đào tạo nghề trong doanh
nghiệp ........................................................................................................ 20
1.3.3 Lược sử pháp luật Việt Nam về đào tạo nghề trong doanh nghiệp .. 22
Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ TRONG
DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM .................................................................. 26
2.1. Pháp luật về đào tạo nghề cho người lao động để làm việc cho
doanh nghiệp theo thời hạn đã cam kết ...................................................... 26
2.1.1. Điều kiện đối với doanh nghiệp thực hiện đào tạo nghề ................. 26
2.1.2. Vấn đề chi phí đào tạo nghề và thời hạn người lao động phải làm
việc cho doanh nghiệp sau khi được đào tạo ............................................ 28
2.1.3. Vấn đề bồi thường chi phí đào tạo nghề trong trường hợp người
lao động vi phạm cam kết về thời hạn làm việc ......................................... 30
2.2. Pháp luật về bồi dưỡng nâng cao trình độ nghề nghiệp cho người
lao động ........................................................................................................ 32
2.2.1. Trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc nâng cao trình độ
nghề nghiệp của người lao động ............................................................... 33
2.2.2. Trách nhiệm của người lao động khi được doanh nghiệp bồi
dưỡng nâng cao trình độ nghề nghiệp ...................................................... 35


3

2.3. Pháp luật về đào tạo lại nghề cho người lao động ............................... 43

2.3.1. Các trường hợp doanh nghiệp phải đào lại nghề cho người lao
động ........................................................................................................... 43
2.3.2. Nguồn tài chính sử dụng cho việc đào tạo lại nghề cho người lao
động ........................................................................................................... 45
2.4. Pháp luật về đào tạo nghề dự phòng cho lao động nữ ......................... 46
2.4.1. Các đối tượng cần đào tạo nghề dự phòng theo quy định của
pháp luật Việt Nam .................................................................................... 46
2.4.2. Quyền lợi và nghĩa vụ của người lao động trong thời gian đào
tạo nghề dự phòng ..................................................................................... 48
2.4.3. Nguồn tài chính cho việc đào tạo nghề dự phòng cho lao động
nữ của doanh nghiệp ................................................................................. 49
2.4.4. Những chính sách của nhà nước đối với doanh nghiệp thực hiện
đào tạo nghề dự phòng cho lao động nữ ................................................... 49
Chương 3 HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ TRONG
DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM .................................................................. 52
3.1. Những yêu cầu của việc hoàn thiện pháp luật về đào tạo nghề trong
doanh nghiệp ở Việt Nam ............................................................................ 52
3.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về đào tạo nghề trong doanh
nghiệp ở Việt Nam ....................................................................................... 55
3.2.1. Những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về đào
tạo nghề trong doanh nghiệp ở Việt Nam ................................................. 55
3.2.2. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về
đào tạo nghề trong doanh nghiệp ở Việt Nam........................................... 61
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 64
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 65


4

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020 của nước ta đề ra
mục tiêu tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ chiếm khoảng 85% trong
GDP; giá trị sản phẩm công nghệ cao đạt khoảng 45% trong tổng GDP; giá trị
sản phẩm công nghiệp chế tạo chiếm khoảng 40% trong tổng giá trị sản xuất
công nghiệp; nông nghiệp có bước phát triển theo hướng hiện đại, hiệu quả,
bền vững, nhiều sản phẩm có giá trị gia tăng cao; tỷ lệ lao động nông nghiệp
khoảng 30% lao động xã hội.
Với những yêu cầu rất cao của một nước công nghiệp, nước ta đứng
trước một thách thức lớn về vấn đề xây dựng nguồn nhân lực không chỉ đủ về
số lượng mà còn phải có kiến thức, kỹ năng chuyên môn phù hợp. Vì vậy, Dự
thảo cũng đưa ra các định hướng cụ thể để đạt được các mục tiêu này. Trong
đó đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng của việc nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực. Nhà nước ta luôn xác định phát triển và nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là
yếu tố quyết định quá trình cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng
trưởng và là lợi thế cạnh tranh dài hạn, bảo đảm kinh tế - xã hội phát triển
nhanh, hiệu quả, bền vững. Chính vì vậy, hoạt động giáo dục và đào tạo đặc
biệt là đào tạo nghề cũng trở nên vô cùng quan trọng và cần thiết.
Những năm gần đây được sự quan tâm của Nhà nước và cả xã hội,
công tác đào tạo nghề đã có những chuyển biến tích cực. Tuy nhiên, so với
những đòi hỏi thực tế của thị trường lao động thì công tác đào tạo nghề ở Việt
Nam hiện nay vẫn chưa đáp ứng được. Trên thực tế ngoài việc tuyển dụng lao
động qua đào tạo nghề trên thị trường, các DN cũng tự tổ chức đào tạo, bồi
dưỡng, nâng cao tay nghề cho người lao động.
Có thể nói DN là một chủ thể tích cực trong đào tạo nghề. Nhu cầu về
lao động có kỹ thuật cao luôn tăng cùng với sự phát triển của DN. Vì vậy, tất


5


yếu DN phải quan tâm đến vấn đề tự đào tạo lao động kỹ thuật cho mình để
phục vụ mục tiêu phát triển. DN có thể tham gia vào hoạt động ĐTN bằng hai
cách: một là, tự tổ chức đào tạo nghề trong DN; hai là, sử dụng dịch vụ đào
tạo của các cơ sở dạy nghề.
Những lợi thế sẵn có của DN như: tài chính, thiết bị kỹ thuật, đội ngũ
chuyên gia, hơn thế nữa bản thân DN chính là nguồn cầu lao động...đã khiến
việc đào tạo nghề trong DN đạt hiệu quả cao và được các nước trên thế giới
rất chú trọng. Ở Việt Nam, trong nhiều năm qua các DN đã khá tích cực tham
gia vào hoạt động đào tạo nghề dưới các hình thức đào tạo tại DN hoặc liên
kết đào tạo với các cơ sở đào tạo nghề. Cách thức tổ chức đào tạo này cũng
rất có lợi cho người học nghề vì họ không phải lo tìm việc làm sau khi học
nghề xong. Tuy nhiên, trong thực tế DN lại rất lo ngại việc đào tạo nghề, đào
tạo nâng cao trình độ nghề nghiệp cho người lao động phần vì lợi ích thu
được từ khoản đầu tư này tạm thời khó thu lại được, phần vì lo ngại việc
người lao động sau khi được đào tạo sẽ không tiếp tục làm việc cho DN.
Nhưng ngược lại, thực tế cũng chỉ ra những DN chú trọng đến chiến lược và
có chính sách đào tạo, bồi dưỡng lao động trong DN mình thì dù trước mắt có
thể chịu thiệt thòi do phải đầu tư cho công tác đào tạo, lại dễ bị mất đi một số
lượng nhất định lao động đã qua đào tạo, nhưng nhìn chung tổng nguồn lực
của DN vẫn tăng lên mạnh và trên hết là DN tạo được niềm tin, yên tâm làm
việc của người lao động.
Đào tạo nghề trong DN trong tình hình kinh tế hiện nay của Việt Nam
đóng một vai trò tương đối quan trọng về cả mặt giáo dục, đào tạo về cả giải
quyết việc làm cho người lao động đã qua đào tạo. Với những ưu thế như vậy,
đào tạo nghề trong DN cần được chú trọng phát triển hơn nữa trong thời gian
tới. Vì lý những lý do trên Nhà nước ta đã có những chính sách kịp thời, cụ thể
hóa bằng pháp luật để đảm bảo phát triển phương thức đào tạo nghề đặc biệt
hiệu quả này. Tuy nhiên, những chính sách và pháp luật đó vẫn chưa thể hiện
được sự quan tâm thích đáng của Nhà nước đến công tác đào tạo nghề trong



6

DN. Các chính sách, pháp luật Việt Nam chưa có những khuyến khích, ưu đãi
thực sự thu hút được sự quan tâm của DN để họ đầu tư hơn nữa vào việc đào
tạo nghề cho người lao động. Một số quy định cụ thể chưa phù hợp với thực tế,
gây khó khăn cho cả DN và người lao động trong quan hệ đào tạo nghề.
Những vấn đề nêu trên đã gợi ý cho tôi lựa chọn đề tài: "Pháp luật về
đào tạo nghề trong doanh nghiệp ở Việt Nam - Thực trạng và phương hướng
hoàn thiện" làm luận văn tốt nghiệp với mong muốn sẽ góp phần phát hiện ra
những thiếu sót trong các quy định của pháp luật, từ đó đưa ra những giải
pháp cụ thể nhằm hoàn thiện lĩnh vực pháp luật này.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Những năm gần đây, đã có một số công trình nghiên cứu về vấn đề đào
tạo nghề nói chung, đào tạo nghề trong DN nói riêng.
Pháp luật về đào tạo nghề nói chung đã được đề cập trong hai đề tài
nghiên cứu khoa học cấp trường của Trường Đại học Luật Hà Nội: “Việc làm
và giải quyết việc làm trong điều kiện nền kinh tế thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” do TS. Lưu Bình Nhưỡng làm chủ nhiệm và
“Pháp luật về dạy nghề trong điều kiện phát triển và hội nhập ở Việt Nam
hiện nay” do TS. Nguyễn Thị Kim Phụng làm chủ nhiệm. Nghiên cứu về vấn
đề này cũng có các bài báo, tạp chí như: “Vai trò của nhà nước trong việc đào
tạo nghề - nhìn từ góc độ kinh tế học” của Đỗ Thu Hằng, Đỗ Thị Kim Thoa,
bài đăng trên Tạp chí Tổ chức nhà nước của Bộ Nội vụ số 8/2010; “Đào tạo
nghề và giải quyết việc làm cho thanh niên” của TS. Nguyễn Văn Trung, bài
đăng trên tạp chí Quản lý nhà nước của Học viện Hành chính số 158, tháng
3/2009.
Pháp luật về đào tạo nghề trong DN ở Việt Nam là vấn đề nhìn chung
đang còn bỏ ngỏ. Theo tìm hiểu của tác giả luận văn, chỉ có một vài khoá luận

tốt nghiệp đại học và bài viết đăng tạp chí đề cập vấn đề này, như: Khóa luận
tốt nghiệp đại học với đề tài: “Các quy định đối với DN trong lĩnh vực đào tạo
nghề theo pháp luật Việt Nam” của Nguyễn Thanh Tuấn, Đại học Luật Hà


7

Nội, năm 2008; “Quy định của pháp luật đối với DN trong việc đào tạo nghề,
bồi dưỡng nâng cao kỹ năng nghề và đào tạo lại nghề cho người lao động”
của ThS. Đỗ Thị Dung, đăng trên tạp chí Luật học số 7/2009.
Các công trình nghiên cứu, các bài viết trên mới chỉ dừng lại ở việc
phân tích một số nội dung có tính riêng lẻ về đào tạo nghề trong DN, mà chưa
nghiên cứu một cách trực tiếp, có hệ thống các quy định của pháp luật hiện
hành về đào tạo nghề trong DN, cũng như chưa bao quát được một cách đầy
đủ các trường hợp đào tạo nghề trong DN mà pháp luật Việt Nam hiện hiện
hành có quy định.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn
của việc xây dựng và thực thi pháp luật Việt Nam điều chỉnh về vấn đề đào
tạo nghề trong DN. Trên cơ sở đó đánh giá những kết quả đã đạt được và
những hạn chế của pháp luật hiện hành về đào tạo nghề trong DN ở Việt
Nam. Từ đó đề xuất một số giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam cũng
như nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong điều kiện thực tiễn hiện nay.
Với mục đích đó, nhiệm vụ của luận văn được xác định cụ thể như sau:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến vấn đề đào tạo nghề
trong DN và điều chỉnh của pháp luật Việt Nam với vấn đề này;
- Phân tích, đánh giá thực trạng ban hành, thực tiễn pháp luật Việt Nam
về đào tạo nghề trong DN;
- Chỉ ra những bất cập của pháp luật Việt Nam về đào tạo nghề trong DN;
- Đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về

đào tạo nghề trong DN.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nhằm thực hiện mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đã được xác định ở
phần trên, đối tượng nghiên cứu của đề tài được xác định là:
- Các quan điểm khoa học về đào tạo nghề và đào tạo nghề trong DN;


8

- Các quy định của pháp luật Việt Nam về đào tạo nghề trong DN;
- Thực tiễn áp dụng các quy định về đào tạo nghề trong DN ở Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Pháp luật về đào tạo nghề trong DN là một vấn đề rộng, hơn nữa thời
gian nghiên cứu và giới hạn của một luận văn thạc sỹ không cho phép đi sâu
phân tích và làm rõ thực trạng của tất cả các quy định pháp luật về đào tạo nghề
trong DN ở Việt Nam, vì vậy, tác giả chỉ giới hạn việc nghiên cứu thực trạng
pháp luật Việt Nam trong những vấn đề sau: Pháp luật về đào tạo nghề cho
người lao động để làm việc cho DN theo thời hạn đã cam kết; Pháp luật về bồi
dưỡng nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động; Pháp luật về đào tạo lại
nghề cho người lao động; Pháp luật về đào tạo nghề dự phòng cho lao động nữ.
Với việc giới hạn đối tượng và phạm vi nghiên cứu như trên, tác giả
mong muốn sẽ giải quyết các vấn đề nghiên cứu một cách triệt để hơn và đề
xuất được các giải pháp khả thi góp phần hoàn thiện pháp luật lao động Việt
Nam khi điều chỉnh vấn đề đào tạo nghề trong DN.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Các phương pháp
nghiên cứu cụ thể bao gồm: phân tích, tổng hợp, thống kê, lịch sử, so sánh…
Phương pháp phân tích được sử dụng ở tất cả các chương, mục của

Luận văn để thực hiện mục đích và nhiệm vụ của đề tài.
Phương pháp thống kê được sử dụng để tập hợp, xử lý các tài liệu, số
liệu phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài.
Phương pháp so sánh được sử dụng ở cả ba chương của luận văn để đối
chiếu đánh giá các quan điểm khác nhau (của ILO, của một số nước trên thế
giới, trong khu vực và Việt Nam) về đào tạo nghề trong DN.
Phương pháp lịch sử được sử dụng chủ yếu trong Chương 1 của Luận
văn để làm rõ quá trình hình thành và phát triển của hệ thống các quy định về
đào tạo nghề trong DN.


9

Phương pháp tổng hợp và quy nạp được sử dụng chủ yếu trong việc
đưa ra các kết luận ở mỗi chương trong Luận văn.
6. Kết quả nghiên cứu và đóng góp mới của đề tài nghiên cứu
Đây là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu có tính chất hệ thống,
chuyên sâu về vấn đề đào tạo nghề trong DN ở Việt Nam.
Luận văn đã đánh giá được ưu điểm và bất cập của pháp luật hiện hành
của Việt Nam về đào tạo nghề trong DN.
Từ những hạn chế đã phân tích, Luận văn đưa ra những yêu cầu và giải
pháp cụ thể để hoàn thiện các quy định pháp luật về ĐTN trong DN ở Việt
Nam.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Lời mở đầu và Kết luận, Luận văn được kết cấu thành ba
chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về đào tạo nghề trong doanh nghiệp
và pháp luật về đào tạo nghề trong doanh nghiệp;
Chương 2: Thực trạng pháp luật về đào tạo nghề trong doanh nghiệp ở
Việt Nam;

Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về đào tạo nghề trong doanh nghiệp ở
Việt Nam.


10

Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ ĐÀO TẠO NGHỀ VÀ PHÁP LUẬT VỀ
ĐÀO TẠO NGHỀ TRONG DOANH NGHIỆP
1.1. Khái niệm đào tạo nghề và đào tạo nghề trong doanh nghiệp
1.1.1. Đào tạo nghề
1.1.1.1. Khái niệm
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam, đào tạo được hiểu như sau:
Đào tạo (giáo dục), quá trình tác động đến một con người nhằm làm
cho con người đó lĩnh hội và nắm vững những tri thức, kỹ năng, kỹ
xảo…một cách có hệ thống nhằm chuẩn bị cho người đó thích nghi
với cuộc sống và khả năng nhận một sự phân công lao động nhất định,
góp phần của mình vào việc phát triển xã hội, duy trì và phát triển nền
văn minh của loài người. Về cơ bản, đào tạo là giảng dạy và học tập
trong nhà trường, gắn với giáo dục đạo đức, nhân cách [3, tr.735].
Có thể thấy đào tạo và giáo dục là khái niệm có nội hàm tương tự nhau, đều
là quá trình dạy - học, rèn luyện để trở nên người có hiểu biết, có nghề nghiệp.
Cũng theo Từ điển Bách khoa Việt Nam thì tùy theo tính chất chuẩn bị
cho cuộc sống và cho lao động người ta phân biệt đào tạo chuyên môn và đào
tạo nghề nghiệp.
Để hiểu rõ hơn khái niệm ĐTN (hay đào tạo nghề nghiệp), trước hết
cần làm rõ khái niệm nghề.
Theo Đại Từ điển tiếng Việt, "Nghề là công việc chuyên làm theo sự
phân công lao động xã hội" [1, tr.1192]. Theo cách hiểu này thì nghề là bất kỳ
công việc nào có đòi hỏi chuyên môn hoặc không đòi hỏi chuyên môn mà con

người có khả năng làm được.
Có quan điểm cho rằng: "Nghề gắn liền với những kiến thức và kỹ
năng. Những kiến thức và kỹ năng này không phải tự nhiên có được mà là do
kết quả của đào tạo chuyên môn và tích lũy kinh nghiệm" [14, tr.13].


11

Còn theo quan điểm của một số nhà nghiên cứu khác thì khái niệm
nghề được hiểu dựa trên khái niệm chuyên môn:
Chuyên môn là một dạng lao động đặc biệt, mà qua đó con người
dùng sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần của mình để tác động
vào những đối tượng cụ thể nhằm biến đổi những đối tượng đó theo
hướng phục vụ mục đích, yêu cầu và lợi ích của con người. Những
chuyên môn có những đặc điểm chung, gần giống nhau được xếp
thành một nhóm chuyên môn và được gọi là nghề. Nghề tập hợp của
một nhóm chuyên môn cùng loại, gần giống nhau [7, tr.11].
Nội hàm của khái niệm nghề theo những cách hiểu này hẹp hơn cách
hiểu của Đại Từ điển tiếng Việt. Theo cách hiểu này thì nghề được giới hạn
bởi hoạt động lao động có tính chuyên môn, những kỹ năng thực hành đặc
biệt. Tuy nhiên, vẫn có thể hiểu khái niệm nghề với những nét chung là các
hoạt động lao động mang tính chuyên môn mà để thực hiện được NLĐ cần
phải trải qua một quá trình đào tạo, học hỏi nhất định.
Với những cách tiếp cận đa dạng về khái niệm đào tạo và khái niệm
nghề nghiệp nêu trên, cùng với những khác biệt về mục đích cụ thể khi tiếp
cận, cũng có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về khái niệm ĐTN.
BLLĐ quy định quá trình hình thành nghề nghiệp chuyên môn cho con
người là quá trình học nghề nhằm nhấn mạnh mục đích của người học là tìm
kiếm việc làm. Dưới cách tiếp cận này, "học nghề được hiểu là quá trình trong
đó diễn ra các hoạt động học tập, làm quen, rèn luyện… của người học (theo

sự hướng dẫn của người dạy nghề) nhằm đạt được trình độ nhất định về nghề
nghiệp, nắm bắt kỹ năng thực hành một nghề nhất định, nâng cao trình độ tay
nghề…" [12, tr.189].
Luật Giáo dục Việt Nam coi ĐTN là khái niệm nằm trong khái niệm
giáo dục nghề nghiệp và được gọi là dạy nghề. Có thể thấy, với cách hiểu này
Luật Giáo dục chú trọng đến việc truyền đạt kiến thức cho người học, chứ
không nhấn mạnh vào trách nhiệm sử dụng lao động hay cung ứng lao động


12

của cơ sở ĐTN. Với cách tiếp cận này, dạy nghề được hiểu là quá trình đào
tạo nhân lực kỹ thuật trực tiếp trong sản xuất, dịch vụ có năng lực thực hành
nghề tương xứng với trình độ đào tạo.
Có cùng quan điểm như Luật Giáo dục, coi ĐTN là dạy nghề nhưng khi
đề cập đến dạy nghề, Luật Dạy nghề lại chú trọng đến các quy định về tổ chức
và hoạt động của cơ sở ĐTN, quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân tham
gia hoạt động ĐTN. Theo quy định của Luật này thì dạy nghề được hiểu là
hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề
nghiệp cần thiết cho người học nghề để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo
việc làm sau khi hoàn thành khóa học.
Tuy nhiên, dù với cách tiếp cận nào thì bản chất của quá trình ĐTN vẫn
là quá trình cơ sở ĐTN cung cấp những kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề
nghiệp cần thiết cho người học nghề để họ có khả năng đảm đương một hoặc
một số công việc tương ứng sau khi kết thúc khóa học.
1.1.1.2. Đặc điểm
Những nét khác biệt của ĐTN so với các hình thức đào tạo khác đã tạo
nên những đặc điểm riêng của ĐTN. Có thể thấy, ĐTN khác cách hình thức
đào tạo khác ở mục đích đào tạo, điều kiện thực hiện việc đào tạo, tính chất
của quá trình đào tạo…ĐTN có một số đặc điểm như sau:

Thứ nhất, ĐTN là một trong những hình thức chính cung cấp nguồn nhân
lực lao động cho xã hội. Theo như khái niệm chung về đào tạo thì không phải
bất cứ hình thức đào tạo nào cũng nhằm đến mục đích giúp người được đào tạo
có khả năng đảm nhận một công việc nhất định mà có thể việc đào tạo đó chỉ
giúp người được đào tạo có khả năng thích nghi với cuộc sống. ĐTN phải tạo
cho người được đào tạo có được những kỹ năng nghề nghiệp nhất định, tạo cho
xã hội nguồn nhân lực có chất lượng cao phục vụ cho các yêu cầu phát triển.
Đây là nét cơ bản khiến ĐTN khác biệt với các hình thức đào tạo khác. Bên cạnh
các hình thức đào tạo khác như: đào tạo đại học, đào tạo trung học chuyên
nghiệp…thì ĐTN là một hình thức chính cung cấp nguồn nhân lực cho xã hội.


13

Thứ hai, ĐTN gắn liền với quá trình sản xuất. Đây là đặc điểm cơ bản
nhất của ĐTN. Trong quá trình dạy - học, người học muốn nắm được nội
dung nghề nghiệp thì phải trực tiếp nhìn thấy quá trình sản xuất, hay ít nhất
thấy được mô hình của nó. ĐTN là đào tạo thực hành sản xuất. Trong quan hệ
ĐTN mục tiêu quan trọng nhất mà các bên hướng tới là đào tạo một đội ngũ
nhân lực kỹ thuật có thể tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất. Chính vì
vậy, các kỹ năng thực hành được các bên đặc biệt chú trọng. Điều này được
thể hiện rõ nhất ở tỷ lệ về thời gian giữa lý thuyết và thực hành. Tuy nội dung
giảng dạy gồm cả lý thuyết và thực hành nhưng thời gian thực hành bao giờ
cũng chiếm khoảng hai phần ba tổng thời gian học. Người được đào tạo tham
gia trực tiếp vào quá trình sản xuất nên ngay trong quá trình đào tạo họ cũng
có thể góp phần tạo ra sản phẩm và được trả công lao động.
Thứ ba, ĐTN luôn gắn với các quy trình sản xuất và đặc biệt coi trọng
yếu tố thực hành trong quá trình đào tạo nên muốn ĐTN có kết quả phải có
một số điều kiện cơ bản sau: máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, quỹ thời gian
để luyện tay nghề, có đội ngũ giáo viên dạy lý thuyết và thực hành vừa giỏi

kỹ thuật vừa giỏi nghiệp vụ sư phạm. Ngoài ra, phải tính đến việc sử dụng các
thành tựu kỹ thuật, công nghệ, tổ chức sản xuất theo khoa học. Thiếu những
điều kiện này thì ĐTN không thể có hiệu quả cao.
Thứ tư, hiện nay, khoa học phát triển nhanh, liên tục đổi mới công nghệ
sản xuất. Để đáp ứng nhu cầu nhân lực cho các ngành, lĩnh vực công nghệ
mới này thì ĐTN cũng phải liên tục cập nhật các nghề đào tạo mới. Vì thế,
trong vòng 5- 7 năm phải xây dựng danh mục nghề đào tạo một lần. Đây là
điểm khác biệt giữa ĐTN với giáo dục phổ thông.
1.1.2. Đào tạo nghề trong doanh nghiệp
1.1.2.1. Khái niệm
Hiện nay, chưa có tài liệu nào đề cập khái niệm ĐTN trong DN. Tuy
nhiên, dựa vào khái niệm ĐTN và các quy định của pháp luật hiện hành thì có
thể hiểu một cách sơ lược về ĐTN trong DN như sau:


14

ĐTN trong DN là hoạt động ĐTN do DN tự tiến hành hoặc DN ký hợp
đồng đào tạo với cơ sở khác có chức năng ĐTN để đào tạo nhân lực trực tiếp
trong sản xuất, kinh doanh cho DN và xã hội hoặc để thực hiện các nghĩa vụ
đào tạo nghề cho NLĐ theo quy định của pháp luật.
Về chủ thể thực hiện ĐTN: hoạt động ĐTN cho NLĐ có thể do DN tự
tiến hành bằng hình thức kèm cặp, đào tạo tại các cơ sở ĐTN của mình hoặc
DN ký hợp đồng với các cơ sở ĐTN để tổ chức ĐTN cho NLĐ.
Về tính chủ động của DN trong việc ĐTN: DN đào tạo nghề để cung
cấp nguồn nhân lực cho DN mình và cho xã hội hoàn toàn không có sự bắt
buộc nào từ phía Nhà nước hay là trường hợp DN đào tạo nghề cho NLĐ vì
đó là nghĩa vụ mà pháp luật quy định.
1.1.2.2. Đặc điểm
ĐTN trong DN là một hình thức đào tạo trong ĐTN nói chung. Từ đặc

điểm về chủ thể của hoạt ĐTN có thể phân biệt ĐTN trong DN với các hình
thức ĐTN khác. Những đặc điểm dưới đây của ĐTN trong DN đều được rút
ra từ những khác biệt giữa ĐTN trong DN và ĐTN ở các cơ sở ĐTN khác.
Thứ nhất, chủ thể thực hiện việc ĐTN ở đây chính là các DN - một chủ
thể ĐTN đặc biệt, vì với chủ thể này hoạt động ĐTN không phải là hoạt động
kinh doanh chủ yếu. Trên thực tế, các DN này thường là các DN kinh doanh
trong chính lĩnh vực, ngành nghề sản xuất có nhu cầu đối với loại lao động
mà họ tiến hành đào tạo. Mặt khác, trong pháp luật Việt Nam cũng như pháp
luật của nhiều nước trên thế giới như: Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật
Bản…đều quy định về trách nhiệm của DN trong việc ĐTN cho NLĐ của DN
mình. Như vậy, trong vấn đề ĐTN ngoài vai trò là một chủ thể hết sức chủ
động, trong một số trường hợp DN còn có trách nhiệm được pháp luật quy
định rất rõ ràng.
Thứ hai, người học nghề có cơ hội tiếp xúc với những máy móc, công
nghệ mới nhất. Nhược điểm của ĐTN ở các cơ sở ĐTN là không thể liên tục
thay thế các máy móc, thiết bị phục vụ cho thực hành trong ĐTN thì đây lại


15

chính là điểm mạnh của ĐTN trong DN. ĐTN trong DN luôn gắn chặt với các
quy trình kỹ thuật, các chuyên gia của chính DN. Người học được thực hành
hoặc thực tập ngay trên máy móc, thiết bị đang sử dụng tại DN hoặc của DN.
Đó là những tư liệu sản xuất mà DN sử dụng vào hoạt động sản xuất, kinh
doanh của mình. Đó là những thiết bị, công nghệ hiện đại nhất mà họ có thể
có được. Một lợi thế khác mà DN có được so với các cơ sở ĐTN khác khi sử
dụng máy móc, công nghệ của mình vào ĐTN đó là tiết kiệm chi phí. Các cơ
sở ĐTN khác phải mua sắm máy móc, công nghệ và chỉ phục vụ cho mục
đích là ĐTN. Trong khi đó, các DN ngoài việc ĐTN thì máy móc, công nghệ
chính là tư liệu sản xuất sinh lợi nhuận, còn chưa kể đến trong quá trình ĐTN,

người học nghề và máy móc vẫn có thể sản xuất ra sản phẩm cho DN.
Thứ ba, chất lượng ĐTN phù hợp với yêu cầu của DN. Chủ thể thực
hiện đào tạo ở đây chính là DN, cơ sở ĐTN của DN hoặc cơ sở ĐTN được
DN ký hợp đồng ĐTN. Ưu điểm lớn nhất của hình thức ĐTN này là sản phẩm
đào tạo ra phù hợp với nhu cầu thực tế sử dụng của DN, chương trình đào tạo
được xây dựng sát với thực tế sản xuất của DN, tác phong lao động công
nghiệp đã được hình thành ngay trong quá trình học tập. Sở dĩ có sự phù hợp
này là do bản thân DN cũng chính là người sử dụng lao động nên DN hiểu rõ
nhất cầu lao động cần điều gì. Ngay cả trường hợp DN ký hợp đồng ĐTN với
cơ sở đào tạo khác thì mục đích, yêu cầu và kết quả đào tạo những yếu tố cơ
bản tạo nên chất lượng đào tạo cũng là điều khoản quan trọng trong hợp đồng
mà DN đặt ra.
1.2. Vai trò của đào tạo nghề trong doanh nghiệp
Ngày nay, để tránh tình trạng phải thu hút lao động kỹ thuật bằng công
cụ tiền lương thì các DN có xu hướng tham gia tích cực hơn vào ĐTN để tự
cung cấp lao động kỹ thuật cho mình thông qua việc DN tự tổ chức ĐTN
trong DN hoặc ký hợp đồng ĐTN với các cơ sở ĐTN. Trên thế giới, từ lâu
nay các DN đã rất chú trọng đến hình thức ĐTN tại nơi làm việc bởi những
ưu điểm của nó.


16

Ở DN tiềm năng về vốn và cơ chế tài chính tự chủ nên có thể giải quyết
kịp thời nhu cầu đầu tự phục vụ cho công tác ĐTN đối với những cơ sở ĐTN
do DN thành lập hoặc liên kết đào tạo, trong khi đó việc này gặp nhiều khó
khăn hơn ở các cơ sở ĐTN khác. Bên cạnh đó, để quản lý sản xuất, kinh
doanh thì các DN cũng phải có đội ngũ quản lý chuyên nghiệp, đội ngũ
chuyên gia kỹ thuật nhiều kinh nghiệm. Đội ngũ nhân lực này tham gia vào
công tác đào tạo sẽ đảm bảo được tính chất thực tế của quá trình sản xuất, rút

ngắn khoảng cách giữa đào tạo và thực tế sản xuất. Thêm vào đó, DN cũng có
sẵn các thiết bị thực hành liên tục được thay đổi phục vụ cho quá trình đào
tạo. Một lợi thế nữa mà các cơ sở ĐTN khác không có được đó là việc DN
luôn là người nắm rõ nhất yêu cầu cơ bản về ngành nghề, kỹ năng lao động
cần đạt được trong quá trình đào tạo, đồng thời chỉ có DN là chủ thể đủ khả
năng đào tạo đối với những ngành nghề đòi hỏi trình độ kỹ thuật cao, nghề
đặc thù mà các cơ sở ĐTN không thể và cũng không có đủ điều kiện đào tạo.
Chính vì những lý do đó, cùng với các hình thức ĐTN khác, ĐTN trong DN
có vai trò khá quan trọng trong việc cung ứng lao động chất lượng cao cho thị
trường lao động và giải quyết một số vấn đề xã hội.
ĐTN trong DN là hình thức đào tạo mang tính thực tế và kinh tế cao
bởi quá trình đào tạo gắn chặt với quy trình sản xuất của DN vì thế nó mang
đậm tính chất thực hành. Ở hình thức đào tạo này, DN tận dụng được những
lợi thế sẵn có của mình để phục vụ cho quá trình đào tạo và được hưởng nhiều
ưu đãi từ phía nhà nước. Trên thực tế, hoạt động ĐTN trong DN luôn được
nhà nước khuyến khích.
Hiện nay, khi vấn đề lớn nhất của ĐTN ở Việt Nam đang đặt ra là sự
chưa phù hợp giữa chất lượng, số lượng, lĩnh vực đào tạo với nhu cầu thực sự
của thị trường lao động thì ĐTN trong DN đã trở thành hướng đi hợp lý nhất
để giải quyết vấn đề này. Như đã phân tích ở tiểu mục 1.1.2.2 của Luận văn,
ĐTN trong DN luôn đảm bảo được sự phù hợp của lao động được đào tạo với


17

nhu cầu lao động. Bởi lẽ, DN - chủ thể của hoạt động đào tạo chính là nguồn
cầu lao động, họ là người nắm rõ nhất mục đích, yêu cầu của việc đào tạo.
Ngoài sự chủ động của DN trong ĐTN thì pháp luật Việt Nam cũng
như pháp luật các nước trên thế giới đều có những quy định về nghĩa vụ của
DN đối với việc ĐTN cho lao động đang làm việc trong DN mình. Cụ thể, đó

là nghĩa vụ ĐTN dự phòng cho lao động nữ, đào tạo lại nghề cho NLĐ…
Luật Dạy nghề của Hàn Quốc năm 1997 (được sửa đổi, bổ sung vào
năm 2001) xác định rõ trách nhiệm của DN trong ĐTN như: phải xây dựng kế
hoạch nâng cao năng lực nghề nghiệp cho NLĐ một cách có hệ thống và phải
cử cán bộ chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện các hoạt động ĐTN như chuẩn
bị kế hoạch và tổ chức thực hiện kế hoạch ĐTN; phải đưa NLĐ đến đào tạo
lại tại các trường hoặc các cơ sở dạy nghề trong đó DN phải chịu trách nhiệm
trả chi phí cho việc kiểm tra trình độ tay nghề, tạo cơ hội cho NLĐ tham gia
học nghề ví dụ như được nghỉ việc đi học nghề.
Luật Khuyến khích và phát triển nguồn nhân lực của Nhật Bản năm
1999 có rất nhiều quy định về quan điểm khuyến khích các DN tham gia vào
phát triển nguồn nhân lực, đồng thời xác định rõ trách nhiệm của DN trong
việc phát triển nguồn nhân lực và đào tạo lại nghề cho NLĐ như: có chương
trình phát triển nguồn nhân lực và đào tạo lại nghề cho người lao động như:
có chương trình phát triển nguồn nhân lực một cách có hệ thống, phải thực
hiện việc đào tạo nghề cần thiết cho NLĐ của mình và thúc đẩy việc phát
triển, nâng cao năng lực nghề nghiệp cho NLĐ; trả trợ cấp cho NLĐ trong
ngày họ nghỉ việc để học nghề và kiểm tra tay nghề.
Toàn bộ chi phí cho việc bồi dưỡng, nâng cao tay nghề, đào tạo lại và đào tạo
dự phòng do doanh nghiệp chịu. Việc làm này của doanh nghiệp vừa có tác
dụng tạo cơ hội giữ vững, ổn định việc làm, thu nhập và đời sống cho bản
thân và gia đình người lao động, vừa có ý nghĩa duy trì lực lượng và nâng cao
chất lượng của đội ngũ lao động để doanh nghiệp có điều kiện sử dụng hiệu


18

quả hơn, góp phần xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nói
chung [12, tr.208].
Có thể nói, hoạt động đào tạo này của DN ít mang mục đích kinh tế mà

mang đậm ý nghĩa xã hội.
1.3. Điều chỉnh pháp luật về đào tạo nghề trong doanh nghiệp
1.3.1. Nguyên tắc
Hiện nay chưa có tài liệu nào đề cập đến những nguyên tắc điều chỉnh
pháp luật về ĐTN trong DN. Tuy nhiên, theo tinh thần của các công ước quốc
tế về vấn đề đào tạo nghề và BLLĐ Việt Nam về học nghề thì pháp luật về
ĐTN trong DN phải tuân thủ các nguyên tắc sau:
Thứ nhất, nguyên tắc tự do học nghề, dạy nghề. Khoản 1 Điều 5 BLLĐ
quy định: "Mọi người đều có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm và nghề
nghiệp…". Theo nguyên tắc này, NLĐ có thể tự do lựa chọn nghề và nơi học
nghề. Khoản 1 Điều 20 BLLĐ quy định: "Mọi người có quyền tự do lựa chọn
nghề và nơi học nghề phù hợp với nhu cầu việc làm của mình". Pháp luật về
ĐTN trong DN mà thể hiện đúng nguyên tắc này sẽ giúp người học nghề phát
huy và sử dụng được các năng khiếu nghề nghiệp có lợi cho bản thân theo
đúng nguyện vọng của mình nhưng cũng phù hợp với yêu cầu thực tế của xã
hội về lao động. Đối với DN, pháp luật cũng có quy định về quyền mở cơ sở
dạy nghề khi có đủ các điều kiện theo quy định, có quyền tuyển người vào
học nghề, tập nghề để làm việc tại DN theo thời hạn đã cam kết trong hợp
đồng học nghề mà không phải đăng ký…
Thứ hai, nguyên tắc bình đẳng và không phân biệt đối xử. Phân biệt đối
xử ở đây được hiểu là sự phân biệt, sự loại trừ hoặc thiên vị dựa trên những
điều kiện về: chủng tộc, màu da, giới tính, tôn giáo, quan điểm chính trị, và
nguồn gốc… Để cụ thể hóa nguyên tắc này trong pháp luật về đào tạo nghề
trong DN nhà nước phải đảm bảo cho người học nghề được đối xử bình đẳng,
không vì sự khác nhau về giới tính, dân tộc, thành phần xã hội, tín ngưỡng,
tôn giáo…mà bị phân biệt đối xử trong đào tạo.


19


Thứ ba, nguyên tắc khuyến khích các hoạt động ĐTN gắn với việc làm.
Để cụ thể hóa nguyên tắc này là Nhà nước phải có những chính sách linh hoạt
để khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi hoặc giúp đỡ DN có hoạt động đào
tạo nghề gắn với giải quyết việc làm cho người được đào tạo. Tùy vào điều
kiện cụ thể của mỗi nước mà có những chính sách khuyến khích cụ thể như:
miễn, giảm thuế, được hỗ trợ kinh phí ĐTN cho các đối tượng đặc biệt…
Thứ tư, nguyên tắc cấm cưỡng bức, ngược đãi trong ĐTN. Xét trong
mối quan hệ về ĐTN trong DN thì phía người được ĐTN cũng là bên yếu thế.
Vì vậy, họ cũng đứng trước nguy cơ bị DN cưỡng bức, ngược đãi trong quá
trình ĐTN. Theo quan điểm của ILO thì các hoạt động cưỡng bức trong lao
động bao gồm bất cứ công việc nào, cho dù được trả công hay không trả công,
được làm một cách không tình nguyện hoặc làm vì bị đe dọa trừng phạt. Tinh
thần của nguyên tắc này cũng được thể hiện rất rõ trong quy định tại Điều 25
BLLĐ: "Nghiêm cấm mọi doanh nghiệp, tổ chức và cá nhân lợi dụng danh
nghĩa dạy nghề, truyền nghề để trục lợi, bóc lột sức lao động hoặc dụ dỗ, ép
buộc người học nghề, tập nghề vào những hoạt động trái pháp luật". Khoản
1, khoản 2 Điều 9 Luật Dạy nghề năm 2006 cũng quy định hành vi lợi dụng
hoạt động dạy nghề để trục lợi, lạm dụng sức lao động; hành vi xúc phạm
danh dự, nhân phẩm, xâm phạm thân thể giáo viên, cán bộ quản lý, nhân viên
của cơ sở dạy nghề và người học nghề là những hành vi bị cấm trong hoạt
động ĐTN.
Thứ năm, nguyên tắc kết hợp hài hòa chính sách kinh tế và chính sách
xã hội trong ĐTN. Theo nguyên tắc này thì những quy định của pháp luật về
ĐTN trong DN phải là sự kết hợp hài hòa giữa chính sách kinh tế và chính
sách xã hội. Tinh thần của nguyên tắc này được thể hiện trong rất nhiều nội
dung như: chính sách ưu đãi về thuế cho DN có hoạt động ĐTN, trách nhiệm
đào tạo lại nghề của DN đối với người lao động, trách nhiệm ĐTN dự phòng
cho lao động nữ…Các chính sách này được cụ thể hóa trong các quy định của
pháp luật về ĐTN nghề trong DN đảm bảo cho DN không vì thực hiện các



20

mục tiêu kinh tế mà không quan tâm đến các vấn đề phúc lợi xã hội, hay tránh
cho DN phải chịu quá nhiều thiệt thòi về kinh tế khi thực hiện các nghĩa vụ
mang tính xã hội.
1.3.2. Nội dung điều chỉnh pháp luật về đào tạo nghề trong doanh
nghiệp
Pháp luật về ĐTN trong DN nằm trong chế định pháp luật về ĐTN (học
nghề) trong pháp luật lao động Việt Nam. Nội dung điều chỉnh của pháp luật
về ĐTN trong DN tương đối rộng bao gồm:
Thứ nhất, pháp luật điều chỉnh hoạt động ĐTN tại các cơ sở ĐTN của
DN hoặc trường hợp DN tổ chức các lớp ĐTN không gắn với giải quyết việc
làm tại DN. Các trường hợp này hầu như pháp luật về ĐTN không có quy
định khác biệt so với trường hợp ĐTN tại các cơ sở ĐTN thông thường khác.
Nội dung điều chỉnh chủ yếu là về điều kiện thành lập, tổ chức và hoạt động
cơ sở ĐTN, chương trình ĐTN, quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hoạt
động ĐTN…
Thứ hai, pháp luật điều chỉnh vấn đề ĐTN cho NLĐ để làm việc cho
DN theo thời hạn đã cam kết.
Đây là trường hợp ĐTN tương đối đặc biệt vì một bên trong quan hệ
ĐTN bao giờ cũng là DN, sau khi đào tạo người được ĐTN sẽ làm việc cho
DN theo một thời hạn đã cam kết…Chính vì những điểm đặc thù đó mà pháp
luật về ĐTN trong DN cũng có những quy định tương ứng để điều chỉnh hợp
lý nhất quan hệ này.
Xuất phát từ đặc thù về chủ thể thực hiện viêc đào tạo, những quy định
về điều kiện đối với DN có hoạt động ĐTN trên cũng khá mềm dẻo và ít khắt
khe hơn so với các cơ sở ĐTN thông thường. Bên cạnh đó, các quy định liên
quan đến chi phí ĐTN cũng có nhiều nét khác biệt.
Thứ ba, pháp luật điều chỉnh vấn đề đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình

độ nghề nghiệp cho NLĐ. Trong quá trình làm việc tại DN, NLĐ có quyền
được bồi dưỡng, nâng cao trình độ tay nghề. Pháp luật lao động Việt Nam đã


21

quy định xây dựng và thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao kỹ
năng nghề cho NLĐ là trách nhiệm của DN. Pháp luật về ĐTN trong DN của
Việt Nam đã đề cập đến các trường hợp DN phải tiến hành bồi dưỡng nâng
cao trình độ tay nghề cho NLĐ và trách nhiệm cụ thể của các bên trong các
trường hợp này.
Thứ tư, pháp luật điều chỉnh vấn đề đào tạo lại nghề cho NLĐ. Trên
thực tế, do nhu cầu sản xuất, kinh doanh mà các DN phải thay đổi cơ cấu tổ
chức hoặc công nghệ sản xuất. Các thay đổi này có thể khiến một số NLĐ
trong DN bị mất chỗ làm việc. Vì vậy, DN phải chịu trách nhiệm đối với
những NLĐ này. Đào tạo lại nghề cho NLĐ bị mất chỗ làm việc trong trường
hợp này là nghĩa vụ bắt buộc đối với DN. Chính vì vậy, để các DN chủ động
hơn trong việc đào tạo lại nghề cho NLĐ, pháp luật về ĐTN trong DN cũng
quy định cụ thể các trường hợp DN phải đào tạo lại nghề cho người lao động.
Thứ năm, pháp luật điều chỉnh vấn đề ĐTN dự phòng cho lao động nữ.
ĐTN dự phòng nhằm tạo cơ hội cho lao động nữ khi họ không thể tiếp tục
làm công việc cũ. Đó cũng chính là lý do để Nhà nước ràng buộc trách nhiệm
của các DN, trong quá trình sử dụng lao động, phải ĐTN dự phòng cho lao
động nữ khi làm việc ở những nghề mà không thể đảm bảo liên tục cho đến
khi họ nghỉ hưu. Các trường hợp cần ĐTN dự phòng, kinh phí cho hoạt động
ĐTN dự phòng, chính sách của Nhà nước đối với DN có ĐTN dự phòng là
những nội dung mà pháp luật về ĐTN trong DN đề cập đến.
Nội dung điều chỉnh của pháp luật về ĐTN trong DN của Việt Nam có
những nét tương đồng với pháp luật của Trung Quốc. Theo Điều 14 Luật Dạy
nghề của Trung Quốc các hình thức ĐTN bao gồm: đào tạo trước khi tuyển

dụng, đào tạo cho quân nhân chuyển sang làm việc dân sự, đào tạo cho người
học nghề, đào tạo trong quá trình làm việc, đào tạo chuyển giao và đào tạo
khác có tính chất nghề khác…Như vậy, ĐTN trong DN của Trung Quốc cũng
bao gồm:
- Đào tạo trước khi tuyển dụng;


22

- Đào tạo trong khi làm việc (có thể là bồi dưỡng nâng cao trình độ
nghề nghiệp, đào tạo nghề dự phòng….);
- Đào tạo chuyển giao (có thể là đào tạo lại nghề cho NLĐ).
Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của Luận văn đã nêu trong phần
Lời mở đầu, tác giả chỉ tập trung vào nghiên cứu một số nội dung điều chỉnh
của pháp luật về ĐTN trong DN thuộc các vấn đề từ thứ hai đến vấn đề thứ
năm đã nêu ở trên. Các quy định pháp luật cụ thể liên quan đến các vấn đề
này sẽ được phân tích cụ thể trong Chương 2 của Luận văn.
1.3.3 Lược sử pháp luật Việt Nam về đào tạo nghề trong doanh
nghiệp
1.3.3.1. Giai đoạn từ năm 1945 đến 1994
Sắc lệnh số 29/SL ngày 12/3/1947 được coi là văn bản đầu tiên quy
định về vấn đề học nghề của Nhà nước Việt Nam. Chương hai của Sắc lệnh
(Sự học nghề) quy định các nội dung liên quan đến việc học nghề và dạy nghề
trong các hãng kỹ nghệ, hầm mỏ, thương điếm...Có thể nói đây là những quy
định đầu tiên về ĐTN trong DN ở Việt Nam.
Từ năm 1948 đến năm 1985, Nhà nước Việt Nam đã ban hành nhiều
văn bản về học nghề, dạy nghề. Những văn bản này được ban hành chủ yếu
để xây dựng và phát triển đội ngũ công nhân làm việc cho các cơ quan, xí
nghiệp nhà nước ở trung ương và địa phương. Chủ thể thực hiện ĐTN cũng
chính là các cơ sở sản xuất quốc doanh, xí nghiệp công tư hợp doanh…Tiêu

biểu là Sắc lệnh 77-SL ngày 22/5/1950 quy định về chế độ công nhân giúp
việc Chính phủ trong thời kỳ kháng chiến; Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ
số 13/TTg ngày 6/01/1958 về việc bổ túc nghề nghiệp cho công nhân và đào
tạo thợ mới; Thông tư của Bộ lao động số 08/LĐ-TT ngày 10/6/1959 quy
định những nguyên tắc và hướng tuyển chọn công nhân vào bổ túc và đào tạo
thợ mới tại các cơ sở sản xuất quốc doanh, công trường kiến thiết cơ bản và đi
học nghề ở nước bạn; Thông tư của Bộ Lao động số 20/LĐ-TT ngày
3/11/1959 bổ sung và sửa đổi một số điểm về chế độ học nghề theo lối kèm


23

cặp; Quyết định số 194/DN-BD ngày 21/8/1985 ban hành quy chế đào tạo và
bồi dưỡng nghề trong sản xuất…
Sau năm 1985, trước những thay đổi cơ bản đời sống xã hội, những quy
định về học nghề trong luật lao động không chỉ nhằm xây dựng và phát triển
đội ngũ công nhân làm việc cho khối cơ quan, xí nghiệp Nhà nước mà còn
phải đáp ứng nhu cầu về nhân lực của các tổ chức kinh tế thuộc các thành
phần kinh tế khác đã được thừa nhận chính thức ở Việt Nam. Trước khi ban
hành BLLĐ năm 1994, những quy định về ĐTN trong DN còn khá mờ nhạt.
Đến BLLĐ năm 1994 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã có những quy
định cụ thể, rõ ràng hơn về ĐTN trong DN. Những quy định này hầu hết đều
được giữ nguyên hiệu lực trong BLLĐ đã được sửa đổi, bổ sung hiện nay.
Nghị định số 90/CP ngày 15/12/1995 của Chính phủ quy định chi tiết
và hướng dẫn thi hành một số điều của BLLĐ về học nghề đã đề cập hình
thức ĐTN trong DN với các nội dung: cơ sở dạy nghề của DN, đào tạo bổ túc
nghề cho NLĐ trong DN, trường hợp DN tuyển người vào học nghề để sau đó
làm việc cho DN, đăng ký hoạt động ĐTN trong DN, hợp đồng học nghề…
1.3.3.2. Giai đoạn từ năm 1995 đến 2006
Giai đoạn này những quy định về ĐTN trong DN trong BLLĐ năm

1994 vẫn tiếp tục có hiệu lực. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng ban hành nhiều
văn bản mới hướng dẫn thi hành các quy định này. Trong đó có thể kể đến
Thông tư của Bộ Giáo dục và đào tạo số 22/GD-ĐT ngày 30/9/1996 hướng
dẫn thực hiện Nghị định 90/CP ngày 15/12/1995 của Chính phủ quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của BLLĐ về học nghề. Thông tư đã
liệt kê các hình thức ĐTN hiện tồn tại và được pháp luật thừa nhận tại thời
điểm đó: "Đào tạo nghề bao gồm: Đào tạo nghề tại các trường dạy nghề, đào
tạo nghề tại các lớp dạy nghề của cơ sở sản xuất, kinh doanh, dịch vụ của cơ
quan, đào tạo nghề tại các trung tâm dạy nghề và tư nhân đào tạo nghề".
Thông tư này cũng nêu rõ ĐTN dưới hai hình thức truyền nghề và bồi dưỡng
nâng bậc không thuộc hệ thống giáo dục quốc dân. Thông tư số 19/LĐTBXH-


×